Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

Đảng bộ huyện Phú Lương (Thái Nguyên) lãnh đạo thực hiện chính sách ruộng đất (từ 1997 đến 2008)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (314.8 KB, 66 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Trong lịch sử loài người, nông nghiệp là nguồn chủ yếu cung cấp
lương thực thực phẩm, và cho đến nay, nông nghiệp vẫn là ngành duy nhất
tạo ra lương thực cho loài người. Ngoài việc cung cấp lương thực cho loài
người, nông nghiệp còn có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế của mỗi
nước, nhất là đối với những nước đang phát triển có tỉ lệ cơ cấu nông nghiệp
giữ vị trí chủ đạo.
Ruộng đất và nông dân là những yếu tố cơ bản của nông nghiệp và
nông thôn. Ruộng đất là tư liệu sản xuất quan trọng nhất, là tư liệu sản xuất
đặc biệt không gì có thể thay thế được, còn nông dân lao động lại là nhân
tố quyết định của quá trình sản xuất “ruộng đất là cha, đất là mẹ của của
cải vật chất”.
Có thể nói ruộng đất là tư liệu sản xuất quan trọng, thứ tài sản quý
giá của cư dân nông nghiệp. Ở Việt Nam, tuyệt đại đa số cư dân sống bằng
nghề trồng lúa nước và làm nông nghiệp, cho nên, ruộng đất lại càng trở
nên quan trọng và quý giá hơn. Bởi vậy mà đất đai cần phải được tổ chức,
quản lý, khai thác và sử dụng một cách hợp lý và khoa học nhằm phục vụ
đắc lực cho sự phát triển chung của cả nền kinh tế - xã hội. Giữa nông dân
và ruộng đất có mối quan hệ: hoặc nông dân chỉ là người làm thuê trên
mảnh đất của người khác hoặc họ sẽ là người làm chủ quá trình sản xuất và
thu nhập từ đất đai khi họ là chủ ruộng.
Dưới thời kỳ phong kiến Việt Nam, Nhà nước phong kiến luôn luôn
quan tâm đến vấn đề ruộng đất. Điều này được thể hiện ở việc các Nhà
nước phong kiến Việt Nam luôn coi trọng việc khai hoang mở rộng diện
tích ruộng đất. Tuy nhiên dưới thời kỳ phong kiến ruộng đất lại chủ yếu tập
trung trong tay địa chủ, quan lại, quý tộc phong kiến, còn người nông dân
lại hầu như không có ruộng đất để sản xuất.
1
Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã thông qua Chính cương
vắn tắt, Sách lược vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo. Trong đó đã đề ra


nhiệm vụ là chống đế quốc và chống phong kiến để giành lại độc lập dân tộc
và ruộng đất cho dân cày. Với đường lối cách mạng đúng đắn nên Đảng đã
nhận được sự hưởng ứng của đông đảo tầng lớp nhân dân lao động, từ đó đã
làm nên thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 tiếp đó là cuộc kháng
chiến chống Pháp (1945-1954).
Theo như lời của Mác trong Tuyên ngôn Đảng cộng sản (1848) thì
“cách mạng ruộng đất là điều kiện để giải phóng dân tộc”. Bởi vậy mà sau khi
miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, Đảng và Chính phủ đã đề ra nhiều
chính sách trong lĩnh vực ruộng đất, nông nghiệp và nông thôn. Đặc biệt
tháng 11-1953, Ban chấp hành Trung Ương Đảng đã thông qua Cương lĩnh
ruộng đất và quyết định cải cách ruộng đất trong kháng chiến. Đến tháng 12-
1953, Quốc hội đã thông qua Luật cải cách ruộng đất và tiến hành cuộc cải
cách ruộng đất. Sau đó từ năm 1958 trở đi, Đảng chủ trương tiến hành tập thể
hoá nông nghiệp. Theo đó, toàn bộ miền Bắc trong đó có huyện Phú Lương -
Thái Nguyên, hầu hết ruộng đất cũng như sản xuất nông nghiệp đều được tập
thể hoá và đặt dưới sự quản lý của hợp tác xã. Tuy nhiên, trong quá trình tập
thể hoá nông nghiệp, bên cạnh những mặt tích cực còn bộc lộ nhiều hạn chế,
nhất là khâu quản lý và tổ chức sản xuất.
Năm 1975, đất nước được thống nhất, trước yêu cầu đổi mới và tiếp tục
phát triển kinh tế nông nghiệp, ngày 5-4-1988, Nghị quyết 10 của Bộ chính
trị, về đổi mới quản lý nông nghiệp ra đời. Theo đó, ruộng đất vẫn thuộc sở
hữu của Nhà Nước nhưng người nông dân có quyền sử dụng ổn định, lâu dài.
Ngoài ra họ còn có quyền chuyển nhượng, sang nhượng, cho thuê, thế chấp
ruộng đất. Như vậy, về thực chất thì ruộng đất đã chuyển từ chế độ sở hữu tập
thể sang chế độ công hữu tư dụng.
Kể từ sau Khoán 10 (1988) và đặc biệt sau khi thực hiện Nghị quyết về
việc phân chia lại địa giới hành chính (6 -11 – 1996), thì huyện Phú Lương đã
2
có nhiều thay đổi về điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội.Trên cơ sở của
những sự thay đổi đó, đồng thời là dưới ánh sáng lãnh đạo của Trung ương

Đảng, Đảng bộ huyện Phú Lương đã lãnh đạo nhân dân trong huyện thực hiện
những chính sách ruộng đất mới một cách có hiệu quả. Nhờ đó mà kinh tế
nông nghiệp nói riêng và toàn bộ nền kinh tế của huyện nói chung đã có nhiều
những chuyển biến tích cực. Nhưng sự lãnh đạo của Đảng bộ Phú Lương
trong việc thực hiện những chính sách ruộng đất mới như thế nào, những kết
quả đạt được ra sao trong giai đoạn từ năm 1997 đến năm 2008 là một vấn đề
lớn còn bỏ ngỏ. Nếu tìm hiểu được vấn đề này sẽ góp phần cho chúng ta thấy
được cái nhìn tổng quát về quá trình lãnh đạo thực hiện chính sách ruộng đất
của Đảng bộ Phú Lương và những kết quả to lớn mà Đảng bộ và nhân dân
trong huyện đã đạt được, đồng thời rút ra được một số bài học kinh nghiệm
trong quá trình lãnh đạo thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng và nâng cao
hiệu quả sử dụng ruộng đất cho người nông dân.
Xuất phát từ những lý do trên đây, tôi chọn đề tài: “Đảng bộ huyện
Phú Lương (Thái Nguyên) lãnh đạo thực hiện chính sách ruộng đất (từ 1997
đến 2008)” làm khóa luận tốt nghiệp.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Từ trước đến nay, vấn đề ruộng đất đã được trình bày trong nhiều tác
phẩm của các nhà lãnh đạo Đảng ta và các nhà nghiên cứu khoa học tự nhiên
và xã hội.
Về lịch sử chế độ ruộng đất thời kỳ cổ trung đại và cận đại có các tác
phẩm như: Chế độ ruộng đất ở Việt Nam thế kỷ XI-XVII của Trương Hữu
Quýnh, Nxb Khoa học xã hội,tập 1, HN,1982, tập 2, HN, 1983.
Về vấn đề ruộng đất trong thời kỳ cách mạng dân tộc, dân chủ, trước hết
phải kể đến tác phẩm: Vấn đề dân cày, Đức Cường, xuất bản năm 1937 của
Qua Ninh và Vân Đình (Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp); Cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân, tập 1, tập2, Nxb Sự Thật, HN, 1975 của đồng chí
Trường Chinh
3
Về vấn đề ruộng đất và nông nghiệp, nông thôn trong thời kỳ đổi mới có
những tác phẩm như: Vấn đề ruộng đất ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội,

HN, 2007 của Lâm Quang Huyên.
Về vấn đề “Đảng bộ huyện Phú Lương (Thái Nguyên) lãnh đạo thực
hiện chính sách ruộng đất của Đảng (1997-2008)” mới chỉ được trình bày một
cách sơ lược ở các cuốn sách như: Quá trình thực hiện quyền sở hữu ruộng đất
cho nông thôn ở Thái Nguyên (1945-1957), Nxb Chính trị quốc gia, HN, 2002
của TS. Nguyễn Duy Tiến, Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên, tập 1 (1936-
1965), tập 2 (1965-2000) Xuất bản năm 2005. Lịch sử Đảng bộ huyện Phú
Lương (1930-1954), huyện uỷ Phú Lương xuất bản năm 1996; Lịch sử Đảng bộ
huyện Phú Lương (1955 – 2000), Huyện Uỷ Phú Lương xuất bản năm 2005;
Luận văn Thạc sĩ của Phí Văn Liệu “sở hữu và sử dụng ruộng đất ở tỉnh Thái
Nguyên (1988-2005)”…
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đây đã phác họa được bức
tranh toàn cảnh về vấn đề ruộng đất, nông nghiệp ở nước ta thời kỳ phong
kiến tự chủ đến nay. Nhưng vấn đề “Đảng bộ huyện Phú Lương lãnh đạo
thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng (1997-2008)” vẫn chưa có một
công trình khoa học nào được công bố. Tuy nhiên, những công trình nghiên
cứu trước đây đã giúp cho tôi phương hướng và phương pháp tiếp cận để tiếp
tục đi sâu nghiên cứu mà tôi đã đặt ra.
3. Đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
+ Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Tìm hiểu về quá trình lãnh đạo của Đảng bộ huyện Phú Lương trong việc
thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng (1997 – 2008).
+ Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu những chính sách về ruộng đất của Đảng trong giai đoạn (1997 –
2008) và biện pháp được Đảng bộ huyện Phú Lương lãnh đạo thực hiện
trong giai đoạn trên
- Đánh giá sự tác động của các chính sách ruộng đất ảnh hưởng tới huyện
Phú Lương sau những chính sách đó.
4
- Tìm hiểu những mặt mạnh, những vấn đề còn yếu kém ở địa phương trong

quá trình sản xuất từ đó đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả,
năng suất, chất lượng và giảm thiểu những khó khăn cho người nông dân.
+ Giới hạn nghiên cứu
Vấn đề Đảng lãnh đạo thực hiện chính sách ruộng đất là một vấn đề
rộng, liên quan đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Do đó, trong đề tài này tôi
chỉ giới hạn nghiên cứu ở những nội dung cơ bản sau:
- Nghiên cứu về quá trình lãnh đạo thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng
bộ Phú Lương trong giai đoạn (1997 – 2008).
- Kết quả những chính sách liên quan đến phát triển kinh tế nông nghiệp
huyện Phú Lương (1997 – 2008), những thành tựu, hạn chế.
- Thời kỳ đất nước tiến hành công nghiệp hóa – hiện đại hóa, bộ mặt nông
nghiệp, nông thôn đã thay đổi như thế nào và những phương pháp mới để
nâng cao chất lượng ruộng đất và hiệu quả cây trồng.
+ Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi địa bàn được nghiên cứu của đề tài là toàn bộ huyên Phú Lương từ năm
1997 đến năm 2008.
- Phạm vi thời gian được đề tài nghiên cứu là từ khi có Nghị quyết về việc
chia lại địa giới hành chính đến năm 2005.
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
* Nguồn tài liệu.
Tài liệu thông sử: Giáo trình lịch sử Việt Nam, tập 1, tập 2, tập 3; Các
tác phẩm thông sử khác được công bố và xuất bản…
Tài liệu lưu trữ: Các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng về việc thực hiện các
chính sách ruộng đất, các báo cáo về tình hình ruộng đất, Niên giám thống kê,
Tổng kiểm kê đất đai hiện đang được lưu trữ tại Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái
nguyên, Tỉnh uỷ Thái Nguyên, Uỷ ban nhân dân huyện Phú Lương , Huyện uỷ
Phú Lương, Chi cục thống kê tỉnh Thái Nguyên…
Tài liệu chuyên khảo: quá trình thực hiện quyền sở hữu ruộng đất cho
nông dân ở Thái Nguyên (1945-1957), Nxb Chính trị quốc gia, HN, 2002 của
5

PGS, TS. Nguyễn Duy Tiến, Luận văn Thạc sĩ của Phí Văn Liệu “sở hữu và
sử dụng ruộng đất ở tỉnh Thái Nguyên (1988-2005)”.
* Phương pháp nghiên cứu
Từ nguồn tư liệu trên, tác giả đã sử dụng phương pháp lịch sử, phương
pháp logic là chủ yếu. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng các phương pháp khác
như: phương pháp thống kê, phân tích, so sánh. Trong đó thì việc phân tích
các số liệu thống kê, các báo cáo tổng kết được coi trọng.
5. Đóng góp của đề tài.
- Làm rõ được quá trình lãnh đạo của Đảng bộ Phú Lương trong việc lãnh đạo
thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng, tình hình sở hữu và quan hệ sử dụng
ruộng đất ở huyện Phú Lương từ 1997-2008 về các phương diện: Sở hữu ruộng
đất, phương thức khai thác ruộng đất.
- Chỉ ra thực trạng khai thác ruộng đất ở Phú Lương trong những năm từ
1997-2008, đồng thời nêu ra được những bài học kinh nghiệm trong quá
trình lãnh đạo thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng, những giải pháp
nhằm nâng cao hiệu suất sử dụng ruộng đất cho người nông dân. Qua đó, góp
phần giúp các nhà hoạch định hiểu rõ và đề ra được những chính sách phù
hợp để thúc đẩy nền kinh tế nông nghiệp của huyện phát triển, giúp nông dân
Phú Lương sử dụng ruộng đất một cách hợp lý để không làm lãng phí nguồn
tư liệu quý giá mà thiên nhiên đã ban tặng.
6. Cấu trúc của đề tài.
Đề tài gồm ba phần: Mở đầu, nội dung và kết luận.
Phần nội dung gồm có ba chương:
Chương 1. Khái quát về huyện Phú Lương.
Chương 2. Đảng bộ huyện Phú Lương (Thái Nguyên) lãnh đạo thực hiện chính
sách ruộng đất của Đảng (1997 – 2008).
Chương 3. Những thành tựu, hạn chế và bài học kinh nghiệm trong quá trình
lãnh đạo thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng bộ huyện Phú Lương.

6

CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN PHÚ LƯƠNG
1.1. Điều kiện tự nhiên.
Phú Lương là một huyện miền núi, nằm ở phía bắc của tỉnh Thái
Nguyên, thuộc vùng trung du miền núi Bắc Bộ. Nhờ nằm ở vị trí đó mà Phú
Lương nói riêng và Thái Nguyên nói chung là vùng đệm nối giữa các tỉnh
trung du miền núi phía Bắc với đồng bằng sông Hồng. Phú Lương nằm cách
thành phố Thái Nguyên 22km về phía Tây Bắc. Huyện Phú Lương thuộc
tỉnh Thái Nguyên với diện tích là 368,82km
2
. Trong đó, đất nông nghiệp
119,79 km
2
, đất lâm nghiệp 164,98 km
2
, diện tích đất nuôi trồng thủy sản
6,65km
2
, đất phi nông nghiệp 46,63 km
2
, đất chưa sử dụng 31,64 km
2
. Phú
Lương có 14 xã, 2 thị trấn và được giới hạn với hệ tọa độ địa lý như sau:
21
0
35’23”- 21
0
55’06” vĩ độ Bắc và 105
0
37’04” - 105

0
48’02” kinh độ đông.
Phía Bắc giáp huyện Chợ Mới (Bắc Kạn), huyện Định Hóa tỉnh Thái
Nguyên; phía đông giáp huyện Đồng Hỷ, phía Nam và Đông Nam giáp
huyện Đại Từ, thành phố Thái Nguyên.
Về địa hình: Phú Lương nằm trong hệ kiến tạo hình thành địa hình của
tỉnh Thái Nguyên, huyện Phú Lương thuộc phần cuối của cánh cung Ngân
Sơn. Cho nên, đồi núi của Phú Lương có độ cao vừa phải, ngoài một số núi đá
vôi thì phần nhiều là các đồi núi thấp được cấu tạo bằng các loại sa phiến
thạch, sườn thoải, dạng đồi bát úp, hoặc đã được khai phá thành các ruộng bậc
thang như hiện nay. Có thể nói địa hình của Phú Lương bao gồm có ba vùng
rõ rệt đó là:
- Vùng núi cao, bao gồm các dãy núi cao nằm ở phía bắc của
huyện. Đây là vùng có địa hình cao, chia cắt phức tạp do quá trình Castơ
phát triển mạnh, có độ cao từ 500-1000 mét, độ dốc khoảng 25-30
0
. Phân
bố chủ yếu ở một số xã như Yên Ninh, Yên Lạc, Yên Trạch, Phủ Lý, Hợp
Thành, Ôn Lương…
- Vùng đồi cao và núi thấp: là vùng chuyển tiếp giữa vùng núi cao ở
phía bắc và vùng gò đồi ở phía nam. Vùng này bao gồm các dãy núi thấp
7
đan chéo với các dãy đồi cao tạo thành các bậc thềm lớn và nhiều thung
lũng. Được phân bố chủ yếu ở thị trấn Đu, xã Phấn Mễ, xã Động Đạt, thị
trấn Giang Tiên, xã Vô Tranh… Vùng này thường có độ cao trung bình từ
100 đến 300 mét, độ dốc khoảng từ 15
0
- 25
0
.

- Vùng gò đồi thường tập trung ở phía nam của huyện, là vùng thấp và
đồng bằng. Địa hình tương đối bằng phẳng, xen giữa các đồi bát úp dốc
thoải là các khu đất bằng. Vùng gò đồi được phân bố chủ yếu ở các xã như
Giang Tiên, Cổ Lũng, Sơn Cẩm. Độ cao trung bình từ 30- 50 mét, độ dốc
khoảng dưới 10
0
.
Với địa hình, địa mạo như trên đã tạo cho Phú Lương có thế mạnh về
quân sự. Trong điều kiện xảy ra chiến tranh thì Phú Lương có thể dễ dàng
cùng với các địa phương khác trong tỉnh đoàn kết phát huy tác dụng hỗ trợ
lẫn nhau, kết hợp giữa tấn công và phòng ngự. Bởi vậy mà trong thời kỳ
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược Phú Lương đã trở thành cửa ngõ
bảo vệ cho An Toàn Khu (ATK), cơ quan đầu não của cách mạng. Hơn nữa
với việc phân bố địa hình khá rõ nét thành các khu riêng biệt đã tạo điều
kiện thuận tiện cho việc phân vùng kinh tế trong huyện với ba vùng đó là:
- Vùng Tây Bắc, gồm 6 xã Hợp Thành, Ôn Lương, Phủ Lý, Yên Đổ,
Yên Ninh, Yên Trạch, tập trung phát triển kinh tế đồi rừng, mở rộng diện
tích chè, trồng cây ăn quả, đảm bảo diện tích trồng cây lương thực.
- Vùng phía đông, gồm 4 xã Vô Tranh, Tức Tranh, Phú Đô, Yên Lạc,
mở rộng diện tích chè, tăng diện tích chè cao sản, cải tạo diện tích chè hiện
có, trồng cây ăn quả, cây lương thực.
- Vùng phía nam, gồm Động Đạt, thị trấn Đu, Phấn Mễ, thị trấn Giang
Tiên, Cổ Lũng, Sơn Cẩm, tập trung đầu tư thâm canh cây lương thực, ổn
định diện tích chè, cây ăn quả, phát triển công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp
và dịch vụ.
Về tài nguyên khoáng sản: Phú Lương, nằm trong vùng sinh khoáng
Đông Bắc Việt Nam, thuộc vành đai sinh khoáng Thái Bình Dương, cho
nên, trong lòng đất của Phú Lương có nguồn tài nguyên khoáng sản phong
8
phú về chủng loại cũng như trữ lượng, đặc biệt là các loại khoáng sản chiếm

ưu thế trong nền kinh tế quốc dân như: than đá, quặng sắt (Phấn Mễ, Động
Đạt), quặng Titan (Động Đạt)…
Về đất đai: Tài nguyên đất đai của Phú Lương khá đa dạng về nhiều
loại đất nhưng trong đó chủ yếu là đất Ferarit, đất đá vôi, đất ruộng. Đặc
điểm đất đai của Phú Lương phụ thuộc rất nhiều vào đặc điểm của đá mẹ và
lớp phủ thực vật. Đá mẹ được cấu tạo chủ yếu bằng các loại khoáng có tính
Bazơ hoặc trung tính. Trên thực tế đất nào có lớp phủ thực vật thì đất đai phì
nhiêu hơn do đất quanh năm được giữ ẩm. Ngoài ra, ở Phú Lương đất đai
còn có các loại đất ruộng khác như: đất cát, đất thịt, đất bùn, .. Khu vực đất
đồi rất thích hợp cho việc trồng các loại cây công nghiệp như: cà phê, chè,
…và các loại cây dược liệu khác như: quế, hồi, …Trong đó thì cây chè là
một loại cây rất thích hợp với thổ nhưỡng của Phú Lương. Ngoài ra đây còn
là nơi tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các loại cây lấy gỗ khác
như: keo, bạch đàn, mỡ…Vùng đồi còn là nơi rất thuận lợi cho việc chăn
nuôi đại gia súc như: Trâu, bò, dê ….Vùng đất ruộng và những bãi bồi ven
sông là nơi thuận lợi cho việc trồng các loại cây lương thực trong đó quan
trọng nhất là cây lúa nước, ngoài ra là ngô, khoai, sắn, lạc…
Động thực vật: Phú Lương nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa nên
mang đặc trưng của miền nhiệt đới, bởi vậy mà nguồn động thực vật của Phú
Lương rất phong phú và đa dạng. Theo sách Đại Nam nhất thống trí của
Quốc sử quán triều Nguyễn thì Phú Lương gồm có các loại thực vật như: Cỏ
tranh, lá cọ, các loại mây, tre nứa, gỗ lim, gỗ sến, gỗ táu, gỗ xoan, …. Các
loại động vật thì có: Hươu, gấu, ong, chim công …
Về sông ngòi: Phú Lương có mật độ sông suối khá lớn, bình quân
0,2km/km
2
, có trữ lượng nước đủ để cung cấp cho sản xuất và sinh hoạt của
cư dân toàn huyện. Các sông, suối trên địa bàn huyện phân bố tương đối đều
cho các xã, thuận lợi cho việc phát triển thủy lợi. Sông Đu và các nhánh
sông của nó nằm ở phía bắc huyện, nhánh chính dài 10 km, tổng chiều dài

của hệ thống sông Đu khoảng 45km. Nó có vai trò rất quan trọng đối với đời
9
sống sinh hoạt và sản xuất của cư dân Phú Lương. Ngoài ra, hàng năm sông
Đu cung cấp một nguồn thực phẩm dồi dào và cơ bản cho đồng bào Phú
Lương, bởi vậy mà từ xa xưa trong nhân dân đã lưu truyền câu thành ngữ
“Cơm làng Giá, cá làng Đu”. Sông Cầu là sông lớn nhất chảy qua địa bàn
huyện Phú Lương, với chiều dài là 17km. Sông Cầu là nguồn cung cấp nước
chủ yếu đảm bảo cho sinh hoạt và sản xuất cho các xã phía nam của huyện.
Về khí hậu: Phú Lương nằm hoàn toàn trong vùng nội chí tuyến nên
Phú Lương có khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, có hai mùa rõ rệt mùa nóng
(mưa nhiều) từ tháng 5 đến tháng 10; mùa lạnh (ít mưa) từ tháng 11 đến
tháng 4 năm sau, nhiệt độ trung bình năm của Phú Lương dao động từ 25
0
đến 30
0
C, lượng mưa trung bình từ 1800- 2000mm, độ ẩm trung bình
khoảng 80%. Lượng nước bốc hơi hàng năm của huyện là khoảng 985,5mm,
mùa lạnh lượng nước bốc hơi lớn hơn lượng mưa, độ ẩm (k) dưới 0,5 nên
thường xuyên xảy ra khô, hạn.
Về giao thông đường bộ, huyện Phú Lương có 3 tuyến đường bộ
chính là: Quốc lộ 3 (Hà Nội – Cao Bằng) chạy qua địa bàn 8 xã của huyện
với chiều dài là 50km; Đường 254 từ km 31 lên Định Hóa; Quốc lộ 37 từ
ngã ba Bờ Đậu (xã Cổ Lũng) qua địa bàn huyện Đại Từ sang tỉnh Tuyên
Quang…Các tuyến giao thông này mang lại cho huyện Phú Lương nhiều
thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội và an ninh - quốc phòng.
Với điều kiện tự nhiên thuận lợi như trên đã khẳng định Phú Lương là
một huyện có nhiều tiềm năng và lợi thế để phát triển nền nông nghiệp, lâm
nghiệp và công nghiệp. Bởi vậy mà xuất phát từ những đặc điểm về điều
kiện tự nhiên và yêu cầu phát triển của địa phương mà Phú Lương hoàn
toàn có điều kiện để vươn lên, phát triển kinh tế theo hướng toàn diện trên

cơ sở nền nông nghiệp phát triển bền vững.
10
1.2. Điều kiện kinh tế, xã hội.
Theo số liệu thống kê, “trong giai đoạn trước năm 1945 Phú Lương
có chưa tới 10.000 người, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp là: 13.700
người, trong những năm 70 của thế kỷ XX là: 54.676 người, năm 1989:
107.390 người, năm 1996: 110.000người, tới năm 2006 Phú Lương có
106.257 người”.[3; Tr 293]. Phú Lương từ lâu là địa bàn cư trú của nhiều
dân tộc. Hiện nay, Phú Lương có nhiều dân tộc anh em cùng chung sống,
“dân tộc Kinh chiếm 54,2%, Tày 21,1%, Sán Chay 8,05%, Nùng 4,5%, Sán
Dìu 3,2%, còn 4,82% là người dân tộc Thái, Hoa, H’Mông và một số dân
tộc khác. Mật độ dân số là: 288,05 người/km
2
, Yên Ninh là xã có mật độ
thấp nhất: 137 người/ km
2
, thị trấn Đu có mật độ cao nhất: 1962 người/
km
2
.Từ năm 2000 – 2005, tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên: 1,7%, dân số trong
nông nghiệp: 81,6%, bình quân: 2,1 lao động/ ha đất nông nghiệp”.[3; Tr
293 – 294] Cư dân ở đây gồm nhiều bộ phận hợp thành. Một bộ phận vốn
là dân bản địa có mặt từ lâu đời. Một bộ phận là dân phu được tuyển mộ
vào làm thuê cho bọn chủ tư bản Pháp trong các đồn điền và hầm mỏ. Một
bộ phận khác vốn là đồng bào ở các tỉnh miền xuôi phiêu bạt, di cư lên
khai phá đồi nương, mở rộng làng bản, sinh cơ lập nghiệp.
Mỗi dân tộc có những sắc thái riêng về phong tục tập quán. Mặc dù
vậy, đồng bào không sống biệt lập mà thường sống xen kẽ trong cùng một
xóm. Họ trở thành những người bà con láng giềng sớm tối có nhau, từ đó
tạo ra tính đoàn kết trong cộng đồng dân cư. Bởi vậy mà họ thường cưu

mang lẫn nhau, đối xử với nhau có tình có nghĩa . Câu tục ngữ của người
Tày: “Pì noọng tam tó, bó tày pì noọng só rườn”, cũng có nghĩa như câu
tục nhữ của người Kinh: “ Bán anh em xa mua láng giềng gần” đã nói lên
sự gắn bó lẫn nhau giữa các gia đình trong cùng một xóm bản. Sự đoàn kết,
tương trợ giúp đỡ lẫn nhau không chỉ thể hiện trong đời sống hàng ngày
(các dịp ma chay, cưới xin, làm nhà,…) mà cả trong sản xuất. Mối đoàn kết
keo sơn giữa các đồng bào ngày càng được phát huy mạnh mẽ qua các thế
hệ và đã trở thành một truyền thống hết sức quý báu.
11
Trong quá trình lao động sản xuất và chế ngự thiên nhiên, nhân dân
các dân tộc huyện Phú Lương luôn thể hiện đức tính cần cù, chịu khó,
thông minh, sáng tạo. Họ đã tự chế tạo được các loại cung, nỏ, súng kíp,…
để săn bắn thú rừng, tự rèn đúc được các loại dao, cuốc, …làm dụng cụ và
đồ dùng sinh hoạt cũng như sản xuất. Từ xưa, người dân Phú Lương đã biết
dệt lấy vải mặc, biết làm cọn nước, đào đắp mương phai để dẫn nước vào
ruộng.
Ngoài kỹ thuật làm ruộng nước, đồng bào còn rất thạo làm nương,
rẫy. Nhờ những kinh nghiệm tích lũy từ lâu năm, nên đồng bào dễ dàng
chọn rừng, đất làm rẫy trồng lúa, ngô. Trong kỹ thuật canh tác, người dân
Phú Lương từ lâu đã biết trồng luân canh, xen canh gối vụ làm tăng năng
suất và sản lượng cây trồng. Đồng bào đã biết chọn và giữ gìn những giống
lúa thơm ngon nổi tiếng. Câu ca “Cơm làng Giá, cá làng Đu” từ xa xưa đã
nói lên điều đó.
Bên cạnh văn hóa vật chất, nhân dân các dân tộc huyện Phú Lương
đã góp phần xây dựng, gìn giữ và phát triển nền văn hóa tinh thần vô cùng
phong phú và đa dạng. Đó chính là những điệu hát lượn của người Tày, hát
Sli của người Nùng, ….cùng với đó là những câu truyện kể được lưu truyền
trong trong đồng bào các dân tộc. Tất cả đều là những tài sản quý giá, chứa
đựng những yếu tố tích cực lành mạnh. Nó thể hiện tư tưởng, tình cảm
trong sáng, ước mơ cao đẹp của quần chúng lao động.

Cùng với việc chế ngự thiên nhiên, bảo vệ và phát triển mùa màng,
xây dựng những giá trị văn hóa tốt đẹp nhân dân các dân tộc huyên Phú
Lương còn có lòng yêu nước nồng nàn, thiết tha với độc lập tự do và thống
nhất tổ quốc, đoàn kết chặt chẽ với đồng bào cả nước đấu tranh chống giặc
ngoại xâm,các thế lực phong kiến cát cứ và bọn thực dân xâm lược để
mang lại độc lập, tự do và thống nhất cho tổ quốc.
12
1.3. Tình hình ruộng đất ở Phú Lương trước năm 1997.
1.3.1. Sở hữu ruộng đất
Phú Lương tuy là một huyện miền núi, song cũng là một địa phương
có vị trí địa lý quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội cũng như quân sự.
Phú Lương còn là mảnh đất có nhiều tiềm năng và điều kiện thuận lợi để
phát triển kinh tế nông nghiệp.
Cách mạng tháng Tám – 1945 thắng lợi đã mở ra trang sử mới cho dân
tộc Việt Nam. Giải phóng dân tộc đồng thời cũng là xóa bỏ chính quyền bù
nhìn, tay sai đắc lực của đế quốc xâm lược. Giai cấp địa chủ phong kiến đã
mất đi chỗ dựa và không còn là giai cấp thống trị nữa. Từ hoàn cảnh lịch sử
cách mạng mới Đảng và Chính phủ ta đã đưa ra chính sách ruộng đất mới
nhằm từng bước mang lại ruộng đất và quyền lợi cho người nông dân. Trong
giai đoạn 1945 – 1953, Đảng chủ trương tịch thu ruộng đất của thực dân Pháp
và bọn tay sai phản động đem chia cho nông dân, tạm cấp ruộng đất vắng chủ,
ruộng bỏ hoang cho nông dân; đưa ra thông tư sau đó là sắc lệnh về việc giảm
tô 20%, rồi tăng lên 25% , giảm tức 80%… “Trên địa bàn Phú Lương lúc này
có nhiều đồn điền và tiểu đồn điền của người Pháp và người Việt. Một số đồn
điền “vắng chủ”, đồn điền của Việt gian được huyện tịch thu chia cho dân cày
cấy. Hàng trăm mẫu ruộng đã được tạm cấp cho nhân dân( trong đó có 45
mẫu của Phạm Thư Phú đã bỏ chạy theo Pháp)”. [24; Tr 105] Cuộc sống của
những gia đình bần, cố nông từ đó đã được nâng cao từng bước.
Trước yêu cầu của cuộc kháng chiến chống Pháp về sức người và sức
của ngày càng lớn. Bởi vậy, để nhanh chóng đưa cuộc kháng chiến nhanh

chóng đi tới thắng lợi hoàn toàn. Muốn thế, điều chủ yếu là phải không
ngừng bồi dưỡng lực lượng của nông dân, cải thiện đời sống của nông dân.
Trong hoàn cảnh đó, Vào đầu tháng 12- 1953, cải cách ruộng đất bắt
đầu mở đợt thí điểm và đã thu được nhiều kết quả quan trọng.Từ tháng 8-
1953, khi nông dân ở huyện Đại Từ, Đồng Hỷ, Phú Bình, Phổ Yên tiến hành
cuộc cải cách ruộng đất lần II thì cũng là lúc nông dân trong 14 xã của Phú
Lương sôi nổi bước vào cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt nhằm xóa bỏ giai
13
cấp bóc lột ở nông thôn Phú Lương (từ ngày 25-8-1953 đến ngày 20-10-
1953). Nhờ có những bài học kinh nghiệm được đúc rút lại từ lần I mà đợt II
này đã được diễn ra trong nhiều thuận lợi và nhanh chóng hoàn thành. Đầu
năm 1955, toàn bộ các xã trên địa bàn huyện đã hoàn thành công cuộc thủ tiêu
chế độ chiếm hữu ruộng đất phong kiến, biến ước mơ “người cày có ruộng”
của người nông dân trở thành hiện thực.
Tuy vậy, trong quá trình thực thi các chính sách về ruộng đất bên cạnh
những thắng lợi cơ bản đã đạt được, do một số cán bộ nắm không chắc đặc điểm
và tình hình của huyện, nên đã dập khuôn một cách máy móc các biện pháp của
cấp trên nên diễn ra tình trạng đấu tố tràn lan, quy oan quy sai thành phần cho một
số người và gia đình, ngoài ra là việc truy bức, xử lý cán bộ, đảng viên một cách
tràn lan, bừa bãi đã gây nên không khí căng thẳng ở nông thôn.
Thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, kế hoạch sửa sai
do Tỉnh ủy Thái Nguyên tổ chức, trong hai ngày 16 và 17-12-1956, Huyện
ủy, ủy ban hành chính huyện đã tổ chức hội nghị quán triệt chủ trương,
chính sách của Đảng về sửa chữa sai lầm trong việc thi hành chính sách
giảm tô và cải cách ruộng đất. Sau sửa sai, các tổ chức cơ sở Đảng, Chính
quyền, Đoàn thể trong huyện đã được củng cố và kiện toàn. Cán bộ, Đảng
viên và nhân dân trong huyện, đặc biệt là những người trước đây bị quy sai
thành phần nay được hạ thành phần đã phấn khởi trở lại tích cực tham gia
vào sản xuất, nhất là sản xuất nông nghiệp.
Thắng lợi của công cuộc Cải cách ruộng đất và khôi phục kinh tế đã

góp phần từng bước cải thiện đời sống của nhân dân Phú Lương. Nhưng
việc chuyển sở hữu ruộng đất từ địa chủ, thực dân về tay nông dân lao
động chưa phải là mục đích cuối cùng, mà vấn đề đặt ra là phải làm sao để
nông dân sử dụng được thật tốt việc phát triển nông nghiệp trên mảnh
ruộng của mình. Tuy nhiên, thực tế trong sản xuất nông nghiệp ở Phú
Lương nói riêng và toàn miền Bắc nói chung thì sản xuất nông nghiệp vẫn
nằm trong tình trạng nhỏ lẻ, manh mún, phân tán cá thể.
14
Trước thực trạng trên Nghị quyết hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 14
(11-1958) đã đề ra chủ trương cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần
kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công, tiểu thương và công thương nghiệp
tư bản tư doanh mà khâu chính là tập thể hóa nông nghiệp. Nghị quyết Trung
ương Đảng lần thứ 16 (4-1959) đề ra chủ trương tiến hành cuộc vận động hợp
tác hóa nông nghiệp kết hợp với hoàn thành cải cách dân chủ; nghĩa là trong
quá trình củng cố, phát triển tổ đổi công và hợp tác xã nông nghiệp, phải kết
hợp với việc xóa bỏ những tàn tích của chế độ phong kiến về chiếm hữu
ruộng đất và những hình thức bóc lột phong kiến.
Quán triệt nghị quyết của Trung ương Đảng, Hội nghị đại biểu Đảng bộ
tỉnh Thái Nguyên tháng 2-1959 đã chủ trương kiên quyết lãnh đạo nhân dân
các dân tộc thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là cải tạo phát triển
nông nghiệp. Trong hoàn cảnh đó, “Đại hội đại biểu huyện Phú Lương lần thứ
V được triệu tập tháng 12-1958. Đại hội đã xác định nhiệm vụ trọng tâm của
Đảng bộ trong những năm trước mắt là phải tập trung lãnh đạo thắng lợi công
cuộc vận động tập thể hóa nông nghiệp, phát triển sản xuất, từng bước cải
thiện đời sống nhân dân”.[25; Tr 24]. Tính đến ngày 31-12-1959, toàn huyện
đã xây dựng được 45 hợp tác xã nông nghiệp, với 1.470 hộ xã viên (chiếm
40,26% hộ dân).Việc các hợp tác xã nông nghiệp được hình thành, mà đặc
biệt là sự ra đời của hợp tác xã bậc cao đồng nghĩa với việc ruộng đất huyện
từ chỗ phân tán, manh mún đã được khắc phục dần, người nông dân từ chỗ
làm ăn cá thể đến chỗ làm ăn tập thể trong hợp tác xã nông nghiệp.

Về sở hữu ruộng đất Thái Nguyên nói chung và Phú Lương nói riêng
chủ yếu là có hai hình thức sở hữu là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Công
cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đã làm cho quan hệ sản xuất mới xã hội chủ
nghĩa được xác lập, có tác dụng mở đường cho sức sản xuất phát triển, cùng
với đó là việc từng bước xóa bỏ hoàn toàn giai cấp bóc lột.
Cũng như các địa phương khác trong nước, sau một thời gian khá dài
phát huy tốt tác dụng, phong trào hợp tác hóa nông nghiệp ở Phú Lương đã
bắt đầu xuất hiện những hạn chế, nhiều hợp tác bắt đầu sản xuất không có
15
hiệu quả, xuất hiện những hạn chế và đi tới tan rã.Tuy huyện ủy có nhiều biện
pháp khắc phục, nhưng phong trào hợp tác hóa nông nghiệp trong huyện vẫn
không được cải thiện. Sự yếu kém của phong trào hợp tác xã gây nên những
ảnh hưởng xấu đến tinh thần lao động của bà con xã viên, sản xuất dần yếu
kém hơn, từ đó đời sống của nông dân gặp nhiều khó khăn.
Sau khi miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất quy về một
mối (1975) Đảng và Nhà nước bắt đầu đẩy mạnh công cuộc khôi phục và phát
triển đất nước sau chiến tranh theo định hướng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi
cả nước. Để khắc phục khó khăn, đưa đất nước từng bước thoát khỏi cuộc
khủng hoảng, đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI được triệu tập (12 - 1986)
tại Hà Nội. Cùng với vấn đề đổi mới toàn diện đất nước, vấn đề đổi mới cơ
chế quản lý, sử dụng ruộng đất trên phạm vi cả nước cũng được Đảng và nhà
nước đặc biệt quan tâm. Sự quan tâm đó được thể hiện qua việc Đảng và
Chính phủ ta đã ra nhiều văn bản có sự tác động trực tiếp đến quan hệ ruộng
đất nông nghiệp, làm thay đổi căn bản quan hệ ruộng đất ở nước ta từ thập
niên 80 của thế kỷ XX tới nay.
Trước hết phải kể tới Chỉ thị 100 – CT/TW ra ngày 31-1-1981 về cải
tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động
trong hợp tác. Đặc biệt ngày 5 - 4 - 1988, Bộ chính trị đã ra Nghị quyết 10 về
tiếp tục đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, khẳng định nông dân là đơn vị
kinh tế tự chủ và chuyển từ trạng thái tự cấp, tự túc sang nền kinh tế hàng hóa

trong đó có sự tồn tại khách quan và lâu dài của nền kinh tế nhiều thành phần
trong đó có kinh tế tư nhân, cá thể trong nông thôn. Từ đó, Đảng ta chủ
trương giao đất ổn định lâu dài cho hộ nông dân. Nghị quyết 10 của Bộ Chính
trị ra đời là mốc đánh dấu bước ngoặt cho sự phát triển của nông nghiệp và
nông thôn Việt Nam.
Tiếp đó, ngày 8 - 1 - 1988 và sau đó là tháng 7 - 1993, Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua luật đất đai mới. Theo đó,
Nhà nước không chỉ giao đất cho các tổ chức, mà còn giao đất cho cả các cá
nhân sử dụng lâu dài và ổn định. Nhà nước đã chính thức giao quyền sử dụng
16
đất lâu dài cho hộ nông dân. Người nông dân không chỉ được quyền sử dụng
mà còn được quyền thừa kế, thế chấp, chuyển nhượng, cho thuê đất đai.
Trên cơ sở nắm vững những chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà
nước về vấn đề ruộng đất, nông nghiệp trên, huyện Phú Lương đã áp dụng
một cách sáng tạo cho phù hợp với đặc thù riêng của huyện. Nhờ đó mà đã
làm cho quan hệ ruộng đất và tình hình sử dụng ruộng đất ở huyện đã có
những chuyển biến và thay đổi lớn. Theo đó, ruộng đất thuộc sở hữu chung
của cả nước mà Nhà nước là người đại diện còn nhân dân là những người
được hưởng quyền sử dụng lâu dài,cùng với đó là các quyền như thừa kế, thế
chấp, chuyển nhượng ..v.v.. Có thể nói đây là bước tiến lớn nhất trong lịch sử
về quyền sử dụng đất của người nông dân ở nước ta. Từ năm 1988 trở đi ở
Phú Lương nói riêng và cả nước nói chung về hình thức sở hữu và sử dụng
ruộng đất đã có sự chuyển biến lớn, sở hữu ruộng đất tập thể được thay bằng
hình thức sở hữu tư nhân hạn chế. Chính điều này đã là nhân tố kích thích
người nông dân không những gắn bó với đồng ruộng hơn mà họ còn mạnh
dạn đầu tư khoa học kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất lao động cũng như lợi
nhuận trên mảnh ruộng của mình.
1.3.2 Phương thức khai thác ruộng đất
Sau khi cách mạng tháng Tám năm 1945 giành thắng lợi, sau đó là
những thắng lợi vang dội của dân tộc ta cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp

và đế quốc Mỹ. Năm 1975 đất nước được giải phóng, giang sơn thu về một
mối, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, nhân dân cả nước nói chung và nhân
dân Phú Lương nói riêng tích cực sản xuất để khôi phục và xây dựng đất nước.
Trong nông nghiệp việc sản xuất nông nghiệp cũng như khai thác ruộng đất
trên địa bàn huyện được đẩy mạnh. Đây chính là thời kỳ mà kinh tế hộ gia đình
được xác lập. Người nông dân, người lao động (hộ gia đình) đã trở thành người
chủ thực sự trên mảnh ruộng mà chính quyền cách mạng đã đem lại cho họ. Do
đó, người nông dân rất phấn khởi đẩy mạnh tăng gia sản xuất nhằm có thể khai
thác tốt hơn nữa diện tích ruộng đất của gia đình mình. Trước hết là trong trồng
trọt, với tư tưởng chỉ đạo là “tấc đất, tấc vàng” Đảng bộ và nhân dân huyện Phú
17
Lương đã ra sức khai khẩn đất hoang mở rộng diện tích gieo trồng cây lương
thực. Trong thời gian này, ở Phú Lương nhìn chung thì cây lúa vẫn là cây trồng
chủ đạo, chiếm ưu thế chủ yếu. Bên cạnh đó, người nông dân còn trồng thêm
các loại cây hoa màu ngắn ngày để tăng thêm hiệu quả sử dụng đất, đồng thời
là nhằm giải quyết khâu thiếu lương thực và để phục vụ cho cuộc kháng chiến
và sau đó là góp phần vào công cuộc phát triển kinh tế nông nghiệp của nước
nhà.
Biểu số 1: Diện tích trồng cây lương thực ở Phú Lươngqua các năm
[6; Tr 24, 25]
Đơn vị tính: ha
Năm 1990 1992 1994 1995 1996
Tổng 8.655 9.357 8.948 8.833 8.547
Lúa 6.709 6.695 6.415 6.414 6.352
Hoa màu 1.946 2.662 2.533 2.419 2.195
Phú Lương là một huyện miền núi, có điều kiện tự nhiên, thổ nhưỡng và
khí hậu thích hợp để trồng một số các cây công nghiệp, trong đó có cây chè.
Đây là cây trồng đã được đưa vào canh tác trong các đồn điền chuyên canh và đa
canh của người Pháp và người Việt trong giai đoạn trước của lịch sử. Nhận thấy
được điều đó Đảng bộ Phú Lương đã sớm chỉ đạo cho các ban ngành và nhân

dân chú trọng phát triển cây trồng có nhiều tiềm năng này. Năm 1975 toàn
huyện có 664,5 ha, trong 3 năm (1977-1979) toàn huyện trồng mới 488,6 ha;
năm 1990: 1458 ha; năm 1996: 2070 ha. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, cây chè
cũng như những cây trồng khác vẫn chưa được đầu tư một cách thỏa đáng, việc
trồng mới, chăm sóc, chế biến bằng phương pháp thủ công làm cho năng suất và
chất lượng còn chưa cao.
Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, nhân dân các dân tộc
huyện Phú Lương ngày càng nhận thức sâu sắc hơn về vai trò của khoa học
kỹ thuật, do đó bà con nông dân đã tích cực tiếp thu và ứng dụng có hiệu quả
18
những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Việc khai thác tiềm năng, thế
mạnh của từng vùng, thâm canh tăng năng suất được đẩy mạnh. Các biện
pháp kỹ thuật liên hoàn như: cày sâu, bừa kỹ, cấy dày, phân bón, dùng cày
cải tiến, cày 51,..được áp dụng rộng rãi hơn. “Năm 1960, toàn huyện có 335
cày cải tiến, 23 cày 51, 214 máy bơm, 2 guồng nước, 6 máy cấy, 426 cào cỏ
Nghệ An…” [25; Tr 31]. Phong trào làm phân bón ruộng được phát động
trong toàn dân. Nhờ đó, các nguồn phân được tận dụng triệt để. Cùng với đó
là việc đưa các giống cây trồng mới vào sản xuất nhằm tăng năng suất như:
giống lúa K3, nông nghiệp 8, bao thai, các giống ngô, lạc, đậu tương mới,…
Nhờ đó mà diện tích và sản lượng lúa thời kì này đều tăng nhanh chóng,
“riêng về lúa, sản lượng năm 1958 tăng hơn năm 1957 là 73%, năm 1959
tăng hơn năm 1958 là 19,8%, tổng sản lượng lương thực quy thóc đạt 2107
tấn”. [25; Tr 31].
Để phục vụ cho sự phát triển của nông nghiệp, Phú Lương đặc biệt chú
trọng tới công tác thủy lợi. Năm 1959, huyện ủy đã triệu tập hội nghị bàn về
công tác thủy lợi. Từ đó, công tác thủy lợi thực sự trở thành phong trào quần
chúng rộng rãi. “Trong năm 1959, huyện huy động được 18.056 công thủy
lợi, chủ động tưới nước cho trên 4.130 ha ruộng khỏi bị hạn hán”.[25; Tr 30].
Trong năm 1961, với tổng số 84.293 công thủy lợi, Phú Lương làm thêm
được 21 đập, 6 phai, 454 mương, 10 guồng nước, đủ nước tưới cho 1.827,6

mẫu ruộng. Đến năm 1965, toàn huyện huy động được 282.740 ngày công, tu
sửa hàng trăm đoạn kênh mương. Tiếp đó trong 3 năm 1980-1982, Phú Lương
đã hoàn thành xây dựng 10 công trình thủy lợi trong đó có 2 công trình loại
vừa đảm bảo tưới tiêu cho 200 ha lúa. Trong 3 năm 1987- 1989, huyện đã xây
dựng được 20 công trình thủy lợi vừa và nhỏ, hoàn thành 16 km kênh mương,
chủ động tưới tiêu cho trên 300 ha lúa.
Nhờ việc áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật và chú trọng
công tác phát triển thủy lợi mà việc khai thác và sử dụng ruộng đất ở
huyện có hiệu quả hơn thể hiện qua việc ruộng đất được thâm canh, tăng
vụ làm cho sản lượng lương thực của Phú Lương liên tục tăng và ngày
19
càng đạt được kết quả to lớn hơn, năm 1966: 2107 tấn, năm 1975: 14.364
tấn. [25; Tr 25]
Cùng với hoạt động trồng trọt, nhân dân trong huyện cũng chú trọng
vào việc phát triển chăn nuôi, nhằm tận dụng được sức kéo, phân bón, và
tránh lãng phí, tận dụng những nguồn thực phẩm dư thừa trong trồng trọt
nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, tận dụng và khai thác được mọi nguồn
lực của huyện. Đồng thời là việc đưa những giống vật nuôi mới với năng
suất và chất lượng cao vào sản xuất để đem lại hiệu quả kinh tế cao
hơn.Bởi vậy mà hoạt động chăn nuôi của huyện đạt được những kết quả
khả quan.
*Tiểu kết chương 1:
Phú Lương là một huyện miền núi có một vị trí khá quan trọng cả
về kinh tế lẫn quân sự. Phú lương cũng là địa bàn cư trú lâu đời của nhiều
đồng bào dân tộc, nhưng đông nhất vẫn là dân tộc Kinh. Từ sau Cách mạng
tháng Tám năm 1945 đến năm 1957, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chế độ
chiếm hữu ruộng đất của địa chủ phong kiến, của phú nông từng bước được
xoá bỏ thông qua các chính sách ruộng đất của Đảng và Nhà nước ta mà
cao nhất là luật cải cách ruộng đất. Tuy nhiên, do nhận thức còn giáo điều
về chủ nghĩa xã hội mà từ 1958 trở đi sở hữu ruộng đất tập thể đã dần thay

thế cho hình thức cá thể theo hộ gia đình. Tuy nhiên, khi ruộng đất được
tập thể hoá lại xuất hiện nhiều mặt hạn chế, Ruộng đất rơi vào tình trạng
lãng phí trong quản lý và sử dụng. Trước thực tế này, đặc biệt là dưới ngọn
cờ đổi mới của Đảng, Nghị quyết 10 (khoá VI) của Bộ chính trị ra đời đã
tạo ra bước thay đổi hết sức lớn lao về quản lý kinh tế nông nghiệp, khẳng
định hộ nông dân là đơn vị tự chủ. Từ đó mà đã kích thích nông dân Phú
Lương nói riêng và nông dân cả nước nói chung phát huy hết khả năng
sang tạo, tính tự lực tự cường, mạnh dạn đầu tư vốn, khoa học kỹ thuật để
khai thác tốt hơn diện tích đất được giao, tạo ra bước phát triển đột phá
trong phát triển kinh tế nông nghiệp của huyện.
20
CHƯƠNG 2: ĐẢNG BỘ HUYỆN PHÚ LƯƠNG LÃNH ĐẠO THỰC
HIỆN CHÍNH SÁCH RUỘNG ĐẤT CỦA ĐẢNG (1997 – 2008)
2.1. Một số chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, pháp luật về ruộng đất
2.1.1. Một số chủ trương, chính sách của Đảng về ruộng đất
Bước vào những năm cuối của thế kỷ XX, đầu của thế kỷ XXI, với đặc
điểm là sự phát triển nhanh và mạnh của của khoa học kỹ thuật. Để có thể
tận dụng mọi thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất, thúc đẩy sự phát
triển nhanh của sản xuất hàng hóa và nền kinh tế nước nhà theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã khẳng định đường lối phát triển chung của cả
nước trong giai đoạn hiện nay đó là: “ Phát triển một nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa” [40; Tr 234]. “ Tiếp
tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để nền
kinh tế phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững, theo đúng định hướng xã hội
chủ nghĩa” [40; Tr 283- 284]. Với sự phát triển của nền kinh tế thị trường
như hiện nay thì đất đai lại càng trở thành là một tài nguyên quý giá hơn bao
giờ hết. Bởi vậy, việc quản lý, quy hoạch, sở hữu và sử dụng tài nguyên này
một cách hợp lý lại càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Ruộng đất luôn là vấn đề được Đảng ta quan tâm hàng đầu. Trong giai
đoạn (1997 – 2008) Đảng ta đã vạch ra những chủ trương, đường lối để lãnh

đạo đảng bộ và nhân dân các cấp thực hiện. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VIII (1996), Đảng đã khẳng định hai nhiệm vụ chiến lược của đất nước
lúc này là: “xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Trong nhiệm vụ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa thì Đảng nhấn mạnh nội dung chủ yếu của nhiệm vụ này là: “Đặc biệt
coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn; phát triển
toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm,
thủy sản…”. Trong nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn thì cần phải: “Phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp, hình
thành các vùng tập trung chuyên canh, có cơ cấu hợp lý về cây trồng, vật
nuôi, có sản phẩm hàng hóa nhiều về số lượng, tốt về chất lượng, bảo đảm
21
an toàn về lương thực trong xã hội, đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp
chế biến và của thị trường trong, ngoài nước.Thực hiện thủy lợi hóa, điện
khí hóa, cơ giới hóa, sinh học hóa…Phát triển công nghiệp chế biến nông,
lâm, thủy sản với công nghệ ngày càng cao, gắn với nguồn nguyên liệu và
liên kết với công nghiệp ở đô thị…” [10; Tr 127 ]
Về quản lý đất đai, Nghị Quyết Đại hội xác định: "Quản lý chặt chẽ đất
đai và thị trường bất động sản. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, không tư nhân
hoá, không cho phép mua bán đất đai; Thực hiện đúng Luật Đất đai; bổ sung
hoàn chỉnh hệ thống pháp luật và chính sách đất đai. Trong việc giao quyền sử
dụng đất và cho thuê đất phải xác định đúng giá các loại đất để sử dụng có hiệu
quả, duy trì phát triển quỹ đất, bảo đảm lợi ích của toàn dân, khắc phục tình
trạng đầu cơ và những tiêu cực, yếu kém trong việc quản lý và sử dụng đất. Tổ
chức quản lý tốt thị trường bất động sản. " [10; Tr 129]
Sau đó, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (2001), Đảng đã tiếp tục
nêu ra chủ trương: “Chuyển đổi nhanh chóng cơ cấu sản xuất nông nghiệp và
kinh tế nông thôn; xây dựng các vùng sản xuất hàng hoá chuyên canh phù hợp
với tiềm năng và lợi thế về khí hậu, đất đai và lao động của từng vùng, từng
địa phương. Gắn nông nghiệp với công nghiệp chế biến; hình thành sự liên

kết nông - công nghiệp - dịch vụ ngay trên địa bàn nông thôn” [11; Tr 276].
Muốn vậy phải: “Tích cực khai hoang mở rộng diện tích canh tác ở những nơi
còn đất hoang hoá chưa được sử dụng… Phát triển mạnh nghành, nghề và kết
cấu hạ tầng ở nông thôn… Tiếp tục đẩy mạnh sản xuất lương thực theo hướng
thâm canh, tăng năng suất và tăng nhanh lúa đặc sản, chất lượng cao… Tập
trung phát triển các cây công nghiệp chủ lực có khả năng cạnh tranh như cao
su, chè,… Phát triển mạng lưới thuỷ lợi, bảo đảm cải tạo đất, thâm canh, tăng
vụ và khai thác các vùng đất mới…” [11; Tr 277-278].
Tiếp đó, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (4/2006), trong Báo cáo
chính trị trình Đại hội X của Đảng có nêu một số nhiệm vụ về quản lý sử
dụng ruộng đất: … “Sớm khắc phục tình trạng manh mún về đất canh tác của
các hộ nông dân, khuyến khích việc dồn điền đổi thửa.… Thực hiện tốt chính
22
sách về ruộng đất …Tăng hiệu quả sử dụng đất, tiêu thụ nông sản hàng hóa…
Tiếp tục phủ xanh đất trống đồi núi trọc, bảo vệ đa dạng sinh học” [12; Tr 89
- 90]. Báo cáo còn nêu rõ, “hiện nay và trong nhiều năm tới, vấn đề nông
nghiệp, nông dân và nông thôn có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng. Phải
luôn luôn hướng tới xây dựng một nền nông nghiệp hàng hoá lớn, đa dạng,
phát triển nhanh và bền vững, có năng suất, chất lượng và khả năng cạnh
tranh cao…Thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh
tế nông thôn, chuyển mạnh sang sản xuất các loại sản phẩm có thị trường và
hiệu quả kinh tế cao; đẩy mạnh thâm canh các loại cây trồng trên cơ sở áp
dụng các quy trình sản xuất đồng bộ và tiên tiến… Quy hoạch diện tích sản
xuất lương thực ổn định, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực, phát triển
mạnh chăn nuôi theo quy mô lớn... hoàn thiện việc phân loại, đánh giá đất đai
và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; làm cho quyền sử dụng đất trở
thành hàng hóa một cách thuận lợi, đất đai trở thành một nguồn vốn quan
trọng cho phát triển. [12, Tr 190 - 192]
Như vậy, thông qua Nghị quyết ba kỳ Đại hội Đảng (VIII, IX, X) với
những chỉ đạo chiến lược của Đảng, chúng ta thấy rằng chính sách ruộng đất vẫn

luôn là vấn đề được Đảng ta quan tâm hàng đầu, điều đó được thể hiện bằng
hàng loạt các biện pháp nhằm tăng cường quản lý, khai thác và sử dụng đất đai
vào sản xuất nông nghiệp và các mục đích sử dụng khác. Phát triển nông
nghiệp được Đảng ta xác định trong thời kì mới gắn liền với công nghiệp hóa - hiện
đại hóa, sử dụng các kĩ thuật tiên tiến, cùng các nông cụ sản xuất hiện đại.
2.1.2. Một số chính sách, pháp luật của Nhà nước
Trong Luật đất đai năm 1998 có ghi: “ Đất đai là tài nguyên quốc gia
vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng
đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các
cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh và quốc phòng. Trải qua nhiều thế hệ,
nhân dân ta đã tốn bao công sức, xương máu mới tạo lập, bảo vệ được vốn
đất đai như ngày nay…” [15; Tr 218].
23
Trước tình hình đó, và dưới sự chỉ đạo của Đảng về chính sách ruộng
đất, Nhà nước, Chính phủ đã nhanh chóng cụ thể những chủ trương đó bằng
những văn kiện pháp luật cụ thể, thể hiện rõ tư tưởng của Đảng về chính
sách ruộng đất trong thời kỳ quá độ chủ nghĩa xã hội và đường lối đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm nâng cao hiệu quả của việc
quản lý, sở hữu và có thể sử dụng một cách linh hoạt và triệt để nguồn tài
nguyên vô giá này.
Thể chế hóa chủ trương, chính sách đất đai của Đảng, Hiến Pháp
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, đã quy định: “Đất đai thuộc
sở hữu toàn dân (Điều 17); Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo quy
hoạch và pháp luật (Điều 18)”[32; Tr 7]. Luật Đất đai 1993, Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều Luật Đất đai 1998, 2001, Luật Đất đai 2003, đã cụ thể hóa
các quy định về đất đai của Hiến pháp. Năm 2003 Luật đất đai có sửa đổi và
bổ sung đã được ra đời nhằm có thể đưa ra được những quy định cụ thể mới
về quan hệ sở hữu và sử dụng đất đai trong giai đoạn mới với sự phát triển
nhanh của nền kinh tế thị trường và xu thế hội nhập kinh tế khu vực và thế
giới. Theo như đánh giá của luật sư Lê Công Định thì: “Luật đất đai năm

2003 được ban hành thay thế Luật đất đai năm 1993, Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật đất đai năm1998 và năm 2001 đã có các quy định cụ
thể về vai trò của Nhà nước trong lĩnh vực sở hữu đất đai. Những quy định
này góp phần hoàn dân về đất đai trong nền kinh tế thị trường ở nước ta.
Thứ nhất, bên cạnh việc tiếp tục khẳng định quan điểm đất đai thuộc
sở hữu toàn dân, Luật đất đai năm 2003 còn xác định rõ, cụ thể nội hàm của
sở hữu toàn dân về đất đai. Đó là: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà
nước đại diện chủ sở hữu”. Như vậy, lần đầu tiên vai trò của Nhà nước với
tư cách đại diện chủ sở hữu đất đai đã được pháp luật quy định rõ. Điều này
có nghĩa là đất đai ở nước ta thuộc về sở hữu của toàn dân do Nhà nước đại
diện chủ sở hữu. Nhà nước thay mặt toàn dân đứng ra thực hiện các quyền
năng cụ thể của chủ sở hữu nhằm bảo vệ quyền lợi cho chủ sở hữu - toàn
dân. Mặt khác, quy định này ra đời đã khắc phục tình trạng xác định người
24
chủ sở hữu mang tính chung chung, trừu tượng không cụ thể trong các văn
bản pháp luật trước đây.
Thứ hai, không chỉ xác định rõ vai trò là người đại diện chủ sở hữu,
Luật đất đai năm 2003 còn quy định cụ thể cho Nhà nước thực hiện quyền
định đoạt đất đai thông qua các biện pháp như sau: Quyết định mục đích sử
dụng đất thông qua việc quyết định, xét duyệt quy hoạch sử dụng đất, kế
hoạch sử dụng đất. Quy hoạch về hạn mức giao đất và thời hạn sử dụng đất.
Quyết định giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, cho phép chuyển mục đích sử
dụng đất, định giá đất.
Thứ ba, với tư cách đại diện chủ sở hữu đất đai, Nhà nước thực hiện
quyền điều tiết các nguồn lợi từ đất đai thông qua các chính sách tài chính
về đất đai như: Thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất. Thu thuế sử dụng đất,
thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất. Điều tiết phần giá trị tăng thêm
từ đất mà không do đầu tư của người sử dụng đất mang lại.
Thứ tư, Luật đất đai năm 2003 đã phân biệt rõ ràng, rành mạch quyền
đại diện chủ sở hữu đất đai với quyền thống nhất quản lý về đất đai của

Nhà nước. Nhà nước thực hiện vai trò đại diện chủ sở hữu đất đai thông
qua các biện pháp như: Trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất
thông qua hình thức giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất
đối với người đang sử dụng đất ổn định. Quy định quyền và nghĩa vụ của
người sử dụng đất.
Việc phân biệt rõ quyền đại diện chủ sở hữu đất đai với quyền thống
nhất quản lý đất đai của Nhà nước có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn
nhằm tăng cường trách nhiệm, vai trò của nhà nước cũng như nâng cao hiệu
quả của công tác quản lý nhà nước về đất đai trong giai đoạn hiện nay.
Một trong những hạn chế của các đạo luật đất đai được ban hành trước
đây là không phân định rõ quyền của Nhà nước với tư cách đại diện chủ sở
hữu đất đai và quyền quản lý đất đai của Nhà nước. Hạn chế này đã góp
phần làm giảm hiệu lực quản lý đất đai của Nhà nước. Khắc phục nhược
25

×