Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Đảng bộ tỉnh hải dương lãnh đạo sự nghiệp phát triển giáo dục phổ thông ở tp hải dương tu nam 1996 den nam 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 120 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

NGUYỄN VŨ CẨM GIANG

ĐẢNG BỘ TỈNH HẢI DƯƠNG LÃNH ĐẠO SỰ NGHIỆP
PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG Ở THÀNH PHỐ
HẢI DƯƠNG TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2010

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2012


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

NGUYỄN VŨ CẨM GIANG

ĐẢNG BỘ TỈNH HẢI DƯƠNG LÃNH ĐẠO SỰ NGHIỆP
PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG Ở THÀNH PHỐ
HẢI DƯƠNG TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2010

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 56

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. PHẠM HỒNG TUNG

HÀ NỘI - 2012




MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1
Chương 1. ĐẢNG BỘ TỈNH HẢI DƯƠNG VẬN DỤNG ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI
GIÁO DỤC CỦA ĐẢNG VÀ CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ NƯỚC VÀO
THỰC TIỄN LÃNH ĐẠO ĐỔI MỚI GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO Ở TỈNH
HẢI DƯƠNG TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2010 .................................................... 8

1.1. Khái quát đường lối đổi mới giáo dục của Đảng và Nhà nước .............................. 8
1.2. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của Thành phố Hải Dương ........................... 18
1.2.1. Đặc điểm tự nhiên của Thành phố Hải Dương ......................................... 18
1.2.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội......................................................................... 19
1.3. Sự vận dụng đường lối đổi mới giáo dục của Đảng bộ tỉnh Hải Dương với
sự nghiệp phát triển giáo dục phổ thông ................................................. 25
Chương 2. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA GIÁO DỤC PHỔ THÔNG Ở THÀNH PHỐ HẢI
DƯƠNG DƯỚI ÁNH SÁNG ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG TỪ
NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2010 .............................................................................. 32

2.1. Sự phát triển của giáo dục phổ thông ở thành phố Hải Dương từ năm 1996
đến năm 2010 ......................................................................................... 32
2.1.1. Kết quả học tập, quán triệt, triển khai và tổ chức thực hiện các nghị
quyết của Đảng về giáo dục và đào tạo ................................................... 32
2.1.2. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, rèn luyện đạo đức trong đội
ngũ giáo viên, công nhân viên và học sinh các trường phổ thông ở
thành phố Hải Dương ........................................................................ 45
2.1.3. Công tác phát triển đảng viên mới và xây dựng tổ chức đảng trong
các cơ quan quản lý giáo dục và các trường phổ thông ........................... 51
2.1.4. Thực trạng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ trong các trường phổ
thông ở thành phố Hải Dương ................................................................ 58

2.1.5. Công tác kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục phổ thông ..................... 59
2.1.6. Việc đề ra và thực hiện và quy chế giữa tổ chức đảng và Ban Giám
hiệu ........................................................................................................ 60
2.2. Những thành tựu và hạn chế của sự phát triển giáo dục phổ thông ở

thành phố Hải Dương ................................................................................. 61
2.2.1. Những thành tựu cơ bản ............................................................................ 62
2.2.2. Những tồn tại, hạn chế ............................................................................... 67


2.3. Nguyên nhân của ưu điểm và hạn chế ................................................................. 69
2.3.1. Nguyên nhân của những ưu điểm ........................................................... 69

2.3.2. Nguyên nhân của tồn tại, khuyết điểm................................................... 70
Chương 3. BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG GIÁO DỤC PHỔ THÔNG Ở THÀNH PHỐ HẢI DƯƠNG CỦA
ĐẢNG BỘ TỈNH HẢI DƯƠNG NHỮNG NĂM TỚI ......................................... 73

3.1. Những bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn ......................................................... 73
3.1.1. Tổ chức tốt việc học tập, triển khai các nghị quyết của Đảng về

giáo dục và đào tạo trong nội bộ Đảng và trong nhân dân. Cần coi
đây là yếu tố đầu tiên, tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận
thức tư tưởng, trong việc quán triệt các quan điểm của Đảng về
giáo dục và đào tạo thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hải
Dương............................................................................................................. 73
3.1.2. Xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng để tham mưu, theo dõi, kiểm

tra việc thực hiện nghị quyết của Đảng về giáo dục và đào tạo ở
các địa phương, ngành đặc biệt là ngành giáo dục và đào tạo. Kịp

thời phát hiện các ưu, khuyết điểm, thuận lợi và khó khăn trong
quá trình thực hiện nghị quyết nhằm hạn chế, khắc phục các
khuyết điểm đồng thời phát huy thuận lợi để nghị quyết trở thành
hiện thực sinh động trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ chính
trị; phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương ................................................. 74
3.1.3. Tăng cường các nguồn lực cho giáo dục và đào tạo ................................. 74
3.1.4. Phải coi sự nghiệp giáo dục và đào tạo là sự nghiệp của toàn dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng ..................................................................... 74
3.1.5. Xây dựng lực lượng tham mưu cho Đảng bộ tỉnh, Thành phố.................. 75
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông ở thành

phố Hải Dương của Đảng bộ tỉnh Hải Dương những năm tới ................... 75
3.2.1. Nâng cao nhận thức gắn với chỉ đạo thực hiện của các cấp uỷ Đảng

đối với công tác giáo dục phổ thông ở thành phố Hải Dương .................... 75
3.2.2. Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn luyện phẩm

chất đạo đức cách mạng trong đội ngũ cán bộ, giáo viên, học sinh
trong các trường phổ thông ở thành phố Hải Dương .................................. 78
3.2.3. Đổi mới tuyển chọn, sử dụng, rèn luyện năng lực chuyên môn cho

đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên theo hướng coi trọng
1


chất lượng, chống bệnh thành tích và tiêu cực trong ngành Giáo
dục phổ thông ......................................................................................... 87
3.2.4. Thường xuyên tiến hành tạo nguồn và kết nạp đảng viên mới, nâng

cao chất lượng hoạt động của các tổ chức quần chúng trong ngành

giáo dục phổ thông ở thành phố Hải Dương............................................ 89
3.2.5. Xây dựng các chi bộ, Đảng bộ cơ sở trong sạch vững mạnh; bố trí
đúng đội ngũ cán bộ chủ chốt trong ngành giáo dục phổ thông ở
thành phố Hải Dương ............................................................................. 94
3.2.6. Tăng cường cơ sở vật chất cho các trường phổ thông ............................ 100
3.2.7. Đổi mới công tác quản lý giáo dục phổ thông ........................................ 102
3.2.8. Làm tốt công tác thanh tra, giám sát, xử lý kịp thời sai phạm trong
ngành giáo dục phổ thông ở thành phố Hải Dương ............................... 104
KẾT LUẬN ..................................................................................................................... 107
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 110

1


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

CNH, HĐH:

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNXH:

Chủ nghĩa xã hội

GD & ĐT:

Giáo dục và đào tạo

GDTX:


Giáo dục thường xuyên

THCS:

Trung học cơ sở

THPT:

Trung học phổ thông

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa

UBND:

Ủy ban nhân dân

1


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1: Thống kê số lượng học sinh phổ thông ở thành phố Hải Dương ....... 33
Bảng 2.2: Thống kê số lượng học sinh giỏi cấp tỉnh của thành phố Hải
Dương............................................................................................. 35
Bảng 2.3: Thống kê số lượng học sinh lớp 5 Thành phố Hải Dương đạt giải
Giao lưu Toán tuổi thơ toàn quốc................................................... 35
Bảng 2.4: Thống kê số lượng giáo viên phổ thông ở Thành phố Hải Dương
từ năm1996 đến năm 2010 ............................................................. 37

Bảng 2.5: Kết quả xếp loại hai mặt giáo dục năm học 2005-2006 .................... 47
Bảng 2.6: Kết quả xếp loại hai mặt giáo dục năm học 2009-2010 .................... 47
Bảng 2.7: Thống kê số lượng học sinh đạt giải Quốc gia của trường THPT
Chuyên Nguyễn Trãi, Thành phố Hải Dương.................................. 65

1


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển
với những bước tiến nhảy vọt, đưa thế giới bước vào kỷ nguyên văn minh trí
tuệ và kinh tế tri thức. Khoa học - công nghệ đã trở thành một động lực phát
triển trực tiếp của kinh tế - xã hội. Trong quá trình đó, giáo dục và đào tạo giữ
vai trò vừa cơ bản, quan trọng vừa tiên phong nhất.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: "Một dân tộc dốt là một dân
tộc yếu" (Trích trong Thư gửi học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên). Đảng
và Nhà nước ta cũng luôn coi sự nghiệp giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng
đầu. Thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định sự
nghiệp giáo dục và đào tạo là ưu tiên hàng đầu trong chính sách phát triển
nguồn nhân lực. Vì vậy, việc nghiên cứu nhằm khắc phục những hạn chế, tồn
tại của giáo dục đang đặt ra hết sức cần thiết, trong đó có vấn đề đổi mới sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục và đào tạo.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã xác định: giáo dục
và đào tạo phải thật sự trở thành quốc sách hàng đầu. Tiếp đó, tại Hội nghị lần
thứ hai, Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII), Đảng đã đề ra Nghị
quyết về định hướng chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo trong thời kỳ
CNH, HĐH và nhiệm vụ đến năm 2010.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta tiếp tục khẳng định:

"Để đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định
sự phát triển đất nước trong thời kỳ CNH, HĐH, cần tạo chuyển biến cơ bản,
toàn diện về giáo dục và đào tạo" [20, tr.227].
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã đề ra: "phát triển
mạnh khoa học công nghệ, giáo dục; đổi mới tư duy giáo dục một cách hệ
thống để tạo được sự chuyển biến cơ bản và toàn diện nền giáo dục nước nhà;
khắc phục cách đổi mới chắp vá, thiếu kế hoạch đồng bộ. Phấn đấu xây dựng
1


nền giáo dục hiện đại để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu
cầu CNH, HĐH đất nước và phát triển kinh tế tri thức" [20, tr.445].
Để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ trên đòi hỏi các cấp uỷ Đảng phải
không ngừng đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng với công
tác giáo dục và đào tạo. Do đó, việc nghiên cứu nhằm tìm ra các giải pháp đổi
mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục và đào tạo đang đặt ra hết
sức cần thiết.
Bậc học phổ thông giữ một vị trí hết sức quan trọng trong hệ thống giáo
dục quốc dân, thu hút lượng học sinh đông đảo, là nền tảng cho việc tạo
nguồn nhân lực cho xã hội. Vì thế, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng cần phải
được bắt đầu đối với công tác giáo dục phổ thông.
Xét trong bối cảnh của tỉnh Hải Dương đang trong quá trình đẩy mạnh
CNH, HĐH thì phát triển giáo dục và đào tạo là giải pháp then chốt nhằm gia
tăng bền vững năng suất lao động. Cùng với nhiệm vụ chung của cả nước,
trong thời gian tới, Đảng bộ tỉnh Hải Dương xác định nhiệm vụ trọng tâm là:
muốn phát triển kinh tế xã hội với tốc độ cao, đuổi kịp các tỉnh bạn và hội
nhập với thế giới thì Hải Dương phải khai thác và sử dụng có hiệu quả mọi
nguồn lực, trong đó nguồn lực con người đóng vai trò quyết định.
Để thực hiện nhiệm vụ trên, cần phải đổi mới mạnh mẽ sự lãnh đạo của
Đảng bộ tỉnh Hải Dương đối với sự nghiệp giáo dục phổ thông, đó là yếu tố

quyết định để đưa giáo dục và đào tạo của tỉnh Hải Dương phát triển. Năm
1997 là năm tái lập tỉnh Hải Dương (tách tỉnh Hải Hưng thành Hải Dương và
Hưng Yên như hiện nay) nhưng từ năm 1996, các chủ trương, đường lối đổi
mới giáo dục của Đảng đã tác động rất sâu sắc tới địa phương. Chính vì vậy,
tôi chọn vấn đề "Đảng bộ tỉnh Hải Dương lãnh đạo sự nghiệp phát triển
giáo dục phổ thông ở thành phố Hải Dương từ năm 1996 đến năm 2010"
làm đề tài luận văn thạc sỹ chuyên ngành Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam.

1


2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm vừa qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan
đến vấn đề sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục và đào tạo. Các
công trình nghiên cứu này đã đề cập đến vấn đề sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác giáo dục và đào tạo dưới nhiều góc độ khác nhau, chủ yếu theo hai
hướng chính:
* Hướng thứ nhất là những đề tài nghiên cứu về sự phát triển của giáo
dục và đào tạo ở Việt Nam trong khuôn khổ bộ môn khoa học giáo dục, chủ
yếu đề cập tới việc đánh giá, nghiên cứu nội dung chương trình, phương pháp
đào tạo nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Đây là nguồn tài liệu quan trọng
cho quá trình nghiên cứu của tôi. Tiêu biểu có thể kể tới các công trình như:
- Phạm Minh Hạc (1966), Phát triển giáo dục - phát triển con người phục vụ phát triển kinh tế xã hội, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
- Phạm Minh Hạc (1999), Giáo dục Việt Nam truớc ngưỡng cửa thế kỷ
XXI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Vũ Đình Cự (chủ biên), (1999), Giáo dục hướng tới thế kỷ XXI, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Đăng Tiến (chủ biên), (1996), Lịch sử giáo dục Việt Nam,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
- Phan Quốc Huy (1996), Đảng cộng sản Việt Nam với sự nghiệp đổi

mới ngành giáo dục đại học nước nhà (1987-1995), Luận văn thạc sỹ, chuyên
ngành Lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Thị Mỹ Trang (1997), "Phát triển đảng viên trong đội ngũ các
nhà giáo tương lai", Tạp chí Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, (7).
Nội dung cơ bản của các công trình này đã đề cập tới vai trò của giáo
dục và đào tạo với sự nghiệp phát triển đất nước, đặc biệt là vai trò lãnh đạo
của Đảng cộng sản Việt Nam với nền giáo dục nước nhà. Đồng thời các công
trình này cũng đưa ra những đánh giá về nội dung chương trình giáo dục và
tìm ra những giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục của đất nước.
* Hướng thứ hai là những công trình nghiên cứu về đường lối phát triển
1


giáo dục của Đảng bộ các tỉnh và của tỉnh Hải Dương dưới góc độ khoa học
Lịch sử Đảng. Những công trình này có ý nghĩa hiện thực hơn với luận văn
này đặc biệt là nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng với giáo dục phổ thông ở
thành phố Hải Dương dưới góc độ Lịch sử Đảng nên đảm bảo không bị trùng
lắp. Tiêu biểu là các công trình:
- Bùi Mạnh Hằng (1998), Một số quan điểm của Đảng về giáo dục và
đào tạo trong công cuộc đổi mới 1986 - 1996 (qua thực tiễn ở tỉnh Đắc Lắc),
Luận văn thạc sỹ, chuyên ngành Lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh.
- Nguyễn Thành Phương (1998), Đảng bộ An Giang thực hiện đường
lối giáo dục trong thời kỳ đổi mới (1986 - 1996), Luận văn thạc sỹ, Chuyên
ngành Lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Nội dung chủ yếu của các công trình này là làm sáng tỏ vai trò của sự
nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ các tỉnh;
đồng thời cũng đã đề xuất được một số giải pháp khả thi nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục của từng địa phương.
Nhìn chung những công trình, tác phẩm kể trên đã đề cập tương đối

toàn diện những nội dung cơ bản của giáo dục và đào tạo: vai trò của giáo dục
và đào tạo; giáo dục Việt Nam trên bước đường đổi mới; sự lãnh đạo của
Đảng trên lĩnh vực giáo dục. Những tri thức khoa học này đã giúp tác giả
nhận thức rõ bản chất, vai trò của giáo dục và đào tạo, đồng thời cung cấp
nguồn tư liệu làm cơ sở để thực hiện đề tài.
3. Mục đích, nhiệm vụ
3.1. Mục đích
- Làm sáng tỏ quá trình Đảng bộ tỉnh Hải Dương cụ thể hoá và vận
dụng đường lối lãnh đạo của Đảng với sự nghiệp phát triển giáo dục đào tạo
bậc phổ thông ở thành phố Hải Dương từ năm 1996 đến năm 2010.
- Rút ra những bài học kinh nghiệm và đề xuất những khuyến nghị, giải
pháp phát triển giáo dục phổ thông ở thành phố Hải Dương giai đoạn tới.
3.2. Nhiệm vụ
1


- Phân tích làm sáng tỏ vị trí sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp
giáo dục phổ thông trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
- Đánh giá thực trạng, chỉ ra nguyên nhân của những ưu, khuyết điểm
và bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hải Dương đối với
sự nghiệp phát triển giáo dục phổ thông ở thành phố Hải Dương.
- Đề xuất những giải pháp có tính khả thi nhằm tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng bộ tỉnh Hải Dương đối với sự nghiệp phát triển giáo dục phổ thông
ở thành phố Hải Dương.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tương nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là sự lãnh đạo sự nghiệp phát triển
giáo dục phổ thông ở thành phố Hải Dương của Đảng bộ tỉnh Hải Dương từ
năm 1996 đến năm 2010.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Không gian: Thành phố Hải Dương, Tỉnh Hải Dương
- Thời gian: Từ năm 1996 đến năm 2010
- Phạm vi chuyên môn: Ngành giáo dục phổ thông ở Thành phố Hải
Dương, Tỉnh Hải Dương.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa MácLênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về
xây dựng Đảng nói chung và trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo nói riêng.
Dựa vào những quan điểm đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam, nhất
là từ khi có Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII đến nay, đặc
biệt là các Nghị quyết Trung ương 4 (khóa VII), Nghị quyết Trung ương 2
(khoá VIII) về giáo dục và đào tạo.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu bằng các phương pháp: phân tích và tổng
hợp, logic và lịch sử, phương pháp so sánh, có kết hợp ở mức độ nhất định
1


với phương pháp điều tra xã hội học, tổng kết thực tiễn. Đồng thời với việc
thu thập thông tin và xử lý các tài liệu có liên quan đến đề tài.
6. Đóng góp của luận văn
6.1. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Đánh giá đúng thực trạng sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hải Dương với
sự nghiệp phát triển giáo dục phổ thông ở thành phố Hải Dương trong giai
đoạn từ 1996 đến năm 2010.
Đưa ra giải pháp có tính khả thi và những kinh nghiệm cơ bản nhằm
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hải Dương đối với sự nghiệp phát
triển giáo dục phổ thông những năm tới.
6.2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Hệ thống những vấn đề lý luận về sự lãnh đạo của Đảng nói chung và

của Đảng bộ tỉnh Hải Dương nói riêng đối với sự nghiệp phát triển giáo dục
phổ thông trong giai đoạn hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần giúp các cấp uỷ Đảng địa
phương trong việc lãnh đạo Sự nghiệp phát triển giáo dục phổ thông.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác
chỉ đạo, lãnh đạo thực tiễn đối với sự nghiệp phát triển giáo dục phổ thông
của địa phương đồng thời là tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, giảng dạy
ở các trường học thuộc địa bàn tỉnh Hải Dương.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu gồm 3 chương, 8 tiết:
Chương 1: Đảng bộ tỉnh Hải Dương vận dụng đường lối đổi mới giáo
dục của Đảng và chính sách của Nhà nước vào thực tiễn lãnh đạo đổi mới
giáo dục và đào tạo ở tỉnh Hải Dương từ năm 1996 đến năm 2010.
Chương 2: Sự phát triển của giáo dục phổ thông ở Thành phố Hải
Dương dưới ánh sáng đường lối đổi mới của Đảng từ năm 1996 đến năm
2010.

1


Chương 3: Bài học kinh nghiệm và các giải pháp nâng cao chất lượng
giáo dục phổ thông ở Thành phố Hải Dương của Đảng bộ tỉnh Hải Dương
những năm tới.

1


Chương 1
ĐẢNG BỘ TỈNH HẢI DƯƠNG VẬN DỤNG ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI

GIÁO DỤC CỦA ĐẢNG VÀ CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ NƯỚC
VÀO THỰC TIỄN LÃNH ĐẠO ĐỔI MỚI GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
Ở TỈNH HẢI DƯƠNG TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2010
1.1. Khái quát đường lối đổi mới giáo dục của Đảng và Nhà nước
Giáo dục và đào tạo là một vấn đề hết sức quan trọng trong đời sống
chính trị của mỗi nước, là biểu hiện trình độ phát triển của mỗi quốc gia. Đất
nước muốn được kiến tạo, xã hội muốn được phát triển không có con đường
nào khác hơn là coi trọng giáo dục và đào tạo nhân tài. Trong bia tiến sỹ khoa
Nhâm Tuất (1442) ở Văn Miếu Quốc Tử Giám tại Hà Nội còn ghi: "Hiền tài
là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí vững thì thế nước mạnh và thịnh,
nguyên khí kém thì thế nước yếu và suy, cho nên, các đấng thánh đế minh
vương không ai không chăm lo việc gây dựng nhân tài, bồi đắp nguyên khí".
Ngay khi giành được chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Một
dân tộc dốt là một dân tộc yếu" trong Thư gửi cho học sinh nhân ngày khai
trường đầu tiên của nước Việt Nam độc lập. Người đã chỉ rõ: tương lai của
đất nước ở sự nỗ lực học tập của thế hệ trẻ. Điều đó khẳng định rằng, giáo dục
và đào tạo là vấn đề sống còn của một quốc gia dân tộc. Do đó, Đảng ta đã
xác định phát triển giáo dục và đào tạo là một nhiệm vụ quan trọng của cách
mạng Việt Nam.
Bắt đầu từ Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IV, Đảng đã ra Quyết định
số 14 - NQTW về cải cách giáo dục với phương châm: coi giáo dục là bộ
phận quan trọng của cuộc cách mạng tư tưởng; thực thi nhiệm vụ chăm sóc và
giáo dục thế hệ trẻ từ nhỏ tới lúc trưởng thành; thực hiện tốt nguyên lý giáo
dục “học đi đôi với hành”, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, giáo dục
nhà trường gắn liền với xã hội.

1


Tư tưởng chỉ đạo trên được phát triển bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp

với yêu cầu thực tế qua các kỳ Đại hội Đảng lần VI, VII, VIII, XIX, X của
Đảng cộng sản Việt Nam.
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta lại càng phải quan tâm hơn nữa đến sự
nghiệp giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ và
nhân dân lao động để họ tham gia hội nhập mà vẫn giữ vững truyền thống văn
hóa dân tộc đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm chủ khoa học
tiên tiến.
Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang có bước phát triển
ngày càng nhanh, nền kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá
trình phát triển của lực lượng sản xuất. Trong bối cảnh đó, giáo dục đã trở
thành nhân tố quyết định đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Các nước trên
thế giới và các nước đang phát triển đều coi giáo dục là nhân tố hàng đầu
quyết định sự phát triển nhanh và bền vững của các quốc gia. Đảng và Nhà
nước ta đã đặt giáo dục ở vị trí cao. Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII, Nghị
quyết chuyên đề về giáo dục và đào tạo đã khẳng định: Giáo dục và đào tạo
cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực và điều
kiện để thực hiện những mục tiêu kinh tế, xã hội; là chìa khoá để mở cánh cửa
tiến vào tương lai; là một trong những động lực quan trọng để thúc đẩy sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; là điều kiện để phát huy
nguồn lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế
nhanh và bền vững. Phải coi đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển,
phải tạo điều kiện cho giáo dục đi trước một bước để phục vụ đắc lực cho sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội.
Phải coi đầu tư cho giáo dục là một trong những hướng chính của đầu
tư cho phát triển. Huy động toàn xã hội chăm lo, đóng góp cho sự nghiệp giáo
dục, động viên các tầng lớp nhân dân giúp sức xây dựng nền giáo dục quốc
dân dưới sự quản lý của Nhà nước. Phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo ra những con người có kiến thức
1



văn hoá, khoa học, có kỹ năng nghề nghiệp, lòng nhân ái, yêu nước, yêu chủ
nghĩa xã hội, sống lành mạnh, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước những
năm 90 và chuẩn bị cho tương lai.
Phải mở rộng quy mô đồng thời chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu
quả giáo dục gắn học với hành, tài với đức, giáo dục phải vừa gắn chặt với
yêu cầu của đất nước vừa phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại. Thực hiện
một nền giáo dục thường xuyên cho mọi người, xác định học tập suốt đời là
quyền lợi và trách nhiệm của mỗi công dân. Đa dạng hoá các hình thức đào
tạo, thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục: người đi học phải đóng học
phí, người sử dụng lao động qua đào tạo phải đóng góp phí đào tạo. Nhà nước
có chính sách bảo đảm cho người nghèo và các đối tượng chính sách đều
được đi học.
Đảng đã xác định phải coi trọng cả ba mặt giáo dục: mở rộng quy mô,
nâng cao chất lượng, phát huy hiệu quả để phát triển nguồn nhân lực đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đổi mới hệ thống giáo dục chuyên
nghiệp và đại học, kết hợp đào tạo với nghiên cứu, tạo nguồn nhân lực đủ khả
năng tiếp cận với công nghệ tiên tiến.
Sau khi Liên Xô và hệ thống các nước XHCN ở Đông Âu sụp đổ, Đảng
ta đã có những chuyển hướng chỉ đạo về hợp tác quốc tế trong đào tạo cán bộ.
Nghị quyết 02-NQ/HNTW Đảng khoá VIII đã nhấn mạnh quan điểm hợp tác
đào tạo với các nước như sau:
- Dành ngân sách nhà nước thoả đáng để cử những người giỏi và có
phẩm chất tốt đi đào tạo và bồi dưỡng về những ngành nghề và lĩnh vực then
chốt ở những nước có nền khoa học và công nghệ phát triển.
- Khuyến khích đi học nước ngoài bằng con đường tự túc, hướng vào
những ngành mà đất nước đang cần, theo quy định của nhà nước.
Thực hiện nghị quyết này, Chính phủ đã dành 100 tỷ đồng đầu tư cho
việc đào tạo ở nước ngoài vào năm 2000 (tương đương với 7,12 triệu USD tại
thời điểm đó).

1


Đến Đại hội IX, Trung ương Đảng một lần nữa nhấn mạnh rằng: “Nhà
nước có chính sách hỗ trợ đặc biệt những học sinh có năng khiếu, có hoàn
cảnh sống khó khăn được theo học ở các bậc học cao. Có quy hoạch và chính
sách tuyển chọn người giỏi đặc biệt chú ý tới con em công nhân và nông dân
để đào tạo ở các bậc đại học và sau đại học. Tăng ngân sách nhà nước cho
việc cử người đi học ở các nước có nền khoa học và công nghệ tiên tiến,
khuyến khích việc du học tự túc” [20, tr.87-88].
Đại hội Đảng lần thứ IX đã nêu rõ: “Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo
dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường
lớp và hệ thống quản lý giáo dục; thực hiện "chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội
hoá" [20, tr.29] nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục; tạo chuyển
biến cơ bản về chất lượng đội ngũ nhà giáo; thực hiện giáo dục toàn diện, đặc
biệt chú trọng giáo dục tư tưởng - chính trị, nhân cách, đạo đức, lối sống cho
người học.
Tăng cường giáo dục nhà trường với giáo dục gia đình, phát huy vai trò
của giáo dục gia đình. Đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục
theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, tăng cường giáo dục tư duy sáng tạo,
năng lực tự học, tự tu dưỡng, tự tạo việc làm. "Tăng cường giáo dục hướng
nghiệp, đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực của đất nước và các địa phương,
vùng miền. Nâng cao chất lượng giảng dạy các môn khoa học xã hội và nhân
văn nhất là các môn khoa học Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh [20, tr.87].
Hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách; phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng,
sử dụng nhân tài đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Sớm xây dựng chính sách sử dụng và tôn vinh các nhà giáo, cán bộ quản lý
giỏi, có công lao trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Nâng cao chất lượng
đào tạo sau đại học, chấn chỉnh việc phong chức danh, học vị, cấp phát văn
bằng. Phát triển quy mô giáo dục cả đại trà và mũi nhọn, trên cơ sở đảm bảo

chất lượng và điều chỉnh cơ cấu đào tạo, gắn đào tạo với yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội, đào tạo với sử dụng.
1


Mở rộng hệ thống trường lớp giáo dục mầm non trên mọi địa bàn dân
cư, đặc biệt ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số, vùng nông thôn. Hoàn thành cơ
bản phổ cập THCS vào năm 2010, củng cố kết quả phổ cập tiểu học đặc biệt ở
vùng núi, vùng sâu vùng xa. Tiếp tục xóa mù chữ, ngăn ngừa tái mù chữ cho
người lớn. Thực hiện phổ cập trung học ở những nơi đã phổ cập xong THCS.
Điều chỉnh cơ cấu đào tạo, tăng nhanh dạy nghề và trung học chuyên
nghiệp; hiện đại hóa một số trường dạy nghề nhằm chuẩn bị đội ngũ công
nhân bậc cao có trình độ tiếp thu và sử dụng công nghệ mới và công nghệ
cao. Phát triển giáo dục không chính quy, các hình thức học tập cộng đồng ở
các xã, phường gắn với nhu cầu thực tế của đời sống kinh tế - xã hội, tạo điều
kiện thuận lợi cho mọi người có thể học tập suốt đời, hướng tới xã hội học
tập. Nhà nước "thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo điều kiện cho
người nghèo có cơ hội học tập" [20, tr.29].
Ưu tiên phát triển giáo dục ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số.
Chú trọng đào tạo cán bộ vùng dân tộc (cán bộ Đảng, chính quyền, đoàn thể
từ bản ấp trở lên và các cán bộ khoa học kỹ thuật). Củng cố và tăng cường hệ
thống trường nội trú; từng bước mở rộng quy mô tuyển sinh đáp ứng yêu cầu
đào tạo toàn diện đi đôi với cải tiến chính sách học bổng cho học sinh ở các
trường này.
Thực hiện chế độ miễn phí học tập, cung cấp sách giáo khoa cho học
sinh vùng cao, vùng sâu, vùng xa, học sinh vùng dân tộc thiểu số. Thực hiện
tốt chính sách cử tuyển, đào tạo theo địa chỉ với vùng dân tộc thiểu số, vùng
sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Có chính sách bổ túc kiến thức cần thiết cho số
học sinh dân tộc thiểu số đã tốt nghiệp THPT hoặc THCS mà không có điều
kiện học tiếp để các em về địa phương tham gia công tác ở cơ sở.

Hội nghị TW 6 khoá IX đã đề ra ba nhiệm vụ để tiếp tục thực hiện Nghị
quyết TW 2 khóa VIII: Một là, nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào
tạo nhân tài. Trong nhiệm vụ này, trọng tâm là đổi mới nội dung, chương trình,
phương pháp giáo dục theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, ứng dụng công
1


nghệ thông tin vào các cấp học, bậc học. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ chế,
chính sách tổ chức; phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài. Hai là, phát
triển hợp lý quy mô giáo dục cả đại trà và mũi nhọn, phục vụ quá trình chuyển
đổi cơ cấu ngành nghề, cơ cấu trình độ, cơ cấu xã hội; vấn đề bổ túc tiểu học
cho người lớn và phát triển giáo dục không chính quy, xây dựng hệ thống trung
tâm học tập cộng đồng. Ba là, thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo
cơ hội học tập cho mọi tầng lớp nhân dân nhất là cơ hội học cao đẳng và đại
học cho con em nông dân và các gia đình diện chính sách.
Nhìn lại tình hình đất nước, trải qua hơn 20 năm thực hiện đường lối
đổi mới, nhân dân ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử
sâu sắc. Tuy nhiên, cho đến nay nước ta vẫn chưa thoát khỏi tình trạng kém
phát triển.
Trong khi Việt Nam bước vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
thì nhiều nước đã vượt qua thời kỳ đại cách mạng công nghiệp đi vào thời đại
cách mạng công nghệ thông tin, xây dựng nền kinh tế tri thức và xã hội tri
thức. Khoảng cách về trình độ kinh tế, khoa học và công nghệ giữa nước ta
với các nước phát triển trên thế giới, kể cả một số nước trong khu vực có xu
hướng ngày càng rộng thêm mà một nguyên nhân quan trọng là do chất lượng
trí tuệ, năng lực sáng tạo và kỹ năng chuyên môn cũng còn nhiều bất cập của
nguồn nhân lực.
Trước những thách thức của thời đại cách mạng tri thức gắn với quá
trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, khi Việt Nam trở thành thành viên thứ
150 của tổ chức thương mại thế giới, trong cuộc đua tranh quyết liệt về mọi

mặt mà chủ yếu là đua tranh về trí tuệ của các quốc gia trên toàn cầu; sự yếu
kém và bất cập, tụt hậu của giáo dục và đào tạo đang trở thành lực cản đối với
sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước.
Đặc biệt sự nghiệp giáo dục và giáo dục lý luận chính trị được Đại hội
toàn quốc lần thứ X quan tâm và nhấn mạnh hơn nữa nhằm giáo dục con
người phát triển toàn diện nhất là thế hệ trẻ. Đại hội X đã khẳng định: “Nâng
1


cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý, nội
dung, phương pháp dạy và học; thực hiện chấn hưng nền giáo dục Việt Nam;
chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở - mô hình
xã hội học tập với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo liên tục, liên thông giữa
các bậc học, ngành học; xây dựng và phát triển hệ thống học tập cho mọi
người và những hình thức học tập được thực hành linh hoạt, đáp ứng nhu cầu
học tập thường xuyên, tạo nhiều khả năng, cơ hội khác nhau cho người học,
bảo đảm sự công bằng trong giáo dục" [20, tr.363].
Để thực hiện chủ trương này cần tập hợp một số chuyên gia hàng đầu
về giáo dục, khoa học và quản lý để giúp Đảng và Nhà nước nghiên cứu, kiểm
điểm, đánh giá tình hình giáo dục và đào tạo một cách khách quan, khoa học
với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, làm rõ những kết quả đạt được, vạch rõ
những yếu kém, bất cập đặc biệt làm rõ những nguyên nhân vì sao mấy năm
qua chúng ta đã có nhiều cố gắng để tìm cách chấn chỉnh nhưng tình trạng
yếu kém, bất cập trong giáo dục vẫn tồn tại, chậm chuyển biến để đi đến một
nhận thức mới, một quyết tâm mới, một chương trình hành động mới làm
chuyển biến căn bản nền giáo dục và đào tạo của nước nhà.
Trước hết cần đổi mới tư duy về quan điểm và mục tiêu giáo dục và
đào tạo, từ đó mà đổi mới chương trình, nội dung, phương châm, phương
pháp giáo dục, đổi mới hệ thống tổ chức, công tác quản lý và hệ thống chính
sách nhằm hiện đại hoá nền giáo dục của nước ta phù hợp với truyền thống

văn hoá dân tộc và xu hướng phát triển chung của thời đại, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ phát triển và hiện đại hoá đất nước trong tình hình mới.
Ngành giáo dục và đào tạo phải đổi mới tư duy và có quyết tâm cao đối
với công cuộc đổi mới nền giáo dục. Trước mắt, cần rà soát lại các chủ
trương, chính sách về giáo dục và đào tạo được đề ra trong các nghị quyết của
Đảng, trong luật và chiến lược giáo dục của Nhà nước để xác định một kế
hoạch, một lộ trình đổi mới giáo dục và đào tạo với yêu cầu nâng cao rõ rệt
một bước chất lượng giáo dục và đào tạo.
1


Để triển khai có kết quả công cuộc đổi mới nền giáo dục và đào tạo cần
thực hiện ngay một số vấn đề cơ bản và cấp bách:
Trước hết, cần tổ chức lại và kiện toàn Hội đồng giáo dục quốc gia cho
ngang tầm với nhiệm vụ. Đây là hội đồng khoa học, chủ yếu làm nhiệm vụ tư
vấn cho Trung ương, Quốc hội và Chính phủ trong việc hoạch định chính
sách và chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo ở tầm vĩ mô.
Hội đồng phải tập hợp được các nhà giáo và các nhà khoa học có tâm
huyết, những chuyên gia giỏi, am hiểu tình hình giáo dục trong nước và thế
giới, có uy tín, phần lớn không phụ trách chức vụ quản lý kể cả những người
đã nghỉ hưu nhưng có năng lực, có kinh nghiệm và còn sức làm việc. Chủ tịch
hội đồng nên là một nhà khoa học giáo dục có uy tín phụ trách. Hội đồng có
quy chế làm việc chặt chẽ, bảo đảm thực sự dân chủ, tôn trọng những ý kiến
khác nhau, cùng nhau thảo luận đi đến kết luận và đưa ra kiến nghị với Đảng
và Nhà nước.
Hai là, tổ chức nghiên cứu rà soát lại hệ thống chương trình giáo dục và
sách giáo khoa. Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện, ổn định chương trình làm cơ sở
để sớm biên soạn xong sách giáo khoa chuẩn mực cho mỗi bậc học, mỗi
ngành học trong một vài năm. Thay đổi cách tổ chức biên soạn chương trình,
sách giáo khoa một cách dân chủ, công khai, tránh độc quyền, có hội đồng

thẩm định nghiêm túc, tránh sửa đi sửa lại, biên soạn kéo dài và thay đổi sách
triền miên. Một số nhà khoa học nêu ý kiến có thể giải quyết vấn đề chương
trình và sách giáo khoa chuẩn cho cả phổ thông và đại học trong một năm với
kinh phí 100 tỷ đồng. Những ý kiến như vậy nên được trao đổi, bàn bạc.
Ba là, cần nghiên cứu tổ chức hệ thống giáo dục quốc dân cho hợp lý.
Sớm chấm dứt tình trạng “vừa thừa vừa thiếu cả thầy lẫn thợ”. Nghiên cứu biện
pháp nâng cao chất lượng và thực hiện tốt viêc phân luồn ở cấp phổ thông. Phát
triển mạnh hệ thống các trường dạy nghề. Hết sức coi trọng phương châm học
gắn với hành. Tiếp tục chống gian lận trong thi cử, chạy theo thành tích giả,
sớm chấm dứt mọi hiện tượng tiêu cực trong ngành giáo dục.
1


Bốn là, cần triển khai tích cực công tác phát hiện, tuyển chọn nhân tài,
tổ chức đào tạo trong nước và ngoài nước để sớm có một đội ngũ cán bộ khoa
học có trình độ cao, bồi dưỡng thành đội ngũ giảng viên đại học đáp ứng yêu
cầu bảo đảm chất lượng của cấp đại học. Nâng cao chất lượng cấp đại học là
cơ sở để nâng cao chất lượng cấp trung học phổ thông và dạy nghề. Đào tạo
đội ngũ thầy giáo có trình độ quốc tế là vấn đề quyết định để đổi mới, hiện đại
hoá nền giáo dục nước nhà.
Năm là, cần tăng thích đáng đầu tư và quan trọng hơn, cần quản lý và
sử dụng có hiệu quả ngân sách đầu tư cho giáo dục và đào tạo. Mức đầu tư
phải tạo điều kiện cho giáo dục và đào tạo đi trước một bước, phục vụ đắc lực
cho phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội. Những năm gần đây mức đầu tư cho
giáo dục và đào tạo (tính theo % GDP và % ngân sách nhà nước) đã tăng đáng
kể. Tuy nhiên cần thấy rõ là mức đầu tư cho giáo dục và đào tạo tính theo đầu
người của nước ta còn rất thấp so với nhiều nước trong khu vực và trên thế
giới, vì vậy cần tính toán các mặt để có một mức tăng đáng kể nhằm tạo nên
một sự chuyển biến căn bản về chất lượng và quy mô giáo dục và đào tạo.
Đầu tư ngân sách nhà nước có vai trò quan trọng nhưng chắc chắn

không thể đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng, bởi vậy, một nguồn lực
quan trọng là cần xác định trách nhiệm, cơ chế và chính sách cụ thể nhằm huy
động sự đóng góp của các tổ chức kinh tế và xã hội sử dụng nguồn nhân lực
được đào tạo. Đồng thời, đặc biệt quan tâm đến việc quản lý, phân bổ và sử
dụng các nguồn đầu tư cho giáo dục và đào tạo một cách đúng hướng, hợp lý
và hiệu quả, tránh gây thất thoát, lãng phí.
Dành tỷ lệ đầu tư thích đáng cho việc nâng cấp, từng bước hiện đại hoá
kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật cho giáo dục và đào tạo, đặc biệt là nguồn
thông tin tư liệu, các trung tâm thử nghiệm, các cơ sở dạy nghề và sản xuất
thử, các trung tâm đào tạo ngoại ngữ và tin học.
Cuối năm 2000, Trung ương Đảng đã có chỉ thị về đẩy mạnh ứng dụng
công nghệ thông tin trong mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, cho đến
1


nay, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hệ thống giáo dục và đào tạo
vẫn còn hạn chế, vẫn còn kém so với các nước trong khu vực. Để tạo được sự
chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng giáo dục, cần có chủ trương và chính
sách cụ thể, tạo điều kiện cho các giáo viên, học sinh, sinh viên được dễ dàng
sử dụng máy tính và internet trong giảng dạy, nghiên cứu và học tập. Đồng
thời cần nghiên cứu thực hiện chủ trương phổ cập tiếng Anh để nâng cao hiệu
quả sử dụng máy tính và internet trong GD & ĐT, trong nghiên cứu khoa học
cũng như trong hoạt động quản lý và kinh doanh.
Sáu là, nền giáo dục của nước ta là nền giáo dục của dân, do dân, vì
dân. Dân chủ, công bằng là tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, trước hết
phải được thể hiện trong giáo dục và y tế, hai lĩnh vực trực tiếp bồi dưỡng con
người. Bác Hồ mong muốn “ai cũng được học hành”. Vì vậy, xu hướng đúng
đắn là phải tiến tới tạo mọi điều kiện tốt nhất để mỗi cá nhân có cơ hội được
học tập nâng cao trình độ, hiểu biết dưới những hình thức phù hợp và có
những chính sách hỗ trợ đối với những hoàn cảnh khó khăn. Phải kiên quyết

thực hiện không thu học phí đối với giáo dục phổ thông theo đúng tinh thần
của Hiến pháp. Còn với những cấp học hoặc hệ đào tạo ngoài công lập cũng
cần xem xét để triển khai có hiệu quả các chủ trương, chính sách về thu, chi
học phí trong nhà trường.
Mặt khác, cần nghiên cứu kỹ chế độ học phí theo hướng không tăng mà
giảm dần, tiến tới bỏ học phí ở cấp phổ thông rồi tiến đến bỏ học phí ở cấp đại
học. Nên nghiên cứu vận dụng cơ chế khuyến khích cạnh tranh dạy tốt, học
tốt nhưng không nên phát triển tư nhân hoá trường công, phát triển xu hướng
thương mại hoá giáo dục, coi nhà trường là tổ chức kinh doanh để thu lợi
nhuận dưới danh nghĩa “xã hội hoá giáo dục”, không đúng với tinh thần, chủ
trương của Đảng và Nhà nước trong sự nghiệp xây dựng nền giáo dục của
nhân dân, vì nhân dân.
Đổi mới toàn diện, sâu sắc và triệt để, có tính cách mạng nền giáo dục
và đào tạo là một điều kiện tiên quyết để đưa nước ta tiến lên nhanh và vững
1


trên con đường hiện đại hoá đất nước, hội nhập quốc tế và sánh vai cùng các
quốc gia tiên tiến trên thế giới trong kỷ nguyên thông tin và toàn cầu hoá.
1.2. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của Thành phố Hải Dương
1.2.1. Đặc điểm tự nhiên của Thành phố Hải Dương
Hải Dương là tỉnh thuộc trung tâm đồng bằng Bắc bộ, thuộc địa bàn
trọng điểm kinh tế của các tỉnh phía Bắc với diện tích tự nhiên là 1660,9 km2,
được tách ra từ tỉnh Hải Hưng (gồm Hải Dương và Hưng Yên ngày nay) vào
ngày 1 tháng 1 năm 1997 với hàng loạt các đặc điểm riêng về tự nhiên.
Thành phố Hải Dương nằm ở trung tâm của tỉnh Hải Dương. Phía Bắc
giáp huyện Nam Sách; phía Đông giáp các huyện Kim Thành, Thanh Hà; phía
Tây giáp huyện Cẩm Giàng; phía Nam giáp huyện Gia Lộc, Tứ Kỳ.
Thành phố Hải Dương là một thành phố loại II với tổng dân số đến năm
2009 là 213.096 người, trong đó số dân thành thị chiếm 79,97%, với mật độ

dân cư trung bình là 2625 người/km2 (2008).
Thành phố Hải Dương nằm trong khu vực có khí hậu nhiệt đới gió mùa
với bốn mùa đặc trưng rõ rệt trong một năm. Thành phố nằm trên tuyến
đường bộ và đường sắt Hà Nội - Hải Phòng, con đường huyết mạch của miền
Bắc, nối cảng Hải Phòng với Thủ đô Hà Nội. Từ Thành phố có các tuyến
đường bộ đi Hưng Yên, Thái Bình, Bắc Ninh, Quảng Ninh và các huyện, thị
xã trong tỉnh, trong đó có các tuyến đường lớn như đường 17 dài 29 km,
đường 191 dài 30 km. Là thành phố có ba mặt do sông bao bọc, Hải Dương
còn là đầu mối giao thông đường thuỷ quan trọng đi các tuyến Hà Nội, Hải
Phòng, Thái Bình, Nam Định, Hưng Yên, Quảng Ninh, Bắc Ninh qua các
sông Thái Bình, sông Luộc, sông Hồng, sông Kẻ Sặt, sông Kinh Thày.
1.2.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội
Năm 1804, thời vua Gia Long, lỵ sở của tỉnh Hải Dương dời từ Mao Điền
về tổng Hàn Giang, đặt trên vùng đất cao thuộc ngã ba sông Thái Bình và sông
Kẻ Sặt, gọi là Thành Đông. Thành Đông xưa, nay là Thành phố Hải Dương đã
1


×