Tải bản đầy đủ (.pdf) (142 trang)

quá trinh thực hiện chính sách ruộng đất của đảng ở tỉnh thanh hóa trong những năm 1988 2006

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 142 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------

LÊ THỊ HIỀN

QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
RUỘNG ĐẤT CỦA ĐẢNG Ở TỈNH THANH HOÁ
TRONG NHỮNG NĂM 1988 - 2006

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2009
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------

LÊ THỊ HIỀN

QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
RUỘNG ĐẤT CỦA ĐẢNG Ở TỈNH THANH HOÁ
TRONG NHỮNG NĂM 1988 - 2006

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam
Mã số: 60 22 56

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LỊCH SỬ
NGƢỜI HƢỚNG DẪN: PGS.TS HOÀNG HỒNG


HÀ NỘI - 2009


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo, PGS. TS. Hoàng
Hồng, người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình làm
luận văn.
Tôi xin cảm ơn các thầy cô và các anh chị cán bộ thuộc khoa Lịch sử
đã giúp tôi trong quá trình làm luận văn.
Cuối cùng tôi muốn gửi lời cảm ơn chân thành tới các bạn cùng lớp và
những người thân của tôi.

Hà Nội - 2009
Học viên: Lê Thị Hiền


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu này là của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là hoàn toàn trung thực. Luận văn có
kế thừa các công trình nghiên cứu của những người đi trước vá có sự bổ sung
thêm những tư liệu hoàn toàn mới.

Học viên: Lê Thị Hiền


BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

BCH

: Ban chấp hành


CNH

: Công nghiệp hoá

DĐĐT

: Dồn điền đổi thửa

ĐCSVN

: Đảng Cộng sản Việt Nam

HĐH

: Hiện đại hoá

HTX

: Hợp tác xã

TBCN

: Tư bản chủ nghĩa

TĐSX

: Tổ đội sản xuất

TW


: Trung ương

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

UBND

: Uỷ ban nhân dân


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ................................................................... 2
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn .......................................................... 3
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.......................................................... 3
5. Nguồn tƣ liệu, cơ sở lí luận và phƣơng pháp nghiên cứu. ................... 3
6. Đóng góp của luận văn............................................................................ 4
7. Kết cấu của luận văn. .............................................................................. 5
NỘI DUNG

................................................................................................... 6

CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH RUỘNG ĐẤT VÀ KINH TẾ NÔNG
NGHIỆP Ở TỈNH THANH HÓA TRƢỚC ĐỔI MỚI ............. 6

1.1 Vài nột về quỏ trỡnh hoạt động của các HTX nông nghiệp ở
tỉnh Thanh Hoỏ. .......................................................................................... 6
1.2 Quỏ trỡnh thực hiện chỉ thị 100 của Đảng ở tỉnh Thanh Hoá. . 11
Tiểu Kết

................................................................................................. 31

CHƢƠNG 2: QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH RUỘNG ĐẤT
ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG Ở TỈNH THANH HOÁ GIAI
ĐOẠN 1988-1996 ................................................................... 33
2.1 Chính sách ruộng đất đổi mới của Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam. . 33
2.1.1 Nghị quyết 10 về đổi mới quản lí kinh tế nông nghiệp ............... 34
2.1.2 Luật đất đai năm 1993 .................................................................. 37
2.2 Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá quán triệt và chỉ đạo thực hiện chính sách
ruộng đất đổi mới trong những năm 1988 - 1996. ................................. 43
2.3 Thành tựu, hạn chế và những vấn đề nảy sinh. ............................... 61
2.3.1. Thành tựu ..................................................................................... 61
2.3.2 Hạn chế và những vấn đề nảy sinh: ........................................... 70
Tiểu kết

................................................................................................. 76


CHƢƠNG 3: QUÁ TRÌNH CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN CUỘC VẬN ĐỘNG
"ĐỔI ĐIỀN DỒN THỬA " CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH
THANH HOÁ NHỮNG NĂM 1996-2006. .......................... 78
3.1 Chủ trƣơng của Đảng về cuộc vận động " Dồn điền đổi thửa"...... 78
3.2 Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá chỉ đạo thực hiện cuộc vận động "Dồn
điền đổi thửa " trong những năm 1996- 2006. ....................................... 84
3.2.1 Giai đoạn 1996 - 2001 ................................................................... 84

3.2.2 Giai đoạn 2001- 2006 .................................................................... 93
3.3 Thành tựu, hạn chế và những vấn đề nảy sinh. ............................. 104
3.3.1 Thành tựu .................................................................................... 104
3.3.2 Hạn chế và những vấn đề nảy sinh ............................................ 106
Tiểu kết

............................................................................................... 111

KẾT LUẬN ............................................................................................... 114
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 117
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Các Mác đã chỉ rõ: “Sở hữu ruộng đất...., nguồn gốc đầu tiên của mọi
của cải, đã trở thành một vấn đề lớn mà việc giải quyết sẽ quyết định tương
lai của giai cấp công nhân” [41, tr.202]. Đến V.I Lênin, với khẩu hiệu “ruộng
đất và tự do”, nguời khẳng định đã lôi kéo nông dân về phía giai cấp công
nhân, giành thắng lợi cho cách mạng Tháng Mười năm 1917, biến chủ nghĩa
Mác thành hiện thực. Thấm nhuần lý luận Mác- Lênin và xuất phát từ tình
hình ruộng đất nước ta dưới chế độ thực dân và phong kiến, chủ tịch Hồ Chí
Minh và Đảng cộng sản Việt Nam đã đăt mục tiêu thực hiện khẩu hiệu:
“ruộng đất cho dân cày” là một trong hai nhiệm vụ chiến lược cơ bản của giai
đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở nước ta. Do đó Đảng đã lôi kéo
được một lực lượng đông đảo là quần chúng nhân dân lao động, đi theo giai
cấp công nhân Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống đế quốc xâm lược và đế
quốc tay sai, giành lại chính quyền cho nhân dân, độc lập cho dân tộc.
Chính sách ruộng đất đang trở thành nội dung quan trọng trong chiến
lược phát triển kinh tế nông nghiệp của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá trong cả thời

kỳ quá độ lên chủ nghĩa XHCN. Xét trên phạm vi toàn cục, hiện nay đổi mới
chính sách ruộng đất của tỉnh Thanh Hoá vẫn chưa vượt qua được những thử
thách lớn, những biến động trong việc thực hiện chính sách ruộng đất trước
đổi mới vẫn còn gây ảnh hưởng lớn, tác động đến tình hình kinh tế nông
nghiệp nói riêng và tình hình kinh tế xã hội nói chung. Trước mắt và cả trong
tương lai đổi mới chính sách ruộng đất để phát triển kinh tế nông nghiệp vẫn
là vị trí, mặt trận hàng đầu góp phần quyết định vào việc tăng trưởng và ổn
định tình hình kinh tế xã hội của tỉnh Thanh Hoá.
Vì vậy việc nghiên cứu chính sách đổi mới ruộng đất của Đảng bộ tỉnh
Thanh Hoá là công việc cần thiết và cấp bách để khẳng định những thành tựu
và hạn chế, rút ra những bài học kinh nghiệm thiết thực, củng cố lòng tin đối
1


với Đảng, đối với công cuộc đổi mới của đất nước.
Vì những lí do đó, tôi lựa chọn đề tài “Quá trình thực hiện chính sách
ruộng đất của Đảng ở tỉnh Thanh Hoá trong những năm 1988- 2006” để
nghiên cứu nhằm mang lại một hình ảnh xác thực về quá trình chỉ đạo thực
hiện đổi mới chính sách ruộng đất của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đổi mới chính sách ruộng đất của Nhà nước nói chung và Đảng bộ tỉnh
Thanh Hoá nói riêng là một vấn đề quan trọng, bởi vậy đã thu hút được sự
quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu khoa học. Đã có nhiều công trình khoa
học, nhiều sách báo viết về vấn đề này. Có thể kể ra đây những công trình
nghiên cứu khoa học tiêu biểu như: "Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông
nghiệp ở Việt Nam" của Trương Thị Tiến, Nxb CTQG, năm 1998; "Đổi mới
và hoàn thiện một số chính sách phát triển nông nghiệp nông thôn", Nxb
Nông nghiệp, H, 1995; "Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới"
của PGS.TS Nguyễn Sinh Cúc, Nxb Thông kê, năm 2003;"Khoán sản phẩm
trong HTX nông nghiệp Thanh Hoá", Uỷ ban Nông nghiệp Thanh Hoá;

"Những sự kiện lịch sử Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa 1975-2000"- Nxb Thanh
Hoá 2005;.....
Bên cạnh đó, vấn đề đổi mới chính sách ruộng đất đã được phản ánh
khá nhiều trong sách báo, tạp chí như: "Đổi mới chính sách ruộng đất ở Việt
Nam và vấn đề ruộng đất của kinh tế hộ nông dân", tạp chí Nghiên cứu lịch
sử Đảng, số 5- 2004 của tác giả Trương Thị Tiến; "Cải tiến chế độ khoán
trong nông nghiệp", tạp chí Cộng sản, số 3 năm 1981 của tác giả Võ Chí
Công; "Chính sách khoán trong nông nghiệp những mặt được và những vấn
đề mới nảy sinh", tạp chí Thông tin lý luận, tháng 11/1992 của tác giả Nguyễn
Sinh Cúc; "Quan hệ ruộng đất ở nông thôn, thực trạng và giải pháp", tạp chí
Nghiên cứu kinh tế số 4/1990 của tác giả Nguyễn Hữu Đạt; "Sở hữu ruộng
đất nhìn từ thực tiễn", tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 193 năm 1993 của tác
giả Nguyễn Văn Quy;"Dồn điền đổi thửa- tốn tiền tỷ vẫn manh mún",Nông
thôn mới số 227 kỳ 2 tháng 7/2008; "Phú Vang với cuộc vận động Dồn điền
2


đổi thửa" Nông thôn mới số 187 kỳ 2 tháng 7/2006; "Hiệu quả chuyển đổi
ruộng đất liền vùng liền thửa ở Phong Hải" Nông thôn mới số 186 kỳ 1 tháng
10/2006; "Nhờ dồn điền đổi thửa đã đánh thức tiềm năng vùng đất trũng"
Nông thôn mới số 187 kỳ 2 tháng 10/2006...
Dưới góc độ khoa học lịch sử Đảng tôi muốn trình bày rõ và có hệ
thống quá trình thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng ở tỉnh Thanh Hoá;
phân tích những nội dung cơ bản của chính sách đó và những vấn đề liên
quan như vấn đề sử dụng đất nông nghiệp, chớnh sỏch dồn điền đổi thửa.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
a. Mục đích
- Làm rõ các chủ trương và biện pháp của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá
trong quá trình chỉ đạo thực hiện chính sách ruộng đất đổi mới trong những
năm 1988-2006.

- Khẳng định thành tựu, hạn chế và những vấn đề nảy sinh trong quá
trình thực hiện chính sách ruộng đất đổi mới ở tỉnh Thanh Hoá.
b. Nhiệm vụ
- Tập hợp các tài liệu có liên quan đến quá trình thực hiện chính sách
ruộng đất ở tỉnh Thanh Hoá từ năm 1988- 2006.
- Hệ thống các chủ trương và biện pháp của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá
nhằm chỉ đạo thực hiện chính sách ruộng đất đổi mới và trình bày theo tiến
trình lịch sử.
- Khảo sát thực tiễn thực hiện chính sách ruộng đất đổi mới ở tỉnh
Thanh Hoá và bước đầu đánh giá tổng kết.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
a. Đối tượng nghiên cứu
Các chủ trương của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá và những diễn biến cụ thể
trong quá trình thực hiện chính sách ruộng đất đổi mới ở tỉnh Thanh Hoá từ
1988 – 2006.
b. Phạm vi nghiên cứu
Các vấn đề liên quan đến chính sách thực hiện chính sách ruộng đất đổi
3


mới của Đảng ở tỉnh Thanh Hoá từ những năm 1988- 2006 bao gồm: Bối
cảnh nông nghiệp nông thôn Thanh Hoá trước đổi mới, sự quán triệt và chỉ
đạo thực hiện chính sách ruộng đất đổi mới của Đảng bộ Thanh Hoá và
những kết quả cụ thể; cuộc vận động dồn điền đổi thửa ở tỉnh Thanh Hoá.
5. Nguồn tƣ liệu, cơ sở lí luận và phƣơng pháp nghiên cứu.
a. Nguồn tư liệu:
Để giải quyết được các vấn đề đặt ra, đề tài sử dụng các nguồn tư liệu
chính sau:
+ Hệ thống các văn kiện Đảng qua một số Hội nghị Ban chấp hành TW
Đảng và các kỳ Đại biểu toàn quốc lần thứ IV, V, VI, VIII, IX, X và các Nghị

quyết, chỉ thị của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá.
+ Các số liệu thống kê về quá trình thực hiện chính sách ruộng đất đổi
mới của UBND tỉnh Thanh Hoá, Sở Nông nghiệp, các cấp, các ngành của tỉnh
Thanh Hoá.
+ Các công trình nghiên cứu về chính sách ruộng đất đổi mới .
+ Báo chí: Báo nông thôn Thanh Hoá, Báo Nông nghiệp, Báo Thanh
tra, Báo Nhân dân…
b. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic, phương pháp điều
tra, so sánh, đối chiếu, phân tích tổng hợp, thống kê, biểu đồ...để làm sáng tỏ
các vấn đề trong sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đối với việc quán
triệt và thực hiện chính sách ruộng đất của Trung ương Đảng.
6. Đóng góp của luận văn
- Tái hiện gần 20 năm thực hiện chính sách ruộng đất đổi mới của
Đảng ở tỉnh Thanh Hoá, trong đó đã làm rõ các chủ trương, biện pháp của
Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá cùng hoạt động cụ thể trong toàn tỉnh nhằm thực
hiện một chính sách quan trọng của Đảng.
- Góp phần tổng kết rút kinh nghiệm trong quá trình nghiên cứu
lịch sử Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá và lịch sử địa phương Thanh Hoá những
4


năm 1988- 2006.
- Là tài liệu tham khảo trong nghiên cứu lịch sử Đảng, lịch sử kinh tế.
7. Kết cấu của luận văn.
Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo có 3 chương.
Chƣơng 1: Khái quát tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp ở
Tỉnh Thanh Hoá trƣớc đổi mới.
Chƣơng 2: Quá trình thực hiện chính sách ruộng đất ruộng đất đổi
mới của Đảng ở tỉnh Thanh Hoá giai đoạn 1988-1996.

Chƣơng 3: Quá trình chỉ đạo thực hiện cuộc vận động “Đổi điền
dồn thửa” của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá giai đoạn 1996-2006.

5


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH RUỘNG ĐẤT VÀ KINH TẾ
NÔNG NGHIỆP Ở TỈNH THANH HÓA TRƢỚC ĐỔI MỚI
1.1 Vài nét về quá trình hoạt động của các HTX nông nghiệp ở tỉnh
Thanh Hoá.
Hoà bình lập lại, nhân dân miền Bắc bắt tay ngay vào công cuộc khôi
phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, đồng thời tiếp tục hoàn thành
cải cách ruộng đất, tạo tiền đề đưa miền Bắc quá độ tiến lên CNXH.
Để chuẩn bị cho việc hình thành mô hình tổ chức sản xuất cao hơn,
Đảng và Nhà nước chủ trương khuyến khích vận động nông dân tham gia các
tổ chức đổi công, giúp đỡ lẫn nhau đẩy mạnh sản xuất và đã tổ chức được các
hội nghị đổi công toàn quốc. Các hội này đã có tác dụng thiết thực trong việc
vận động, hướng dẫn nông dân phát huy yếu tố tích cực của hình thức hợp tác
lao động giản đơn.
Tháng 8 năm 1955, tại hội nghị Trung ương 8 khoá II Đảng ta chủ
trương xây dựng thí điểm một số HTX nông nghiệp lấy đó làm cơ sở thực
tiễn để định hướng công cuộc cải tạo XHCN đối với nông nghiệp. Cuối năm
1955 đã có 6 HTX nông nghiệp được xây dựng thí điểm ở Phú Thọ, Thái
Nguyên, Thanh Hoá. Các HTX lúc đó còn là bậc thấp, quy mô nhỏ; gia đình
xã viên còn được hưởng hoa lợi phần ruộng đất do họ đóng góp và có quyền
rút ruộng đất của mình ra khỏi HTX, quay lại với lối làm ăn cá thể. Hình thức
HTX như vậy còn được thực hiện cho đến cuối năm 1960 vì thế còn được
nông dân hưởng ứng và tham gia.
Trong hai năm 1959- 1960, cuộc vận động hợp tác hoá nông nghiệp

được triển khai đều khắp và trở thành một cao trào rộng lớn. Quá trình hợp
tác hoá nông nghiệp diễn ra từ thấp đến cao nhưng với một tốc độ đặc biệt
nhanh chóng. Đến cuối năm 1960, miền Bắc đã căn bản hoàn thành xây dựng
6


HTX bậc thấp với tổng số 40.422 HTX, thu hút 85,8 % số hộ nông dân tham
gia. Trong đó có 4.346 HTX bậc cao và xuất hiện một số HTX có quy mô
toàn xã ở một số địa phương.
Mỗi bước phát triển của nông nghiệp Thanh Hoá được gắn chặt với
từng chặng đường cách mạng của đất nước, cũng từng trải với những thác
ghềnh, nhưng đến khi có nghị quyết 19 của Trung ương khoá 3, Nghị quyết
22 (1974) và đặc biệt là hội nghị nông nghiệp toàn quốc tại Thái Bình về cuộc
vận động tổ chức lại sản xuất theo hướng sản xuất lớn XHCN, thì Nông
nghiệp Thanh Hoá mới có được những biến đổi quan trọng và phát triển với
tốc độ nhanh.
Có thể nói rằng phát triển kinh tế HTX là một nhu cầu tất yếu luôn
được Đảng, Nhà nước quan tâm, Thanh Hoá là địa phương có phong trào
hợp tác hoá khá sớm (1955- 1958). Qua từng thời kì cách mạng của đất
nước HTX đã góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hôi, an
ninh, quốc phòng của đất nước và của Tỉnh. Nhiều điển hình tiên tiến
không chỉ ở tỉnh mà đã vượt ra phạm vi cả nước như: Xuân Thành, Đông
Hoà, Nga Thuỷ, Thọ Lâm,...
HTX Xuân Thành ( Thọ Xuân) là một điển hình tiên tiến về củng cố
quan hệ sản xuất nông nghiệp, đến năm 1985 trên diện tích 2 lúa 1 màu đạt
17 tấn lương thực quy thóc trên 1 ha được Nhà nước tặng danh hiệu anh
hùng lao động.
HTX Nga Thuỷ (Nga Sơn) bố trí cơ cấu sản xuất, hợp lý gắn được sản
xuất với chế biến đay, cói ngay từ đầu trong từng gia đình, phát triển mạnh
sản xuất hàng xuất khẩu, được nhà nước tằng danh hiệu anh hùng lao động.

Các HTX Thọ Lâm (Thọ Xuân) Hà Tĩnh (Hà Trung) điển hình tiên tiến
về thực hiện Nông Lâm kết hợp.
HTX Quý Lộc (Thiệu Yên) xác định đúng đắn phương hướng sản xuất thâm
7


canh, chuyên canh kết hợp với kinh doanh tổng hợp có hiệu quả, có 60 lao động
chuyên làm thảm bẹ ngô, quỹ phân đạm có 70 tấn quỹ lương thực có 40 tấn.
HTX Cẩm Tân ( Cẩm Thuỷ) làm tốt công tác hạch toán, tính toán được
giá thành của từng loại sản phẩm, thực hiện thâm canh cây lúa nước và cây
ngô đạt năng suất cao trên diện tích 2 vụ lúa đạt 11 tấn/ ha, ngô đạt 10 tấn/ ha.
Ở các huyện miền biển tổ chức lại sản xuất ở các HTX nghề cá do đó
tạo ra được bước chuyển biến mới trong đánh bắt thu mua và giao sản phẩm.
Tháng 9/1975 Hội nghị cán bộ toàn tỉnh tổng kết đông xuân 1974-1975 phát
động làm đông xuân 1975-1976 Tỉnh uỷ chủ trương phát động phong trào
khai hoang phục hoá, san lấp hố bom, hục đấu và chuyển cư trong nội bộ tỉnh,
huyện; Năm 1976 toàn tỉnh điều 14.000 lao động đi khai hoang trên các
huyện miền núi như: Như Xuân, Thạch Thành, Bá Thước, Cẩm Thuỷ, Tĩnh
Gia; khai hoang mở rộng diện tích đồng cói ở Nga Sơn, Hậu Lộc...
Số HTX loại A từ 13,4 % tăng lên 29,7%, số HTX loại B + C từ 96,6%
giảm xuống 70,3% trong đó số HTX yếu kém từ 39,8% giảm xuống còn 17%;
Trên địa bàn các huyện đã xuất hiện nhiều điển hình tốt về các mặt. Các hình
thức HTX kiểu mới ra đời đi từ thấp đến cao trong từng lĩnh vực, từng khâu,
từng cung đoạn, (hợp tác phòng trừ sâu bệnh trong trồng trọt, hợp tác chế
biến, hợp tác làm vườn,...) nhân nhanh các mô hình đã xuất hiện ở các vùng,
các lĩnh vực ra diện rộng
Sản xuất phát triển, quan hệ sản xuất bền chặt đã tạo cho các HTX
nông nghiệp Thanh Hoá hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cách mạng lớn cung
cấp cho Nhà nước một khối lượng lương thực nông sản, thực phẩm. Từ 7 vạn
tấn lương thực trong những năm 1976-1980 đã đạt 14 vạn tấn năm 1981, 15

vạn tấn năm 1984 và 20 vạn tấn 1985. Số HTX loại A từ 13,4 % tăng lên
29,7%, số HTX loại B + C từ 96,6% giảm xuống 70,3% trong đó số HTX yếu
kém từ 39,8% giảm xuống còn 17%; Trên địa bàn các huyện đã xuất hiện
nhiều điển hình tốt về các mặt. Đời sống của nhân dân từng bước được ổn
8


định, không phải nhận viện trợ của Trung ương như thời kỳ trước.
Phong trào hợp tác hoá nông nghiệp là con đường để hướng cho người
nông dân đi lên CNXH. Mục đích tốt đẹp của con đường hợp tác hoá đã được
người nông dân hưởng ứng rộng rãi. Sau hơn 30 năm tiến hành phong trào
hợp tác hoá không ai nghi ngờ mục tiêu và những thành tựu của nó với việc
giải phóng người nông dân, đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Nhưng cũng chính phong trào hợp tác hoá đó đã mắc nhiều sai lầm nghiêm
trọng, mà sai lầm lớn nhất của nó chính là giải quyết không thoả đáng mối
quan hệ ruộng đất dẫn đến làm tha hoá người nông dân và làm trì trệ sự phát
triển của sản xuất nông nghiệp.
Trong các HTX bâc cao, ruộng đất và các tư liệu sản xuất chủ yếu khác
của hộ xã viên được tập thể hoá triệt để và việc phân phối sản phẩm hoàn
toàn dựa vào ngày công lao động được tính bằng điểm. Hoa lợi ruộng đất lúc
này cũng không còn nữa. Như vậy quyền sở hữu tư nhân về ruộng đất và tư
liệu sản xuất chủ yếu khác hoàn toàn bị thủ tiêu; quyền tự chủ về sử dụng
ruộng đất của nông dân xã viên bị xoá bỏ. Việc tập thể hoá triệt để ruộng đất
và điều hành sản xuất tập trung cao độ trong các HTX bậc cao thực tế đã làm
người nông dân thờ ơ với công việc tập thể. Trên thực tế ruộng đất trở thành
vô chủ; người nông dân sản xuất nông nghiệp không gắn bó với ruộng đất,
ruộng đất bị sử dụng lãng phí, kém hiệu quả. Đời sống xã viên vì thế không
đạt mức tối thiểu.
Đối với nông dân, bước chuyển lên HTX là một sự thay đổi căn bản
quan hệ ruộng đất, hộ nông dân mất quyền sở hữu về tư liệu sản xuất cơ bản,

mất quyền sử dụng và mất quyền kinh doanh sản xuất như một đơn vị kinh tế
độc lập. Nếu những quyền ấy càng được tăng cường về phía HTX bao nhiêu
thì cũng tức là càng tách rời người nông dân chừng ấy. Sự chuyển biến quan
hệ ruộng đất đáng lẽ phải tạo nên sự phát triển đi lên của HTX, vai trò tích
cực của người nông dân với tư cách là người làm chủ tập thể phải trở thành
hiện thực, đời sống mọi mặt của nông dân phải được cải thiện, thì trái lại
9


HTX đã không mang lại được kết quả như thế.
Quá trình xây dựng phong trào hợp tác hoá, củng cố cải thiện HTX
được diễn ra khá nhanh, nhưng thiếu vững chắc, laị áp dụng một kiểu mô
hình chung cho tất cả các lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp, cho tất cả mọi vùng
trong tỉnh, trong khi trình độ, điều kiện lực lượng sản xuất chưa phù hơp và
mang tính đặc thù riêng của từng lĩnh vực, từng ngành. Càng củng cố, càng
cải thiện, càng tách người lao động ra khỏi tư liệu sản xuất, đưa vị trí mọi
người lao động, mọi người nông dân trong HTX thành một đơn vị cộng đồng
dưới sự điều khiển chỉ huy thống nhất cảu Ban quản trị. Do đó không phát
huy được tiềm năng của mọi thành viên. Tổ chức sản xuất và cơ chế quản lý
trong HTX lại theo chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước, quan hệ với nhà nước là cấp
phát và giao nạp, sử dụng cơ chế hiện vật hóa, tự túc, tự cấp. Quan hệ giữa
nông dân với Nhà nước là quan điểm công điểm - hiện vật, dẫn đến vừa rong
công phóng điểm, vừa làm giảm giá trị, giảm hiệu quả lao động, không gắn
được người lao động với kết quả cuối cùng của mình.
Mặt khác do quá trình biến động của cách mạng, HTX phải làm cả
chức năng quản lý, bảo hiểm xã hội, từ thiện... Lợi ích của hộ nông dân trong
các HTX lại vi phạm nghiêm trọng, bình quân trong các thời kỳ 1965-1975,
người lao động chỉ được hưởng 20-25%, giá trị sản phẩm làm ra đối với
những vùng khó khăn chỉ còn khoảng 15%. Do hưởng thụ thành quả ít nên đã
triệt tiêu động lực của người lao động, là nguyên nhân cơ bản làm cho người

lao động không thiết tha vơi HTX, với cơ chế phân phối bình quân thực sự
mất công bằng và kiểu chỉ huy tập trung mệnh lệnh. Thực trạng của việc chia
tách hay sát nhập quy mô diễn ra ở các địa phương hay những thời kỳ này đã
thể hiện sinh động - tâm tư nguyện vọng của nông dân muốn thoát khỏi
những ràng buộc này, trong khi đó lại chỉ tách hay sát nhập thực chất đó là
biện pháp cải tiến, củng cố mang kiểu hành chính, mang tính bắt buộc đã vừa
không gỡ được những ách tắc cho sản xuất lại còn gây ra những tốn kém thất
thiệt về tài sản, về cổ phần đóng góp của xã viên.
10


Có thể nói tình hình hợp tác hóa và tổ chức HTX đã mang nặng tính
phong trào và chủ nghĩa hình thức chưa xem HTX là một tổ chức kinh tế đích
thực- là phương tiện để thúc đẩy quan hệ sản xuất phát triển cho phù hợp lực
lượng sản xuất các giải pháp đề ra thường nặng về chấn chỉnh tổ chức, về
động viên tư tưởng nên đã kém hiệu quả.
Bên cạnh đó hình thức HTX cũng bắt đầu bộc lộ những vấn đề mới bức
xúc cả về nhận thức, lý luận cả về thực tiễn chỉ đạo và tổ chức thực hiện cần
được nghiên cứu, tổng kết để khắc phục tình trạng hiệu quả kinh tế còn thấp,
công nợ chậm được xử lý, các nhu cầu bức thiết cho phát triển kinh tế còn
thấp, công nợ chậm được xử lý, các nhu cầu bức thiết cho phát triển kinh tế
HTX chỉ mới đáp ứng được một phần rất nhỏ, nhiều lĩnh vực quan trọng
trong phát triển kinh tế HTX còn bị bỏ trống, quản lý kinh tế HTX còn bị
buông lỏng. Nhiều HTX cần được giải thể hoặc chuyển đổi nhưng chưa xử lý
được tồn đọng, nhiều nơi cần có HTX nhưng rất lúng túng chưa thành lập
được.
Nhận định trên đây đã được thực tế chứng minh trong thời kỳ 19811989 trước khi nghị quyết 10 của Bộ chính trị ra đời. Vào thời điểm này
những khuyết tật trong chính sách kinh tế và mâu thuẫn trong cơ chế quản lý
đã bộc lộ ngày càng rõ, càng sâu sắc hơn, đã dẫn tới hiện tượng khoán chui ở
nhiều nơi, đó là giao khoán màu trên đất vụ đông, giao khoán ruộng ở những

vùng xa, vùng xấu cho các hộ, tập thể định mức một sản lượng nhất định rồi
giao cho hộ canh tác, vượt bao nhiêu hộ nhận khoán hưởng bấy nhiêu, ở một
số vùng hoá giá đàn trâu bò cho hộ. Tất cả thực trạng đó chứng tỏ những hình
thức kinh tế được tạo lập nên trong thời gian đó đã không thích ứng được với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, không thích ứng được hoàn cảnh
mới. Kinh tế nông nghiệp đang đứng trước yêu cầu điều chỉnh lớn các quan
hệ sản xuất.
1.2 Quá trình thực hiện chỉ thị 100 của Đảng ở tỉnh Thanh Hoá.
11


Trước sự khủng hoảng của mô hình quản lý và sự giảm sút của tình
hình sản xuất nông nghiệp, một số tổ chức Đảng và quần chúng đã tự tìm
kiếm cách làm mới. Từ đầu năm 1975 ở một số nơi đã xuất hiện hình thức
khoán đến từng hộ gia đình hoặc cho xã viên mượn đất, khuyến khích xã viên
khai hoang phục hoá đất đai. Hải Phòng và Vĩnh Phú là nơi xuất hiện hình
thức khoán hộ từ những năm 60 nhưng không đựơc chấp nhận. Thập niên 70,
hai địa phương (Đồ Sơn- Hải Phòng, Vĩnh Lạc- Vĩnh Phú) lại là nơi xuất hiện
trở lại hình thức khoán hộ. Sau đó hình thức này lan dần ra các địa phương
với mức độ khác nhau.
Để chọn lựa một quyết định đúng đắn trước hiện tượng khoán hộ, ngày
21 tháng 10 năm 1980, Ban bí thư Trung ương ra thông báo số 22 ghi nhận và
cho phép các địa phương làm thử hình thức khoán sản phẩm đối với cây lúa.
Sau khi có thông báo số 22, cơ chế khoán hộ được triển khai rộng rãi ở nhiều
hợp tác xã trên các vùng đồng bằng, trung du, miền núi.
Năm 1980, phần lớn các HTX của Hải Phòng đã thực hiện chế độ
khoán mới từ 20 đến 100% diện tích lúa mùa. Năng suất bình quân toàn thành
đạt trên 23 tạ/ha (mặc dù vụ mùa năm 1980 miền Bắc kể cả Hải Phòng bị lụt,
úng lụt rất nghiêm trọng. Năng suất lúa bình quân của miền Bắc chỉ đạt 18,8
tạ/ha. Tổng sản lượng lương thực cả năm của Hải Phòng tăng 6,3% so với

năm 1979. Do đó, Hải Phòng đã hình thành sớm nghĩa vụ đóng góp lương
thực cho Nhà nước với 23299 tấn, vượt kế hoạch 299 tấn. Mức ăn (chưa kể
phần vượt khoán sản lượng của xã viên) bình quân hàng tháng của mỗi người
tăng thêm 3kg thóc.
Trên cơ sở tổng kết đánh giá tình hình thực tiễn, ngày 13 tháng 1 năm
1981, Ban bí thư Trung ương dã ban hành chỉ thị 100 CT- TW, chính thức
quyết định chủ trương thực hiện cơ chế khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm
và người lao động.
Chỉ thị 100 CT- TW nêu rõ: mục đích của việc thực hiện cơ chế khoán
12


mới trong nông nghiệp là nhằm “đảm bảo phát triển sản xuất và nâng cao
hiệu quả kinh tế, trên cơ sở lôi cuốn được mọi người hăng hái lao động, kích
thích tăng năng suất lao động, sử dụng tốt đất đai, tư liệu sản xuất hiện có, áp
dụng tiến bộ kỹ thuật, tiết kiệm chi phí sản xuất, củng cố, tăng cường quan hệ
sản xuất và xã hội chủ nghĩa ở nông thôn không ngừng nâng cao thu nhập và
đời sống của xã viên, tăng tích luỹ của HTX, làm tròn nghĩa vụ và không
ngừng tăng khối lượng nông sản cung ứng cho Nhà nước” [94, tr. 71]. Chỉ thị
100 với nội dung chủ yếu “khoán sản phẩm cuối cùng cây lúa đến nhóm và
người lao động” mà nhân dân gọi tắt là “khoán 100” đã bước đầu góp phàn
xoá bỏ phương thức quản lý tập trung quan liêu, sản xuât tập thể “cha chung
không ai khóc”. Do đó “khoán 100” đã nhanh chóng đi vào cuộc sống nông
thôn như là một luồng gió mới.
Nếu trước năm 1981, người nông dân làm việc trong các HTX với tâm
trạng của một người “làm thuê ăn điểm” thì sau quá trình sản xuất trên ruông
khoán và được khuyến khích sản xuất bằng sản phẩm vượt khoán, quan tâm
đến kết quả cuối cùng của sản xuất.
Chỉ thị 100 CT- TW và một loạt các chỉ thị tiếp theo của Ban bí thư
Trung ương (khoá V) đã thể hiện rõ hơn những chủ trương lớn của Đảng về

chính sách ruộng đất trong giai đoạn này như: Bước đầu nhận vai trò của kinh
tế hộ gia đình xã viên. Từ chỗ không có vai trò gì đáng kể đối với kinh tế tập
thể, đến nay hộ gia đình xã viên được quyền chủ động ở một số khâu sản xuất
và được khuyến khích phát triển. Chỉ thị 38/CT- TW của Ban Bí thư Trung
ương đã cho phép các hộ gia đình nông dân tận dụng mọi nguồn đất đai mà
hợp tác xã, nông, lâm trường chưa sử dụng hết để đưa vào sản xuất. Đất khai
hoang đất phục hoá được miễn thuế trong thời hạn 5 năm. Nhà nước không
đánh thuế sản xuất, kinh doanh đối với kinh tế gia đình. Hộ gia đình nông dân
được quyền tiêu thụ các sản phẩm làm ra.
Với chủ trương này những yếu tố cấu thành mô hình hợp tác xã- tập thể
13


hoá đã có sự thay đổi. Ruộng đất vẫn thuộc sở hữu tập thể nhưng đã được
giao khoán cho các hộ. ở một số khâu lao động của hộ gia đình đã thay thế
cho lao động tập thể. Chế độ phân phối theo kết quả lao động đã thay thế một
phần cho chế độ phân phối theo công điểm. Cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập
trung thống nhất đã được nới lỏng. Mối quan hệ giữa hợp tác xã với hộ nông
dân bắt đầu có chuyển biến.
Quán triệt chỉ thị 100 CT- TW của Trung ương Đảng, thống nhất nhận
thức trong công tác khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động.
Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đã triển khai và phổ biến rộng rãi trong toàn thể
quần chúng nhân dân. Từ tháng 6/ 1980 tiếp theo một vài HTX đã tổ chức
nhóm đến sản phẩm cuối cùng cho xã viên trong vụ chiêm xuân 1980,
Thường vụ Trung ương đã giao cho Ty nông nghiệp cùng với Ban nông
nghiệp của Đảng tổ chức nghiên cứu xây dựng phương án khoán sản phẩm
trong nông nghiệp. Trung tuần tháng 9/1980 Thường vụ Trung ương đã thảo
luận phương án khoán sản phẩm và quyết định làm thí điểm ở một số HTX
thuộc các vùng, các miền, các loại HTX khác nhau: chủ trương này đang
được triển khai công tác chuẩn bị ở một số huyện thì cuối tháng 10/1980 có

thông báo 22 của Ban Thường vụ Trung ương, Tỉnh uỷ đã họp phiên toàn thể
ban chuyên đề công tác khoán sản phẩm trong các HTX, sau 2 ngày thảo luận
có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng cuối cùng Tỉnh uỷ đã thống nhất ra thông
báo số 9 thực hiện khoán sản phẩm cuối cùng đến người lao động như nội
dung thông báo 22 của Ban Bí thư Trung ương đã chỉ dẫn.
Sau cuộc họp Tỉnh uỷ, các huyện đều tổ chức quán triệt chủ trương
khoán sản phẩm đến người lao động cho cán bộ chủ chốt các ngành xung
quanh huyện, cán bộ chủ chốt ở xã HTX, đài báo...và địa phương tập trung
tuyên truyền hướng dẫn công tác khoán sản phẩm. Từ đó, chủ trương khoán
sản phẩm đến người lao động đã được phát động trong mọi công tác của quần
chúng xã viên. Nói chung, đại bộ phận cán bộ Đảng viên và quần chúng xã
14


viên nhận rõ chủ trương khoán sản phẩm trong nông nghiệp là cần thiết, yêu
cầu được thực hiện sớm, nhưng có một số bộ phận cán bộ phân vân, lo sợ
quan hệ sản xuất XHCN bi xói mòn, một bộ phận quần chúng thiếu sức lao
động lo cho nhà mình không thể nhận khoán được, không có thu hoạch, cá
biệt có người phản đối vì trước đây thường ỷ lại vào tập thể, trốn tránh nghĩa
vụ lao động.
Để thực hiện được chế độ khoán mới, chủ trương của Tỉnh tập trung
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ HTX và đội sản xuất, chỉ trong thời gian ngắn
trước khi bước vào sản xuất vụ chiêm xuân 1981, các huyện đã chia ra từng
cụm nhỏ để bồi dưỡng đựơc đại bộ phận cán bộ HTX từ đội trưởng đội phó
trở lên, đợt bồi dưỡng này đã bồi dưỡng trên 8000 cán bộ HTX trong đó có
trên 6000 đội trưởng đội phó sản xuất, thời gian mỗi lớp 3- 4 ngày, bước đầu
góp phần tăng thêm nhận thức và phương pháp khoán mới cho đội ngũ cán bộ
HTX.
Trên cơ sở được trang bị kiến thức, các đảng bộ cơ sở đã tổ chức thảo
luận chủ trương khoán, mở đại hội HTX quyết định hình thức khoán. Phong

trào quần chúng đòi hỏi được thực hiện chế độ khoán mới rất sôi nổi có huyện
lúc đầu muốn làm thí điểm rồi mới mở rộng cho vững chắc hơn, nhưng về sau
càng thực hiện càng phát triển rộng phong trào khoán, một số HTX tiên tiến
và HTX yếu kém cán bộ có những phân vân chưa muốn khoán mới, quần
chúng xã viên có những kiến nghị đòi được thực hiện.
Mặc dù khoán sản phẩm cuối cùng cho người lao động đã trở thành
nguyện vọng của quần chúng xã viên, nhưng là việc làm rất mới chưa có kinh
nghiệm, cho nên bước đi của các địa phương có khác nhau, có huyện chủ
động để mở rộng khoán sản ngay từ đầu có địa phương triển khai chậm nên
có những lúng túng nhất định.
Đến cuối tháng 12/1980 các HTX đồng bằng mới có gần 70% số HTX
thực hiện chế độ khoán đến người lao động, huyện có nhiều HTX khoán mới
15


là Triệu Sơn 35/40 HTX, Nông Cống 36/41 HTX, Quảng Xương 60/66 HTX,
Trung Sơn 62/71 HTX, Thiệu Yên 62/66 HTX: 7 huyện miền núi làm thí
điểm ở 20 HTX, nhiều nhất Như Xuân 10 HTX.
Nhưng từ sau hội nghị sơ kết công tác khoán của Bộ Nông nghiệp tại
Hải Phòng và tiếp theo chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương, công tác
khoán mới được triển khai hầu hết các HTX đồng bằng, các huyện miền núi
cũng không hạn chế phạm vi thí điểm, kể cả một số HTX đã tiến hành khoán
việc ở các khâu cày, làm mạ và cấy, nhiều HTX sau điều hành cấy xong đã
giao chăm sóc và thu hoạch cho xã viên nhận khoán.
Tính đến 15/3/1981, số HTX đã khoán sản phẩm đến nhóm lao động và
người lao động như sau:

Thọ Xuân

36/43 HTX


Triệu Sơn

38/40 HTX

Đông Thiệu

45/47 HTX

Quảng Xương

65/60 HTX

Tĩnh Gia

72/80 HTX

Hoằng Hoá

53/55 HTX

Thiệu Yên

60/66 HTX

Nông Cống

40/41 HTX

Hậu Lộc


40/41 HTX

Trung Sơn

70/71 HTX

Tổng cộng số HTX ở vùng đồng bằng 563 HTX, đã thực hiện khoán
sản phẩm cho nhóm và người lao động 534 HTX= 95%
Miền núi và trung du
16


Vĩnh Thạch

28/81 HTX

Cẩm Thuỷ

10/51 HTX

Như Xuân

30/125 HTX

Lương Ngọc

19/161 HTX

Thường Xuân


2/80 HTX

Bá Thước

1/125 HTX

Quan Hoá

0/171 HTX

Tổng cộng số HTX ở trung du và miền núi 793 HTX, đã thực hiện
khoán sản phẩm 80 HTX.
Trong số HTX đồng bằng đã khoán sản, có 6 HTX chỉ khoán một phần
diện tích từ 30-70% so với diện tích cấy lúa (Hoằng Hoá 5 HTX, Hậu Lộc 1
HTX) 25 HTX chia nhóm cố định để khoán sản (Tĩnh Gia 18 HTX, Hậu Lộc
4 HTX, Trung Sơn 2 HTX, Quảng Xương 1 HTX) miền núi 14 HTX chia
nhóm để khoán (Vĩnh Thạch 5 HTX, Như Xuân 8 HTX, Bá Thước 1 HTX).
Số HTX vẫn giữ chế độ khoán việc ở đội sản xuất 29 HTX trong số này có 15
HTX thuộc loại HTX tiên tiến và khá.
Nói chung các HTX ở đồng bằng và trung du, sau khi có chủ trương
khoán sản phẩm đã tích cực cải tiến phương pháp giao khoán và điều hành
công việc, kể cả một số HTX vẫn giữ chế độ khoán việc ở đội sản xuất.
Sản lượng giao khoán đến nhóm lao động và người lao động là căn cứ
vào mức năng suất của HTX đã khoán cho đội sản xuất mà tính toán điều
chỉnh cụ thể cho từng thửa ruộng theo độ phì nhiêu của đất, năng suất bình
quân đã đạt đựơc trong những năm gần đây và đầu tư về lao động, phân bón
của HTX trên thửa ruộng đó nhằm bảo đảm cho sản lượng thu hoạch của các
thửa ruộng trong đội sản xuất ăn khớp với sản lượng HTX giao khoán đến đội
sản xuất.

17


Ruộng đất giao khoán đến nhóm lao động và người lao động tiến hành
sản xuất chủ yếu là đối với lao động ngành trồng trọt. HTX căn cứ vào khả
năng lao động, nghĩa vụ lao động và mức đầu tư lao động trên đơn vị diện
tích để tính toán sản lượng đất giao khoán cho phù hợp. Cán bộ xã, HTX, đội
sản xuất cũng đựơc tính giao ruộng đất làm khoán tương ứng với số công quy
định phải trực tiếp tham gia công tác cho họ. Đối với lao động làm các ngành,
nghề khác nếu xét cần thiết thì cũng có thể được giao thêm ruộng đất làm
khoán với tỷ lệ nhất định trên cơ sở bảo đảm kế hoạch phát triển ngành nghề
của HTX. Cần gắn với nghĩa vụ lao động đủ giao mức diện tích khoán cho xã
viên nhằm bắt buộc những người lười lao động cho tập thể cũng phải có
nghĩa vụ lao động nhận khoán với HTX.
Ruộng đất giao khoán đến lao động để thực hiện sản lượng không nên
phân tán ra nhiều mảnh, nhiều chỗ, nhiều xứ đồng khác nhau, nhưng phải
đảm bảo có tỷ lệ hợp lý giữa lúa và hoa màu, giữa diện tích cấy lúa sớm, lúa
muộn và lúa đại trà để lao động được phân bổ đều vào các tháng trong quá
trình sản xuất. Đối với những ruộng xấu, ruông xa thì chủ yếu định mức
khoán điều chỉnh cho phù hợp để xã viên nhận khoán. Để khắc phục tình
trạng xử lý ruộng đất, khi giao khoán đến nhóm lao động và người lao động
theo kinh nghiệm của HTX đã làm có thể giải quyết theo cách:
- Xếp các thửa to, nhỏ khác nhau để tương ứng với 1, 2, 3 lao động để
tổ chức việc giao khoán cho 1 thửa ruộng nhiều nhất cũng chỉ giao khoán cho
lao động ở 2 gia đình là cùng. Nếu cần thiết cũng có thể hình thành các bờ
gọn nhỏ để vừa tiện giao cho việc giữ nước, chăm sóc, vừa không ảnh hưởng
đến diện tích và việc sử dụng cơ giới khi làm đất. Những HTX được giao
khoán sản phẩm trồng trọt cho lao động cần khoán hết các loại diện tích cho
xã viên để đảm bảo sự phát triển đồng đều đối với các loại cây trồng. Ruộng
giao khoán cho xã viên nên ổn định trong thời gian 2, 3 năm để xã viên yên

tâm tích cực thực hiện thâm canh. Mức năng suất khoán thì căn cứ vào khả
năng đầu tư phân bón, kĩ thuật của HTX trong từng năm kế hoạch để điều
18


×