Tải bản đầy đủ (.doc) (120 trang)

đảng bộ tỉnh hòa bình lãnh đạo đổi mới giáo dục phổ thông từ năm 1991 đến 2001

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (532.45 KB, 120 trang )

mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò quan trọng của GD - ĐT trong sự
nghiệp cách mạng.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu mà
dốt thì dại, dại thì hèn. Vì vậy ngay từ buổi đầu mới giành đợc chính quyền,
Ngời kêu gọi: Một trong những công việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc
này là nâng cao dân trí[51, tr.36].
Thấm nhuần t tởng của Ngời, trong hệ thống giáo dục quốc dân Việt
Nam, GDPT đợc Đảng ta nhìn nhận là một bậc giáo dục có tầm quan trọng
đặc biệt, vừa là bản lề, vừa là xơng sống của toàn bộ quá trình hình thành
và phát triển nhân cách của lứa tuổi nhi đồng, thiếu niên và thanh niên, giúp
các em từ bớc đi chập chững, từ nhận biết đơn sơ lên lắm bắt đợc nhiều kiến
thức cơ bản về văn hóa chữ, văn hóa làm ngời và định hớng đợc cuộc sống của
mình là phục vụ sự nghiệp của Đảng, của dân tộc. Vì vậy từ ngày nớc nhà đợc
độc lập, đặc biệt là trong hơn nửa thập kỷ qua, sự nghiệp phát triển GDPT đã
đạt đợc những thành tựu to lớn: Quy mô không ngừng đợc mở rộng; chất lợng
ngày một đợc nâng cao và từng bớc đáp ứng tốt hơn yêu cầu cung cấp nguồn
nhân lực cho sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nớc. Với vị trí và vai trò to
lớn đó, Nghị quyết của Bộ Chính trị Trung ơng Đảng về cải cách giáo dục lần
thứ 3 (năm 1979) đã chỉ rõ: Giáo dục phổ thông là nền tảng văn hóa của một
nớc, là sức mạnh tơng lai của một dân tộc. Nó đặt cơ sở vững chắc cho sự phát
triển toàn diện con ngời Việt Nam xã hội chủ nghĩa[64, tr.23].
Là một tỉnh miền núi, nằm ở vùng cửa ngõ Tây Bắc của Tổ quốc, tỉnh
Hòa Bình là nơi tụ hội nhiều điều kiện thuận lợi để trở thành trung tâm Văn
hóa - Giáo dục của vùng Tây Bắc. Với đặc điểm địa lý giáp với đồng bằng
sông Hồng và thủ đô Hà Nội, Hòa Bình đợc biết đến không chỉ nổi tiếng với
1
công trình thủy điện lớn nhất Đông Nam á, mà còn nổi tiếng với một nền văn
hóa đặc sắc, cái nôi văn hóa Hòa Bình.


Là mảnh đất có chiều dày lịch sử, phát huy truyền thống đấu tranh kiên
cờng bất khuất của dân tộc, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam XHCN, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Hòa Bình đã kề vai, sát
cánh làm nên những trang sử hào hùng, nhất là trong hai cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ. Bớc vào công cuộc đổi mới toàn diện đất
nớc, với tinh thần đoàn kết, dân chủ, kỷ cơng và đổi mới, Đảng bộ và nhân
dân các dân tộc trong tỉnh tiếp tục vợt lên mọi khó khăn, thách thức để hoàn
thành xuất sắc các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển KT - XH của tỉnh, phấn đấu
trở thành vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc và vùng Tây Bắc, đặc biệt từng b-
ớc xây dựng thị xã Hòa Bình trở thành thành phố Hòa Bình trên trục đô thị Hà
Nội - Hà Đông - Lơng Sơn - Hòa Bình.
Nhận thức vai trò to lớn của GDPT trong hệ thống giáo dục quốc dân
cũng nh phát triển GDPT nhằm Nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực,
bồi dỡng nhân tài, góp phần tích cực vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nớc, xây dựng tỉnh Hòa Bình ngày càng giàu đẹp, văn minh và công
bằng xã hội [88, tr.314], trong những năm qua, Đảng bộ tỉnh Hòa Bình đã th-
ờng xuyên chăm lo, tạo điều kiện để GDPT từng bớc đợc đổi mới và phát triển
vững chắc. Do vậy, từ chỗ 99% dân số mù chữ, đội ngũ giáo viên, học sinh, cơ
sở vật chất trờng lớp nghèo nàn, lạc hậu (năm 1945), đến nay, tỉnh đã đạt
chuẩn quốc gia về PCGDTH - CMC và PCGD THCS, đội ngũ giáo viên các
ngành học, bậc học không chỉ lớn về số lợng mà còn mạnh cả về chuyên môn;
cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy và học ngày càng hiện đại, bộ mặt ngành giáo
dục ngày càng đổi mới.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt đợc, sự nghiệp đổi mới GDPT ở
Hòa Bình trong những năm qua còn nhiều yếu kém, bất cập, thể hiện ở chỗ:
chất lợng giáo dục các cấp học, bậc học, ngành học còn thấp và cha đồng đều;
2
việc dạy và học ở vùng KT - XH khó khăn còn hạn chế; cơ sở vật chất còn
thiếu thốn, lạc hậu. Bên cạnh đó, năng lực trình độ tổ chức quản lý của đội
ngũ cán bộ, giáo viên còn thấp so với yêu cầu nâng cao dân trí, đào tạo nhân

lực, bồi dỡng nhân tài cho xã hội. Đây là những vấn đề đặt ra cần phải giải
quyết.
Từ những vấn đề nêu trên, việc thực hiện các mục tiêu, chiến lợc phát
triển KT - XH của Đảng bộ tỉnh trong giai đoạn (2001 - 2005), trong đó
GDPT đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp nguồn nhân lực, càng trở
nên có ý nghĩa quan trọng và cấp bách hơn bao giờ hết. Không ngừng đẩy
mạnh và nâng cao hơn nữa chất lợng GDPT trong thời gian tới cũng nh góp
tiếng nói chung vào mục tiêu chiến lợc phát triển KT - XH của Đảng bộ tỉnh
Hòa Bình là đòi hỏi của thực tiễn. Vì vậy, tôi chọn đề tài: Đảng bộ tỉnh Hòa
Bình lãnh đạo đổi mới giáo dục phổ thông từ năm 1991 đến 2001 làm đề
tài luận văn thạc sỹ, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Xuất phát từ vị trí, vai trò của GD - ĐT nói chung, GDPT nói riêng đối
với sự phát triển KT - XH của đất nớc, trong những năm qua, các tổ chức, học
giả trong và ngoài nớc rất quan tâm, đã công bố một số công trình nghiên cứu,
bài viết bàn về thực trạng, phơng hớng phát triển sự nghiệp GDPT.
- Tổ chức Văn hóa - Khoa học - Giáo dục của Liên Hợp Quốc (UNESCO),
chơng trình phát triển của Liên Hợp Quốc (undp) với dự án: Nghiên cứu
tổng thể giáo dục - đào tạo, phân tích nguồn nhân lực VIE89/022 và dự án:
Báo cáo đánh giá tình hình giáo dục và đào tạo của Việt Nam hiện nay, đợc
tiến hành trong 2 năm (1991-1992).
- Các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nớc, giới nghiên cứu, các chuyên
gia đầu ngành về GD - ĐT đã đã tìm hiểu, nghiên cứu trên nhiều góc độ khác
nhau nh: Tác phẩm Vấn đề giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb Giáo
dục, Hà Nội (1990); Sự nghiệp giáo dục trong chế độ xã hội chủ nghĩa của
3
Phạm Văn Đồng, Nxb Sự thật, Hà Nội (1978); Phát triển mạnh mẽ giáo dục
và đào tạo phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nớc
của tổng bí th Đỗ Mời, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội (1991) Các tác giả là
những ngời giữ cơng vị lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nớc; hệ thống

những quan điểm, t tởng của Đảng về GD - ĐT.
- Đảng Cộng sản Việt Nam với các Nghị quyết chuyên đề bàn về thực
trạng và phơng hớng đổi mới GD - ĐT nh: NQTw 4 (khóa VII), NQTw 2
(khóa VIII), NQTW 6 (khóa IX). Những tài liệu này là một hệ thống những
quan điểm, t tởng khoa học, bao gồm cả khái niệm, mục đích, nội dung, cách
dạy, cách học, cách quản lý, cách lãnh đạo ngành giáo dục. Đây là cơ sở lý
luận cho đờng lối chính sách giáo dục đã và đang tiến hành ở nớc ta, cho nền
khoa học giáo dục Việt Nam, cho chiến lợc xây dựng con ngời mới của đất n-
ớc Việt Nam XHCN.
Bên cạnh đó, các công trình nghiên cứu của tập thể, cá nhân nhà khoa
học nh: Ban Khoa giáo Trung ơng, Bộ GD - ĐT; các đồng chí đã từng là lãnh
đạo ngành GD - ĐT nh: Tác phẩm Phát triển giáo dục, phát triển con ngời
phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, Nxb Khoa học xã hội (1996) của Phạm
Minh Hạc; Tiếp tục nâng cao chất lợng giáo dục toàn diện, Tạp chí Cộng
sản, số tháng 9 (2002) của Trần Hồng Quân; Đổi mới về nhận thức vị trí, vai
trò của giáo dục và đào tạo, Tạp chí nghiên cứu giáo dục số 1 (1992) của
Nguyễn Minh Hiển cũng là cơ sở quan trọng giúp cho ng ời viết có đợc cái
nhìn rõ nét về định hớng chiến lợc phát triển GD - ĐT ở Việt Nam cũng nh
quá trình tổ chức thực hiện đờng lối phát triển GD - ĐT của Đảng để từ đó
khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của sự
nghiệp đổi mới GD - ĐT.
- Cho đến nay, cha có tác giả nào nghiên cứu một công trình về GD - ĐT
Hòa Bình (đặc biệt là GDPT) nh một công trình khoa học chuyên khảo. Đây
là vấn đề đặt ra mà ngời viết nhận thấy cần phải đi sâu nghiên cứu. Thông qua
4
các Báo cáo chính trị của đại hội Đảng bộ, HĐND và UBND tỉnh Hòa Bình,
các báo cáo tổng kết của Sở GD - ĐT Hòa Bình, ngời viết tìm hiểu quá trình
lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hòa Bình đối với sự nghiệp đổi mới GD - ĐT nói
chung, GDPT nói riêng trên các mặt: đề ra chủ trơng, đờng lối, tổ chức thực
hiện, kết quả, trong giai đoạn (1991- 2001).

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Nghiên cứu và trình bày có hệ thống quá trình lãnh đạo của Đảng bộ
tỉnh Hòa Bình về GDPT từ năm 1991 đến 2001 (chủ trơng, đờng lối, biện
pháp thực hiện đổi mới GDPT).
- Đánh giá khách quan, khoa học về thành tựu, hạn chế và nguyên nhân
quá trình lãnh đạo đổi mới GDPT của Đảng bộ tỉnh Hòa Bình.
- Rút ra một số kinh nghiệm về sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hòa Bình
đối với sự nghiệp đổi mới GDPT trong giai đoạn (1991- 2001) góp phần phục
vụ cho việc đổi mới GDPT trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tợng, phạm vi nghiên cứu đề tài
* Đối tợng nghiên cứu:
- Sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hòa Bình về sự nghiệp đổi mới GDPT.
- Thực tiễn đổi mới GDPT của tỉnh thể hiện ở ba bậc: tiểu học, THCS, THPT.
- Những kinh nghiệm đợc rút ra từ thực tiễn trên.
* Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu quá trình lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hòa Bình về đổi mới
GDPT và kết quả thực hiện trong giai đoạn (1991- 2001).
* Về thời gian:
Luận văn nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hòa Bình về đổi mới
GDPT trong 10 năm đổi mới (từ năm 1991 đến năm 2001); từ thời điểm tại kỳ
họp thứ IX, Quốc hội khóa VIII quyết định tái lập tỉnh Hòa Bình (8 - 1991) đến
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hòa Bình lần thứ XIII tháng (1 - 2001).
5. Cơ sở lý luận, phơng pháp nghiên cứu và nguồn t liệu
5
* Cơ sở lý luận:
Dựa trên cơ sở phơng pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, t tởng Hồ
Chí Minh, đờng lối chính sách của Đảng và Nhà nớc về đổi mới GDPT. Đây
là cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu quá trình lãnh đạo của Đảng bộ Hòa Bình
đối với GDPT (1991 - 2001).
* Phơng pháp nghiên cứu:

Luận văn sử dụng các phơng pháp lịch sử, phơng pháp lôgíc và kết hợp
sử dụng một số phơng pháp khác nh: phơng pháp phân tích, tổng hợp; phơng
pháp thống kê, so sánh, điền dã để thực hiện đề tài.
* Nguồn t liệu:
Trong khuôn khổ luận văn thạc sỹ lịch sử, tác giả sử dụng nguồn t liệu
chủ yếu sau:
- Về kinh điển: tác giả chọn lựa các bài nói, bài viết của Các Mác, Ăng
ghen, Lênin và Hồ Chí Minh bàn về giáo dục.
- Các Văn kiện, Nghị định, Chỉ thị, Quyết định của Đảng và Nhà nớc;
của Tỉnh ủy, HĐND và UBND tỉnh Hòa Bình về GDPT.
- Một số bài phát biểu, bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà n-
ớc, Bộ GD - ĐT; Tỉnh ủy, Sở GD - ĐT tỉnh Hòa Bình.
- Các văn bản, báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo về GDPT.
- Các báo cáo của Sở GD - ĐT tỉnh Hòa Bình, Phòng Giáo dục các
Huyện, Thị xã trong tỉnh.
- Các công trình, bài viết của các chuyên gia nghiên cứu, các luận văn,
luận án về lĩnh vực GDPT đã đợc công bố.
- Các tài liệu, sách báo nớc ngoài của các tổ chức, học giả bàn về GD -
ĐT ở Châu á, Việt Nam trong những năm gần đây.
- Các bài báo, Tạp chí số ra hàng ngày, hàng tháng đợc đăng tải trên
các phơng tiện thông tin đại chúng
6. Đóng góp mới về khoa học của đề tài
6
- Trình bày một cách hệ thống quá trình lãnh đạo tổ chức thực hiện đổi
mới GDPT của Đảng bộ tỉnh Hòa Bình trong giai đoạn (1991 - 2001).
- Rút ra một số kinh nghiệm từ quá trình trên.
- Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị góp phần nâng cao hơn nữa chất
lợng, hiệu quả GDPT của tỉnh trong thời gian tới, từng bớc đáp ứng tốt hơn
yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực phục cho sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nớc nói chung, phát triển KT - XH của tỉnh Hòa Bình nói riêng.

7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục;
nội dung chính của luận văn đợc chia thành 2 chơng 6 tiết.

7
Chơng 1
Đảng bộ tỉnh Hòa Bình lãnh đạo đổi mới giáo dục
phổ thông trong những năm 1991-1996
1.1. Một số nét về tỉnh hòa bình
1.1.1. Điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội
Hòa Bình là một tỉnh miền núi nằm ở cửa ngõ vùng Tây Bắc của Tổ
quốc, có vị trí địa lý quan trọng của vùng chuyển tiếp từ đồng bằng lên vùng
núi, điểm trung chuyển sức hút ảnh hởng chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội
của thủ đô Hà Nội.
Nằm trong giới hạn 20 19 - 21 08 vĩ bắc và 104 48 - 105 50 kinh
đông, phía Bắc giáp tỉnh Phú Thọ, phía Đông giáp tỉnh Hà Tây, phía Tây giáp
tỉnh Sơn La, phía Nam giáp tỉnh Ninh Bình, Hà nam và Thanh Hóa, Hòa Bình
có diện tích tự nhiên 4.662,53 km . Phần lớn diện tích của tỉnh Hòa Bình là
đất lâm nghiệp chiếm 46,5%. Đất nông nghiệp chỉ chiếm 15,3% (trong đó đất
cấy lúa chỉ chiếm 5,9%), còn lại là núi đá vôi và đồi núi trọc.
Đợc thành lập từ ngày 22- 6 - 1886, khi chính quyền thực dân Pháp kí
Nghị định cắt vùng đất có nhiều đồng bào Mờng c trú thuộc các tỉnh Hng
Hóa, Sơn Tây, Hà Nội và Ninh Bình để thành lập một tỉnh mới gọi là tỉnh M-
ờng (tỉnh lỵ đặt tại Chợ Bờ). Tỉnh Mờng bao gồm 4 phủ: Vàng An, Lơng Sơn,
Lạc Sơn và chợ Bờ. Đến ngày 5 - 9 - 1896, tỉnh lỵ tỉnh Mờng đợc chuyển về
làng Vĩnh Diệu, xã Hòa Bình (phía tả ngạn sông Đà, đối diện xã Phơng Lâm).
Từ đó tỉnh Mờng đợc gọi là tỉnh Hòa Bình và địa giới của tỉnh về cơ bản đã đ-
ợc ổn định. Sau năm 1954, các châu đợc chuyển thành đơn vị hành chính cấp
huyện. Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội khóa V, kì họp thứ 2, ngày 1 - 4 -
1976, hai tỉnh Hòa Bình và Hà Tây sát nhập thành tỉnh Hà Sơn Bình và chính

thức đi vào hoạt động. Năm 1991, Quốc hội khóa VIII, kì họp thứ IX, đã
quyết định điều chỉnh lại địa giới và chia cắt tỉnh Hà Sơn Bình thành hai tỉnh
Hà Tây và Hòa Bình.
8
Hiện nay, tỉnh Hòa Bình có 10 huyện và 1 thị xã, bao gồm 195 xã, 8
phờng và 11 thị trấn. Tỉnh lỵ Hòa Bình, nay là thị xã Hòa Bình, cách Hà Nội
76 km về phía Tây. Đờng quốc lộ 6 đi qua Hòa Bình dài 125 km, nối liền Hà
Nội, đồng bằng Bắc Bộ với Tây Bắc và Thợng Lào. Các tuyến đờng 12, 15, 21
đã nối liền Hòa Bình với các tỉnh Ninh Bình, Thanh Hóa và Hà Nam. Theo kết
quả tổng điều tra dân số năm 2002, tỉnh Hòa Bình có 776,8 nghìn ngời. Hòa
Bình là địa bàn c trú của nhiều dân tộc anh em, trong đó có 6 dân tộc chính. Dân
tộc Mờng đông nhất: Chiếm 62,98%, dân tộc Kinh: 27,84%; dân tộc Thái:
4,45%; dân tộc Tày: 2,63%; dân tộc Dao: 1,50%; dân tộc HMông: 0,45%.
Địa hình Hòa Bình bị chia cắt phức tạp, có độ dốc lớn. Vùng núi cao
hiểm trở nằm ở phía Tây Bắc với độ cao trung bình 600 - 700m so với mặt nớc
biển, với độ dốc 30 - 35 , có nơi dốc trên 40 . Phía Đông Nam là vùng núi
thấp với độ cao trung bình 100 - 200m và độ dốc 20 - 25 . Trên dải cao
nguyên đá vôi chạy suốt từ Phong Thổ (Lai Châu) đến bờ biển Ninh Bình,
hoạt động cacxtơ hóa đã tạo ra bồn địa giữa núi có điều kiện c trú thuận lợi
(địa hình thấp, khá bằng phẳng, đất đai màu mỡ, có nguồn nớc ) hình thành
lên các xứ Mờng trù phú sinh sống.
Khí hậu ở Hòa Bình có đặc điểm nổi bật là nóng ẩm và ma nhiều theo
mùa và hay có thiên tai, ma lũ, bão tố, gió lốc, hạn hán Nhiệt độ trung bình
từ 22,9 C - 25 C; những tháng nhiệt độ cao th ờng vào tháng 6, tháng 7, tháng
8 nhiệt độ trên dới 30 C; l ợng ma hàng năm từ 1500mm - 2500mm và độ ẩm
trung bình hàng năm 80% - 85% [89, tr.8].
Hòa Bình có hai con sông chính: Sông Đà bắt nguồn từ Trung Quốc
chảy qua các tỉnh Tây Bắc - Việt Nam ra Việt Trì nhập vào sông Hồng, có
chiều dài chảy qua Hòa Bình 151km. Sông Bôi, bắt nguồn từ Kỳ Sơn, chảy
qua huyện Kim Bôi, Lạc Thủy ra Nho Quan (Ninh Bình), có chiều dài qua

Hòa Bình 66km. Ngoài ra còn có các sông Bởi, sông Bùi, sông Lạng Hồ lớn
nhất của tỉnh Hòa Bình là hồ sông Đà với diện tích mặt nớc trên 9000ha và
9
dung tích 9,5 tỉ m . Đây không chỉ là công trình thủy điện lớn nhất cả n ớc với
tổng công xuất 1920Mw và lợng thủy năng 50 tỷ kw/h mà còn là công trình
thủy lợi cung cấp nguồn nớc phục vụ sản xuất sinh hoạt, nuôi trồng thủy hải
sản của tỉnh cũng nh tạo ra khu du lịch lòng hồ đầy triển vọng.
Thiên nhiên đã tạo ra cho Hòa Bình nhiều cảnh quan đẹp và kỳ thú nh:
núi Cột Cờ (huyện Tân Lạc) hang Can (huyện Kỳ Sơn) hang Trại (huyện Lạc
Sơn) hang Đồng Nội (huyện Lạc Thủy) các khu du lịch Vua Bà, Chợ Bờ, suối
nớc khoáng Mớ Bà (huyện Kim Bôi) Nhờ bàn tay lao động cần cù và sáng
tạo của mình, nhân dân các dân tộc ở đây đã tạo nên nền văn hóa Hòa Bình
nổi tiếng với những bản làng đẹp của đồng bào Thái (bản Lác - Mai Châu),
của dân tộc Mờng (bản Đốm - thị xã Hòa Bình), cùng với trang phục thổ cẩm
đầy màu sắc, đặc sản rợu cần của địa phơng đã mang đến cho Hòa Bình
những điểm du lịch vừa là nơi điều dỡng có giá trị văn hóa cao.
Với đặc điểm của điều kiện tự nhiên nh trên, đã tác động rất lớn đến
chiến lợc phát triển GD - ĐT của Hòa Bình. Bởi lẽ, bên cạnh những thuận lợi,
là một tỉnh Miền Núi, Hòa Bình còn gặp nhiều khó khăn, nhất là đối với
những vùng nhiều đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng lòng
hồ. Nơi đây, điều kiện KT - XH cho con em theo học còn hạn chế, giao thông
đi lại còn khó khăn Đây là vấn đề đặt ra đối với Đảng bộ tỉnh, cần có sự
quan tâm chỉ đạo và sự phối hợp của nhiều cơ quan ban ngành, từng bớc đa
giáo dục Hòa Bình vợt qua những khó khăn khắc nhiệt của tự nhiên.
Quán triệt tinh thần đổi mới toàn diện đất nớc theo quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam, xuất phát từ thực tiễn tình hình phát triển KT - XH của
địa phơng. Trong các văn kiện, Nghị quyết của Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh
Hòa Bình khóa XI (1992), khóa XII (1996) và khóa XIII (2001), chủ yếu đa ra
những mục tiêu trọng tâm là: ổn định và đẩy mạnh phát triển KT - XH, giải
phóng năng lực sản xuất; từng bớc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hớng

CNH, HĐH, bằng việc phát triển mạnh mẽ tiểu thủ công nghiệp, xây dựng -
10
công nghiệp và phát triển thơng mại, du lịch, dịch vụ; tăng trởng kinh tế gắn
với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội, bảo đảm an ninh - quốc phòng,
từng bớc cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Thực hiện mục tiêu, chiến lợc do các Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh
Hòa Bình đề ra, giai đoạn 1991 - 2001, tình hình phát triển KT - XH ở Hòa
Bình có bớc chuyển biến rõ nét. Tốc độ tăng trởng kinh tế bình quân hàng
năm thời kỳ 1991 - 1995 đạt 7,8% và đạt 7,9% thời kỳ 1996 - 2001. GDP thu
nhập bình quân đầu ngời năm 1991 đạt 738 nghìn đồng, năm 1995 đạt 1,518
triệu đồng, năm 2000 là 2,3827 triệu đồng [89, tr.424].
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế Hòa Bình đã và đang diễn ra theo
hớng giảm dần tỉ trọng của nông - lâm - ng nghiệp, tăng dần tỉ trọng của xây
dựng và dịch vụ. Tiến trình này phù hợp với xu thế chung của chuyển dịch cơ
cấu kinh tế đất nớc trong thời kỳ đổi mới cũng nh trong toàn bộ quá trình
CNH, HĐH, đợc thể hiện qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 1.1: Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế [89, tr.427].
Năm 1991 Năm 2000
Bên cạnh đó, số hộ đói, nghèo từ 36,6% năm 1996 đã giảm còn 14,4%
năm 2000. 100% số xã, phờng, thị trấn trong toàn tỉnh có điện lới quốc gia
[89, tr.429]. Điều này có nghĩa là việc thực hiện quan điểm công bằng trong
giáo dục của Đảng bộ tỉnh Hòa bình ngày càng có điều kiện đợc quán triệt sâu
rộng.
11
Ngành giáo dục cũng góp phần đào tạo cho tỉnh một đội ngũ cán bộ có
trình độ khoa học kỹ thuật khá cao. Tính đến ngày 1- 4 - 1999, tổng số cán bộ
khoa học kỹ thuật làm việc trong các ngành kinh tế Hòa Bình là 10.929 ngời.
Trong đó, trình độ cao đẳng có 5570 ngời, đại học có 5296 ngời, thạc sỹ có 52
ngời, tiến sỹ có 11 ngời. Ngoài ra còn có đội ngũ công nhân đông đảo đó là
lực lợng lao động rất quý.

Mạng lới y tế phát triển đến tận xã, phờng. Đến năm 2000, toàn tỉnh có
gần 2000 giờng bệnh và 2156 cán bộ y tế với trên 400 bác sỹ; hàng chục đề
tài khoa học trực tiếp phục vụ phòng và chữa bệnh cho nhân dân.
Các hoạt động văn hóa - văn nghệ, thể dục - thể thao cũng đợc tổ chức
rộng rãi và thờng xuyên hơn; phong trào xây dựng nếp sống văn minh, đời
sống văn hóa mới trong cới xin, tang lễ, tôn giáo, tín ngỡng đợc đổi mới theo
hớng gọn nhẹ, tiết kiệm và đúng pháp luật. Các phơng tiện thông tin đại
chúng, nhất là Phát thanh truyền hình, báo chí từng bớc đợc nâng cấp, đa
100% số hộ đợc nghe Đài Tiếng nói Việt Nam và 60% số hộ đợc xem truyền
hình vào năm 2000 [89, tr.430].
Bên cạnh những chuyển biến to lớn, tích cực nói trên, song sự phát triển
về KT - XH của tỉnh Hòa Bình trong giai đoạn này cũng bộc lộ không ít
những hạn chế, khó khăn. Quy mô tăng trởng và quy mô tổng sản phẩm quốc
nội (GDP) còn nhỏ bé so với quy mô tăng trởng nền kinh tế của cả nớc. Năm
1995, GDP của tỉnh mới đạt 1.098,6 tỉ đồng và năm 2000 đạt gần 1.830,79 tỉ
đồng (tính theo giá thực tế) [89, tr.424]. Thu nhập bình quân đầu ngời còn
thấp; năm 2002 đạt 2,7 triệu đồng (bằng 40,5% so với mức bình quân chung
của cả nớc là 6,7 triệu đồng) [89, tr.430 - 431]. Nền kinh tế chủ yếu vẫn dựa
vào nông - lâm nghiệp, chiếm tới gần 50% tổng GDP toàn tỉnh; công nghiệp
và xây dựng mới chỉ chiếm 17,13% trong cơ cấu GDP (thấp hơn nhiều so với
tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong tổng GDP của cả nớc là 36,73%) [89,
tr.427]. Một số nơi vùng sâu, vùng xa, vùng lòng hồ, cơ cấu kinh tế truyền
thống vẫn còn đậm nét; giao thông đi lại, thông tin liên lạc còn gặp nhiều khó
12
khăn. Trình độ dân trí, văn hóa, giáo dục còn nhiều bất cập, phần đông các hộ
gia đình ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng lòng hồ trình độ học vấn còn
thấp, trong đó có không ít phụ nữ và thanh niên. Một số cộng đồng dân c, các
hủ tục, tập quán lạc hậu nh ma chay, cới xin, lễ tết vẫn còn khá nặng nề, gây
ảnh hởng không nhỏ đến sản xuất và đời sống.
Từ thực trạng phát triển KT - XH của Hòa Bình nh trên. Có thể nói, so

với mặt bằng chung của cả nớc, Hòa Bình vẫn là một tỉnh Miền Núi còn
nghèo, những khó khăn về điều kiện tự nhiên, về phát triển KT - XH rõ ràng
ảnh hởng rất lớn đến chiến lợc phát triển GD - ĐT trên địa bàn tỉnh, nhất là
những nơi có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn. Do vậy, phát triển kinh tế
gắn với giải quyết tốt các vấn đề xã hội, tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới
GD - ĐT là một trong những nhân tố quyết định đến sự thành công của sự
nghiệp CNH, HĐH mà Đảng bộ tỉnh Hòa Bình đã đề ra.
1.1.2. Truyền thống văn hóa
Nhân dân các dân tộc tỉnh Hòa Bình có niềm tự hào là quê hơng của
một nền văn hóa, đánh dấu bớc ngoặt quan trọng trong tiến trình hình thành,
phát triển của loài ngời nói chung và con ngời Việt Nam nói riêng. Đó là nền
văn hóa Hòa Bình, nền văn hóa của dân c nông nghiệp sơ khai cách đây hàng
vạn năm và đợc đại hội lần thứ nhất các nhà tiền sử Viễn Đông họp tại Hà Nội
vào tháng giêng năm 1932 thừa nhận.
Văn hóa Hòa Bình có niên đại C14 sớm nhất từ 16.470 80 năm đến
18.420 150 năm tr ớc Công nguyên và tồn tại đến khoảng 7.500 năm trớc
Công nguyên. Trong đó, tuyệt đại đa số các di tích Hòa Bình có niên đại trong
khung 12.000 năm đến 7.500 năm trớc Công nguyên.
Dựa trên căn cứ các di chỉ khảo cổ Hòa Bình là những minh chứng lịch
sử để khẳng định điều đó nh di chỉ: hang Bng (Đà Bắc), hang Tùng, hang làng
Gạo (Kim Bôi), hang Đồng Nội (Lạc Thủy) hang Trại (Lạc Sơn) Đặc biệt di
chỉ hang Bng là một trong những di chỉ thuộc nền văn hóa Hòa Bình. Bằng
13
phơng pháp phân tích bào tử phấn hoa, đã tìm ra phấn hoa thuộc họ rau đậu,
đã chứng tỏ những c dân ở đây là chủ nhân mảnh đất này đã thực hiện một b-
ớc nhảy vọt lớn lao trong đời sống nhân loại: từ săn bắn, hái lợm đã tiến lên
trồng rau củ và đã tiến một bớc dài hơn là biết trồng cấy lúa. Nh vậy, có thể
nói dân c Hòa Bình là một trong những dân c đầu tiên phát minh ra nông
nghiệp trồng trọt và Việt Nam - Hòa Bình là một trong những trung tâm phát
minh nông nghiệp sớm nhất thế giới.

Đến nay trên địa bàn tỉnh Hòa Bình đã phát hiện đợc nhiều trống đồng
cổ, chủ yếu là hai loại: Loại I Hêgơ (thờng gọi là trống Đông Sơn), loại II
Hêgơ (còn gọi là trống Mờng). Chiếc trống sông Đà là một trong những chiếc
trống đẹp nhất thế giới (có niên đại khoảng thế kỷ VI đến thế kỷ IV trớc Công
nguyên). Ngoài ra, các nhà khảo cổ học còn tìm thấy những công cụ bằng
đồng nh: rìu lỡi xéo, lỡi giáo, thuổng, dao cắt, thạp Đây là những minh
chứng khẳng định dân tộc Mờng chính là ngời Việt cổ.
Tự hào là mảnh đất có chiều dày lịch sử, nhân dân các dân tộc trong
tỉnh cũng tạo cho mình một sắc thái đặc sắc riêng. Đồng bào Mờng có lễ hội
Cồng Chiêng, có trờng ca đẻ đất, đẻ nớc Đồng bào Thái có chữ viết riêng
từ lâu đời với trờng ca sống trụ sôn sao Tiếng sáo cùng những làn điệu
dân ca HMông say đắm đã tạo ra sự phong phú đa dạng về văn hóa của một
tỉnh nhiều dân tộc, góp phần vào sự phong phú đa dạng của nền văn hóa Việt
Nam.
Trong lịch sử phát triển của mình, Hòa Bình có bề dày văn hóa, nhng
do nhiều nguyên nhân, nền giáo dục Hòa Bình phát triển rất chậm. Qua hàng
ngàn năm sống trong điều kiện kinh tế chậm phát triển, mang tính tự cấp, tự
túc, lại bị chế độ lang đạo, thực dân thống trị cực kỳ tàn bạo, lạc hậu và bảo
thủ đã kìm hãm trình độ dân trí của dân nhân các dân tộc trong tỉnh. Điều
này đã khiến Công sứ Hòa Bình Rênhiê (Regnier) xem đó nh một sai lầm cần
phải sửa chữa [89, tr.237, 264].
14
Sau khi chấm dứt việc thi chữ Hán vào năm 1919, thực dân Pháp chủ tr-
ơng thực hiện đào tạo một lớp trí thức mới nhằm đáp ứng yêu cầu cai trị của
chúng. ở Hòa Bình, cho đến nửa đầu những năm 30 của thế kỷ XX, Pháp mới
mở 6 lớp sơ đẳng tiểu học tại Vụ Bản, Kim Bôi, Lơng Sơn, Cao Phong và Suối
Rút; mỗi lớp có 30 học sinh đợc dạy đến trình độ biết đọc, biết viết, biết làm
tính. Do vậy, toàn tỉnh Hòa Bình lúc này có khoảng 180 học sinh trên khoảng
60.000 dân (trung bình 3 học sinh/1000 dân) [89, tr.264].
Khơi dậy tinh thần học tập, chống nạn mù chữ; nhiều làng đông dân đã

tự mời thầy để dạy cái chữ cho con em trong làng và các làng lân cận. Những
trờng làng và liên làng đợc thành lập ngày một nhiều. Đến giữa năm 30 thế kỷ
XX, Hòa Bình có 13 trờng do dân tự mở gồm: 6 trờng ở châu Lạc Sơn, 2 trờng
ở châu Lơng Sơn, 1 trờng ở châu Kỳ Sơn, 1 trờng ở châu Đà Bắc, 1 trờng ở
châu Mai Châu, 1 trờng của ngời Mán Sơn Đầu và một trờng của ngời Mán
Đeo Tiền [89, tr.264 - 265]. Trớc tình hình đó, chính quyền thực dân ở Hòa
Bình quyết định sát nhập một số trờng, viện cớ học sinh có thể học lên chơng
trình cao hơn, thực tế là để chúng dễ kiểm soát.
Theo báo cáo của Thanh tra giáo dục Hòa Bình, đến tháng 6 - 1935,
toàn tỉnh mới có 140 học sinh trong đó 117 học sinh ngời Kinh, 22 học sinh
Mờng, 1 học sinh ngời Thái v có 2 ng ời thi đậu bằng Sơ học yếu lợc (tơng đ-
ơng bằng tốt nghiệp tiểu học hiện nay). Đến tháng 6 - 1936 đã lên đến 161
học sinh (tăng 21 học sinh so với năm 1935), trong đó có 141 học sinh ngời
Kinh, 20 học sinh ngời Mờng. Số học sinh đợc cấp học bổng là 13 học sinh
[89, tr.265]. Đây là một tiến bộ đáng kể trong lịch sử phát triển nền giáo dục
của Hòa Bình.
Với tính cách cần cù lao động, nghị lực trong cuộc sống đầy khó khăn
vất vả, thật thà chân chất và giàu lòng nhân ái, mến khách; tình gắn bó keo
sơn giữa những ngời cùng cộng đồng. Nhân dân các dân tộc trong tỉnh không
ngừng phát huy truyền thống lâu đời, tinh thần học tập, vợt lên những khó
15
khăn trong cuộc sống. Đây là những cơ sở giúp cho học sinh Hòa Bình sớm
tiếp thu đợc những tinh hoa của thời đại trớc biến thiên của lịch sử, góp phần
xây dựng và phát triển KT - XH của tỉnh qua các thời kỳ.
1.2. Quá trình xây dựng và phát triển sự nghiệp giáo dục
phổ thông ở tỉnh Hòa Bình trớc khi tái lập tỉnh (1991)
1.2.1. Giáo dục phổ thông ở tỉnh Hòa Bình, trong những năm từ
1945 - 1975
Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 2 - 9 - 1945, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập tuyên bố khai sinh ra nớc Việt Nam Dân

chủ Cộng hòa. Ngay trong tháng 9 - 1945, chính phủ ta đã quyết định thành
lập nha bình dân học vụ. Các trờng học trong cả nớc đã nhanh chóng khai
giảng năm học mới - mở đầu cho quá trình xây dựng nền giáo dục dân chủ
nhân dân, thay thế cho nền giáo dục thực dân. Hòa cùng không khí sôi nổi của
cả nớc, tỉnh bộ Việt Minh và ủy ban nhân nhân tỉnh Hòa Bình đã quyết định
thành lập ty bình dân học vụ để chỉ đạo triển khai công tác bình dân học
vụ tới các huyện, xã, bản, làng, trong toàn tỉnh. Với khí thế cách mạng của
những ngày đầu tổng khởi nghĩa thắng lợi, nhân nhân các dân tộc tỉnh Hòa
Bình đã nhiệt liệt hởng ứng lời kêu gọi chống nạn thất học của Chủ tịch Hồ
Chí Minh vào tháng 10 - 1945. Phong trào bình dân học vụ đợc dấy lên khắp
các làng bản. Với phơng châm ngời biết chữ dạy ngời cha biết chữ; ngời dạy,
ngời học đều tận dụng thời gian để dạy và học. Dù còn nhiều khó khăn nhng
đêm đêm ở khắp các bản làng đều đỏ đèn của các lớp học bình dân học vụ.
Các lớp học đợc tổ chức ngay trên nhà sàn, giữa buổi làm nơng hay trong
những phiên chợ. ở một số chợ nh: chợ Phơng Lâm (thị xã Hòa Bình), chợ
Đồn (Lơng Sơn), chợ Gò Chè (Kim Bôi), chợ Suối Rút (Mai Châu), chợ Vụ
Bản (Lạc Sơn) ng ời đi chợ phải qua kiểm tra, vừa đợc dạy thêm dăm ba chữ
mới đợc vào chợ. Khắp các bản làng đều có khẩu hiệu với các dòng chữ: đi
16
học là yêu nớc, mỗi lớp bình dân là một tổ tuyên truyền kháng chiến, có
học thì kháng chiến mới thắng lợi
Cùng với phong trào bình dân học vụ, phong trào xóa mù chữ cũng phát
triển rộng khắp trong toàn tỉnh. Năm 1948, xã Thanh Nông huyện Lơng Sơn
(nay thuộc huyện Kim Bôi) đã thanh toán xong nạn mù chữ và vinh dự đợc
Bác Hồ gửi th khen ngợi.
Năm 1950, thực hiện chủ trơng cải cách giáo dục lần thứ nhất của Đảng
và Nhà nớc, ngành GD - ĐT Hòa Bình đã xác định rõ mục đích của giáo dục
là phục vụ kháng chiến, kiến quốc với phơng châm: Khoa học, dân tộc và đại
chúng. Đây là bớc chuyển cơ bản của nhà trờng kiểu cũ sang nhà trờng dân
chủ nhân dân với hệ thống giáo dục 9 năm.

Mục tiêu giáo dục lúc đó của toàn ngành là: Giáo dục bồi dỡng thế hệ
trẻ thành những công dân lao động tơng lai, trung thành với chế độ dân chủ
nhân dân và có đủ phẩm chất, năng lực phục vụ kháng chiến, phục vụ nhân
dân, bồi dỡng cho học sinh tinh thần dân tộc, lòng yêu nớc, chí căm thù giặc,
tinh thần yêu lao động. Do vậy giai đoạn này, tỉnh Hòa Bình có trờng trung
học đầu tiên là trờng Lạc Long Quân. Đến năm 1951, trờng đổi tên thành tr-
ờng cấp II Hoàng Văn Thụ.
Tháng 1- 1953, Ty Bình dân học vụ và ty thanh tra tiểu học đợc sát
nhập thành Ty giáo dục Hòa Bình. trong thời gian này, tỉnh Hòa Bình có
cuộc chỉnh huấn nhằm nâng cao lòng yêu nớc, lập trờng giai cấp cho toàn thể
đội ngũ giáo viên của ngành giáo dục, phục vụ đắc lực cho công cuộc kháng
chiến, kiến quốc.
Thời kỳ 1954 - 1965. Đây là thời kỳ cả nớc cùng chung nhiệm vụ
chống đế quốc mỹ cứu nớc, tiến tới thống nhất tổ quốc. Trong bối cảnh đó,
ngành giáo dục Hòa Bình tiếp tục thực hiện chủ trơng của Đảng và nhà nớc
về tiến hành cải cách giáo dục lần thứ hai theo hệ thống giáo dục 10 năm. Do
vậy, đã thúc đẩy hệ thống GDPT không ngừng phát triển. Các xã đều có các
17
trờng cấp I, cấp II, huyện có trờng cấp III; trờng Hoàng Văn Thụ có thêm tr-
ờng cấp I, cấp II; trờng Lý Tự Trọng (thị xã Hòa Bình); trờng Vụ Bản (Lạc
Sơn); trờng Lạc Long Quân (Lạc Thủy) Con em các dân tộc trong tỉnh đ ợc
đến trờng ngày một đông hơn. Ngoài ra, các phong trào nh dạy tốt, học tốt,
xây dựng kỷ cơng, tình thơng, trách nhiệm,vở sạch chữ đẹp đ ợc phát
động rộng khắp ở các trờng học.
Phong trào xóa mù chữ cũng đợc triển khai trong toàn tỉnh. Đầu năm 1961,
Hòa Bình là tỉnh miền núi đầu tiên hoàn thành công tác xóa mù chữ và vinh dự đ-
ợc đón phó chủ tịch nớc Tôn Đức Thắng dự lễ mừng công về xóa mù chữ và trao
tặng huân chơng Lao động hạng nhất cho ngành giáo dục của tỉnh.
Cũng trong thời gian này, hởng ứng phong trào miền xuôi đi xây dựng
kinh tế, văn hóa và lập nghiệp ở miền núi, năm 1959, tỉnh Hòa Bình nhận đợc

sự hỗ trợ của các tỉnh và đơn vị nh: Nghệ An, Thanh Hóa, Trờng s phạm miền
núi Trung ơng, Đại học s phạm Hà Nội I. Hòa Bình đã tiếp nhận 86 giáo viên
và hàng chục sinh viên tình nguyện lên công tác ở địa phơng. Do vậy, hàng
loạt các trờng cấp I, cấp II tiếp tục đợc thành lập nh: trờng Ngọc Lơng (Yên
Thủy), Suối Rút (Mai Châu), Hợp Thịnh, Thịnh Lang, Dân Hạ, Thu Phong(Kỳ
Sơn), Mãn Đức, Tử Nê (Tân Lạc), Vĩnh Tiến, Thanh Lơng (Kim Bôi). Đặc
biệt, đợc sự quan tâm của tỉnh ủy và chính quyền địa phơng, tháng 10 - 1961,
tỉnh Hòa Bình đã thành lập khu học xá và phát động phong trào thi đua hai
tốt. đây là một sáng tạo trong phát triển sự nghiệp GD - ĐT của tỉnh Hòa
Bình.
Không ngừng nâng cao chất lợng giáo dục, ngành học phổ thông tổ
chức tốt các kỳ thi giáo viên dạy giỏi, thi đồ dùng dạy học. Ngành GD - ĐT
Hòa Bình chủ trơng xóa nạn mù chữ đến đâu, tiến hành bổ túc văn hóa đến đó
và chống hiện tợng tái mù chữ. Tỉnh đã chỉ đạo thành lập Trờng phổ thông lao
động của tỉnh và Trờng phổ thông lao động ở các huyện. Các lớp bổ túc văn
18
hóa đợc mở ngay ở các cơ quan và địa phơng, nhằm nâng cao trình độ văn hóa
cho cán bộ và nhân dân.
Khi chiến tranh bớc vào thời kỳ ác liệt, nhiều thầy giáo và học sinh của
ngành GD - ĐT của tỉnh Hòa Bình đã hăng hái tình nguyện nhập ngũ lên đờng
đi chiến đấu. Nhiều học sinh với quyết tâm cao đã viết đơn bằng máu xung
phong vào bộ đội và tham gia lực lợng vũ trang. Tiêu biểu là các em học sinh
trờng cấp II Hoàng Văn Thụ, nhiều ngời đã lập công xuất sắc và đợc tặng th-
ởng danh hiệu cao quý trong quân đội. Đây thể hiện là sự nối tiếp truyền
thống chống giặc ngoại xâm của cha anh và quê hơng.
Thời kỳ 1965 - 1975. Năm 1965 đế quốc Mỹ leo thang đánh phá miền
Bắc, các trờng học, thầy và trò đều phải đi sơ tán về các bản làng. Mặc dù vậy,
với tinh thần quyết tâm cao, thầy và trò luôn duy trì bám trờng, bám lớp dạy
và học.
Thực hiện chỉ thị 237 của Thủ tớng Chính phủ và chỉ thị 26 của Bộ GD

- ĐT về công tác lãnh đạo sản xuất trong các trờng học. Trớc đó, ngày 1 - 4 -
1958, Trờng Thanh niên lao động xã hội chủ nghĩa Hòa Bình ra đời với mô
hình vừa lao động, vừa học văn hóa, đã thu hút đông đảo con em các dân tộc
trong tỉnh vào học tập, lao động và rèn luyện. Đây là trờng vừa học, vừa làm
đầu tiên ở Việt Nam với phơng châm giáo dục của nhà trờng là thực hiện học
đi đôi với hành. Ngày 17 - 8 - 1962, trờng đã vinh dự đợc đón Bác Hồ về
thăm, Bác đã ghi trong sổ vàng truyền thống của trờng dòng chữ: phải học
tập tốt, lao động tốt, cố gắng mãi, tiến bộ mãi. Đây không chỉ là yêu cầu đối
với Trờng Thanh niên lao động xã hội chủ nghĩa Hòa Bình và còn là mục tiêu
chung cho toàn bộ hệ thống GD - ĐT của cả nớc.
Từ mô hình Trờng Thanh niên lao động xã hội chủ nghĩa Hòa Bình, tr-
ờng đã trở thành một điển hình giáo dục không chỉ ở trong nớc mà còn có ảnh
hởng tới một số nớc khác. Nhiều đoàn khách từ các nớc bạn Lào, Cuba đã
tới thăm quan và học tập kinh nghiệm. Không ngừng xây dựng và trởng thành,
19
thời kỳ này Trờng luôn là đơn vị dẫn đầu các trờng vừa học vừa làm và đợc
nhận cờ thi đua xuất sắc nhất của Bộ giáo dục trao tặng tại đại hội thi đua hai
tốt toàn miền Bắc (12 - 1966). Ngoài ra các trờng 19 - 5, Công nghiệp A thị xã
Hòa Bình cũng ra đời và đóng góp thêm một phơng thức dạy và học mới phục vụ
đắc lực vào sự nghiệp phát triển GD - ĐT của tỉnh.
Với sự nỗ lực cố gắng của toàn ngành GD - ĐT Hòa Bình; tháng 12-
1966, trờng cấp III Hoàng Văn Thụ tiếp tục đợc Bộ giáo dục công nhận là 1
trong 9 trờng tiên tiến toàn Miền Bắc. Thực hiện lời dạy của Bác Hồ Dù khó
khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt và học tốt [53, tr.403], các tr-
ờng, các cấp học, ngành học trong tỉnh đã phát động phòng trào thi đua dạy
tốt, học tốt. Các trờng điển hình tiên tiến nh: Ngổ Luông, Định C, Thu
Phong, Kim Bình, Vĩnh Tiến luôn là lá cờ đầu của ngành giáo dục tỉnh. Song,
thời gian này do ảnh hởng của cuộc chiến tranh phá hoại, các trờng, lớp s
phạm không đáp ứng đủ số lợng giáo viên, Ty giáo dục tỉnh Hòa Bình đã phải
xin các tỉnh bạn một số giáo viên để bổ sung vào đội ngũ giáo viên của tỉnh.

Bên cạnh đó, để nâng cao chất lợng giáo dục, tỉnh đã tiến hành sát nhập một
số trờng nh: Trờng s phạm bổ túc văn hóa Lê Hồng Phong nhập với trờng
Trung cấp s phạm; trờng s phạm cấp I Mai Châu, Đà Bắc nhập với trờng s
phạm cấp I của tỉnh. Cũng trong thời gian này, ngành GD - ĐT Hòa Bình tiếp
tục mở thêm hệ s phạm 10 +3 để đáp ứng nhu cầu về giáo viên và khai giảng
khóa đầu tiên vào năm học 1971 - 1972, với 2 lớp Toán - Lý và Văn - sử. Do
yêu cầu của tình hình mới, Trờng s phạm 10 +3 Hòa Bình tiến hành sát nhập
với Trờng Cao đẳng s phạm Thờng Tín (Hà Tây) để tiếp tục làm nhiệm vụ đào
tạo giáo viên. Vì vậy, hàng năm trờng đã đào tạo đợc 400 - 500 giáo sinh,
trong đó phần đông là các giáo sinh dân tộc thiểu số trong tỉnh. Hệ thống tr-
ờng s phạm trên đây đã đóng góp một phần quan trọng vào việc phát triển đội
ngũ giáo viên và sự nghiệp GD - ĐT của tỉnh Hòa Bình. Miền nam hoàn toàn
giải phóng, đất nớc thống nhất, ngành GD - ĐT Hòa Bình cùng cả nớc lại bớc
20
tiếp vào một thời kỳ mới với những nhiệm vụ chính trị nặng nề nhng cũng rất
vẻ vang.
1.2.2. Giáo dục phổ thông ở Hòa Bình từ 1975 đến 1991
Ngày 30 - 4 - 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nớc thống nhất,
cả nớc tiến lên xây dựng CNXH, nhng những khó khăn trớc mắt đặt ra cũng
rất nặng nề.
Trớc yêu cầu và nhiệm vụ mới của cách mạng, ngày 27 - 12 - 1975,
Quốc hội nớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại kỳ họp thứ II, Quốc hội (khóa
V) đã ra nghị quyết về việc hợp nhất hai tỉnh Hà Tây và Hòa Bình thành một
tỉnh mới, đặt tên là tỉnh Hà Sơn Bình. Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, việc
hợp nhất đợc tiến hành khẩn trơng và nhanh chóng đi vào hoạt động. Trong bối
cảnh đó sự nghiệp phát triển giáo dục Hòa Bình cũng gắn liền với mục tiêu phát
triển KT - XH của tỉnh Hà Sơn Bình và đạt đợc những kết quả đáng chú ý.
Riêng về tỉnh Hòa Bình, từ năm 1976 - 1980, sự nghiệp giáo dục Hòa
Bình có bớc phát triển mới ở các ngành học, đặc biệt là ngành học mẫu giáo
và bổ túc văn hóa. Các xã đều có trờng cấp I và hầu hết có trờng cấp II (trừ

một số xã vùng cao), riêng cấp III mỗi huyện có một trờng. Với phong trào thi
đua hai tốt, các điển hình dạy tốt, học tốt đợc xuất hiện, chất lợng qua các
kỳ thi năm học có sự chuyển biến tích cực.
Năm học 1976 - 1977, số học sinh tốt nghiệp cấp III đạt tỷ lệ 82,7%, cấp
II đạt 87,5%, cấp II bổ túc đạt 92%. Trong chiến dịch ánh sáng văn hóa đã
xóa mù chữ cho 3.470 ngời; hoàn thành việc hợp nhất cấp I, cấp II để chuẩn bị
cho việc cải cách giáo dục.
Năm học 1977 - 1978, công tác bổ túc văn hóa và mẫu giáo đều thực
hiện vợt mức kế hoạch, ngành học phổ thông tiếp tục phát triển khá, nhiều tr-
ờng cấp III đã có sự chuyển biến theo phơng thức vừa học, vừa làm, thực hiện
tốt việc kết hợp giữa Nhà nớc và dân nhân cùng làm, nhiều nơi đã chú trọng tăng
cờng xây dựng, sửa chữa cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ cho năm học mới.
21
Trong năm học 1978 - 1979, các ngành học, cấp học tiếp tục phát triển,
đặc biệt ở các huyện miền núi. Số học sinh cấp II tăng từ 10 - 20%, cấp III
tăng 20% (riêng huyện Đà Bắc tăng 110%). Cá biệt, huyện Yên Thủy là đơn
vị dẫn đầu toàn tỉnh hoàn thành phổ cập cấp I cho toàn dân và xã Ngổ Luông
(Tân Lạc) hoàn thành phổ cập cấp II trong độ tuổi [88, tr.53 - 54].
Tuy nhiên với những kết quả đạt đợc, song công tác giáo dục vẫn còn
yếu kém thể hiện ở chỗ: chất lợng giảng dạy và học tập không đồng đều, đội
ngũ giáo viên các cấp so với sự phát triển của trờng vẫn còn yếu kém, cơ sở
vật chất của các trờng còn nghèo nàn, thiếu thốn những hạn chế đó đã ảnh
hởng rất lớn đến quy mô, chất lợng của toàn ngành giáo dục, từng bớc cần
phải khắc phục hơn nữa.
Thời kỳ 1981 - 1985, vợt lên hoàn cảnh của hai cuộc chiến tranh biên
giới, cùng những khó khăn về tình hình phát triển KT - XH (1976 - 1980).
với sự nỗ lực cố gắng của thầy và trò, sự nghiệp phát triển giáo dục Hà Sơn
Bình đã đạt đợc những bớc tiến nổi bật.
Trớc hết, quán triệt tinh thần Nghị quyết 14/NQ - TW của Bộ chính trị (1 -
1979) về cải cách giáo dục đã xác định rõ ba mục tiêu của cải cách giáo dục là:

Làm tốt việc chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ ngay từ tuổi thơ ấu cho đến lúc tr-
ởng thành; thực hiện phổ cập giáo dục toàn dân; đào tạo và bồi dỡng với quy mô
ngày càng lớn đội ngũ lao động mới. Nghị quyết chỉ rõ: trong cải cách giáo
dục lần này, phải làm cho công tác giáo dục thấu suốt hơn nguyên lý: học đi đôi
với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trờng gắn liền với xã hội
[64, tr.4]. Với tinh thần đó, ngày 25 - 8 - 1981, tỉnh Hà Sơn Bình ra nghị quyết
chuyên đề về công tác giáo dục. Tiếp đó, ngày 29 - 8 - 1981, UBND tỉnh Hà Sơn
Bình đã ra chỉ thị số 21/CT - UB đã quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, chức
năng của các ngành trong tỉnh đối với sự nghiệp giáo dục.
Có đợc những động lực quan trọng nh vậy, sự nghiệp giáo dục tỉnh Hà
Sơn Bình đã nhanh chóng có những chuyển biến rõ nét. Ngành đã tiến hành
22
khẩn trơng công tác đào tạo, bồi dỡng và xây dựng đội ngũ cán bộ, giáo viên.
Đến năm 1985, toàn ngành có trên 2 vạn cán bộ, giáo viên (bao gồm cả 2000
giáo viên mẫu giáo không nằm trong biên chế), trong đó giáo viên cấp I chiếm
11%, cấp II chiếm 42%, cấp III chiếm 9 % và các trờng s phạm chiếm 2%
[88, tr.97].
Việc bồi dỡng, chuẩn hóa đội ngũ giáo viên đạt kết quả khá. 68,5% giáo
viên cấp I đạt hệ chuẩn 10 + 2; 78.2% giáo viên cấp II đạt hệ chuẩn 10 + 3 và
Cao đẳng s phạm; 87% giáo viên cấp III đạt hệ chuẩn 10 + 4 [88, tr.97]. Đội
ngũ giáo viên tỉnh Hà Sơn Bình đợc đào tạo có hệ thống, có phẩm chất đạo
đức tốt, có tinh thần chịu đựng khó khăn, nhất là giáo viên miền núi. Dù đời
sống còn nhiều khó khăn, thiếu thốn song đại bộ phận giáo viên bám trờng,
bám lớp, nhiều đồng chí thực sự là tấm gơng sáng của ngành.
Về công tác xã hội hóa giáo dục, nhân dân các dân tộc tỉnh Hà Sơn Bình
cùng các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể chăm lo cho sự nghiệp giáo dục
với phơng châm nhà nớc và nhân dân cùng làm. Trên thực tế, nhiều địa ph-
ơng, đơn vị trong tỉnh đã chuyển thành nhân dân làm, nhà nớc hớng dẫn, hỗ
trợ. Do đó đến năm 1985, ngành giáo dục có gần 700 trờng học, trong đó có:
422 trờng PTCS, 36 trờng THPT, 5 trờng trờng Cao đẳng s phạm và Trung học

s phạm [88, tr.97].
Tính trong 10 năm (1975 - 1985) ngành giáo dục tỉnh Hà Sơn Bình đã tu
bổ, sửa chữa và xây dựng đợc 7.120 phòng. Trong đó, số phòng gạch ngói là
4.284 phòng (chiếm 70%). Tổng số vốn đầu t 412 triệu đồng (nhà nớc đầu t
125 triệu đồng) [88, tr.98]. Sách giáo khoa, nhất là sách cho các lớp cải cách
và thiết bị trong nhà trờng cũng đợc chú ý hơn.
Thực hiện tốt phơng châm cải cách: phát triển đi đôi với củng cố mà
trọng tâm là nâng cao chất lợng toàn diện chú trọng giáo dục đạo đức cách
mạng, hớng nghiệp kỹ thuật tổng hợp cho các nhà trờng, cải tiến phơng pháp
giảng dạy, gắn liền với nhiệm vụ kinh tế, chính trị của địa phơng, do vậy, về
23
công tác tổ chức trong hệ thống giáo dục của tỉnh cũng đợc sắp xếp lại. Riêng
cấp I thực hiện chơng trình thay sách cải cách giáo dục. Việc huy động trẻ em
trong độ tuổi đến trờng đạt tỷ lệ khá cao (vùng đồng bằng là 98%, miền núi là
83%). Tổng số học sinh cấp I trong toàn tỉnh năm học 1984 - 1985 là 254.026
em, chiếm 15,03 % dân số (năm học 1975 - 1976 là 204.006 em). Học sinh
cấp II là 90.826 em và học sinh cấp III là 30.284 em [88, tr.99]. Ngành học
phổ thông, nhất là THPT có nhiều cố gắng trong công tác giáo dục toàn diện
về văn hóa, khoa học, về đạo đức lối sống, về hoạt động văn nghệ thể dục,
công tác đoàn, về lao động sản xuất và hớng nghiệp. Đáng chú ý là tỉnh Hà
Sơn Bình đã xây dựng đợc 8/36 trờng THPT vừa học vừa làm, trong đó có
những trờng vơn tới trờng kiểu mới của cải cách giáo dục nh trờng THPT Lạc
Thủy, THPT Hồng Dơng, THPT Công nghiệp A - B và trờng Hoàng Văn
Thụ Với ph ơng pháp giáo dục toàn diện nh vậy, năm học 1984 - 1985, thi
tốt nghiệp của các cấp học đạt trên 90%.
Phong trào xóa mù chữ, phổ cập cấp I phát triển khá tốt. Trong 5 năm
1981 - 1985 toàn tỉnh đã xóa mù chữ cho 7.960 ngời, trong đó có 4.404 ngời
thuộc khu vực miền núi, 18/18 huyện, thị xã, 365 phờng, thị trấn và 316 cơ
quan xí nghiệp, nông - lâm trờng hoàn thành phổ cập cấp I cho 354.192 ngời
là cán bộ, công nhân, nhân dân lao động [88, tr.100].

Thực hiện mạnh mẽ chơng trình ánh sáng văn hóa miền núi, riêng
khu vực Hòa Bình có 10 huyện, 1 thị xã đã hoàn thành phổ cập cấp I toàn dân
từ năm 1982 (huyện Yên Thủy là huyện dẫn đầu tỉnh Hà Sơn Bình về phổ cập
cấp I, hoàn thành năm 1979 và phổ cập cấp II cho toàn bộ cán bộ huyện, xã,
đảng viên và thanh niên u tú). Ngoài ra, còn có trên 40 xã, phờng thuộc thị xã
Hòa Bình, huyện Lạc Sơn, Lạc Thủy, Tân Lạc và 3/4 cơ quan xí nghiệp hoàn
thành phổ cập cấp II [88, tr.100].
Phong trào thi đua hai tốt tiếp tục phát triển rộng khắp ở các địa bàn
trong tỉnh, các điển hình tiên tiến vẫn đợc giữ vững và phát huy tác dụng tốt.
24
Đặc biệt, năm 1985, Trờng Thanh niên lao động xã hội chủ nghĩa Hòa Bình
và xã Ngổ Luông, hai đơn vị duy nhất của tỉnh Hà Sơn Bình đợc hội đồng
nhà nớc tuyên dơng danh hiệu anh hùng lao động về thành tích giáo dục.
Đây không chỉ là niềm vinh dự, tự hào của sự nghiệp giáo dục miền núi mà
còn là niềm tự hào chung của các dân tộc tỉnh Hà Sơn Bình.
Thời kỳ 1981 - 1985, sự nghiệp giáo dục tỉnh Hà Sơn Bình vẫn còn nhiều
khó khăn, yếu kém cha đợc khắc phục. Chất lợng và hiệu quả giáo dục còn
thấp so với yêu cầu, biểu hiện là tình hình lu ban, bỏ học khá cao; có sự chênh
lệch khá lớn về chất lợng giáo dục giữa các trờng tiên tiến, trờng trọng điểm
về cải cách giáo dục với các trờng diện đại trà, giữa các trờng ở thị xã với
nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi.
Tình trạng thiếu giáo viên cấp I, giáo viên khu vực miền núi khá phổ biến,
đời sống của đa số cán bộ giáo viên rất khó khăn khiến họ không yên tâm với
nghề. Cơ sở vật chất, trang thiết bị của ngành vẫn quá nghèo nàn và thiếu thốn,
kinh phí đầu t cho giáo dục tuy có tiến bộ song vẫn không đáp ứng đợc những
nhu cầu tối thiểu của công tác giáo dục. Số trờng xây dựng bằng tranh tre, nứa lá
còn cao, chính sách đối với giáo viên vùng cao, vùng sâu cha đợc thực hiện tốt
Đây là những khó khăn không chỉ riêng đối với tỉnh Hà Sơn Bình mà còn là
những khó khăn chung của cả nớc trong bối cảnh lúc bấy giờ. Song, với những
kết quả to lớn đã đạt đợc, sự nghiệp giáo dục của tỉnh đã góp phần quan trọng

vào việc ổn định tình hình, chính trị - xã hội của địa phơng.
Thời kỳ 1986 - 1991, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12-1986)
của đảng đã mở ra công cuộc đổi mới toàn diện trên đất nớc ta.
Quán triệt tinh thần nghị quyết đại hội lần thứ VI của Đảng, nghị quyết
đại hội lần thứ IV của Đảng bộ tỉnh Hà Sơn Bình (10 - 1986) và quyết tâm
thực hiện lời dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh dù khó khăn đến đâu cũng phải
tiếp tục thi đua dạy tốt và học tốt [53, tr.403]. Năm học 1985 - 1986, toàn
tỉnh có 44 vạn học sinh, học viên các ngành học, năm học 1986 - 1987 đã
25

×