Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Đảng bộ tỉnh ninh bình lãnh đạo sự nghiệp giáo dục tu nam 1996 den nam 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (886.4 KB, 122 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ PHƢƠNG TUYẾT

ĐẢNG BỘ TỈNH NINH BÌNH LÃNH ĐẠO
SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2010

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

\

Hà Nội - 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ PHƢƠNG TUYẾT

ĐẢNG BỘ TỈNH NINH BÌNH LÃNH ĐẠO
SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2010

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Mã số: 60 22 03 15

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Văn Thị Thanh Mai

Hà Nội - 2013


MỤC LỤC
MỤC LỤC .................................................................................................................. 1
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ................................................................................ 1
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 3
CHƢƠNG 1: ĐẢNG BỘ TỈNH NINH BÌNH LÃNH ĐẠO SỰ NGHIỆP
GIÁO DỤC (1996 - 2000) .................................................................................................... 12
1.1. Giáo dục tỉnh Ninh Bình trƣớc năm 1996 ................................................................ 12
1.2. Đảng bộ tỉnh Ninh Bình vận dụng chủ trƣơng của Đảng về giáo dục (1996 - 2000)21
1.3. Quá trình thực hiện và kết quả đạt đƣợc ................................................................. 28

CHƢƠNG 2: ĐẢNG BỘ TỈNH NINH BÌNH ĐẨY MẠNH LÃNH ĐẠO
SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC (2001 - 2010) ................................................................ 38
2.1. Đảng bộ tỉnh Ninh Bình vận dụng chủ trƣơng giáo dục của Đảng (2001 - 2010) . 38
2.2. Chỉ đạo đẩy mạnh phát triển sự nghiệp giáo dục (2001 - 2005) ............................. 46
2.3. Tiếp tục đẩy mạnh phát triển sự nghiệp giáo dục (2006 - 2010) ............................ 59

CHƢƠNG 3: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM CHỦ YẾU ............. 78
3.1. Nhận xét chung về quá trình Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lãnh đạo sự nghiệp giáo dục
............................................................................................................................................. 78
3.2. Những kinh nghiệm chủ yếu ...................................................................................... 92

KẾT LUẬN ............................................................................................................ 100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 102
PHỤ LỤC ............................................................................................................... 115


1


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CSVC

:

Cơ sở vật chất

GD&ĐT

:

Giáo dục và đào tạo

GDTX

:

Giáo dục thường xuyên

HĐND

:

Hội đồng nhân dân

KT-XH


:

Kinh tế - xã hội

MN

:

Mầm non

Nxb

:

Nhà xuất bản

PCGD

:

Phổ cập giáo dục

TH

:

Tiểu học

THCS


:

Trung học cơ sở

THPT

:

Trung học phổ thông

TTHTCĐ

:

Trung tâm học tập cộng đồng

TW

:

Trung ương

UBND

:

Ủy ban nhân dân

XHHGD


:

Xã hội hóa giáo dục

XHHT

:

Xã hội học tập

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục đóng vai trò quan trọng là nhân tố chìa khóa, một trong những động lực
quan trọng thúc đẩy sự phát triển KT-XH của các quốc gia. Không chỉ ở Việt Nam,
mà ở hầu hết các quốc gia khác trên thế giới đều coi giáo dục là quốc sách hàng
đầu. Vì vậy, phát triển giáo dục là yêu cầu khách quan đối với sự phát triển của
Việt Nam.
Trải qua quá trình lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc
Việt Nam đã hình thành nên truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo. Nền giáo dục
đã góp phần quan trọng trong việc tạo dựng một đất nước Việt Nam ngàn năm
văn hiến.
Ngay từ khi mới ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản
Việt Nam luôn quan tâm chăm lo đến sự nghiệp giáo dục nước nhà, coi đó là một
trong những nhiệm vụ quan trọng. Bởi vậy, dù trải qua muôn vàn khó khăn thử
thách, nền giáo dục nước ta vẫn phát triển và đạt những thành tựu rất đáng tự hào,
góp phần to lớn vào công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước

theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Ngày nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học công nghệ,
của kinh tế tri thức trong quá trình toàn cầu hóa đã đặt ra cho tất cả các nước, nhất
là các nước chậm phát triển muốn tồn tại, đứng vững và phát triển phải kịp thời nắm
bắt và làm chủ tri thức, đi tắt đón đầu một cách phù hợp. Muốn làm được điều đó
thì phát triển giáo dục được coi là nền tảng cơ bản. Thấy rõ tầm quan trọng đó,
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, qua các kỳ Đại hội, Đảng ta
đã xây dựng định hướng phát triển giáo dục, coi đây là lĩnh vực then chốt để xây
dựng và phát triển bền vững đất nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996)
của Đảng nhấn mạnh: “Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc
sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” [20,
tr.107]. Tiếp đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001) của Đảng xác định:
“Phát triển giáo dục và đào tạo là một động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công
3


nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ
bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững” [22, tr.108-109].
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006), Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Giáo
dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và
động lực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [24, tr. 94-95].
Thực hiện quan điểm, chủ trương của Đảng về giáo dục, trong những năm qua
Đảng bộ tỉnh Ninh Bình đã tập trung lãnh đạo sự nghiệp giáo dục đạt được nhiều
thành tựu quan trọng, góp phần to lớn thúc đẩy phát triển KT-XH của tỉnh. Tuy
nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, giáo dục của Ninh Bình vẫn còn bộc lộ
một số khó khăn, hạn chế nhất định, chưa tương xứng với tiềm năng của tỉnh. Yêu
cầu cấp bách đặt ra đối với Đảng bộ, chính quyền, nhân dân Ninh Bình là nhận thức
đúng đắn, vận dụng và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối giáo dục của Đảng phù
hợp với điều kiện cụ thể của địa phương. Trên tinh thần đó, việc tổng kết quá trình
Đảng bộ tỉnh lãnh đạo sự nghiệp giáo dục, nhằm đánh giá một cách khách quan

những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế, đồng thời
đúc kết những kinh nghiệm để tiếp tục hoàn thiện chủ trương, giải pháp nhằm lãnh
đạo hiệu quả sự nghiệp giáo dục là rất cần thiết, vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý
nghĩa thực tiễn. Với ý nghĩa đó, tôi chọn đề tài: “Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lãnh đạo
sự nghiệp giáo dục từ năm 1996 đến năm 2010” làm luận văn Thạc sĩ lịch sử,
chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Giáo dục là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu ở mọi quốc gia
trên thế giới. Ở nước ta, phát triển giáo dục được Đảng, Nhà nước, các cơ quan
chức năng, các nhà khoa học, quản lý nghiên cứu cũng như toàn xã hội đặc biệt
quan tâm. Cho đến nay, có rất nhiều công trình khoa học bàn về vấn đề giáo dục ở
những khía cạnh khác nhau. Những công trình này có thể đưa về những nhóm sau:

4


2.1. Nhóm công trình nghiên cứu về giáo dục Việt Nam của các tổ chức quốc
tế và các nhà nghiên cứu nước ngoài
Trong các công trình đó, tổ chức Văn hóa - Khoa học - Giáo dục của Liên Hợp
Quốc (UNESCO) có dự án: “Nghiên cứu tổng thể về giáo dục - đào tạo. Phân tích
nguồn lực VIE 89/022” và dự án “Báo cáo đánh giá tình hình giáo dục - đào tạo
Việt Nam hiện nay”, được tiến hành trong 2 năm 1991 - 1992. Ngân hàng thế giới
(WB) cùng với Bộ GD&ĐT Việt Nam tổ chức hội thảo với chủ đề “Lựa chọn chính
sách cải cách giáo dục và đào tạo” tại Hà Nội (8/1993)… Những công trình này
chủ yếu nghiên cứu về sự tác động của các nguồn lực, các chính sách lớn đến giáo
dục, trong đó chú trọng đến vấn đề giáo dục của Việt Nam. Đây là tài liệu giúp tác
giả giải quyết các vấn đề luận văn đặt ra.
2.2. Nhóm các tác phẩm và công trình của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà
nước và các bộ, ban, ngành, viện nghiên cứu
Các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước đề cập đến vấn đề giáo dục trong một

số cuốn sách, bài viết, tiêu biểu như: Hồ Chí Minh, “Bàn về công tác giáo dục”,
Nxb Sự thật, Hà Nội, 1975; Phạm Văn Đồng, “Về vấn đề giáo dục - đào tạo”, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999; Đỗ Mười, “Phát triển mạnh mẽ giáo dục - đào
tạo phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Nxb Giáo
dục, Hà Nội, 1996; Võ Nguyên Giáp, “Mấy vấn đề về khoa học và giáo dục”, Nxb
Sự thật, Hà Nội, 1986; Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, “Về đường lối
giáo dục xã hội chủ nghĩa”, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1979… Những công trình trên
khẳng định vai trò vô cùng quan trọng và cần thiết của việc đẩy mạnh sự nghiệp
giáo dục; đồng thời đưa ra những quan điểm, tư tưởng cơ bản có tính chất định
hướng phát triển giáo dục, phục vụ cho công cuộc giải phóng dân tộc, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Ngoài ra, các bộ, ban, ngành, viện nghiên cứu cũng có những cuốn sách, công
trình nghiên cứu về lĩnh vực này như: Bộ GD&ĐT, Thực hiện Nghị quyết Đại hội
Đảng lần thứ IX, tiếp tục đổi mới, tạo chuyển biến rõ nét về chất lượng, hiệu quả

5


giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đầu thế
kỷ XXI; Bộ GD&ĐT - Tổ chức UNESCO, Giáo dục và nguồn nhân lực Việt Nam,
1992; Viện nghiên cứu chiến lược phát triển giáo dục: Những vấn đề về chiến lược
phát triển giáo dục trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Bộ
GD&ĐT, “Giáo dục cho mọi người Việt Nam - Các thách thức hiện nay và tương
lai”, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1994; Viện khoa học giáo dục, “Nhà trường phổ thông
Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử”, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2001; Ban Khoa
giáo TW, Báo cáo kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII )
về Giáo dục - đào tạo 1996 - 2001, trình Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Hà Nội, 2001;
Ban Khoa giáo TW, Giáo dục - đào tạo trong thời kỳ mới: Chủ trương, thực hiện,
đánh giá, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002… Những công trình này đã tổng
kết các quan điểm, chủ trương của Đảng về giáo dục, đánh giá quá trình thực hiện,

kết quả đạt được và những vấn về đặt ra liên quan đến sự phát triển của giáo dục
Việt Nam ở phạm vi quốc gia.
Kết quả nghiên cứu của các công trình này là cơ sở phương pháp luận, định
hướng giúp tác giả có cái nhìn tổng quát khi giải quyết yêu cầu của luận văn.
2.3. Nhóm các công trình, bài viết khoa học của các tập thể, cá nhân đã công
bố có liên quan
Bàn về giáo dục đã có rất nhiều cuốn sách của các tác giả khác nhau như: Lê
Văn Giạng, “Lịch sử giản lược hơn 1000 năm nền giáo dục Việt Nam”, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 2003; Bùi Minh Hiền, “Lịch sử giáo dục Việt Nam”, Nxb Đại
học sư phạm, Hà Nội, 2004; Phạm Minh Hạc, “Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng
cửa của thế kỷ XXI”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999; Phạm Minh Hạc,
“Nhân tố mới về giáo dục và đào tạo trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002; Phan Ngọc Liên, “Đảng Cộng sản
Việt Nam với sự nghiệp giáo dục và đào tạo”, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội, 2010;
Phạm Tất Dong, “Giáo dục Việt Nam 1945 - 2010”, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà

6


Nội, 2010; Đặng Bá Lãm, “Giáo dục Việt Nam những thập niên đầu thế kỷ XXI:
Chiến lược phát triển”, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2003…
Đồng thời, còn có nhiều bài báo đăng trên các tạp chí khoa học đề cập về giáo
dục như: Phạm Thị Kim Anh, “Những thay đổi của giáo dục - đào tạo Việt Nam từ
sau công cuộc đổi mới (1986) đến nay”, Tạp chí Dạy và Học ngày nay, số 7 năm
2008, tr.58-62; Nguyễn Hữu Chí, “Những quan điểm cơ bản của Đảng về giáo dục đào tạo qua các chặng đường lịch sử”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 10 năm 2010, tr.
20-24; Nguyễn Thị Hồng Vân, “Giáo dục với phát triển nguồn nhân lực phục vụ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Tạp chí Giáo dục, số 4 năm 2005, tr.7-9; Dương
Văn Khoa, “Phát triển mạnh mẽ giáo dục – đào tạo theo hướng hiện đại, thiết thực,
nhanh chóng nâng cao dân trí, tạo nguồn nhân lực dồi dào và đội ngũ nhân tài cho
đất nước”, Tạp chí Dạy và Học ngày nay, số 8 năm 2005, tr.4-7; Vũ Ngọc Hải, “Đổi

mới giáo dục và đào tạo nước ta trong những năm đầu thế kỷ XXI”, Tạp chí phát
triển giáo dục, số 4 năm 2003, tr.3-4; Ngô Văn Hiển, “Các giải pháp nâng cao hiệu
quả đầu tư cho giáo dục - đào tạo thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”,
Tạp chí Giáo dục, số 112 năm 2005, tr.8-10…
Những công trình nghiên cứu trên đều nhất quán khẳng định giáo dục là quốc
sách hàng đầu, là động lực cho sự phát triển đất nước trong thế kỷ mới, trên cơ sở
đó đưa ra chiến lược phát triển và biện pháp phù hợp nhằm thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ to lớn của giáo dục. Ngoài ra, các công trình này phản ánh nhiều mặt thực
trạng nền giáo dục nước nhà; luận giải những quan điểm cơ bản của Đảng về giáo
dục từ năm 1945 đến nay; đề ra những phương hướng, giải pháp tích cực nhằm phát
triển nền giáo dục xã hội chủ nghĩa… Tuy nhiên, các công trình này đề cập những
vấn đề lớn, phạm vi rộng của giáo dục Việt Nam, mà chưa đi sâu vào từng địa
phương cụ thể. Đây là cơ sở, nguồn tư liệu quý giúp tác giả tham khảo và luận giải
những nội dung nghiên cứu của luận văn.

7


2.4. Nhóm các luận văn Thạc sĩ Lịch sử Đảng về giáo dục nói chung và ở
các địa phương
Nghiên cứu đường lối, chủ trương chung của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo
dục có một số luận văn như: Phạm Quốc Huy (1996), Đảng Cộng sản Việt Nam với sự
nghiệp đổi mới ngành giáo dục đại học nước nhà 1987 - 1995, Luận văn Thạc sĩ Lịch
sử Đảng, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh; Nguyễn Hải Anh
(2008), Đảng lãnh đạo thực hiện chiến lược phát triển giáo dục đào tạo 1996 đến
2006, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ
Chí Minh… Các luận văn này đã nghiên cứu về các chủ trương, đường lối, quan điểm
của Đảng về giáo dục ở phạm vi quốc gia; quá trình chỉ đạo thực hiện và kết quả đạt
được trong thời gian qua. Đây là tài liệu để tác giả tham khảo khi nghiên cứu về sự vận
dụng quan điểm của Đảng vào giáo dục ở địa phương.

Ngoài ra, còn có một số luận văn nghiên cứu đường lối, chủ trương giáo dục
của các Đảng bộ địa phương như: Ngô Thị Thu Hà (2009), Đảng bộ tỉnh Quảng
Ninh lãnh đạo phát triển giáo dục phổ thông từ năm 1996 đến năm 2006, Luận văn
Thạc sĩ Lịch sử, Đại học Quốc gia Hà Nội; Nguyễn Thị Hường (2009), Đảng bộ
Thanh Hóa lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông từ 1954 đến 1975, Luận văn
Thạc sĩ Lịch sử, Đại học Quốc gia Hà Nội; Nguyễn Viết Cường (2006), Đảng bộ
tỉnh Khánh Hòa lãnh đạo phát triển giáo dục và đào tạo từ 1989 đến 2006, Luận
văn Thạc sĩ Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị; Chu Bích Thảo (2005), Đảng bộ tỉnh
Lạng Sơn lãnh đạo thực hiện chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo 1991 - 2001,
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí
Minh; Lê Tiến Dũng (2005), Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi lãnh đạo phát triển giáo
dục - đào tạo từ 1991 đến 2001, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị
- Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh… Những công trình trên đi sâu nghiên cứu về
giáo dục ở từng địa phương khác nhau, nhưng đều có đặc điểm chung là quán triệt,
vận dụng phù hợp quan điểm, chủ trương của Đảng về giáo dục vào điều kiện thực
tiễn từng địa phương, để nâng cao chất lượng giáo dục trên địa bàn. Đây là cơ sở
quan trọng để tác giả học tập, kế thừa trong quá trình nghiên cứu luận văn.

8


Trên địa bàn tỉnh Ninh Bình trong những năm qua cũng đã có rất nhiều những
công trình, bài viết về giáo dục của các cơ quan Nhà nước, các đoàn thể như: Sở
GD&ĐT; Sở Lao động Thương binh và Xã hội; các Phòng ban của huyện, thị; Cục
Thống kê tỉnh... Song hầu hết vấn đề về giáo dục chỉ được biết qua các báo cáo tổng
kết năm học, hoặc các bài viết ở các tập san Thông tin giáo dục, sinh hoạt chi bộ
của tỉnh, các tờ báo tỉnh Ninh Bình. Đây cũng là những nguồn tài liệu quý báu, là cơ
sở để tác giả kế thừa trong quá trình triển khai luận văn.
Từ những khảo cứu nêu trên, có thể thấy vấn đề giáo dục là một nội dung rất
phong phú, được tiếp cận ở nhiều góc độ. Tuy nhiên, chưa có đề tài nào nghiên cứu

chuyên biệt một cách hệ thống chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Ninh Bình
về giáo dục trong những năm 1996 đến 2010 dưới góc độ Lịch sử Đảng như đề tài
luận văn tôi lựa chọn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Làm sáng tỏ chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Ninh Bình về giáo dục
thời kỳ từ năm 1996 đến năm 2010.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích những đặc điểm cụ thể của địa phương và làm rõ yêu cầu khách
quan quá trình lãnh đạo sự nghiệp giáo dục của Đảng bộ tỉnh Ninh Bình trong
những năm 1996 - 2010.
- Trình bày một cách có hệ thống quá trình Đảng bộ tỉnh Ninh Bình vận dụng
các quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục để đề ra các
chủ trương cũng như chỉ đạo thực hiện phát triển giáo dục ở địa phương từ năm
1996 đến năm 2010.
- Đánh giá khách quan những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân của những
thành tựu và hạn chế giáo dục tỉnh Ninh Bình từ năm 1996 đến năm 2010.
- Tổng kết một số kinh nghiệm chủ yếu về sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Ninh
Bình đối với sự nghiệp giáo dục của địa phương.

9


4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu chủ trương và quá trình chỉ đạo thực hiện về giáo dục của
Đảng bộ tỉnh Ninh Bình từ năm 1996 đến năm 2010.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung: Chủ trương và sự chỉ đạo toàn diện của Đảng bộ tỉnh Ninh Bình đối
với sự nghiệp giáo dục (chỉ gồm giáo dục MN, giáo dục phổ thông, GDTX) của tỉnh.

- Thời gian: Từ năm 1996 đến năm 2010.
- Không gian: Nghiên cứu ở địa bàn tỉnh Ninh Bình.
5. Cơ sở lý luận, phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn tƣ liệu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy
vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, đường lối
của Đảng về vấn đề giáo dục.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học lịch sử
Đảng như phương pháp lịch sử, lôgic. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số
phương pháp khác: phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh… để làm rõ
nội dung nghiên cứu.
5.3. Nguồn tư liệu
Để thực hiện luận văn, tác giả đã khai thác nhiều nguồn tư liệu khác nhau: các
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam từ 1991 đến
2011; các Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lần thứ XII (1992), XIII
(1996), XIV (2001), XIX (2005) (xem phụ lục số 9), XX (2010); các chỉ thị, nghị
quyết, thông tư của Đảng, Nhà nước, Đảng bộ tỉnh Ninh Bình về giáo dục; các báo
cáo tổng kết hàng năm, báo cáo tổng kết từng giai đoạn của Tỉnh uỷ, HĐND,
UBND, các sở ban ngành, đoàn thể tỉnh Ninh Bình; các công trình nghiên cứu, các
số liệu, kết quả điều tra thực tiễn ở Ninh Bình về giáo dục… Đây là những nguồn tư
liệu cơ bản, không thể thiếu để thực hiện luận văn. Những nguồn tư liệu đó được tác

10


giả khai thác từ Trung tâm lưu trữ của Tỉnh ủy, UBND, Sở Lao động Thương binh
và Xã hội tỉnh Ninh Bình, Sở GD&ĐT tỉnh Ninh Bình, Thư viện tỉnh Ninh Bình,
Thư viện Quốc gia Việt Nam…
Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng nguồn tư liệu về giáo dục từ nghiên cứu của

các nhà khoa học, nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, do các nhà xuất bản Chính
trị Quốc gia, Khoa học xã hội, Lao động, Giáo dục… phát hành để góp phần luận
giải những yêu cầu của luận văn.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn góp phần tái hiện quá trình Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lãnh đạo phát
triển sự nghiệp giáo dục từ năm 1996 đến năm 2010.
- Luận văn cung cấp thêm những tư liệu liên quan về việc Đảng bộ tỉnh Ninh
Bình thực hiện đường lối giáo dục của Đảng.
- Luận văn bước đầu nêu lên những nhận xét, rút ra những kinh nghiệm khi
nghiên cứu đề tài.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ việc nghiên cứu ở
tỉnh Ninh Bình, góp phần làm phong phú thêm tài liệu tham khảo cho học tập, giảng
dạy một số chuyên đề Lịch sử Đảng về khía cạnh giáo dục trong các trường học trên
cả nước.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục; nội dung
chính của luận văn gồm 3 chương 8 tiết

11


CHƢƠNG 1: ĐẢNG BỘ TỈNH NINH BÌNH LÃNH ĐẠO SỰ NGHIỆP
GIÁO DỤC (1996 - 2000)
1.1. Giáo dục tỉnh Ninh Bình trƣớc năm 1996
1.1.1. Đặc điểm tình hình
* Điều kiện tự nhiên và truyền thống lịch sử
Ninh Bình nằm ở cực Nam đồng bằng Bắc Bộ, nơi tiếp giáp giữ Bắc Bộ với
Trung Bộ. Phía Đông và Đông Bắc có sông Đáy bao quanh, giáp với hai tỉnh Hà
Nam và Nam Định. Phía Tây Nam giáp tỉnh Thanh Hóa có dãy núi Tam Điệp, chạy
theo hướng Tây Bắc - Đông Nam là địa giới. Phía Tây Bắc giáp tỉnh Hòa Bình. Phía

Đông Nam giáp Vịnh Bắc Bộ. Bờ biển Ninh Bình dài 15km. Với diện tích tự nhiên
khoảng 1400km2, Ninh Bình được chia thành 3 vùng: Phía Tây và Tây Bắc là vùng
đồi núi, có rừng nguyên sinh Cúc Phương, những dãy đồi núi trùng điệp. Vùng đất
này cách ngày nay hàng vạn năm đã có con người sinh sống(1); phía Đông và Đông
Nam là vùng đồng bằng và vùng ven biển do phù sa của hệ thống sông Hồng bồi
đắp, hàng năm tiến ra biển từ 80 đến 100m tạo nên một vùng đất mới phì nhiêu,
màu mỡ. Tỉnh với địa hình đa dạng có rừng, núi đá, đồi đất, đồng bằng, ven biển
được thiên nhiên ban tặng nhiều điểm tham quan du lịch hấp dẫn như: rừng Cúc
Phương, động Người Xưa, động Địch Lộng, Tam Cốc - Bích Động, Tràng An...
Tỉnh còn là nơi tiếp điểm giao lưu văn hóa giữa lưu vực sông Hồng với lưu vực
sông Mã, có nhiều di tích lịch sử và văn hóa nổi tiếng như: Cố đô Hoa Lư, hành
cung Vũ Lâm, phòng tuyến Tam Điệp - Biện Sơn, khu căn cứ cách mạng Quỳnh
Lưu, núi Non Nước, nhà thờ đá Phát Diệm.
Các đường giao thông quan trọng, như quốc lộ 1A, đường 10, đường 59, đường
12A, đường 12B, đường sắt xuyên Việt, cùng với hệ thống sông ngòi: sông Đáy,
sông Hoàng Long, sông Vạc và hơn một chục con sông lớn nhỏ khác thông ra biển
làm thành mạng lưới giao thông thuận tiện là những mạch máu giao thông chính để

1

Động Người Xưa (rừng quốc gia Cúc Phương) đã tìm thấy hài cốt của người xưa cách đây gần 7000 năm.

12


từ Ninh Bình đi lên phía Bắc, vào miền Trung, miền Nam, ra biển Đông và ngược
lên vùng Tây Bắc.
Qua nhiều biến đổi, ngày nay Ninh Bình có 8 đơn vị hành chính (1 thành phố, 1
thị xã và 6 huyện): Thành phố Ninh Bình, thị xã Tam Điệp, huyện Nho Quan, Gia
Viễn, Hoa Lư, Yên Mô, Yên Khánh và Kim Sơn. Tính đến 2010, quy mô dân số

trên 900 nghìn người, mật độ dân số của tỉnh khoảng 675 người/km2. Trên địa bàn
tỉnh có 2 dân tộc chính là Kinh và Mường, hầu hết là người Kinh, còn dân tộc
Mường sống tập trung ở một số xã huyện Nho Quan.
Nhân dân Ninh Bình sống chủ yếu bằng nghề nông, ngoài trồng lúa, nhân dân
còn trồng nhiều loại cây lương thực, thực phẩm, cây ăn quả, cây lấy gỗ, cây công
nghiệp. Những nghề thủ công mỹ nghệ nổi tiếng của địa phương như dệt chiếu cói
Kim Sơn, Yên Khánh, khai thác đá, trạm trổ đá mỹ nghệ ở Ninh Vân, thêu ren ở
Ninh Hải, làm đồ mộc ở Phúc Lộc (Ninh Phong), làm gạch ngói ở Khương Thượng
(Yên Khánh), trồng dâu nuôi tằm, dệt vải, dệt lụa ở nhiều nơi trong các huyện Gia
Viễn, Hoa Lư, Yên Khánh, Yên Mô.
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử đã hun đúc cho nhân dân Ninh Bình tinh thần
yêu quê hương, đất nước, tinh thần đoàn kết, truyền thống hiếu học, lòng nhân ái
cao cả, sự cần cù, sáng tạo trong lao động, kiên cường, bất khuất trong đấu tranh
chống xâm lược, bảo vệ và xây dựng đất nước.
Những địa danh Hoa Lư, Tam Điệp... đã đi vào lịch sử, ghi nhận sự đóng góp to
lớn của quân dân Ninh Bình trong công cuộc dựng nước, giữ nước hàng ngàn năm
của dân tộc ta. Từ trong lịch sử chống ngoại xâm, khắc phục thiên tai, xây dựng đất
nước, quê hương Ninh Bình đã sinh ra và nuôi dưỡng những người anh hùng dân tộc.
Tiêu biểu như Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước, lập nên nước
Đại Cồ Việt vào thế kỷ X, xây dựng kinh đô ở Trường Yên (Hoa Lư); như năm 1789,
Quang Trung - Nguyễn Huệ đã tập kết quân tại Tam Điệp để làm cuộc tiến công
“thần tốc” đại phá 29 vạn quân Thanh, giải phóng Thăng Long, giành lại độc lập dân
tộc. Ngoài ra, vùng đất này còn là quê hương của nhiều danh nhân văn hóa như
Trương Hán Siêu, Vũ Duy Thanh, Phạm Thận Duật, Vũ Phạm Khải...

13


Những truyền thống tiêu biểu đó được nhân dân Ninh Bình phát huy từ đời này
qua đời khác và càng được phát huy hơn cả từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh

đạo. Sau ngày thống nhất đất nước thực hiện đường lối đổi mới toàn diện của Đảng
trên các lĩnh vực, nhân dân trong tỉnh quyết tâm phấn đấu xây dựng quê hương ngày
càng giàu đẹp. Với tinh thần đó, truyền thống hiếu học được phát huy cao độ, giáo
dục luôn được quan tâm hàng đầu nhằm đào tạo những con người đủ tài đủ đức góp
phần xây dựng quê hương xứng đáng với truyền thống Cố đô Hoa Lư.
* Tình hình kinh tế - xã hội
Trải qua hai thập kỷ, kể từ ngày tái lập tỉnh 1/4/1992, Đảng bộ quân và dân
Ninh Bình tiếp tục thực hiện sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng. Đó cũng là
thời gian Đảng bộ lãnh đạo nhân dân thực hiện nhiệm vụ phát triển KT-XH do Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII (1992), XIII (1996), XIV (2001), XIX
(2005), XX (2010) đề ra.
Khi bước vào thực hiện phương hướng, nhiệm vụ và các mục tiêu do Đại hội
Đảng bộ tỉnh đề ra, nền kinh tế Ninh Bình gặp một số khó khăn lớn là: Điểm xuất
phát khi mới tái lập tỉnh rất thấp; CSVC - kỹ thuật hạ tầng của nền kinh tế lạc hậu;
đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn… Tuy nhiên, bên cạnh khó khăn đó, thuận
lợi cơ bản là đường lối đổi mới của Đảng triển khai ở Ninh Bình bước đầu đã phát
huy tác dụng tích cực. Kinh nghiệm tổ chức, quản lý và điều hành nền kinh tế hàng
hóa vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa từng bước được tích lũy. Các đơn vị kinh tế cơ sở sau thời gian
lúng túng đã dần dần thích nghi được với cơ chế quản lý mới…
Trong thời kỳ 1992 - 2011, tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh tăng liên tục qua
các năm; bình quân hàng năm trong giai đoạn 1992 - 1995 đạt tốc độ tăng 13,3%;
giai đoạn 1996 - 2000 đạt 9,6%; giai đoạn 2001 - 2005 đạt 13,1% và giai đoạn 2006
- 2010 đạt 15,7%. Nhờ vậy, đến năm 2011 tổng sản phẩm trên địa bàn đạt gần
8.136,9 tỷ đồng (giá so sánh 1994) gấp gần 2,4 lần năm 2005, gấp hơn 4,4 lần năm
2000, gấp gần 7 lần năm 1995 và gấp 11,5 lần năm 1991. Có thể thấy tốc độ tăng
trưởng kinh tế của tỉnh không những đạt và vượt mục tiêu tổng quát do các kỳ Đại

14



hội Đảng bộ tỉnh đề ra mà còn đạt tốc độ bình quân hàng năm cao hơn tốc độ tăng
bình quân của cả nước [92, tr.21]. Sự ổn định và từng bước phát triển kinh tế đã tác
động tích cực về mặt xã hội. Các lĩnh vực như văn hóa, giáo dục cũng có những
chuyển biến khá, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, sự nghiệp giáo dục phát
triển cả về chất lượng chuyên môn cũng như CSVC.
Đặc điểm tự nhiên, truyền thống lịch sử và tình hình KT-XH đòi hỏi nhu cầu về
nguồn nhân lực là rất lớn. Sự phát triển kinh tế ngày càng cao cộng với thế mạnh
truyền thống hiếu học là một trong những điều kiện thuận lợi trong việc thực hiện
chính sách giáo dục của Đảng nhằm phát triển KT-XH ở địa phương. Tuy vậy, sự
đa dạng về điều kiện tự nhiên, tình hình KT-XH còn khó khăn đã tác động tới sự
nghiệp giáo dục của tỉnh Ninh Bình theo cả hướng tích cực và tiêu cực. Thực tế đó
đòi hỏi Đảng bộ tỉnh Ninh Bình cần có chủ trương, biện pháp lãnh đạo đúng đắn,
phù hợp, sát thực tiễn để phát huy những thế mạnh, khắc phục những mặt hạn chế,
thúc đẩy sự nghiệp giáo dục của tỉnh ngày càng phát triển hơn nữa.
1.1.2. Thực trạng giáo dục tỉnh Ninh Bình từ khi tái lập tỉnh đến trước năm 1996
Ngày 1/4/1992 tỉnh Ninh Bình chính thức được tái lập, trong điều kiện tình
hình quốc tế diễn biến hết sức phức tạp, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
Đông Âu sụp đổ, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch âm mưu “diễn biến hòa
bình” chống phá cách mạng nước ta, tình hình KT-XH trong nước còn nhiều khó
khăn. Những biến động của tình hình quốc tế và trong nước đã ảnh hưởng trực tiếp
đến sự phát triển KT-XH của tỉnh Ninh Bình.
Ngay từ khi tái lập, Đảng bộ tỉnh xác định đúng đắn vị trí quốc sách hàng đầu
của giáo dục trong công cuộc xây dựng, phát triển KT-XH ở địa phương. Quán triệt
và thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành TW (14/01/1993), Tỉnh
uỷ, HĐND, UBND tỉnh Ninh Bình chủ trương chỉ đạo tập trung đầu tư thích đáng
cho sự nghiệp giáo dục, đảm bảo hoạt động thường xuyên của toàn ngành giáo dục
với mức đầu tư lớn trong tổng chi ngân sách địa phương. Trên cơ sở những quan
điểm chỉ đạo của Đảng, Đại hội Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lần thứ XII (8/1992) đã
nhấn mạnh: “Vì lợi ích trước mắt và lâu dài của đất nước, của quê hương, phải thật


15


sự coi giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài. Duy trì và phát triển giáo dục và đào tạo phù hợp với tình hình mới,
cân đối và đồng bộ giữa các ngành học, cấp học, trên các địa bàn”[27, tr.42].
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII, trong những năm từ
1992 đến trước năm 1996, ngành giáo dục tỉnh Ninh Bình đã đạt được một số kết
quả quan trọng, nổi bật là:
Thứ nhất, mạng lưới trường lớp và quy mô giáo dục các bậc học, cấp học,
ngành học bước đầu được mở rộng, chất lượng giáo dục được nâng lên.
Về quy mô, mạng lưới trường lớp: Tính đến cuối năm 1995 mạng lưới trường,
lớp của tỉnh với 142 trường MN (924 lớp); 143 trường TH (3.588 lớp); 139 trường
THCS (1.385 lớp); 18 trường THPT gồm 17 trường công lập và 1 trường bán công
(249 lớp); có 7 trung tâm GDTX cấp huyện… được bố trí và trải đều khắp trên địa
bàn dân cư trong tỉnh, bước đầu đáp ứng được yêu cầu học tập của nhân dân [55, tr.12]. Số học sinh phổ thông ngày càng tăng (năm học 1994 - 1995 tăng 27,4% so với
năm học 1991 - 1992). Đánh giá chung về quy mô có thể thấy, ngành giáo dục của
tỉnh đã duy trì và phát triển vững chắc số lượng học sinh, hệ thống trường lớp ở các
ngành học, cấp học trên khắp các địa bàn. Số lượng học sinh và tỷ lệ huy động ngày
càng cao, nhất là ngành học phổ thông và GDTX. Cơ cấu hệ thống trường lớp của các
ngành học được xây dựng một cách khá đồng bộ, hợp lý, phù hợp với yêu cầu giáo
dục theo tinh thần Nghị quyết TW 4 khóa VII: Hệ thống trường chuyên, lớp chọn, hệ
thống trung tâm GDTX cấp huyện ngày càng hoàn chỉnh, quy mô trường bán công,
lớp bán công được mở rộng và sự ra đời, hoàn thiện dần trường phổ thông dân tộc nội
trú đã đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập của con em nhân dân trong tỉnh.
Về chất lượng giáo dục: Đối với giáo dục MN, chất lượng tiếp tục được
nâng dần, thể hiện ở tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng giảm, chất lượng các lớp mẫu giáo
tăng lên (100% số trẻ nhà trẻ, 82% số trẻ mẫu giáo được theo dõi biểu đồ phát
triển, số trẻ bị suy dinh dưỡng là 37 - 38%, 100% lớp mẫu giáo thực hiện đạt

chương trình cải cách, 100% lớp mẫu giáo đảm bảo an toàn, không xảy ra tai
nạn…). Đối với giáo dục phổ thông, chất lượng được nâng lên cả diện đại trà và

16


mũi nhọn. Tỷ lệ học sinh giỏi tăng, tỷ lệ học sinh kém giảm dần, tỷ lệ học sinh
bỏ học, lưu ban giảm mạnh, nhất là chất lượng trường chuyên, lớp chọn được
nâng cao. Bên cạnh đó, từ năm học 1991 - 1992, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp TH
thường xuyên đạt 98% - 99%; THCS đạt 92% - 99%, THPT năm thấp nhất đạt
91,7%, năm cao nhất đạt 99,8%; số học sinh trúng tuyển vào các trường đại học,
cao đẳng mỗi năm một tăng. Đặc biệt, thành tích học sinh giỏi Quốc gia có những
bước tiến khả quan (năm học 1992 - 1993, có 23 giải; năm học 1993 - 1994, có 45
giải; nhất là năm học 1994 - 1995, có 56 giải, trong đó có 8 giải nhất, dẫn đầu toàn
quốc về thành tích đội tuyển học sinh giỏi TH).
Thứ hai, đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục được xây dựng theo
hướng đủ, đồng bộ, chuẩn hóa và từng bước nâng chuẩn, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp giáo dục trong giai đoạn mới. Trong giai đoạn 1992 - 1996, tỉnh đã thực
hiện bồi dưỡng giáo viên các cấp theo đúng chỉ đạo của Bộ. Tính đến tháng
12/1994, số giáo viên đạt chuẩn đào tạo với TH 88%, THCS 83%, THPT 97%, nhà
trẻ 20%, mẫu giáo 33% [55, tr.6]. Đội ngũ cán bộ quản lý sở, phòng, trường đã
được kiện toàn dần theo tiêu chuẩn chức danh của Nhà nước. Bên cạnh đó, cán bộ
quản lý các cấp đều được tham gia học lớp bồi dưỡng quản lý nên công tác quản lý
giáo dục đã có chuyển biến tích cực. Cùng với yêu cầu về năng lực chuyên môn thì
đại bộ phận giáo viên và cán bộ quản lý giữ gìn được phẩm chất đạo đức, yêu
ngành, yêu nghề tích cực hoàn thành tốt nhiệm vụ công tác.
Thứ ba, CSVC trường học bước đầu được nâng lên. Trong thời gian này phong
trào xây dựng trường cao tầng, trường kiên cố phát triển mạnh. Chương trình chống
xuống cấp, xóa ca ba và xây dựng thêm nhiều trường học kiên cố được triển khai
khẩn trương. Kết quả ban đầu, đến năm học 1995 - 1996, toàn tỉnh có 301 trường

với 5.418 lớp, tăng 75 trường và 1.280 lớp so với năm 1991 - 1992. Đồng thời,
trang thiết bị, phòng bộ môn, phòng thí nghiệm, thư viện cũng được đầu tư xây
dựng. Theo đó, tính đến năm 1995, có 8 trường được đầu tư 91 máy tính, 1 phòng
học tiếng cho trường THPT Lương Văn Tụy; đầu tư xây dựng lại một số phòng thí
nghiệm và thư viện ở một số trường trọng điểm. Từ ngày tái lập tỉnh, không trường

17


nào có phòng học bộ môn, phòng thí nghiệm, chỉ có một vài trường có phòng thư
viện nhưng còn nghèo nàn, thì đến năm học 1994 - 1995, 6 trường có phòng bộ môn
(THCS 1, THPT 5), 6 trường có phòng thí nghiệm (THCS 4, THPT 2), 28 trường có
phòng thư viện (TH 13, THCS 8, THPT 7). Bên cạnh đó, trường phổ thông trung
học dân tộc nội trú dành cho con em đồng bào dân tộc thiểu số cũng được quan tâm
đầu tư nâng cấp. Có thể nói, hệ thống trường lớp, trang thiết bị đồ dùng dạy học
được nâng lên ở tất cả các ngành học, cấp học, đã góp phần bảo đảm việc học tập
của học sinh.
Thứ tư, công tác XHHGD ngày càng được đẩy mạnh, ngân sách đầu tư cho
giáo dục tăng hàng năm. Nguồn lực để xây dựng CSVC trường học chủ yếu là của
nhân dân thông qua phong trào XHHGD. Trong 2 năm 1993, 1994, nguồn vốn
XHHGD đầu tư xây dựng trường lớp là khoảng 20 tỷ đồng, trong đó có đầu tư mua
sắm bàn ghế, thiết bị khoảng trên 3 tỷ đồng. So với chương trình mục tiêu thì nhân
dân đóng góp gần gấp 5 lần [55, tr.7].
Như vậy là, sau 4 năm đầu tái lập tỉnh, thực hiện chủ trương phát triển giáo dục
của Đảng bộ tỉnh Ninh Bình, với sự nỗ lực và quyết tâm cao của toàn Đảng bộ,
nhân dân trong tỉnh, sự cố gắng của đội ngũ cán bộ, giáo viên, học sinh sự nghiệp
giáo dục của Ninh Bình đã thu được những kết quả đáng trân trọng. Đây là tiền đề
quan trọng để tiếp tục phát triển sự nghiệp giáo dục của tỉnh trong những năm tiếp
theo. Tuy nhiên, giáo dục Ninh Bình vẫn đang còn những mặt yếu kém.
CSVC nhà trường quá nghèo nàn, phòng học chủ yếu là nhà cấp 4, vùng khó

khăn còn có phòng học tranh tre, nứa lá. Nhiều nơi thiếu phòng học phải học ca ba,
hoặc phải học nhờ nhà dân. Số trường có phòng học bộ môn, phòng thí nghiệm còn
rất ít. Toàn tỉnh khi tái lập không trường nào đạt trường chuẩn Quốc gia.
Đội ngũ giáo viên hạn chế lớn nhất là tỷ lệ đạt chuẩn đào tạo thì cao nhưng
trình độ chuyên môn nghiệp vụ so với yêu cầu của nội dung chương trình cải cách
giáo dục, yêu cầu đổi mới nội dung đào tạo còn thấp. Sự đổi mới về phương pháp
giảng dạy còn yếu và trì trệ. Ý thức phấn đấu tu dưỡng, trách nhiệm và lương tâm
nghề nghiệp của một bộ phận giáo viên còn yếu do không nhận thức đầy đủ về giáo

18


dục trong cơ chế thị trường. Đời sống giáo viên tuy được cải thiện nhưng nhìn
chung còn nhiều khó khăn, nhất là ở nông thôn, miền núi ảnh hưởng nhiều tới việc
tự học, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ. Khó khăn lớn nhất trong quá trình xây dựng
đội ngũ là việc xác định biên chế lao động trong ngành không thống nhất giữa TW
và địa phương, giữa tổ chức và Bộ chủ quản. Đội ngũ giáo viên thiếu về số lượng
nhất là giáo viên TH. Trong những năm học tới, tình trạng thiếu trầm trọng giáo
viên THCS, THPT là một thách thức lớn đối với tỉnh; nhất là thiếu giáo viên dạy kỹ
thuật, phân ban, giáo viên nhạc, họa, thể dục.
Sự đa dạng của loại hình phổ thông còn rất hạn chế (đến năm học 1994 - 1995,
chỉ mới có 1 trường THPT bán công và một số lớp bán công trong vài trường THPT
công lập). Tình trạng quá tải số học sinh trên lớp; kinh phí đầu tư cho chuyên môn
quá hạn hẹp; sự chênh lệch trong trình độ giữa các loại hình đào tạo, nhất là chất
lượng tuyển sinh của các lớp GDTX so với chính quy rất thấp… nên chất lượng học
tập không cao.
Bên cạnh đó, công tác PCGD và xóa mù chữ chưa bền vững. Công tác quản lý
giáo dục cũng gặp không ít khó khăn như: Công tác tổ chức, quản lý ngân sách còn
nhiều ách tắc về cơ chế; công tác tổng hợp thống kê số liệu còn gặp nhiều khó khăn
do hệ thống biểu mẫu chưa thống nhất… Công tác phát triển Đảng trong các trường

học chưa mạnh, nhất là ở bậc phổ thông trung học. Tỷ lệ đảng viên trong giáo viên
toàn ngành khoảng 15%, trong đó đảng viên nữ chỉ khoảng 0,8% [55, tr.9]. Sự nhiệt
tình, ý thức phấn đấu vào đảng của giáo viên chưa thực sự mạnh mẽ. Phương thức
lãnh đạo, chỉ đạo của Chi bộ Đảng ở cơ sở chưa rõ nét, chưa rạch ròi giữa vai trò
của chi bộ và ban giám hiệu. Công tác XHHGD chưa tạo thành phong trào rộng
lớn… Những hạn chế trên xuất phát từ nhận thức của các ngành, các cấp về vai trò
của giáo dục chưa thực sự sâu sắc, chưa ưu tiên hàng đầu cho giáo dục. Công tác
quản lý giáo dục còn có những bất cập, chưa tháo gỡ kịp thời những vướng mắc về
cơ chế và thủ tục hành chính.
Trên cơ sở những thành tựu và hạn chế, có thể thấy giáo dục của Ninh Bình sau
4 năm đầu tái lập tỉnh còn những vấn đề đặt ra như sau:

19


Một là, quy mô giáo dục chưa cân đối với các điều kiện đội ngũ, CSVC, thiết
bị, giữa quy mô và chất lượng. Tình trạng quá tải về số học sinh trên lớp làm ảnh
hưởng không nhỏ tới chất lượng giáo dục.
Hai là, chất lượng giáo dục còn thấp cả về chất lượng giáo viên và học sinh.
Chất lượng giáo dục đại trà ở các ngành học, cấp học, bậc học chưa đồng đều, giáo
dục mũi nhọn chưa thực sự có bước đột phá.
Ba là, CSVC của các trường còn thiếu hoặc xuống cấp nghiêm trọng. Hệ thống
phòng học chức năng trong các trường học còn rất thiếu thốn, nhiều trường TH và
THCS chưa được tách riêng CSVC, việc trang bị, khai thác, sử dụng đồ dùng dạy
học còn thiếu hiệu quả.
Bốn là, đội ngũ cán bộ quản lý còn thiếu và yếu nhất là cán bộ quản lý có trình
độ cao, đạt chuẩn. Công tác quản lý giáo dục chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra. Việc bố
trí sử dụng đội ngũ, tổ chức thi tuyển công chức hàng năm còn để lại những dư luận
không tốt.
Năm là, công tác XHHGD chưa đạt hiệu quả cao. Đảng bộ tỉnh, Sở GD&ĐT đã

quan tâm đến hoạt động XHHGD nhưng chưa phát động thành một phong trào thực
sự rộng rãi.
Sau 4 năm tái lập tỉnh, giáo dục Ninh Bình có những thành tựu và bước phát
triển nhất định, góp phần quan trọng vào nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực cho
công cuộc xây dựng, bảo vệ, đổi mới đất nước nói chung, Ninh Bình nói riêng.
Nhưng giáo dục của tỉnh cũng còn tồn tại những yếu kém, bất cập. Bước sang thời
kỳ mới, cả nước và tỉnh Ninh Bình đứng trước những cơ hội cũng như thách thức
lớn, đặt ra những yêu cầu, nội dung rất mới, rất cao về nguồn lực con người. Thực
tế đó tất yếu đòi hỏi phải có nhận thức, quan điểm, mục tiêu, biện pháp phát triển
giáo dục mới cả về nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục; phải đổi mới
căn bản, toàn diện nền giáo dục của đất nước. Trong điều kiện đó, yêu cầu các cấp
ủy Đảng, chính quyền và Sở GD&ĐT tỉnh Ninh Bình cần có chủ trương, giải pháp
chiến lược phát triển giáo dục đáp ứng nhu cầu xây dựng và phát triển KT-XH của
địa phương trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

20


1.2. Đảng bộ tỉnh Ninh Bình vận dụng chủ trƣơng của Đảng về giáo dục
(1996 - 2000 )
1.2.1. Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục
Trên cơ sở đổi mới tư duy lý luận, nhận thức lại về thời kỳ quá độ và tổng kết,
khảo nghiệm gần 10 năm thực hiện đường lối đổi mới, tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII (6/1996) Đảng ta khẳng định: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là
con đường thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước chung quanh, giữ
được ổn định chính trị, xã hội, bảo vệ được độc lập, chủ quyền và định hướng phát
triển xã hội chủ nghĩa” [19, tr.27].
Xuất phát từ đặc điểm cơ bản của nước ta: vốn là một nước có nền kinh tế nông
nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH và bước vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa
trong bối cảnh quốc tế có nhiều chuyển biến nên muốn thực hiện công nghiệp hóa,

hiện đại hóa phải dựa vào nguồn lực con người và nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực. Do đó, để khắc phục những hạn chế và tạo sự phát triển mạnh mẽ, đồng bộ
trong giáo dục, Đại hội VIII Đảng xác định: “Cùng với khoa học và công nghệ, giáo
dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài. Phải coi đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, tạo điều kiện
cho giáo dục đi trước và phục vụ đắc lực sự phát triển kinh tế - xã hội. Huy động
toàn xã hội làm giáo dục dưới sự quản lý của nhà nước” [20, tr.107].
Để quán triệt, cụ thể hóa những quan điểm của Đại hội VIII, Hội nghị lần thứ
hai Ban Chấp hành TW khóa VIII (12/1996) đã có nghị quyết “Về định hướng
chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và nhiệm vụ đến năm 2000”. Nghị quyết đã nêu ra 6 tư tưởng chỉ đạo sau:
Một là, giữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa trong giáo dục
Trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng ta luôn gương cao hai ngọn
cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Bởi vậy nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của
giáo dục là nhằm xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Những con người đó phải có đạo đức
trong sáng, có ý chí kiên cường trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt là trong

21


thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; phải biết giữ gìn và phát huy các giá
trị văn hóa của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại; có ý thức
cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công
nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công
nghiệp, có tính tổ chức và kỷ luật, có sức khỏe xứng đáng là những người đủ phẩm
chất, năng lực tiếp tục kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội mà các thế hệ cha ông đã
dày công vun đắp.
Giữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa trong nội dung, phương pháp giáo dục,
trong các chính sách, nhất là chính sách công bằng xã hội; phát huy mặt tích cực và

hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường ảnh hưởng tới giáo dục. Đồng thời,
chống khuynh hướng “thương mại hóa”, đề phòng khuynh hướng phi chính trị hóa
giáo dục và không truyền bá tôn giáo trong trường học.
Hai là, thực sự coi giáo dục là quốc sách hàng đầu
Quán triệt tinh thần giáo dục cùng với khoa học và công nghệ là nhân tố quyết
định tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội theo đó đầu tư cho giáo dục là đầu tư
phát triển. Thực hiện các chính sách ưu tiên, ưu đãi đối với giáo dục, đặc biệt là
chính sách đầu tư và chính sách tiền lương, đồng thời cần có các giải pháp mạnh mẽ
để phát triển giáo dục.
Ba là, giáo dục là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn dân
Tất cả mọi người đều được đi học, học thường xuyên, học suốt đời và cùng
chăm lo cho giáo dục. Các cấp ủy và tổ chức Đảng, các cấp chính quyền, các đoàn
thể nhân dân, các tổ chức kinh tế, xã hội, các gia đình và các cá nhân đều có trách
nhiệm tích cực góp phần phát triển sự nghiệp giáo dục, đóng góp trí tuệ, nhân lực,
vật lực, tài lực cho giáo dục. Kết hợp giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình và giáo
dục xã hội, tạo nên môi trường giáo dục lành mạnh ở mọi nơi.
Bốn là, phát triển giáo dục gắn với nhu cầu phát triển KT-XH, những tiến bộ khoa
học - công nghệ và củng cố quốc phòng, an ninh.

22


Coi trọng cả ba mặt: Mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu
quả; thực hiện giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nghiên cứu khoa học, lý luận
gắn với thực tế, học đi đôi với hành, nhà trường gắn liền với gia đình và xã hội.
Năm là, thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục
Tạo điều kiện cho tất cả mọi người ai cũng được học hành, người nghèo được
Nhà nước và cộng đồng giúp đỡ để có khả năng tham gia học tập. Những người học
giỏi cũng được bảo đảm những điều kiện cần thiết để phát triển tài năng.
Sáu là, giữ vai trò nòng cốt của các trường công lập đi đôi với đa dạng hóa

các loại hình giáo dục
Trường công lập giữ vai trò nòng cốt trong hệ thống các loại hình trường học.
Bên cạnh đó, phát triển các trường bán công, dân lập ở những nơi có điều kiện, từng
bước mở các trường tư thục ở một số bậc học như: mầm non, phổ thông trung học,
trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, đại học. Mở rộng các hình thức đào tạo không
tập trung, đào tạo từ xa, từng bước hiện đại hóa hình thức giáo dục.
Từ việc định ra những quan điểm chỉ đạo, Nghị quyết TW 2 cũng nêu rõ mục
tiêu đến năm 2020; nhiệm vụ và mục tiêu đến năm 2000, đồng thời xây dựng những
giải pháp chủ yếu nhằm phát triển giáo dục đó là: Tăng cường các nguồn lực cho
giáo dục; xây dựng đội ngũ giáo viên, tạo động lực cho người dạy, học; tiếp tục đổi
mới nội dung, phương pháp giáo dục và tăng cường CSVC các trường học; đổi mới
công tác quản lý giáo dục.
1.2.2. Sự quán triệt của Đảng bộ tỉnh Ninh Bình
Quán triệt tinh thần đổi mới giáo dục của Đảng, Đại hội Đảng bộ tỉnh Ninh
Bình lần thứ XIII (1996) đề ra phương hướng cho giáo dục của tỉnh trong giai đoạn
1996 - 2000, theo đó đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục nhằm đào tạo nguồn nhân lực
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung và
Ninh Bình nói riêng. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh nhấn mạnh: “Tập trung giải
quyết tốt các vấn đề xã hội. Phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục ở tất cả các
cấp học, ngành học” [28, tr.49]. Trong đó mục tiêu phấn đấu đến năm 2000 là:
“50% số xã và 100% số phường, thị trấn phổ cập THCS. 100% số xã, phường, thị

23


×