Tải bản đầy đủ (.pdf) (145 trang)

đảng lãnh đạo công đoàn việt nam 1986 2001

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 145 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

LÊ TỐ ANH

Đảng lãnh đạo Công đoàn Việt Nam
giai đoạn 1986 - 2001

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

HÀ NỘI, 2005


MỤC LỤC
Mở đầu.............................................................................................................. 2
Chương 1. Công đoàn Việt Nam và khái quát hoạt động của Công đoàn Việt
Nam trước 1986 ................................................................................................ 8
1.1.Công đoàn Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công
nhân và những người lao động Việt nam........................................................... 8
1.2. khái quát hoạt động của Công đoàn Việt Nam trước 1986. ...................... 23
Chương 2 Đảng lãnh đạo Công đoàn Việt Nam giai đoạn 1986 – 2001 ........... 33
2.1. Đảng lãnh đạo Công đoàn nhất quán thực hiện đường lối chính trị của Đảng. .... 34
2.2. Đảng lãnh đạo Công đoàn xây dựng giai cấp công nhân. .......................... 50
2.2.1. Giai đoạn 1986 – 1991. .......................................................................... 55
2.2.2. Giai đoạn 1991 – 1996. .......................................................................... 68
2.2.3.Giai đoạn 1996 – 2001. ........................................................................... 89
2.3. Đảng lãnh đạo Công đoàn xây dựng tổ chức, kiện toàn đội ngũ cán bộ
Công đoàn. ...................................................................................................... 97
Chương 3 Một vài nhận xét và bài học kinh nghiệm ...................................... 124
3.1. Một vài nhận xét. .................................................................................... 124
3.2. Bài học kinh nghiệm................................................................................ 126


Kết luận ......................................................................................................... 136
Danh mục tài liệu tham khảo ......................................................................... 139

1


Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài:
Từ năm 1986 đất nước ta bước vào thực hiện công cuộc Đổi mới toàn
diện do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo. Đổi mới là sự
nghiệp cách mạng của toàn dân, của toàn xã hội, của mọi tổ chức, đoàn thể.
Công đoàn với tư cách là một thành viên trong hệ thống chính trị nước ta, là tổ
chức chính trị xã hội rộng lớn nhất của giai cấp công nhân – lực lượng quan
trọng đi tiên phong trong sự nghiệp đổi mới - đóng vai trò quyết định đối với
thành công của công cuộc đổi mới. Song, để tổ chức Công đoàn nước ta hoạt
động có hiệu quả, phát huy được vai trò, chức năng của mình thì điều cần thiết
là phải có sự lãnh đạo của Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai
cấp công nhân Việt Nam, đóng vai trò bộ tham mưu chiến đấu, có khả năng
lãnh đạo cách mạng nói chung và Công đoàn nói riêng. Trên thực tế, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã trở thành nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam, của phong trào công nhân và hoạt động công đoàn nước ta.
Như vậy, sự lãnh đạo của Đảng ta đối với công đoàn là một yêu cầu khách
quan, là điều kiện quan trọng đảm bảo cho công đoàn thật sự là một tổ chức
chính trị - xã hội, đại diện cho quyền làm chủ của giai cấp công nhân, bảo đảm
cho công đoàn hoạt động theo đúng phương hướng chính trị của cách mạng,
qui luật phát triển của xã hội. Nếu không có sự lãnh đạo của Đảng thì Công đoàn
không thể là công đoàn cách mạng và dễ bị chia rẽ về tổ chức.
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta càng phát triển, sự
nghiệp Đổi mới bắt đầu đi vào chiều sâu, giai cấp công nhân ngày một đông đảo
thì vị trí của tổ chức Công đoàn trong hệ thống chính trị nước ta ngày càng quan

trọng. Do đó việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với tổ chức Công đoàn
nước ta để đảm bảo cho Công đoàn phát huy được tối đa sức mạnh của mình
cho sự nghiệp cách mạng là một yêu cầu tất yếu.
Nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức Công đoàn Việt
Nam trong giai đoạn từ 1986 đến 2001 để thấy được mối quan hệ khăng khít

2


giữa Đảng với Công đoàn, để thấy hoạt động của Công đoàn cần thiết phải có
sự lãnh đạo của Đảng và để rút ra những kinh nghiệm lịch sử quí báu là một
việc làm cấp thiết.
Vì những lý do trên tôi đã chọn đề tài: “Đảng lãnh đạo Công đoàn Việt
Nam giai đoạn từ 1986 đến 2001” làm luận văn thạc sỹ của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều cuộc hội thảo của
các cơ quan Đảng, các nhà khoa học, các cấp công đoàn về sự lãnh đạo của
Đảng đối với tổ chức Công đoàn Việt Nam. Trước năm 1991 đã có cuốn Đảng
Cộng sản Việt Nam tổ chức và lãnh đạo Công đoàn Việt Nam do Nhà xuất bản
Lao động xuất bản vào năm 1985. Cuốn sách đã tổng kết sự lãnh đạo của Đảng
đối với tổ chức Công đoàn trong những năm từ 1976 đến 1985.
Năm 2001, Nhà xuất bản Lao động đã xuất bản cuốn “Tìm hiểu sự lãnh
đạo của Đảng đối với tổ chức công đoàn” do PGS. TS. Nguyễn Phú Trọng, Bí
thư Thành uỷ Hà Nội viết. Cuốn sách đã đề cập đến những vấn đề lý luận chung
về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với tổ chức Công đoàn Việt
Nam và thực tiễn sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với tổ chức Công
đoàn Việt Nam qua các thời kỳ cách mạng đặc biệt là trong thời kỳ cách mạng
dân tộc dân chủ. Sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức Công đoàn trong giai
đoạn từ 1986 đến 2001 chưa được cuốn sách đề cập đến.
Năm 2003, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia đã tập hợp và xuất bản cuốn

“3/4 thế kỷ Công đoàn Việt Nam xây dựng và phát triển”. Cuốn sách đã tổng
kết một cách khái quát về tổ chức Công đoàn và hoạt động Công đoàn Việt
Nam từ khi ra đời cho đến nay.
Chào mừng Đại hội IX Công đoàn Việt Nam, năm 2003, Nhà xuất bản
Lao động đã xuất bản cuốn "Giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt
Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" do PGS.TS.
Nguyễn Viết Vượng chủ biên. Cuốn sách có đề cập đến hoạt động của tổ chức
Công đoàn trước thời kỳ đổi mới, những biến động của giai cấp công nhân và tổ
3


chức Công đoàn Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa .v.v.
Nhân dịp kỷ niệm 70 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, đầu
năm 2000, Đảng đoàn, Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tổ
chức hội thảo: “Đảng Cộng sản Việt Nam với giai cấp công nhân và công đoàn
Việt Nam”. Sau Hội thảo, Nhà xuất bản Lao động ấn hành cuốn sách “Đảng
Cộng sản Việt Nam với giai cấp công nhân và công đoàn Việt Nam” vào tháng
12 năm 2000, nội dung gồm các bài tham luận đề cập đến sự lãnh đạo của Đảng
đối với Công đoàn tại Hội thảo. Những bài tham luận đó đã đề cập đến những
khía cạnh khác nhau về sự lãnh đạo của Đảng đối với Công đoàn.
Những công trình nghiên cứ trên đã mang lại những kiến thức lịch sử sâu
rộng về sự lãnh đạo của Đảng đối với Công đoàn Việt Nam trong một số giai
đoạn cách mạng. Tuy nhiên, nghiên cứu sâu về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam đối với tổ chức Công đoàn Việt Nam trong giai đoạn từ 1986 cho đến
2001 vẫn còn là một khoảng trống. Tiếp thu và kế thừa những thành tựu từ các
công trình đó, tôi đã chọn đề tài “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Công đoàn
Việt Nam giai đoạn từ 1986 đến 2001” làm luận văn thạc sỹ với hy vọng sẽ góp
một phần nhỏ lấp dần khoảng trống đó.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài:

Sự lãnh đạo của Đảng đối với Công đoàn là sự lãnh đạo toàn diện, về
mọi mặt hoạt động của Công đoàn như Đảng lãnh đạo Công đoàn nhất quán
thực hiện đường lối chính trị của Đảng; Đảng lãnh đạo Công đoàn xây dựng
giai cấp công nhân; Đảng lãnh đạo Công đoàn xây dựng tổ chức, kiện toàn đội
ngũ cán bộ; Đảng lãnh đạo Công đoàn thi đua sản xuất; Đảng lãnh đạo Công
đoàn bảo vệ lợi ích công nhân, lao động; Đảng lãnh đạo Công đoàn tham gia
xây dựng Đảng...thể hiện qua việc đề ra đường lối và tổ chức thực hiện đường
lối.
Trong phạm vi của luận văn, tôi tập trung làm rõ sự lãnh đạo của Đảng
đối với Công đoàn Việt Nam ở 3 nội dung: 1, Đảng lãnh đạo Công đoàn nhất
4


quán thực hiện đường lối chính trị của Đảng; 2, Đảng lãnh đạo Công đoàn xây
dựng giai cấp công nhân; 3, Đảng lãnh đạo Công đoàn xây dựng tổ chức, kiện
toàn đội ngũ cán bộ. Đây là 3 nội dung quan trọng nhất trong sự lãnh đạo của
Đảng đối với Công đoàn. Thời gian lịch sử giới hạn từ 1986 đến 2001. Đây là
giai đoạn lịch sử quan trọng đối với sự phát triển của đất nước cũng như đối với
sự nghiệp lãnh đạo cách mạng của Đảng – giai đoạn Đảng khởi xướng và lãnh
đạo nhân dân ta thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước, tiến hành công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
4. Đối tượng, mục đích và nhiệm vụ của đề tài:
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
- Các đường lối chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo tổ
chức Công đoàn Việt Nam giai đoạn 1986 – 2001.
- Hoạt động của Công đoàn Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng giai
đoạn 1986 – 2001.
* Mục đích của đề tài:
Bằng các luận cứ khoa học và thực tiễn, đề tài làm rõ quá trình lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam với tổ chức Công đoàn Việt Nam giai đoạn 1986

2001, từ đó rút ra một số bài học kinh nghiệm.
* Nhiệm vụ của đề tài:
Để thực hiện các mục đích trên, đề tài phải giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ thực trạng hoạt động của tổ chức Công đoàn Việt Nam trước 1986.
- Hệ thống các đường lối chủ trương của Đảng đối với Công đoàn giai
đoạn 1986 – 2001 trong bối cảnh lịch sử cụ thể.
- Tác động đường lối lãnh đạo của Đảng trong thực tiễn hoạt động của
Công đoàn Việt Nam giai đoạn 1986 – 2001.
5. Cơ sở lý luận, nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu đề tài:
- Cơ sở lý luận:
5


Dựa vào hệ thống quan điểm cơ bản của học thuyết Mác-Lênin, Tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với tổ
chức Công đoàn.
- Nguồn tư liệu:
Việc nghiên cứu luận văn chủ yếu dựa vào những tư liệu gốc của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, các Nghị
quyết của công đoàn ngành, công đoàn địa phương. Đó là các văn kiện Đảng
qua các kỳ đại hội, hội nghị, các báo cáo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các văn
kiện của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam qua các kỳ đại hội, hội nghị...
Ngoài ra, việc nghiên cứu luận văn còn sử dụng các tài liệu khác, các công trình
nghiên cứu khoa học, sách báo đã xuất bản của các tác giả trong và ngoài nước.
- Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học lịch sử, dựa
trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, chủ
yếu là phương pháp lịch sử và phương pháp lô gíc. Bên cạnh đó, sử dụng một số
phương pháp khác như phương pháp phân tích, thống kê, so sánh, tổng hợp...
6. ý nghĩa của luận văn:

- ý nghĩa lý luận:
Luận văn góp phần nâng cao nhận thức của giai cấp công nhân và những
người lao động Việt Nam về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Công đoàn trong
tiến trình cách mạng Việt Nam. Đồng thời, cũng qua đó khẳng định vai trò, tầm
quan trọng của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng nước ta, là nhân tố quan
trọng dẫn đến mọi thắng lợi của cách mạng, của phong trào công nhân và hoạt
động công đoàn nước ta.
- ý nghĩa thực tiễn.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, học tập về
lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam và lịch sử phong trào công nhân, Công
đoàn Việt Nam.

6


7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, luận văn gồm có 3 chương, 10 tiết.

Chương 1
Công đoàn Việt Nam và khái quát hoạt động của
Công đoàn Việt Nam trước 1986

1.1. Công đoàn Việt Nam, tổ chức chính trị – xã hội rộng lớn của giai cấp
công nhân Việt Nam và những người lao động Việt Nam.
1.2. Khái quát hoạt động của Công đoàn Việt Nam trước 1986.

Chương 2
Đảng lãnh đạo Công đoàn Việt Nam giai đoạn 1986 – 2001

2.1. Đảng lãnh đạo Công đoàn nhất quán thực hiện đường lối chính trị của Đảng.

2.2. Đảng lãnh đạo Công đoàn xây dựng giai cấp công nhân.
2.2.1. Giai đoạn 1986 – 1991.
2.2.2. Giai đoạn 1991 – 1996.
2.2.3. Giai đoạn 1996 – 2001.
2.3. Đảng lãnh đạo Công đoàn xây dựng tổ chức, đội ngũ cán bộ.
Chương 3
Một vài nhận xét và bài học kinh nghiệm

3.1. Một vài nhận xét.
3.2. Bài học kinh nghiệm.

7


Chương 1
Công đoàn Việt Nam và khái quát hoạt động của
Công đoàn Việt Nam trước 1986
1.1.Công đoàn Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp
công nhân và những người lao động Việt nam.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, Việt Nam bị thực dân Pháp xâm lược.
Với Hoà ước Patơnốt ngày 6 tháng 6 năm 1884 của triều đình nhà Nguyễn nước
ta đã hoàn toàn rơi vào tay thực dân Pháp và trở thành thuộc địa của Pháp. Đất
nước Việt Nam mất độc lập, chủ quyền, dân tộc Việt Nam trở thành nô lệ của
thực dân Pháp, phải sống trong cảnh lầm than, cơ cực. Sau khi hoàn thành công
cuộc bình định vũ trang và thiết lập ách thống trị trên đất nước ta, thực dân
Pháp đã tiến hành liên tiếp hai cuộc khai thác thuộc địa. Cuộc khai thác thuộc
địa lần thứ nhất từ năm 1897 đến 1914, cuộc khai thác thuộc địa lần thứa hai từ
1919 đến 1929. Mục đích của chúng là khai thác, vơ vét tài nguyên thiên nhiên
và bóc lột sức lao động nhân công rẻ mạt của nước ta để làm giàu cho chính
quốc. Để thực hiện được mục đích đó, thực dân Pháp đã thực hiện chính sách

bóc lột nặng nề về kinh tế, chuyên chế về chính trị, kìm hãm nô dịch về văn
hoá. Chúng đã tìm mọi cách để chiếm đoạt ruộng đất của nông dân, làm cho
nông dân bị mất ruộng phải đi làm thuê cho chúng. Chính vì vậy, các hầm mỏ,
xí nghiệp, đồn điền được mở ra ngày càng nhiều để thu hút lao động vào làm
thuê. Người nông dân Việt Nam do bị mất ruộng, lâm vào cảnh bần cùng đã
phải vào làm thuê cho tư bản Pháp và họ đã trở thành công nhân. Giai cấp công
nhân Việt Nam ra đời ngay từ trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của
thực dân Pháp. Lúc đầu số lượng còn rất ít khoảng 8 vạn người. Do qui mô,
phạm vi, tốc độ của các cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ngày càng
cao, các đồn điền, hầm mỏ ngày càng được mở nhiều hơn, lực lượng thu hút
vào làm việc càng đông đảo. Do vậy, giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng
lớn mạnh. Cho đến cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai (1919 – 1929), giai cấp
công nhân Việt Nam đã tăng lên khoảng 25 đến 26 vạn người chiếm 4% dân số,
tăng gấp 4 lần so với cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất. Theo đà của những
8


cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, giai cấp công nhân Việt Nam ngày
càng lớn mạnh, đến những năm 20 của thế kỷ XX, họ đã trở thành một lực
lượng chính trị độc lập.
Sức mạnh của giai cấp công nhân chính là ở tổ chức và ở ý thức tổ chức
kỷ luật. Nếu như trong thực tiễn họ không được tập hợp, đoàn kết lại để tạo
thành sức mạnh tập thể to lớn thì đứng trước sự áp bức bóc lột của nhà tư bản
họ cũng không thể phát huy được sức mạnh vốn có của giai cấp mình. Do vậy,
để giai cấp công nhân phát huy được sức mạnh của mình thì nhất thiết phải có
một tổ chức để tập hợp, đoàn kết và phát huy vai trò to lớn của họ. Vì vậy, trên
con đường đấu tranh và phát triển của giai cấp công nhân, sự ra đời của tổ chức
công đoàn như là một qui luật tất yếu.
Với mục đích khai thác tài nguyên thiên nhiên, bóc lột sức lao động nhân
công rẻ mạt của nước ta để làm giàu cho chính quốc nên thực dân Pháp đã

không từ bất kỳ một thủ đoạn nào để bóc lột giai cấp công nhân Việt Nam.
Chúng vừa bóc lột công nhân theo kiểu tàn bạo của chế độ phong kiến, vừa bóc
lột theo kiểu tư bản chủ nghĩa. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến đời sống khổ
cực của giai cấp công nhân Việt Nam. Có áp bức phải có đấu tranh, ai bị áp bức
càng nhiều thì tinh thần đấu tranh càng kiên quyết. Đó là chân lý của cuộc sống.
Chính sự áp bức, bóc lột của thực dân, phong kiến đã tạo ra động lực thúc đẩy
giai cấp công nhân Việt Nam vùng dậy đấu tranh. Họ đã đứng lên đấu tranh để
đòi quyền lợi cho mình bằng nhiều hình thức khác nhau, từ tự phát đến tự giác.
Lúc đầu họ đấu tranh tự phát với mục đích đòi quyền lợi trước mắt – quyền lợi
về kinh tế, bằng nhiều hình thức khác nhau như từ bỏ trốn tập thể đến công khai
bỏ việc đến đưa những yêu sách cho chủ. Song những cuộc đấu tranh đó đều bị
thực dân Pháp đàn áp dã man. Mặc dù vậy, trong quá trình đấu tranh, giai cấp
công nhân Việt Nam đã hình thành những Hội ái hữu, Hội Tương tế để tập hợp,
đoàn kết, giúp đỡ và bảo vệ nhau trong cuộc sống, trong lao động.
Theo đà của các cuộc khai thác thuộc địa, giai cấp công nhân Việt Nam
ngày càng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng, sự nhận thức và trình độ của

9


họ được nâng lên. Từ năm 1925, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân
Việt Nam cũng đã có chuyển biến, chuyển từ đấu tranh tự phát sang tự giác, từ
đấu tranh lẻ tẻ, đơn thuần đòi những quyền lợi về kinh tế đã chuyển sang kết
hợp kinh tế với chính trị và đấu tranh đòi quyền lợi về chính trị. Nhiều cuộc đấu
tranh lớn của công nhân đã diễn ra có sự liên kết của công nhân cùng ngành
nghề, giữa các ngành, giữa công nhân với nông dân và cao hơn nữa là sự liên
kết khu vực, thể hiện tinh thần quốc tế vô sản của giai cấp công nhân Việt Nam.
Tiêu biểu cho phong trào công nhân lúc này là cuộc bãi công của công nhân nhà
máy Ba Son Sài Gòn tháng 8 năm 1925. Công nhân Ba Son đã phá chiến hạm
Misơlê để phản đối vịêc thực dân Pháp đưa quân đi đàn áp cách mạng Trung

Quốc. Trong quá trình đó tổ chức Công hội đầu tiên ở Việt Nam đã ra đời vào
năm 1925. Đó là tổ chức Công hội do đồng chí Tôn Đức Thắng đứng đầu. Sự ra
đời của công hội Ba Son đã đánh một mốc son mở đầu cho giai đoạn phát triển
tự giác của phong trào công nhân nước ta trước khi Đảng ra đời. Do nhiều
nguyên nhân, đến đầu năm 1926 tổ chức Công hội của đồng chí Tôn Đức Thắng
ở Sài Gòn bị giải tán. Nhưng, chính điều đó cũng đã báo hiệu thời điểm ra đời
của của tổ chức Công đoàn Việt Nam.
Sự giải tán của tổ chức công hội Ba Son không có nghĩa là phong trào
công nhân, công đoàn Việt Nam bị lắng xuống. Đặc biệt, từ khi Hội Việt Nam
cách mạng thanh niên được thành lập, phong trào công nhân Việt Nam ngày
càng phát triển mạnh mẽ hơn gắn với tên tuổi của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc.
Trong Cương lĩnh và báo Thanh niên – cơ quan ngôn luận của Hội – Nguyễn ái
Quốc đã nêu rõ vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân và những vấn đề chiến
lược của cách mạng giải phóng dân tộc mà giai cấp công nhân phải giải quyết.
Song cũng tại đây, Người chưa nói nhiều đến vai trò của tổ chức công đoàn
trong sự nghiệp phát triển của giai cấp công nhân. Đến năm 1927, với việc xuất
bản tác phẩm Đường kách mệnh, những vấn đề lý luận về tổ chức công đoàn đã
được Nguyễn ái Quốc phác thảo rõ ràng. Người đã nêu rõ nhiệm vụ của tổ chức
công hội “tổ chức công hội trước là để cho công nhân đi lại với nhau cho có
cảm tình; hai là để nghiên cứu với nhau; ba là sửa sang cách sinh hoạt của công
10


nhân có khá hơn bây giờ; bốn là để giữ gìn lợi quyền cho công nhân, năm để
giúp đỡ quốc dân, giúp cho thế giới”. [56,tr.302].
Sự ra đời của tổ chức Công hội đỏ Việt Nam gắn liền với sự ra đời và
hoạt động của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Từ năm 1926 khi phát triển
về trong nước, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên luôn coi trọng việc xây
dựng Công hội đỏ theo đúng mục đích, tôn chỉ, phương thức, điều lệ của Quốc
tế Công hội đỏ. Với những hoạt động của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên,

ý thức giác ngộ và phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ngày càng lớn
mạnh. Đặc biệt, với phong trào “vô sản hoá”, Hội Việt Nam cách mạng thanh
niên đã đưa các hội viên thâm nhập vào các đồn điền, nhà máy, hầm mỏ, xí
nghiệp, công trường...để vận động công nhân tổ chức ra các Công hội đỏ ở đây.
Đến cuối những năm 1920, tổ chức Công hội đỏ đã có cơ sở ở cả 3 kỳ tiêu biểu
như nhà máy điện, sửa chữa ô tô AVIA Hà Nội, nhà máy xi măng, sợi, chai Hải
Phòng, khu mỏ Quảng Ninh, nhà máy dệt Nam Định, nhà máy – diêm cưa Bến
Thuỷ .v.v.
Sự ra đời của các tổ chức Công hội đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ
của giai cấp công nhân và phong trào công nhân nước ta. Sự phát triển đó yêu
cầu phải có một tổ chức công hội thống nhất đảm nhiệm việc lãnh đạo phong
trào công nhân và công đoàn nước ta. Trước tình hình đó, ngày 28 – 7 – 1929,
tại số nhà 15, phố Hàng Nón Hà Nội, Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của
Đông Dương Cộng sản Đảng đã cử đồng chí Nguyễn Đức Cảnh, uỷ viên Ban
Chấp hành lâm thời Trung ương Đông Dương Cộng sản Đảng đứng ra chủ trì
thành lập Tổng Công hội đỏ Bắc Kỳ. Tại Đại hội, các đại biểu đã nhất trí thông
qua Điều lệ “Công hội đỏ”, bầu Ban Chấp hành Công hội đỏ Bắc kỳ, quyết định
xuất bản tờ “Lao động” làm cơ quan ngôn luận của hội. Cuối năm 1929, Tổng
Công hội đỏ Trung Kỳ cũng đã được thành lập tại Vinh – Bến Thuỷ, rồi Tổng
Công hội đỏ Đà Nẵng cũng đã được thành lập. Tháng 4 năm 1930 Tổng Công
hội đỏ Nam Kỳ cũng đã được thành lập.

11


Như vậy, đến cuối những năm 20 của thế kỷ XX, tổ chức Công hội đã
được thành lập ở cả 3 kỳ trên đất nước ta. Sự ra đời của tổ chức Công hội đỏ
vừa là kết quả tất yếu của sự trưởng thành về số lượng, chất lượng của giai cấp
công nhân và phong trào công nhân nước ta đồng thời là thắng lợi của đường lối
công vận của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Đông Dương. Kể từ đây, tổ chức

Công hội đỏ đóng một vai trò quan trọng đối với sự phát triển của giai cấp công
nhân cũng như đối với phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam,
đồng thời đánh dấu sự hoà nhập của phong trào công nhân nước ta với phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế. Tổ chức Công hội đỏ chính là cơ sở, là nền
tảng cho sự ra đời của tổ chức Công đoàn Việt Nam.
Tổ chức Công hội đỏ Việt Nam ra đời đúng vào lúc cuộc khủng hoảng
kinh tế thế giới 1929 – 1933 đang diễn ra quyết liệt, đã làm cho giai cấp công
nhân và nhân dân lao động Việt Nam ngày càng cực khổ. Trong bối cảnh đó,
Đảng ta đã chú ý phát triển cơ sở của tổ chức ở mọi nơi trong giai cấp công
nhân cũng như trong nông dân, lao động nước ta. Tổ chức công hội đã ngày
càng thu hút được đông đảo hội viên và góp phần quan trọng trong sự nghiệp
cách mạng Việt Nam. Trong từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể, tổ chức Công hội đỏ
đã đóng một vai trò quan trọng vào việc thực hiện các nhiệm vụ cách mạng. Sau
một quá trình đấu tranh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, giai cấp công nhân Việt
Nam đã xây dựng được một tổ chức thống nhất trong cả nước, tập hợp, đoàn kết
đông đảo công nhân lao động không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dân tộc.
Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 20 – 7 – 1946, tại Nhà hát lớn Hà Nội,
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam chính thức ra mắt. Tổng Liên đoàn Lao
động Việt Nam – tổ chức quần chúng rộng lớn của giai cấp công nhân lúc này
đã tập hợp được hơn 20 vạn đoàn viên, cùng phấn đấu vì mục tiêu lý tưởng của
Đảng và của dân tộc.
Công đoàn ra đời và tồn tại do nhu cầu phát triển tất yếu khách quan của
giai cấp công nhân Việt Nam, của lịch sử đấu tranh cách mạng của giai cấp
công nhân. Ngày nay, tổ chức Công đoàn là một thành viên trong Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính trị nước ta. Tổ
12


chức Công đoàn Việt Nam có tính chất, vị trí, vai trò, chức năng riêng như
những bộ phận khác trong hệ thống chính trị Việt Nam.

Trước hết nói về tính chất của Công đoàn Việt Nam. Tính chất của một tổ
chức là đặc điểm riêng, tương đối ổn định của tổ chức đó, để phân biệt tổ chức
này với tổ chức khác. Tổ chức Công đoàn Việt Nam có 2 tính chất cơ bản. Đó
là tính chất giai cấp của giai cấp công nhân Việt Nam và tính chất quần chúng
rộng lớn của giai cấp công nhân Việt Nam. Thông qua 2 tính chất này Công
đoàn Việt Nam vận động và phát triển qua các thời kỳ cách mạng, nhằm thực
hiện những mục tiêu chung của dân tộc mà Đảng đề ra. Bên cạnh đó, Công
đoàn Việt Nam cũng kế thừa những tính chất cách mạng của công đoàn cách
mạng thế giới.
Tính chất thứ nhất là tính chất giai cấp của giai cấp công nhân. Điều này
biểu hiện ở chỗ giai cấp công nhân và lao động Việt Nam chính là cơ sở xã hội
dẫn đến sự hình thành và ra đời của tổ chức Công đoàn Việt Nam. Chính vì vậy,
tổ chức Công đoàn ra đời phải đáp ứng được yêu cầu của giai cấp công nhân và
người lao động là bảo vệ lợi ích cho họ, chống lại sự áp bức, bóc lột của thực
dân, phong kiến. Như vậy, sự ra đời và tồn tại của tổ chức Công đoàn là do nhu
cầu của giai cấp công nhân và những người lao động Việt Nam. Giai cấp công
nhân và những người lao động nước ta tự nguyện lập ra tổ chức công đoàn và
đây chính là tổ chức chính trị xã hội rộng lớn của họ. Nhấn mạnh tính chất giai
cấp của giai cấp công nhân của Công đoàn có ý nghĩa quan trọng để hiểu đúng
vị trí, vai trò của Công đoàn trong xã hội.
Ngày nay, tính chất giai cấp của giai cấp công nhân của Công đoàn nước
ta được biểu hiện ở chỗ, Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị xã hội của
giai cấp công nhân nước ta. Mọi hoạt động của Công đoàn phải đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phấn đấu thực hiện những nhiệm vụ chiến
lược mà Đảng đề ra. Mặt khác, Đảng giáo dục, rèn luyện và tạo điều kiện để
Công đoàn phát triển. Do vậy, Công đoàn chính là sợi dây nối liền Đảng với
quần chúng nhân dân. Mọi hoạt động của Công đoàn Việt Nam đều nhằm thực

13



hiện mục tiêu xây dựng xã hội mới, xã hội không có người bóc lột người. Cụ
thể ở nước ta là hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, đánh đổ thực dân,
phong kiến, xây dựng nhà nước dân chủ nhân dân và tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Bên cạnh đó, việc xây dựng tổ chức Công đoàn Việt Nam phải đảm bảo tính
thống nhất về lý luận và thực tiễn hoạt động của giai cấp công nhân trong mọi
thời kỳ của cách mạng nước ta. Quá trình xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ
công đoàn phải tuân theo đường lối, chính sách và tiêu chuẩn cán bộ của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Tổ chức và hoạt động của Công đoàn Việt Nam là quán
triệt nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tổ chức quan trọng nhất của giai
cấp công nhân, của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngoài những nội dung trên, hoạt
động của Công đoàn Việt Nam phải vì lợi ích của dân tộc, vì lợi ích của giai cấp
công nhân và đây chính là mục tiêu phấn đấu to lớn của Công đoàn Việt Nam.
Tính chất thứ hai, biểu hiện tính chất quần chúng rộng lớn của Công đoàn
Việt Nam. Công đoàn ra đời là do quá trình phát triển tất yếu của giai cấp công
nhân và lao động nước ta đem lại. Ngay từ khi mới ra đời, Công đoàn Việt Nam
đã gắn với bó mật thiết với công nhân, lao động bị áp bức bóc lột. Thông qua
phong trào đấu tranh của công nhân, lao động, Công đoàn Việt Nam tồn tại và
phát triển thành một tổ chức chính trị xã hội rộng lớn. Tính chất quần chúng của
Công đoàn Việt Nam được biểu hiện ở chỗ, Công đoàn đã kết nạp, thu hút đông
đảo công nhân, viên chức, lao động thuộc các thành phần kinh tế, mọi tổ chức
chính trị, kinh tế, xã hội khác nhau vào tổ chức công đoàn trên cơ sở đảm bảo
tinh thần tự nguyện, gia nhập và ra khỏi tổ chức công đoàn theo điều lệ của của
Công đoàn Việt Nam qui định. Cơ quan lãnh đạo của Công đoàn Việt Nam bao
gồm những người được đoàn viên công đoàn tín nhiệm và bầu ra. Họ là những
người đại diện cho tiếng nói, nguyện vọng của công nhân, viên chức. Chính vì
vậy, nội dung hoạt động của Công đoàn Việt Nam luôn luôn đáp ứng yêu cầu và
nguyện vọng của công nhân, viên chức, lao động qua từng thời kỳ cách mạng.
Cán bộ các cấp của Công đoàn Việt Nam xuất thân từ công nhân trưởng thành
từ phong trào công nhân, từ phong trào quần chúng ở cơ sở.


14


Tính chất của công đoàn Việt Nam có ý nghĩa quan trọng, quyết định sự
tồn tại và phát triển của tổ chức Công đoàn. Hai tính chất trên có mối quan hệ
mật thiết với nhau. Nếu chỉ coi trọng tính chất giai cấp của giai cấp công nhân
mà coi nhẹ tính chất quần chúng thì tổ chức công đoàn sẽ bị bó hẹp và hoạt
động kém hiệu quả. Nếu chỉ coi trọng tính chất quần chúng mà coi nhẹ tính chất
giai cấp của giai cấp công nhân thì sẽ dẫn đến xa rời mục tiêu chính trị, dần dần
biến công đoàn thành phường, hội, sai lệch phương hướng hành động cách
mạng và không đúng với bản chất của Công đoàn Việt Nam – tổ chức chính trị
xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và lao động Việt Nam. Một tổ chức
Công đoàn cách mạng phải quán triệt 2 tính chất trên trong tư tưởng chỉ đạo,
trong tôn chỉ, mục đích, trong xây dựng tổ chức và hoạt động.
Những tính chất trên luôn được Công đoàn Việt Nam phát huy trong quá
trình hoạt động của mình, nhằm xây dựng Công đoàn Việt Nam vững mạnh về
mọi mặt, xứng đáng với vị trí của mình trong hệ thống chính trị nước ta.
Nói đến vị trí của Công đoàn là nói đến địa vị của Công đoàn giữa các tổ
chức khác trong hệ thống chính trị và mối quan hệ của tổ chức Công đoàn với
các tổ chức đó. Công đoàn Việt Nam là thành viên trong hệ thống chính trị, là
trung tâm tập hợp, đoàn kết, giáo dục, rèn luyện, xây dựng đội ngũ giai cấp
công nhân, lao động, là chỗ dựa vững chắc của Đảng Cộng sản Việt Nam. Giữa
Công đoàn và các tổ chức khác trong hệ thống chính trị nước ta có mối quan hệ
khăng khít với nhau. Trước hết, Công đoàn có mối quan hệ mật thiết với Đảng.
Mối quan hệ giữa Công đoàn với Đảng biểu hiện ở vai trò lãnh đạo của Đảng
với tổ chức Công đoàn, đồng thời còn thể hiện vai trò, trách nhiệm của Công
đoàn trong việc thực hiện chính sách của Đảng và góp phần quan trọng vào việc
xây dựng Đảng. Công đoàn là sợi dây nối liền Đảng với giai cấp công nhân,
quần chúng lao động. Công đoàn là người tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ

trương, chính sách của Đảng đến với quần chúng. Thông qua đó, Công đoàn
nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng của quần chúng để phản ánh với Đảng, tạo
cơ sở thực tiễn cho Đảng hoàn thành cơ chế, chính sách, có những quyết sách
đúng đắn để phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội. Công đoàn còn có trách nhiệm
15


xây dựng Đảng, bồi dưỡng công nhân, lao động ưu tú giới thiệu với Đảng để
Đảng xem xét, kết nạp, tăng thêm thành phần công nhân trong Đảng, làm cho
Đảng ngày càng vững mạnh. Ngoài ra, Công đoàn còn đào tạo, cung cấp cán bộ
cho Đảng. Thông qua các hoạt động Công đoàn, các phong trào công nhân,
công đoàn, nhiều cán bộ đã trưởng thành và đó là nguồn bổ sung cán bộ đáng
tin cậy và có chất lượng cho Đảng.
Công đoàn còn có mối quan hệ mật thiết với Nhà nước. Công đoàn là
người cộng tác đắc lực với Nhà nước, góp phần xây dựng Nhà nước, tham gia
quản lý Nhà nước, quản lý xã hội. Mối quan hệ giữa Công đoàn với Nhà nước
thể hiện ở sự bình đẳng, tôn trọng, cộng tác, giúp đỡ lẫn nhau trong mọi hoạt
động vì lợi ích của dân tộc, quốc gia. Công đoàn luôn động viên, giáo dục, tập
hợp công nhân, viên chức lao động thi đua lao động sản xuất, hoàn thành các
chỉ tiêu kinh tế, văn hoá, xã hội. Công đoàn còn đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cung
cấp cho các cơ quan Nhà nước. Qua đó nhằm xây dựng Nhà nước Việt Nam
vững mạnh, cùng thực hiện mục tiêu chiến lược mà Đảng ta đã đề ra “xây dựng
nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Về
phần mình, Nhà nước luôn tạo điều kiện vật chất, tinh thần cho Công đoàn hoạt
động. Nhà nước đã đề ra và hoàn thành hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý
cho công đoàn hoạt động.
Với vị trí như vậy, Công đoàn Việt Nam có vai trò rất quan trọng trong
tiến trình phát triển của lịch sử và cách mạng Việt Nam. Vai trò đó được biểu
hiện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, gắn với những bối cảnh lịch sử nhất
định. Trong chế độ thực dân, phong kiến, vai trò của Công đoàn là đấu tranh

chống lại bọn cướp nước và bán nước để giành lại độc lập cho đất nước và tự do
cho nhân dân. Từ sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, nhất là sau khi
nước nhà được thống nhất, vai trò của Công đoàn Việt Nam ngày càng được mở
rộng trên nhiều lĩnh vực.
Trước hết, Công đoàn là trường học quản lý. Thông qua hoạt động của
mình, Công đoàn Việt Nam giúp cho công nhân, viên chức, lao động biết quản

16


lý sản xuất, quản lý nhà máy, xí nghiệp, quản lý các công việc xã hội. Đồng
thời, cũng qua đó, Công đoàn tạo điều kiện cho công nhân, viên chức, lao động
trực tiếp tham gia quản lý.
Công đoàn còn là trường học kinh tế. Công đoàn Việt Nam vận động
công nhân, viên chức, lao động tham gia tích cực vào việc đổi mới cơ chế quản
lý kinh tế, hoàn thiện các chính sách kinh tế, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh
tế. Cũng trong lĩnh vực này, Công đoàn tổ chức thi đua lao động, nâng cao năng
suất lao động, chất lượng sản phẩm, hiệu quả sản xuất kinh doanh, mở rộng thị
trường trong và ngoài nước.
Công đoàn còn là trường học chủ nghĩa xã hội. Công đoàn tăng cường
giáo dục công nhân, viên chức, lao động về thái độ lao động mới. Cùng với giáo
dục lao động, Công đoàn Việt Nam còn giáo dục chính trị, tư tưởng, văn hoá,
pháp luật, lối sống nhằm nâng cao hơn nữa đời sống vật chất, tinh thần, hoàn
thiện nhân sinh quan, thế giới quan khoa học cho công nhân, viên chức và lao
động.
Công đoàn có vai trò rất lớn đối với sự phát triển của xã hội, của nền kinh
tế nước ta. Cùng với sự phát triển của đất nước, vai trò của Công đoàn ngày
càng được khẳng định. Đặc biệt, trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, vai trò của Công đoàn ngày càng được mở rộng và nâng cao. Đảng và
Nhà nước ta luôn khẳng định Công đoàn có vai trò quan trọng của đối với thành

công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong bối cảnh đó, vai trò
của Công đoàn được biểu hiện trên tất cả các lĩnh vực. Trong lĩnh vực kinh tế,
Công đoàn có vai trò quan trọng trong việc xoá bỏ cơ chế quản lý kinh tế tập
trung, quan liêu, bao cấp, củng cố nguyên tắc tập trung dân chủ. Tổ chức Công
đoàn Việt Nam cần thể hiện vai trò của mình để đẩy mạnh sự phát triển của các
thành phần kinh tế, trong đó đảm bảo vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.
Trong lĩnh vực chính trị, công đoàn có vai trò lớn trong việc xây dựng hệ thống
chính trị xã hội chủ nghĩa. Là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, Công
đoàn phải tăng cường mối liên hệ giữa các tổ chức đó, nhằm phát huy quyền

17


làm chủ của nhân dân lao động. Đặc biệt, trong tình hình hiện nay, sự ổn định
về chính trị là yêu cầu đặt lên hàng đầu thì vai trò của công đoàn lại càng quan
trọng. Tăng cường giáo dục cho công nhân, viên chức lao động hiểu sâu sắc về
vai trò của ổn định chính trị và cùng góp phần quan trọng giữ vững ổn định
chính trị là nhiệm vụ quan trọng của Công đoàn.
Sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần tất yếu làm nảy
sinh nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội, đồng thời nó cũng làm cho cơ cấu
nền kinh tế ngày càng thay đổi. Trong điều kiện đó, về mặt xã hội, Công đoàn
có vai trò quan trọng trong việc xây dựng giai cấp công nhân, đảm bảo sự thống
nhất của giai cấp công nhân, không ngừng nâng cao trình độ giác ngộ chính trị,
ý thức tổ chức kỷ luật, trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật, có nhân sinh quan
cách mạng để giai cấp công nhân thật sự là giai cấp lãnh đạo, quyết định đến sự
phát triển của đất nước. Công đoàn còn có vai trò trong việc củng cố và xây
dựng khối liên minh công – nông – trí thức để làm nòng cốt cho khối đại đoàn
kết toàn dân tộc, làm cơ sở xã hội vững chắc đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng
và tăng cường sức mạnh của Nhà nước. Nền kinh tế hàng hoà nhiều thành phần
vừa có ưu điểm, vừa có hạn chế, đồng thời trong quá trình phát triển làm nảy

sinh nhiều vấn đề xã hội tiêu cực. Do vậy, hơn lúc nào hết công đoàn cần phát
huy vai trò trong việc giáo dục công nhân, viên chức, lao động, nâng cao lập
trường giai cấp công nhân, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động của mình. Công đoàn
cần phát huy những truyền thống lịch sử, văn hoá của dân tộc, tiếp thu có chọn
lọc tinh hoa văn hoá nhân loại trong việc giáo dục công nhân, viên chức, lao
động, góp phần to lớn vào việc xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiến tiến, đậm
đà bản sắc văn hoá dân tộc.
Thực tiễn cách mạng nước ta hơn 70 năm qua đã chứng minh Công đoàn
có vai trò rất lớn đối với sự phát triển của xã hội, của đất nước. Công đoàn đã
vận động, thu hút, tập hợp, giáo dục công nhân, viên chức, lao động tham gia
tích cực vào cách mạng dân tộc, dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Thắng
lợi của sự nghiệp cách mạng nước ta qua mỗi thời kỳ cách mạng là do có sự
18


đóng góp to lớn của Công đoàn. Công đoàn đã thể hiện vai trò của mình thông
qua hệ thống tổ chức từ trung ương đến địa phương, ngành, cơ sở, thông qua
các phong trào, các hành động cách mạng của đoàn viên, của quần chúng lao
động. Ngày này, Công đoàn nước ta đã thu hút và tập hợp đông đảo lực lượng
công nhân, viên chức, lao động có trình độ văn hoá, khoa học, kỹ thuật, quản lý
kinh tế cao tham gia vào mọi mặt của đời sống xã hội và trở thành bộ phận quan
trọng của lực lượng sản xuất. Chính vì Công đoàn có vai trò quan trọng như
vậy, cho nên Đảng ta luôn quan tâm, tạo mọi điều kiện để Công đoàn phát huy
được vai trò to lớn của mình.
Là một tổ chức chính trị của giai cấp công nhân và những người lao động
Việt Nam, ra đời do nhu cầu phát triển tất yếu của cuộc đấu tranh cách mạng ở
nước ta nên Công đoàn có chức năng riêng và chức năng của Công đoàn mang
tính khách quan, nó tồn tại không phụ thuộc vào ý chí, nguyện vọng của đoàn
viên công đoàn hay của bất cứ một tổ chức nào khác. Trong chế độ thực dân,

phong kiến, chức năng của Công đoàn Việt Nam là đấu tranh giành lại quyền
lợi cho dân tộc và giai cấp. Chức năng này đã xuyên suốt toàn bộ quá trình cách
mạng dân tộc dân chủ ở Việt Nam. Nhằm thực hiện và hoàn thành được chức
năng đó, Công đoàn Việt Nam đã tập hợp, vận động, giáo dục công nhân đấu
tranh giành lại quyền lợi dân tộc và giai cấp. Vì vậy, việc giáo dục, tuyên truyền
đã trở thành một chức năng quan trọng của Công đoàn Việt Nam. Trong thời kỳ
này, Công đoàn đã giáo dục, tuyên truyền đến công nhân, viên chức, lao động
đường lối cách mạng giải phóng dân tộc, về mục tiêu và phương pháp cách
mạng. Từ đó, tổ chức thành những phong trào đấu tranh rộng lớn chống lại đế
quốc, phong kiến.
Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xa hội ngày nay, Công đoàn Việt
Nam có các chức năng sau.
Chức năng đầu tiên và là chức năng trung tâm, cơ bản của Công đoàn là
bảo vệ lợi ích công nhân viên chức lao động. Chính tính chất, vai trò của Công
đoàn đã qui định đến chức năng bảo vệ lợi ích chính đáng và hợp pháp của

19


người lao động. Song, việc bảo vệ lợi ích cho người lao động của Công đoàn
không phải là hành động chống lại Nhà nước mà ngược lại, thông qua hành
động bảo vệ lợi ích cho người lao động, Công đoàn càng khẳng định thêm bản
chất tốt đẹp của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Cùng với việc bảo vệ lợi ích của người lao động, Công đoàn còn bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, đấu tranh chống lại thói hư tật xấu của một số người, của một
nhóm người vi phạm pháp luật Nhà nước chính là góp phần bảo vệ chính quyền
Nhà nước.
Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta, các thành phần kinh tế ngày càng được mở rộng. Kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài ngày càng phát triển. Các xí nghiệp tư nhân, liên doanh xuất hiện

ngày một nhiều, thu hút đông đảo công nhân, lao động vào làm việc tại đây.
Trong điều kiện đó, quan hệ chủ, thợ đã xuất hiện, tình trạng bóc lột, ức hiếp
người lao động đã xảy ra. Vì vậy, hơn lúc nào hết, Công đoàn cần phải đấu
tranh để bảo vệ lợi ích cho người lao động. Cụ thể, để bảo vệ lợi ích cho người
lao động, Công đoàn cần tham gia tìm việc làm và tạo điều kiện làm việc cho
công nhân, lao động. Bên cạnh đó, Công đoàn cần quan tâm giải quyết các vấn
đề về lương, tiền thưởng, nhà ở, bảo hiểm xã hội, phát triển các hoạt động văn
hoá, văn nghệ, thể dục, thể thao, du lịch, tham quan, nghỉ mát...Một điều rất
quan trọng đảm bảo cho Công đoàn có thể thực hiện được chức năng bảo vệ lợi
ích của người lao động là Công đoàn phải nhận thức được đầy đủ và sâu sắc về
mối quan hệ giữa lợi ích của người lao động với lợi ích của dân tộc, của nhà
nước, của tập thể. Công đoàn cần thấy rằng lợi ích của người lao động gắn với
lợi ích chung của toàn dân tộc, của Nhà nước, của tập thể, sự tồn tại và vững
mạnh của Nhà nước chính là sự bảo đảm cho lợi ích của người lao động. Lợi ích
của người lao động không chỉ có lợi ích kinh tế, lợi ích thiết thực trong cuộc
sống hàng ngày mà cao hơn là lợi ích chính trị, lợi ích văn hoá, tinh thần, lợi ích
trước mắt, lợi ích lâu dài, lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể... Những lợi ích đó tồn
tại khách quan và là cái mà con người phải được hưởng.

20


Chức năng thứ hai của Công đoàn là tham gia quản lý. Đây là chức năng
rất quan trọng của Công đoàn, khẳng định vị trí của Công đoàn. Tham gia quản
lý là thể hiện quyền của Công đoàn, của công nhân, viên chức va lao động trong
điều kiện chính quyền đã thuộc về tay giai cấp công nhân. Đồng thời, tham gia
quản lý chính là hành động thiết thực để bảo vệ lợi ích trước mắt, lợi ích lâu dài,
của công nhân, viên chức và lao động, của cá nhân, của tập thể, của Nhà nước.
Cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước chuyên chính vô sản nước
ta được thành lập, giai cấp công nhân và nhân dân lao động làm chủ đất nước,

làm chủ xã hội. Quyền làm chủ được thể hiện tập trung ở Nhà nước Việt Nam
dân chủ cộng hoà, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương. Đây là
Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Do vậy, người lao động có quyền và trách
nhiệm tham gia quản lý công việc của Nhà nước. Vấn đề tham gia quản lý của
Công đoàn đã tạo ra sự thay đổi về chất của tổ chức này, đồng thời tham gia
quản lý trở thành một chức năng mới của Công đoàn trong thời kỳ mới của cách
mạng Việt Nam.
Để thực hiện tốt chức năng tham gia quản lý, Công đoàn cần tổ chức và
đẩy mạnh những nội dung hoạt động cụ thể. Trước hết, Công đoàn tổ chức
phong trào thi đua lao động giỏi trong công nhân, viên chức và lao động. Đây là
biện pháp tổng hợp nhất để để công nhân, viên chức và lao động trực tiếp tham
gia quản lý. Công đoàn vận động họ tham gia xây dựng và thực hiện kế hoạch
sản xuất kinh doanh, tham gia quản lý lao động, tìm việc làm cho công nhân,
viên chức, lao động. Đối với lĩnh vực tiền lương, tiền thưởng của công nhân,
viên chức, lao động, Công đoàn tham gia góp ý, đề xuất cách phân chia cho phù
hợp với công sức mà người lao động bỏ ra. Công đoàn vận động đoàn viên của
mình tham gia tích cực vào việc quản lý vật tư, kỹ thuật, tài chính nhằm tiết kiệm
chi phí trong sản xuất, giảm mức tiêu hao trên một đơn vị sản phẩm...
Ngày nay, đất nước ta đang xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chức năng tham gia quản lý của
Công đoàn ngày càng quan trọng và cần phải được tăng cường. Công đoàn cần

21


chú trọng đến việc phát triển tiềm năng lao động, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ
thuật, cùng với lãnh đạo Đảng, chính quyền tìm nguồn vốn, thị trường để mở
rộng sản xuất, kinh doanh, giải quyết việc làm cho người lao động. Nền kinh tế
thị trường bên bạnh những mặt tốt còn có những hạn chế, do vậy, Công đoàn
cần tích cực tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của chính quyền, chống quan

liêu, lãng phí, tham ô và những tệ nạn xã hội khác, góp phần quan trọng đảm
bảo nền kinh tế thị trường đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chức năng thứ ba của Công đoàn là giáo dục. Giáo dục là chức năng cần
thiết đối với sự tồn tại và phát triển của Công đoàn Việt Nam. Trong từng bối
cảnh lịch sử khác nhau, chức năng giáo dục được thể hiện khác nhau. Dưới chế
độ thực dân, phong kiến, Công đoàn giáo dục quần chúng hiểu rõ bản chất xấu xa
của chủ nghĩa tư bản và bọn tay sai của chúng. Từ đó, giáo dục họ tinh thần, thái
độ đấu tranh kiên quyết, không khoan nhượng với chúng để bảo vệ lợi ích cho
người lao động. Trong điều kiện nhà nước do giai cấp công nhân nắm vai trò lãnh
đạo, chức năng giáo dục của Công đoàn có sự thay đổi về chất. Trong điều kiện
đó, Công đoàn cần giáo dục cho công nhân, viên chức, lao động nhận thức đầy
đủ về lợi ích cá nhân gắn liền với kết quả sản xuất kinh doanh của đơn vị. Để có
lợi ích, trên mỗi cương vị của mình, người lao động cần phải hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao. Từ đó củng cố kỷ luật lao động, ý thức học tập để nâng cao
trình độ học vấn, tay nghề, chuyên môn, nghiệp vụ, xây dựng ý thứ tự nguyện
trong lao động, trong sinh hoạt tập thể. Bên cạnh đó, Công đoàn tuyên truyền giáo
dục công nhân, viên chức và lao động vững tin vào đường lối chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, tin vào tiền đồ, vào tương lai của dân tộc.
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay của nước ta, chức năng giáo dục của
Công đoàn hơn bao giờ cần phải được thể hiện triệt để. Sự nghiệp đổi mới của
nước ta diễn ra trong bối cảnh tình hình trong nước và quốc tế có nhiều biến đổi
lớn, phức tạp, có tác động vừa tích cực, vừa hạn chế đến đời sống của công
nhân, viên chức và lao động. Do vậy, Công đoàn cần giáo dục cho công nhân,
viên chức, lao động tin vào sự lãnh đạo của Đảng, tin vào thắng lợi của sự
nghiệp đổi mới, luôn luôn tỉnh táo, cảnh giác và sẵn sàng đấu tranh với những
22


khuynh hướng sai lầm, tư tưởng tiểu tư sản, mị dân, cơ hội làm sai lệch mục
tiêu chủ nghĩa xã hội. Ngày nay, nội dung giáo dục của Công đoàn còn được

mở rộng hơn, toàn diện hơn. Bên cạnh việc giáo dục về ý thức, tổ chức, kỷ luật
lao động, Công đoàn còn giáo dục cho người lao động về lý luận chủ nghĩa Mác
– Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về chủ nghĩa xã hội, về kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, về tình hình quốc tế và khu vực, giáo dục pháp luật,
giáo dục thẩm mỹ, giáo dục về truyền thống của dân tộc...
Những chức năng trên, cho thấy, chức năng của Công đoàn là một chỉnh
thể, một hệ thống đồng bộ, trong đó chức năng bảo vệ lợi ích là chức năng trung
tâm và là mục tiêu hoạt động của Công đoàn. Những chức năng đó vừa là thiên
chức của Công đoàn, đồng thời thực hiện những chức năng đó còn là đảm bảo
cho sự tồn tại của Công đoàn.
1.2. khái quát hoạt động của Công đoàn Việt Nam trước 1986.
Công đoàn Việt Nam ra đời là do nhu cầu phát triển tất yếu khách quan
của giai cấp công nhân và sự nghiệp cách mạng nước ta. Trong quá trình phát
triển, Công đoàn Việt Nam đã có nhiều đóng góp to lớn đối với sự nghiệp cách
mạng nước nhà.
Trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Công đoàn đã tích
cực vận động công nhân, viên chức, lao động thực hiện thắng lợi đường lối của
Đảng. Trong thời kỳ 1930 – 1945, Công đoàn với hình thức là tổ chức Công hội
đã tích cực vận đông công nhân, viên chức lao động tham gia đấu tranh, mít tinh
biểu tình, chống sưu cao, thuế nặng, chống đánh đập, cúp phạt, chống đàn áp
khủng bố. Trong cao trào 1930 – 1931, Công đoàn đã đóng vai trò quan trọng
trong việc vận động quần chúng tham gia hưởng ứng cuộc đấu tranh do Đảng ta
phát động nhân kỷ niệm ngày Quốc tế lao động 1 – 5 – 1930. Trong suốt năm
1930, đã có 98 cuộc đấu tranh với trên 6 vạn lượt thợ thuyền. Qua quá trình đấu
tranh, số hội viên Công hội không ngừng tăng lên. Đặc biệt, từ khi Hội nghị
tháng 10 năm 1930 triệu tập và thông qua Luận cương chính trị, Công hội đã

23



góp phần quan trọng vào việc tuyền truyền đường lối của Đảng Cộng sản Đông
dương đến các tầng lớp nhân dân.
Giai đoạn 1932 – 1935 là giai đoạn cách mạng nước ta gặp rất nhiều khó
khăn. Trong hoàn cảnh đó, Công hội đã góp phần to lớn để Đảng nắm được giai
cấp công nhân, là cầu nối đắc lực giữa Đảng với quần chúng nhân dân. Công
hội đã ra góp phần quan trọng trong cuộc đấu tranh để khôi phục lại phong trào
cách mạng 1932 – 1935. Nhờ đó, đã góp phần đưa cách mạng nước ta dần thoát
khỏi hoàn cảnh khó khăn và tiếp tục phát triển.
Thắng lợi của phong trào dân chủ 1936 – 1939, là có sự đóng góp to lớn
của Công hội. Trong thời kỳ này, Công hội đã tham gia tích cực vào việc chống
lại những hành động phá hoại phong trào cách mạng, phá hoại Đảng như nạn tờ
rốt xkít. Nhờ vậy, phong trào cách mạng nước ta luôn luôn phát triển và giành
nhiều thắng lợi quan trọng.
Trong cao trào kháng Nhật cứu quốc, tổ chức Công hội đã phát triển thêm
một bước, đổi thành Hội Công nhân cứu quốc. Hội Công nhân cứu quốc đã tập
hợp, đoàn kết, giáo dục, giác ngộ quần chúng công nhân, viên chức và lao động
về mục tiêu, phương pháp cách mạng. Hội đã cổ động công nhân, thợ thuyền
đòi tăng lương, giảm giờ làm, chống đánh đập, khủng bố, cổ động anh em làm
phu cho Nhật lãn công, đình công, biểu tình...Hội Công nhân cứu quốc ngày
càng phát triển, có cả hệ thống dọc theo ngành nghề, hệ thống ngang theo đơn
vị hành chính, thích hợp với điều kiện vận động trực tiếp cho Cách mạng Tháng
Tám 1945. Trong Cách mạng Tháng Tám 1945, công nhân đã đi đầu trong
giành chính quyền ở các thành phố lớn và góp phần quan trọng làm nên thắng
lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945.
Cách mạng Tháng Tám thành công, Hội Công nhân cứu quốc đã được
chuyển thành Công đoàn. Trong những năm đầu sau Cách mạng tháng Tám,
Công đoàn đã vận động công nhân trong các nhà máy thành lập các tổ công
đoàn, theo dõi, giám sát và đấu tranh yêu cầu chủ thực hiện nghiêm chỉnh các
qui định của Nhà nước, bảo vệ quyền lợi của người lao động. Trong các đơn vị


24


×