Tải bản đầy đủ (.pdf) (147 trang)

đảng lãnh đạo khôi phục và phát triển kinh tế cá thể từ năm 1986 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.59 MB, 147 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------

HỨA THỊ HUYỀN

ĐẢNG LÃNH ĐẠO KHÔI PHỤC VÀ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ CÁ THỂ TỪ NĂM 1986
ĐẾN NĂM 2010

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

HÀ NỘI – 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------

HỨA THỊ HUYỀN

ĐẢNG LÃNH ĐẠO KHÔI PHỤC VÀ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ CÁ THỂ TỪ NĂM 1986
ĐẾN NĂM 2010
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 602256

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học: PGS. Lê Mậu Hãn


HÀ NỘI – 2013


BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

CP: Chính phủ
CT: Chỉ thị
CTQG: Chính trị quốc gia
CNH - HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNXH: Chủ nghĩa xã hội
HĐBT: Hội đồng bộ trưởng
HN: Hội nghị
KT-XH: kinh tế xã hội
NQ: Nghị quyết
TW (TƯ): Trung ương
XHCN: Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
NỘI DUNG ................................................................................................... 7
Chương 1. ĐẢNG LÃNH ĐẠO KHÔI PHỤC KINH TẾ CÁ THỂ TỪ
NĂM 1986 ĐẾN NĂM 1995 ...................................................................... 7
1.1. Kinh tế cá thể và chính sách của Đảng về kinh tế cá thể trước đổi
mới (1986) ................................................................................................... 7
1.2. Đảng lãnh đạo khôi phục kinh tế cá thể giai đoạn 1986 – 1995 ..... 14
1.2.1. Chủ trương khôi phục kinh tế cá thể của Đảng ................................. 14
1.2.2. Đảng chỉ đạo khôi phục kinh tế cá thể ............................................. 29
1.2.3. Kết quả trong việc thực hiện chính sách khôi phục kinh tế cá thể của
Đảng ......................................................................................................... 43

Chương 2. SỰ LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ CÁ THỂ CỦA
ĐẢNG TỪ 1996 ĐẾN 2010 ..................................................................... 49
2.1. Chủ trương của Đảng đối với thành phần kinh tế cá thể ............... 49
2.2. Đảng chỉ đạo phát triển kinh tế cá thể ........................................... 60
2.3. Kết quả trong việc thực hiện chính sách phát triển kinh tế cá thể .... 74
Chương 3. NHẬN XÉT CHUNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ................. 85
3.1. Nhận xét chung ................................................................................. 85
3.1.1. Về nhận thức và chủ trương............................................................. 85
3.1.2. Thành tựu và hạn chế .................................................................... 100
3.2. Một số kiến nghị ............................................................................. 115
KẾT LUẬN ............................................................................................... 123
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 127
PHỤ LỤC................................................................................................... 135
1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là một trong những
chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước đòi hỏi phải thực hiện nhất quán, lâu
dài chính sách phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, lấy
việc giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên
ngoài. Hơn 20 năm qua, những chủ trương, đường lối khuyến khích phát triển
kinh tế nhiều thành phần của Đảng đã có tác động tích cực, đẩy mạnh sự phát
triển của nền kinh tế nước ta. Đại hội VI nhận định “chính sách đó (chính
sách nhiều thành phần kinh tế) cho phép sử dụng nhiều thành phần kinh tế với
quy mô và trình độ kỹ thuật thích hợp trong từng khâu của quá trình sản xuất
và lưu thông nhằm khai thác mọi khả năng của các thành phần kinh tế liên kết
với nhau, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo. Đó là một giải
pháp có ý nghĩa chiến lược, góp phần giải phóng và khai thác mọi khả năng

để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý”.[26, tr.57]
Thành tựu thu được trong hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới đất
nước đã chứng minh tính đúng đắn của Đảng trong việc không ngừng đổi mới
nhận thức, quan điểm, chính sách về vấn đề sở hữu và các thành phần kinh tế
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đồng thời nhận thức
ngày càng rõ hơn con đường đi lên CNXH. Đổi mới kinh tế ở Việt Nam đã
khẳng định chuyển sang kinh tế nhiều thành phần vận hành bởi cơ chế thị
trường định hướng XHCN là một xu thế tất yếu.
Thực tế, trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, kinh tế cá thể đã
và sẽ tiếp tục đóng góp một phần đáng kể vào việc phát triển nền kinh tế quốc
dân. Không những thế, kinh tế cá thể còn có vai trò quan trọng trong việc tạo
công ăn việc làm, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo trong xã hội, góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế các địa phương, cơ cấu thành phần kinh tế, giữ gìn
và phát triển các làng nghề truyền thống, củng cố đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân, góp phần ổn định, nâng cao đời sống, giảm áp lực đối với
2


các vấn đề xã hội, cùng với các thành phần kinh tế khác thực hiện mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Nhận thức rõ
vấn đề này, trong thời kỳ đổi mới, Đảng đã có những chủ trương, chỉ đạo cụ
thể đối với việc về phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa có sự điều tiết của Nhà nước, thúc đẩy các thành phần kinh tế, trong
đó có kinh tế cá thể phát triển nhằm giải phóng sức sản xuất, huy động mọi
nguồn lực trong và ngoài nước vào mục tiêu tăng sức cạnh tranh của nền kinh
tế quốc dân, đã tạo bước tiến có tính đột phá trong việc nâng cao hiệu quả của
nền kinh tế Việt Nam nói chung và mở ra những cơ hội phát triển mới cho
kinh tế cá thể nói riêng.
Tuy nhiên, thực tiễn kinh tế đã đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết khi
đất nước “chuyển mình”.

- Trước đổi mới, Đảng nóng vội cải tạo và muốn xóa bỏ thành phần
kinh tế tư nhân nói chung và kinh tế cá thể nói riêng trong thời gian ngắn. Vì
thế, nền kinh tế nước ta phát triển chậm chạp, mất cân đối. Kinh tế cá thể đã
trải qua nhiều bước thăng trầm.
- Từ khi có nhận thức mới của Đảng về nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần trong thời kỳ quá độ, kinh tế cá thể đã được thừa nhận và có vị trí,
vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta.
Nhưng kinh tế cá thể hiện nay ở nước ta còn nhiều hạn chế, yếu kém:
quy mô, vốn ít, công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý thấp, sức cạnh tranh yếu
và nhiều nhân tố khác.
Vì vậy, để tạo đà cho nền kinh tế nói chung và kinh tế cá thể ngày càng
phát triển dưới sự lãnh đạo của Đảng, vẫn cần có nhiều vấn đề cần được đổi
mới và bổ sung. Nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng đối với thành phần kinh tế
cá thể để thấy được sự tồn tại tất yếu của thành phần kinh tế này trong thời kỳ
quá độ ở nước ta. Mục đích là để đánh giá đúng vị trí, vai trò của kinh tế cá
thể trong cách mạng XHCN; khắc phục những hạn chế để kinh tế cá thể tham
gia hiệu quả vào nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.

3


Với mong muốn tìm hiểu về thành phần kinh tế cá thể về chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước, tôi quyết định chọn đề tài “Đảng lãnh đạo
khôi phục và phát triển kinh tế cá thể từ năm 1986 đến năm 2010” làm đề tài
luận văn tốt nghiệp thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Kinh tế cá thể là một lĩnh vực vừa mới được phục hồi và phát triển
trong những năm đổi mới đến nay. Từ đó đến nay đã có nhiều công trình
nghiên cứu về đề tài này, tiêu biểu như: tác phẩm Phát triển kinh tế cá thể ở
Việt Nam do Tô Đức Hạnh (chủ biên), Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội,

xuất bản năm 2006 nghiên cứu về bản chất, đặc điểm của kinh tế cá thể trong
nền kinh tế ở nước ta, sự cần thiết khách quan phát triển kinh tế cá thể; tình
hình kinh tế cá thể ở Việt Nam, đánh giá thực trạng cá thể ở Việt Nam; triển
vọng, quan điểm và giải pháp cơ bản phát triển kinh tế cá thể ở nước ta; tác
phẩm Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân của Hà Huy
Thành (Chủ biên), NXB CTQG, Hà Nội, xuất bản năm 2002 nêu ra những vấn
đề lý luận về thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân. Tổng quan
thực trạng phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta trong thời kì đổi mới.
Quan điểm, chính sách và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy sự phát triển khu
vực kinh tế tư nhân. Bên cạnh đó, cũng có nhiều bài viết mang tính chuyên
khảo được đăng trên tạp chí như Tạp chí Cộng sản, Tạp chí Nghiên cứu Kinh
tế,… Ngoài ra, ở góc độ khoa học Lịch sử cũng có một số luận văn thạc sĩ
chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam nghiên cứu về lĩnh vực có
liên quan (kinh tế tư nhân).
Cho đến nay chưa có một công trình lịch sử chuyên khảo nào nghiên
cứu vấn đề Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo phát triển kinh tế cá thể giai
đoạn 1986 – 2010. Vấn đề này mới chỉ là các bản báo cáo hàng năm và giai
đoạn của tổng cục thống kê, một số báo và tạp chí. Tuy có một số công trình
nghiên cứu về thành phần kinh tế này nhưng chủ yếu là ở góc độ kinh tế. Các
công trình nghiên cứu này là cơ sở quan trọng để tác giả kế thừa, tiếp cận các
4


sự kiện lịch sử và cũng cung cấp những gợi ý cần thiết để phân tích và so sánh
trong quá trình thực hiện luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận văn trình bày chủ trương và đường lối của Đảng về thành phần
kinh tế cá thể và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường.
- Làm sáng tỏ một cách khách quan và toàn diện quá trình lãnh đạo của
Đảng trong việc khôi phục và phát triển kinh tế cá thể (1986 – 2010).

- Khẳng định thành tựu và hạn chế trong quá trình lãnh đạo của Đảng.
- Trên cơ sở đó bước đầu đưa ra một số nhận xét về chính sách, chủ
trương của Đảng.
4. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn đề cập đến một số khía cạnh:
Một là, kinh tế cá thể được xem xét trên quan điểm chính thống của Đảng.
Hai là, khẳng định vai trò và sự cần thiết của kinh tế cá thể đối với nền
kinh tế quốc dân Việt Nam.
Ba là, luận văn tập trung nghiên cứu là kinh tế cá thể với đặc trưng của
nó trong nền kinh tế thị trường qua các giai đoạn khôi phục và phát triển. Phân
tích những thành tựu, những đóng góp của nó trong nền kinh tế. Đồng thời
nêu giải pháp cơ bản cho việc tiếp tục phát triển thành phần kinh tế này.
Từ đó, rút ra những kinh nghiệm lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam
qua thực tiễn lãnh đạo của Đảng và sự phát triển của thành phần kinh tế này
trong mối liên hệ với các thành phần kinh tế khác ở nước ta.
5. Phạm vi nghiên cứu
- Về mặt nội dung: Luận văn tập trung tìm hiểu những chủ trương,
chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về kinh tế cá thể; trên cơ sở những
thành tựu đã đạt được và những mặt hạn chế, bước đầu đưa ra những nhận xét
cơ bản về chính sách, chủ trương của Đảng về thành phần kinh tế này.
5


- Về mặt thời gian: Luận văn tìm hiểu sự lãnh đạo của Đảng trong việc
khôi phục và phát triển thành phần kinh tế cá thể trong những năm 1986 – 2010.
- Về mặt không gian: Luận văn nghiên cứu vấn đề Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo thực hiện chính sách, chủ trương trên phạm vi cả nước.
6. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng chủ yếu phương pháp
lịch sử, ngoài ra còn có những phương pháp khác như: phương pháp lôgic,

phương pháp tổng hợp, thống kê, so sánh, phương pháp lập bảng biểu, biểu
đồ,... Các phương pháp này được kết hợp sử dụng để làm sáng tỏ vấn đề
nghiên cứu của luận văn.
- Nguồn tư liệu: Luận văn chủ yếu dựa vào Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX, X của Đảng; Các Nghị quyết, Chỉ thị,...
của Đảng và Nhà nước; các công trình nghiên cứu sách, báo, tạp chí và thống
kê về kinh tế cá thể và các bài viết trên website.
7. Đóng góp của luận văn
Hệ thống hóa quan điểm, đường lối của Đảng về khôi phục và phát triển
kinh tế cá thể và quá trình thực hiện những chủ trương của Đảng khôi phục và
phát triển kinh tế cá thể thông qua: Phân tích tiến trình, đánh giá thực trạng và
đưa ra một số kiến nghị chủ yếu cho việc tiếp tục phát triển kinh tế cá thể
trong nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam, thực hiện mục tiêu tăng
trưởng nhanh, lâu bền, định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
8. Bố cục
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được chia thành 3 chương sau:
Chương 1: Đảng lãnh đạo khôi phục kinh tế cá thể từ 1986 đến 1995.
Chương 2: Đảng lãnh đạo phát triển kinh tế cá thể từ 1996 đến 2010.
Chương 3: Nhận xét chung và một số kiến nghị.
6


NỘI DUNG
Chương 1
ĐẢNG LÃNH ĐẠO KHÔI PHỤC KINH TẾ CÁ THỂ TỪ NĂM 1986
ĐẾN NĂM 1995
1.1. Kinh tế cá thể và chính sách của Đảng về kinh tế cá thể trước
đổi mới (1986)
Việc đưa ra một khái niệm hoàn chỉnh và thỏa đáng về kinh tế cá thể là

điều rất khó và không khả thi. Hiện nay, chúng ta vẫn chưa đưa ra được tiêu chí
cụ thể để xác định loại hình kinh tế này. Đặc biệt là chưa phân định được ranh
giới sự khác biệt giữa kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân. Tuy
nhiên, đưa ra khái niệm về kinh tế cá thể đã có một số quan điểm khác nhau:
Trong giai đoạn trước đổi mới, kinh tế cá thể dùng để chỉ một loại hình
kinh tế trong sự đối lập nó với loại hình kinh tế tập thể. Thành phần kinh tế
này đã xuất hiện khi có phong trào hợp tác hóa, đưa các hộ sản xuất, kinh
doanh độc lập vào kinh tế tập thể dưới hình thức hợp tác xã. Kinh tế cá thể
được hiểu là hình thức kinh tế của một hộ gia đình hay một cá nhân hoạt động
dựa trên quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và lao động của chính hộ
hay cá nhân đó, không thuê mướn lao động làm thuê.
Sau đổi mới, “Kinh tế cá thể, tiểu chủ (của nông dân, thợ thủ công,
người làm thương nghiệp và dịch vụ cá thể) bao gồm những đơn vị kinh tế dựa
trên sở hữu tư nhân nhỏ về tư liệu sản xuất và hoạt động dựa chủ yếu vào sức
lao động của chính họ”.[95, tr.8]
Như vậy, kinh tế cá thể là loại hình kinh tế của một hộ gia đình hay một
cá nhân những người nông dân, thợ thủ công, người buôn bán kinh doanh dịch
vụ hoạt động dựa trên hình thức sở hữu tư nhân nhỏ về tư liệu sản xuất và lao
động chủ yếu của chính hộ hay cá nhân đó, có thể thuê thêm lao động thời vụ.
Ở nước ta, kinh tế cá thể về bản chất là hộ gia đình sản xuất kinh doanh ở quy
mô nhỏ. Trong nông nghiệp, hình thức tổ chức cơ bản của kinh tế cá thể là hộ
nông dân tự chủ. Trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ, kinh tế
7


cá thể được tổ chức dưới các hình thức như xưởng thợ gia đình, các hộ kinh
doanh thương mại và dịch vụ.
Ở Việt Nam, kinh tế cá thể đã trải qua nhiều bước thăng trầm cùng lịch
sử đất nước.
Ngay sau khi giành được độc lập dân tộc, Nhà nước non trẻ của chúng

ta vừa phải kháng chiến chống thù trong giặc ngoài, vừa tiến hành kiến quốc,
nhưng đến năm 1953, trong tác phẩm Thường thức chính trị, chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nói đến sự tồn tại của năm loại kinh tế khác nhau trong chế độ mới.
Đó là kinh tế quốc doanh; các hợp tác xã; kinh tế cá nhân, nông dân và thủ
công nghệ; tư bản tư nhân và tư bản của Nhà nước. Trong đó, kinh tế quốc
doanh là kinh tế lãnh đạo và phát triển nhanh hơn cả. Cho nên kinh tế Việt
Nam sẽ phát triển theo hướng CNXH mà không phải là tư bản chủ nghĩa.
Sau hòa bình lập lại (năm 1954), trong kế hoạch 3 năm khôi phục kinh
tế sau chiến tranh (1955 – 1957), hai nhiệm vụ được ưu tiên trước hết: một là
thực hiện cải cách ruộng đất, chia ruộng đất cho nông dân; hai là, khôi phục
nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, củng cố kinh tế quốc doanh. Quan điểm
nhất quán của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ này là khuyến khích, tạo điều
kiện cho kinh tế cá thể phát triển. Trong nông nghiệp, cải cách ruộng đất đã
xóa bỏ kinh tế địa chủ và các quan hệ sản xuất phong kiến, thiết lập kinh tế tự
chủ của nông dân, chính sách của Đảng và Nhà nước là khuyến khích kinh tế
nông dân phát triển. Song song với việc chia ruộng đất cho nông dân, tháng
5/1955 Chính phủ đã ban hành 8 chính sách khuyến khích sản xuất. Có thể
nói, tám chính sách của Đảng và Chính phủ trong thời kỳ này đối với phát
triển kinh tế là thừa nhận sự tồn tại của các loại hình kinh tế của nền kinh tế
thị trường, dân chủ và khuyến khích, tạo mọi điều kiện cho các loại hình kinh
tế đó phát triển một cách bình đẳng.
Nhờ chủ trương, chính sách đúng đắn, phù hợp về kết cấu kinh tế với
nhiều loại hình kinh tế như vậy, nền kinh tế đã nhanh chóng được khôi phục
và tới năm 1957, nền kinh tế đã có những thành tựu vượt năm 1939, là đỉnh
cao của thời kỳ trước chiến tranh. Tuy nhiên, trong thời kỳ này lực lượng kinh
8


tế ngoài quốc doanh còn nhỏ, kinh tế hợp tác chưa phát triển, tham gia lực
lượng sản xuất, phát triển KT-XH chủ yếu là kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể.

Nhìn chung, trong những năm khôi phục kinh tế miền Bắc (1954 –
1957), các cơ sở sản xuất, kinh doanh cá thể phát triển tương đối mạnh mẽ.
Trong cơ cấu giá trị sản xuất toàn xã hội, kinh tế cá thể chiếm 71,9% tổng giá
trị sản xuất toàn xã hội. [4, tr.79]
Kinh nghiệm của giai đoạn này cho thấy: chủ trương tạo mọi điều kiện
cho kinh tế ngoài quốc doanh phát triển là hoàn toàn đúng đắn, đáp ứng kịp
thời yêu cầu phát triển của xã hội.
Theo thống kê chính thức của Tổng cục thống kê, đến năm 1959 nền
kinh tế miền Bắc đã hình thành ba thành phần kinh tế chủ yếu: quốc doanh và
công tư hợp doanh, hợp tác xã, cá thể. Trong đó, kinh tế cá thể chiếm 34,4%
tổng sản phẩm xã hội (xem Phụ lục 6).
Từ năm 1958, miền Bắc nước ta chuyển sang thời kỳ phát triển kinh tế
với mục tiêu là xây dựng chủ nghĩa xã hội với quan niệm cho rằng chủ nghĩa
xã hội là sự công hữu hóa về tư liệu sản xuất. Với Chỉ thị 81 – CT/TW
(14/5/1958) và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 14 khóa II (tháng 11/1958),
Đảng quyết định thực hiện công cuộc xây dựng CNXH. Công cuộc cải tạo
XHCN được xác định là một cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa tư bản. Dựa vào đó, việc đánh giá cơ cấu của nền KT-XH
dựa trên cơ sở phân tích các thành phần giai cấp. Trong giai đoạn này, Đảng
và Nhà nước đã đặt ra nhiệm vụ là phải cơ bản hoàn thành cải tạo XHCN đối
với công thương nghiệp tư bản tư doanh, tiểu thủ công nghiệp và những cơ sở
sản xuất, kinh doanh cá thể để xây dựng một nền kinh tế chỉ có hai khu vực
chủ chốt là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Kinh tế tư nhân nói chung và
kinh tế cá thể nói riêng trở thành đối tượng cải tạo XHCN, bị cấm đoán và hạn
chế. Luật pháp XHCN không đảm bảo cho tư nhân quyền sở hữu và tự do
kinh doanh, tự do lập nghiệp. Vì vậy, các cơ sở sản xuất, kinh doanh cá thể
(tiểu thương, tiểu nông, tiểu chủ…) đều được vận động đưa vào làm ăn tập thể
dưới hình thức hợp tác xã và tổ hợp tác như: hợp tác xã sản xuất nông nghiệp,
hợp tác xã sản suất tiểu thủ công nghiệp, tổ hợp tác mua bán… Đến năm 1960,
9



công cuộc cải tạo XHCN đã căn bản hoàn thành và kinh tế cá thể giảm mạnh
(chỉ còn chiếm 3,6% tổng giá trị sản xuất toàn xã hội). [4, tr.79]
Từ năm 1960 đến năm 1975, để áp dụng mô hình kinh tế XHCN, đồng
thời để thích ứng với bối cảnh cuộc chiến tranh ngày càng mở rộng trong
phạm vi cả nước, nền kinh tế giai đoạn này ở miền Bắc được xây dựng và điều
chỉnh nhiều đợt theo hướng tăng cường mạnh mẽ kinh tế quốc doanh, gấp rút
hoàn thành hợp tác hóa đối với nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, tiểu
thương, hạn chế đi tới xóa bỏ các lực lượng kinh tế cá thể hoạt động trên các
loại thị trường tự do.
Theo phương hướng đó, cơ cấu các thành phần kinh tế đã có những thay đổi
lớn. Tỷ trọng trong tổng sản phẩm xã hội của thành phần cá thể giảm từ 33,4%
(năm 1959) xuống còn 9,9% (năm 1965) và 8,3% (năm 1975). (xem phụ lục 7)
Sau khi giải phóng miền Nam (năm 1975), cách mạng Việt Nam chuyển
sang giai đoạn mới, cả nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội. Hội nghị
Trung ương lần thứ 24 (khoá III, ngày 20/9/1975) đã xác định phương hướng
tiến lên của cách mạng cả nước. Trên cơ sở phân tích đặc điểm mới của tình
hình đất nước, Hội nghị đã thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế ở
mỗi miền. Miền Bắc có ba thành phần kinh tế: quốc doanh, tập thể và cá thể.
Ở miền Nam, Nghị quyết nêu rõ trong một giai đoạn nhất định, còn tồn tại các
thành phần kinh tế: kinh tế quốc doanh XHCN, kinh tế tập thể XHCN, kinh tế
công tư hợp doanh nửa XHCN, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư doanh. Đây là
lần đầu tiên trong văn bản Nghị quyết của Đảng ghi rõ việc thừa nhận của
nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.
Nhưng thực tế, chúng ta đã không nhất quán thực hiện theo tư tưởng đó.
Trong quá trình hình thành và xác lập đường lối cách mạng XHCN được nêu
lên trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (12/1976), Đảng
không nghiên cứu phát triển sâu sắc thêm về chính sách kinh tế nhiều thành
phần ở Việt Nam. Tư tưởng trên đây đã dẫn tới các nghị quyết Đại hội Đảng

toàn quốc lần thứ IV, lần thứ V và các Chỉ thị, Nghị quyết sau đó đều nhấn
mạnh cải tạo XHCN theo hướng xóa bỏ nhanh chóng các quan hệ sản xuất cũ.
10


Bệnh chủ quan, nóng vội trước thống nhất đất nước đã không những
không được khắc phục mà còn tăng lên trong khí thế thắng lợi. Mô hình
CNXH ở miền Bắc vốn có khiếm khuyết lại được áp dụng để đưa cả nước đi
lên CNXH với những bước đi nhanh vội hơn. Từ cuối năm 1978 đến cuối
năm 1980, phong trào hợp tác hóa được đẩy mạnh ở miền Nam. Riêng ở miền
Trung và Tây Nguyên chỉ đến đầu năm 1979 đã căn bản hoàn thành việc đưa
nông dân vào hợp tác xã và tập đoàn sản xuất. Mặt hạn chế của mô hình đó
chưa bộc lộ đầy đủ trong hoàn cảnh chiến tranh thì khi đất nước thống nhất đã
bộc lộ rõ hơn và gây tác động tiêu cực lớn hơn trong hòa bình xây dựng đất
nước. Hậu quả cuối thập niên 70, đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, trên thực tế,
Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng KT-XH.
Trước tình hình ấy, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã nhiều lần tập trung
nghiên cứu để tìm cách tháo gỡ, nhiều giải pháp đã được đưa ra nhưng đều
không đem lại kết quả như mong muốn. Có thể nói, việc cải tạo XHCN lúc đó
chủ yếu là xóa sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất thành sở hữu tập thể và toàn
dân đã gây ra sự lãng phí to lớn lực lượng sản xuất của xã hội.
Nhận thức rõ những sai lầm về chỉ đạo kinh tế, trong đó có sai lầm về
cơ cấu các thành phần kinh tế, Đảng đã đề ra chính sách phát triển kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, nhằm khôi phục các động lực phát triển kinh tế đã
bị xói mòn bởi cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, tăng sức cạnh tranh cho
mỗi doanh nghiệp. Đây là một quá trình tìm tòi thử nghiệm lâu dài trong tư
duy lý luận và thực tiễn.
Đảng bắt đầu có những thay đổi về tư duy kinh tế, từng bước điều chỉnh
những bước đi thích hợp nhằm tháo gỡ những khó khăn. Trước hết, Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IV tháng 8/1979 có

thể coi là bước đi đầu tiên với việc thừa nhận phát triển kinh tế nhiều thành phần,
phát triển kinh tế hàng hóa, “cho sản xuất bung ra”. Đảng đã đánh giá thực trạng
khủng hoảng của nước ta và nêu một số giải pháp cấp bách trong quản lý kinh tế.
Nghị quyết cũng thừa nhận lợi ích kinh tế và khuyến khích vật chất là những
động lực quan trọng trong cải tiến quản lý kinh tế, mở rộng quyền tự chủ cho
11


doanh nghiệp, địa phương và ngành. Đặc biệt, trong nông nghiệp, Ban Bí thư ra
Chỉ thị 100 CT/TW tháng 1/1981 nhằm cải tiến công tác khoán, mở rộng “khoán
sản phẩm đến nhóm và người lao động”. Sự ra đời của Chỉ thị khoán 100 cũng đã
thừa nhận sự tồn tại của phương thức làm ăn cá thể trong giai đoạn trước đó. Các
chính sách và biện pháp ổn định nghĩa vụ bán lương thực cho Nhà nước trong 5
năm, sửa đổi biểu thuế nông nghiệp, điều chỉnh giá thu mua nông sản, khuyến
khích hợp tác xã, tập đoàn sản xuất tận dụng đất chưa khai thác vào sản xuất
nông nghiệp, đã tạo nên bước đột phá, một cuộc cách mạng lớn trong nông
nghiệp. Tuy nhiên, đây chỉ là giải pháp tình thế, điều chỉnh một số khâu quan
trọng, chưa có cách thức cụ thể vượt qua khó khăn. Nền kinh tế nước ta vẫn
tăng trưởng thấp, phát triển chậm, mất cân đối nghiêm trọng, lạm phát tăng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (3/1982) đã chỉ ra những
khó khăn và yếu kém của đất nước và nhấn mạnh khó khăn đó là do khuyết
điểm và sai lầm của các cơ quan Đảng và Nhà nước ta từ Trung ương đến cơ
sở về lãnh đạo và quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Căn cứ hiện trạng các thành
phần kinh tế của đất nước, Đại hội khẳng định trong một thời gian nhất định, ở
miền Nam còn năm thành phần kinh tế là: quốc doanh, tập thể, công tư hợp
doanh, cá thể và tư bản tư doanh.
Đây là sự chuyển đổi trong nhận thức về đường lối và chính sách kinh
tế của Đảng: chủ trương sử dụng một cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong
chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ để tận dụng mọi năng lực sản xuất
sẵn có. Tuy vậy, do vẫn còn hạn chế bởi tư duy cũ về chủ nghĩa xã hội và còn

chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của những quan điểm mang nặng tính chủ quan duy
ý chí nên những giải pháp mà Đại hội đề ra vẫn chưa thực sự sát với thực tiễn
và với yêu cầu của cuộc sống. Đại hội đã không đặt vấn đề chú trọng, sử dụng,
liên kết phát triển các thành phần kinh tế nhằm phát triển lực lượng sản xuất
mà tăng cường thành phần kinh tế XHCN và cải tạo các thành phần kinh tế tư
nhân với hình thức, bước đi phù hợp. Trái lại, Nghị quyết Đại hội nhấn mạnh
nguy cơ: trên một số trận địa XHCN, những yếu tố tư bản chủ nghĩa và phi
XHCN xâm lấn. Do đó, Đại hội tiếp tục đặt ra mục tiêu trong kế hoạch 5 năm
12


(1981 – 1985) là hoàn thành công cuộc cải tạo XHCN ở các tỉnh miền Nam,
tiếp tục hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN ở miền Bắc, củng cố quan hệ sản
xuất XHCN trong cả nước. Đại hội V vẫn chưa nhìn thấu sự cần thiết phải duy
trì nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ, chưa có những chính
sách, giải pháp cụ thể và đồng bộ để giải phóng các lực lượng sản xuất. Trong
những Hội nghị tiếp theo, Đảng đã tập trung tìm nhiều cách để tháo gỡ cho
cục diện chung về KT-XH những năm cuối của kế hoạch 5 năm (1981 – 1985)
nhưng đó cũng chỉ là những biện pháp tạm thời.
Trong Đại hội V, Đảng cũng nhận thấy: muốn nhanh chóng xóa bỏ các
thành phần kinh tế không XHCN là chủ quan nóng vội, có hại cho nền sản
xuất xã hội. Trong vòng ba thập kỷ (1955 – 1985), con đường phát triển nói
chung của nền kinh tế Việt Nam là cải tạo và xây dựng nền kinh tế XHCN.
Mô hình kinh tế trong thời gian này là mô hình cũ với đặc trưng là: cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp, các thành phần kinh tế phi XHCN sớm bị xóa bỏ ở
mức cao và mở rộng trong phạm vi cả nước. Những nhược điểm và khuyết
điểm của mô hình đó đã trở thành sức cản lớn đối với sự phát triển KT-XH,
dẫn đến cuộc khủng hoảng KT-XH gay gắt.
Trong khi đó, kinh tế ngoài quốc doanh thì bị kìm hãm, ngăn cấm
không cho phát triển, bị cải tạo và có phần bị xóa bỏ, thu hẹp dần. Nhưng kinh

tế tư nhân nói chung và kinh tế cá thể nói riêng vẫn tồn tại như một khách
quan, biến tướng trong nhiều hình thức kinh tế ngầm phát triển riêng và chi
phối nền kinh tế. Một số hình thức cơ bản có thể kể đến như hình thức kinh tế
phụ gia đình (của các hộ cán bộ công nhân viên nhà nước và hộ xã viên hợp tác
xã), các tổ hợp tác, tổ sản xuất núp bóng doanh nghiệp nhà nước hoặc hợp tác
xã; tức là kinh tế cá thể cùng với kinh tế gia đình tuy thực tế có tồn tại nhưng
phải hoạt động dưới dạng phụ thuộc vào kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước.
Như vậy, sau ba thập kỷ cải tạo XHCN về cơ bản, kinh tế cá thể không
được thừa nhận và luôn là đối tượng cải tạo XHCN thông qua những chính
sách cải tạo tư sản công thương nghiệp, phong trào hợp tác hóa nông nghiệp
(ở miền Bắc) và cải tạo XHCN sau khi thống nhất đất nước (ở miền Nam).
13


Những thành kiến đối với thành phần kinh tế cá thể làm cho các thành phần
kinh tế vận động không đúng hướng, níu kéo, kìm hãm lẫn nhau. Thậm chí,
thành phần kinh tế này luôn có nguy cơ bị loại trừ nhưng tự nó vẫn tồn tại như
một khách quan thực tế. Tình trạng “phân biệt đối xử” đã làm phát sinh nhiều
tiêu cực trong xã hội, làm cho các thành phần kinh tế vận động phát triển lệch
hướng, kìm hãm lẫn nhau. Nền kinh tế lâm vào suy thoái khủng hoảng.
Nhìn lại cả một quá trình ấy từ diễn biến, kết quả có thể thấy có vấn đề
thuộc về đường lối lãnh đạo của Đảng. Đó là tư tưởng duy ý chí, không sát
thực tiễn. Biểu hiện tương đối rõ là yêu cầu triệt để cải tạo quan hệ sản xuất,
các thành phần kinh tế phi XHCN. Do chỗ chưa thật sự thừa nhận cơ cấu kinh
tế nhiều thành phần (trong đó có kinh tế cá thể) ở nước ta còn tồn tại trong một
thời gian tương đối dài, chưa nắm vững và vận dụng quy luật về sự phù hợp
giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, nên việc
cải tạo đối với các thành phần kinh tế phi XHCN đã phạm nhiều sai lầm trong
việc xác định mục tiêu và bước đi. Những sai lầm về cải tạo XHCN đã dẫn đến
hậu quả là sau mỗi chiến dịch cải tạo, sản xuất bị giảm sút, lưu thông đình đốn,

hàng hóa trở nên khan hiếm, tình hình KT-XH càng diễn biến phức tạp.
Thực trạng trên đây đã đòi hỏi Đảng phải có quan điểm mới đối với
thành phần kinh tế phi XHCN, nói riêng là kinh tế cá thể và kinh tế tư doanh, giải
quyết đúng đắn hai mặt sử dụng và cải tạo đối với các thành phần kinh tế này.
1.2. Đảng lãnh đạo khôi phục kinh tế cá thể giai đoạn 1986 – 1995
1.2.1. Chủ trương khôi phục kinh tế cá thể của Đảng
Tình hình trong và ngoài nước yêu cầu cấp thiết việc đổi mới cơ cấu
thành phần kinh tế Việt Nam.
Từ phía quốc tế, bắt đầu từ thập niên 80 của thế kỷ XX, nhiều sức ép
đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam xuất hiện và gia tăng. Chính phủ
Mỹ thi hành chính sách cấm vận kinh tế đối với Việt Nam từ cuối thập niên 70
của thế kỷ XX nhằm đặt nền kinh tế Việt Nam vào thế cô lập, suy yếu. Dưới
áp lực của Mỹ, nhiều Chính phủ, tổ chức kinh tế - tài chính quốc tế, tập đoàn
14


và công ty trên thế giới cũng buộc phải hạn chế hoặc ngừng quan hệ với Việt
Nam. Tuy chính sách này không làm cho Việt Nam bị cô lập hoàn toàn, nhưng
thời gian thi hành chính sách cấm vận kéo dài đã gây ra hậu quả không nhỏ
đối với nền kinh tế Việt Nam.
Khi Việt Nam lâm vào khủng hoảng KT-XH thì Liên Xô, các nước
XHCN Đông Âu và nhiều nước trong hệ thống XHCN trên thế giới cũng lâm
vào tình cảnh tương tự. Do khủng hoảng kinh tế, các nước XHCN cũng không
thể triển khai kế hoạch hợp tác kinh tế với Việt Nam một cách bình thường.
Do đó, viện trợ từ các nước XHCN – nguồn lực phát triển hết sức quan trọng
đối với Việt Nam – bị suy giảm; hoạt động thương mại của Việt Nam đối với
khu vực thị trường truyền thống, thị trường quan trọng hàng đầu cũng bị suy
giảm mạnh, làm trầm trọng thêm những mất cân đối lớn của nền kinh tế.
Trong khi đó, việc “cải cách, mở cửa” (1978) nền kinh tế theo định
hướng thị trường của Trung Quốc đã làm cho kinh tế Trung Quốc có sự tăng

trưởng phát triển nhanh.
Trên thế giới cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật đang diễn ra với quy
mô lớn chưa từng có, đem lại cho loài người những thành tựu vô cùng to lớn.
Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật, nhiều nước trên thế
giới thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, mở cửa nền kinh tế và phát triển kinh tế
thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Hơn nữa, những tác động từ xu thế toàn cầu hóa, được tăng cường từ
thập niên 80 của thế kỷ XX, đòi hỏi dân tộc ta phải vươn lên mạnh mẽ để vượt
qua thách thức, tranh thủ thời cơ trong quá trình hội nhập quốc tế. Hơn nữa,
trong bối cảnh như vậy, việc tháo gỡ những quy chế trói buộc với những quan
hệ kinh tế khép kín để mở cửa tiến đến hòa nhập là xu hướng tất yếu và khách
quan. Để giữ vững bản chất cao quý đáng tự hào của Đảng, dân tộc, chế độ ta,
để hòa nhịp với những đổi thay của thời đại, chúng ta phải đổi mới.
Tình hình trong nước: Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa trong hoàn cảnh một nước nghèo, kinh tế, kỹ thuật lạc
hậu, trình độ phát triển xã hội thấp, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Suốt
15


một thời gian dài, Việt Nam cũng như nhiều nước XHCN khác đã áp dụng mô
hình XHCN kiểu Xô viết, mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu
bao cấp, mà thực chất là mô hình kinh tế cứng nhắc phi thị trường, quá đề cao
vai trò của một thành phần kinh tế XHCN dưới hai hình thức: kinh tế quốc
doanh và kinh tế tập thể. Trái lại, bằng những chính sách, biện pháp hành
chính, áp đặt nóng vội, Đảng chủ trương đẩy nhanh tiến độ cải tạo XHCN đối
với các thành phần kinh tế khác. Mục tiêu chính không phải là để huy động,
phát triển, mà là hạn chế, thu hẹp, thậm chí xóa bỏ các thành phần kinh tế được
gọi là “phi XHCN”. Kết cục là thành phần kinh tế XHCN (quốc doanh và tập
thể) phát triển nhanh về số lượng, mở rộng quy mô và phạm vi hoạt động,
nhưng hiệu quả sản xuất, kinh doanh thấp và ngày càng có xu hướng giảm sút.

Kinh tế cá thể phát triển ngầm, có nhiều đóng góp nhưng không được công
nhận. Vấn đề đặt ra là cần xem xét lại vị trí, vai trò và có những chủ trương, chỉ
đạo phù hợp đối với thành phần kinh tế này sao cho xứng với tiềm năng của nó.
Trong một thời gian, mô hình kinh tế này đã từng phát huy tác dụng tích
cực trong tập trung được các nguồn lực, sức người, sức của đáp ứng yêu cầu
của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất
đất nước. Nhưng càng về sau, nó càng bộc lộ những khiếm khuyết, mà chủ
yếu là các nhu cầu của xã hội vượt quá khả năng đáp ứng của một nền kinh tế
kém hiệu quả, thiếu năng động do thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung,
quan liêu và chế độ phân phối bình quân chủ nghĩa. Chính điều đó đã kìm
hãm, đã làm thui chột động lực và tính cạnh tranh giữa các lực lượng kinh tế,
không huy động và sử dụng được các nguồn lực của đất nước để tạo đà cho sự
phát triển. Cộng với công tác chỉ đạo, lãnh đạo, quản lý cũng phạm phải một
số sai lầm, mà nguyên nhân sâu xa của những sai lầm ấy là bệnh giáo điều,
chủ quan, duy ý chí, giản đơn, nóng vội, không tôn trọng quy luật kinh tế
khách quan; nhận thức về chủ nghĩa xã hội không đúng với thực tế của Việt
Nam. Khiến cho nền kinh tế lâm vào tình trạng trì trệ, rồi khủng hoảng KTXH trầm trọng và kéo dài. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986) đã chỉ
rõ tình hình kinh tế - xã hội nước ta đang có nhiều khó khăn:
16


Chúng ta chưa thực hiện được mục tiêu do Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ V đề ra là về cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn
định đời sống của nhân dân. [66, tr.417-418]
Đồng thời, Đại hội cũng chỉ ra khuyết điểm: “Quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa chậm được củng cố. Vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh suy
yếu. Các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa chưa được sử dụng và cải
tạo tốt”. [19, tr.14]
Tình hình đó đã khắc họa tình thế của nền kinh tế Việt Nam vào những
năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX. Do đó, đoạn tuyệt với cơ chế kinh tế cũ,

lạc hậu và phát triển kinh tế đã trở thành đòi hỏi bức thiết và tất yếu đối với
Việt Nam. Để thoát khỏi tình thế khó khăn nghiêm trọng đó, rõ ràng cần có sự
đột phá lớn. Công cuộc tìm tòi, vượt thoát trước đổi mới đã được đặt ra đối
với Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam.
Để xác định những chủ trương, chính sách đúng đắn nhằm đưa nền kinh
tế nước ta vượt qua tình trạng khó khăn gay gắt lúc bấy giờ, đi dần vào thế ổn
định và phát triển thuận lợi, Kết luận của Hội nghị Bộ Chính trị ngày 20/9/1986
về một số vấn đề thuộc quan điểm kinh tế đã mở ra một bước đổi mới rất quan
trọng về tư duy kinh tế của Đảng.
Đại hội VI đã đánh dấu bước ngoặt đổi mới tư duy, trước hết là tư duy
kinh tế, mở ra thời kỳ mới trong lịch sử nước ta. Đảng chỉ rõ: Muốn đưa nền
kinh tế sớm thoát khỏi tình trạng rối ren, mất cân đối, phải dứt khoát sắp xếp
lại nền kinh tế quốc dân theo cơ cấu hợp lý, trong đó các ngành, các vùng, các
thành phần kinh tế, các loại hình sản xuất có quy mô và trình độ kỹ thuật khác
nhau phải được bố trí cân đối, liên kết với nhau, phù hợp với điều kiện thực tế,
bảo đảm cho nền kinh tế phát triển ổn định. [19, tr.12]
Thêm nữa, Đại hội đặc biệt chú ý đến đổi mới tư duy về thành phần
kinh tế và chủ thể kinh tế. Đại hội VI khẳng định: “Quá trình từ sản xuất nhỏ
đi lên sản xuất lớn ở nước ta là quá trình chuyển hóa nền kinh tế còn mang
nhiều tính tự cấp, tự túc, thành nền kinh tế hàng hóa”[26, tr.65]. Đây là điểm
đột phá trong lý luận về sự phát triển của kinh tế. Từ trước tới nay, trong các
17


văn kiện, chỉ mới nói tới việc sử dụng các quan hệ hàng hóa – tiền tệ, thì đến
Đại hội VI đã khẳng định, vấn đề là chuyển nền kinh tế từ kinh tế tự nhiên, tự
túc, tự cấp sang kinh tế hàng hóa. Nhưng điểm quyết định cơ bản trong sản
xuất hàng hóa là vấn đề chủ thể kinh tế. Chính sách cơ cấu nhiều thành phần
nhằm giải quyết vấn đề này. Điểm mấu chốt của chính sách nhiều thành phần
kinh tế như Đại hội VI đã chỉ ra là: “Muốn phát triển mạnh mẽ lực lượng sản

xuất, đi đôi với việc bố trí lại cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư theo ngành và
theo vùng, phải xác định đúng cơ cấu thành phần kinh tế”.[28, tr.380]. Cách
đặt vấn đề thành phần kinh tế của Đại hội VI là hoàn toàn mới: thành phần
kinh tế là phương tiện để đạt tới sự phát triển lực lượng sản xuất, tăng trưởng
kinh tế, chứ không phải là mục tiêu của công cuộc xây dựng CNXH.
Cái cốt lõi của cơ cấu thành phần kinh tế được đặt ra trong Đại hội VI là
cơ cấu nhiều thành phần, mà trong đó, hiện hữu những thành phần thuộc kinh
tế thị trường. Đây là điểm quyết định. Cơ sở của việc đưa ra cơ cấu nhiều
thành phần, như Đại hội VI đã chỉ ra: “Giải pháp đó xuất phát từ thực tế của
nước ta và là sự vận dụng đúng đắn quan điểm của Lênin coi nền kinh tế có
cơ cấu nhiều thành phần là đặc trưng của thời kỳ quá độ”[26, tr.57]. Đại hội
VI cho rằng, nước Việt Nam còn đang trong thời kỳ quá độ, mà nền kinh tế cơ
bản còn là nền kinh tế nông nghiệp chậm phát triển. Trong nền kinh tế này tồn
tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Các thành phần kinh tế này thuộc
nhiều phương thức sản xuất khác nhau thích ứng với nhiều lực lượng sản xuất
ở các cấp độ phát triển khác nhau.
Đại hội VI không chỉ thừa nhận từng khâu, từng sản phẩm là sản xuất
hàng hóa, mà là cả một nền kinh tế hàng hóa, và coi đó là một quá trình có
tính quy luật đi lên sản xuất lớn XHCN ở nước ta. Đó là những quan điểm
mới, rất quan trọng. Tuy xét về lý luận thì đây là một quan điểm còn chưa
hoàn thiện nhưng vào bối cảnh lịch sử lúc đó có một ý nghĩa thực tiễn quý giá,
đã hình thành khái niệm cụ thể về một mô hình kinh tế gồm nhiều thành phần,
với nhiều hình thức sở hữu, trong đó thành phần kinh tế quốc doanh giữ vai
trò chủ đạo. Đảng coi đó là một chính sách có tính chiến lược được thực hiện
18


nhất quán, lâu dài trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội nhằm khai thác
mọi tiềm năng của mọi người, mọi tổ chức kinh tế để phát triển lực lượng sản
xuất, tạo ra nhiều của cải cho xã hội. Chính sách này xuất phát từ thực tiễn

nước ta, một nước tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, không
qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Chính sách đó còn là sản phẩm của việc vận
dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất. Đây cũng chính là sản phẩm của sự vận dụng chính sách
kinh tế mới của Lênin trong việc sử dụng những hình thức quá độ, những nấc
thang trung gian trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Thực hiện chính sách
này, chúng ta phải tiến hành điều chỉnh lại cơ cấu các thành phần kinh tế.
Từ đó, Đại hội lần thứ VI đã phân tích sâu sắc những sai lầm khuyết
điểm đã mắc phải. Đảng cũng chỉ rõ nguyên nhân của tình trạng khó khăn
trong những năm 80 của thế kỷ XX là do chúng ta chưa xác định rõ ràng, nhất
quán những quan điểm, chủ trương và chính sách chỉ đạo công cuộc cải tạo
XHCN. Cùng với sự chậm trễ sắp xếp lại sản xuất theo một cơ cấu kinh tế hợp
lý, việc duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp đã
không tạo được điều kiện cần thiết để củng cố và tăng cường kinh tế xã hội
chủ nghĩa, hạn chế việc sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế khác. Mặt
khác, một thời gian tương đối dài, trong nhận thức cũng như trong hành động,
chúng ta chưa thực sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta.
Ngoài ra, Đại hội đặc biệt nhấn mạnh đến những biểu hiện nóng vội muốn xóa
bỏ ngay những thành phần kinh tế phi XHCN, chúng ta “đã có những biểu
hiện nóng vội muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa,
nhanh chóng biến kinh tế tư nhân thành quốc doanh”. Về vai trò của các
thành phần kinh tế: Trong nhận thức cũng như trong hành động, chúng ta chưa thật sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta còn tồn tại
trong một thời gian tương đối dài, chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật
về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ lực lượng sản
xuất”. [28, tr.356-357]

19


Bởi vậy, để khắc phục các quan niệm sai lầm trên, Đại hội VI của Đảng

đã đưa ra quan điểm mới về cải tạo xã hội chủ nghĩa dựa trên 3 nguyên tắc cơ
bản là: Cải tạo XHCN nhất thiết phải theo quy luật về sự phù hợp giữa quan
hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất để xác định bước
đi và hình thức thích hợp; Cải tạo XHCN phải xuất phát từ thực tế của nước ta
và là sự vận dụng quan điểm của Lênin coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành
phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ; Trong công cuộc cải tạo XHCN
phải xây dựng quan hệ sản xuất mới trên cả ba mặt: xây dựng chế độ công hữu
về tư liệu sản xuất, chế độ quản lý và chế độ phân phối XHCN.
Từ tổng kết sâu sắc thực tiễn quá trình cải tạo XHCN đối với các thành
phần kinh tế, Đại hội VI khẳng định: “Cần sửa đổi, bổ sung và công bố rộng
rãi chính sách nhất quán đối với các thành phần kinh tế. Những quy định có
tính nguyên tắc phải trở thành pháp luật để mọi người yên tâm, mạnh dạn
kinh doanh”. Đại hội cũng nhấn mạnh: “Muốn đưa nền kinh tế sớm thoát khỏi
tình trạng rối ren, mất cân đối, phải dứt khoát sắp xếp lại nền kinh tế quốc
dân theo cơ cấu hợp lý, trong đó các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế,
các loại hình sản xuất có quy mô và trình độ khác nhau phải được bố trí cân
đối liên kết với nhau, phù hợp với điều kiện thực tế, đảm bảo cho nền kinh tế
phát triển ổn định”.[28, tr.380]
Trên cơ sở đó, Đảng cho rằng chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các
thành phần kinh tế cho phép các hình thức kinh tế với quy mô và trình độ kỹ
thuật thích hợp trong từng khâu của quá trình sản xuất và lưu thông phát triển,
nhằm khai thác mọi khả năng của các thành phần kinh tế. Do đó, Đảng đưa ra
quan niệm mới: coi trọng việc kết hợp cả ba lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội.
Để đưa nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng, điều cơ bản trong công
cuộc đổi mới đã được đặt ra là thay đổi phương thức, mô hình phát triển kinh
tế. Thực chất của sự đổi mới kinh tế là chuyển kinh tế từ mô hình kế hoạch
hóa tập trung sang kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nội dung của công
cuộc đổi mới kinh tế là thừa nhận một cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, khôi
phục và cho phép các thành phần kinh tế phát triển.
20



Trong giai đoạn này, các thành phần kinh tế ở nước ta được Đảng phân
thành hai nhóm:
Một là, kinh tế XHCN bao gồm kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể,
cùng với bộ phận kinh tế gia đình gắn liền với thành phần kinh tế đó.
Hai là, các thành phần kinh tế khác bao gồm: kinh tế công tư hợp doanh
(nửa XHCN); kinh tế tiểu sản xuất hàng hoá (thợ thủ công, nông dân cá thể
chưa vào hợp tác xã, tiểu thương); kinh tế tư bản tư nhân (tư sản nhỏ); kinh tế
tự nhiên, tự cấp tự túc trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây
Nguyên và ở vùng cao các tỉnh miền núi phía Bắc.
Theo đó, thành phần kinh tế cá thể lúc này được hiểu bao gồm hai bộ
phận là kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa (kinh tế gia đình, hộ cá thể và hộ tiểu
thủ công nghiệp, kinh tế tiểu thương) và kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc. Thực
chất, đây là hai trình độ phát triển khác nhau của thành phần kinh tế cá thể.
Quán triệt các quan điểm chỉ đạo trên, Đại hội VI đã đề ra phương
hướng và nhiệm vụ cụ thể của công tác cải tạo XHCN, phát huy tác dụng và
cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế. Với các thành phần kinh tế cá thể,
Đại hội đã chỉ ra phương hướng cụ thể để sử dụng và cải tạo các thành phần
kinh tế này:
Thứ nhất, đối với kinh tế tiểu sản xuất hàng hoá: Một mặt, “Vận động
những người lao động cá thể đi vào làm ăn tập thể theo nguyên tắc tự nguyện
và cùng có lợi”1; mặt khác, Nhà nước thừa nhận sự tồn tại cần thiết và tính
hợp pháp của bộ phận kinh tế này, thể hiện ở quyền bình đẳng trước pháp luật
và trong xã hội. Những người tiểu sản xuất hàng hoá và làm dịch vụ được sự
hướng dẫn và giúp đỡ của kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, thông qua các
hình thức liên kết và các chính sách kinh tế. Tiêu chuẩn để đánh giá tính tích
cực của bộ phận kinh tế này là tạo thêm việc làm cho người lao động, đóng
góp thiết thực vào việc phát triển sản xuất, làm ra của cải cho xã hội, thi hành
đúng chính sách, làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội.


1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, NXB Sự thật, h, 1987, tr.60.

21


Đối với tiểu thương, phải thông qua nhiều hình thức thích hợp để sắp
xếp, cải tạo và sử dụng; phấn đấu từng bước chuyển số người không cần thiết
sang sản xuất và dịch vụ.
Mặc dù, quan điểm của Đảng trong giai đoạn tiếp theo vẫn là cải tạo
XHCN phải nhằm xây dựng kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng
vững mạnh, làm cho kinh tế XHCN chiếm ưu thế và phát huy tính hơn hẳn
thông qua việc không ngừng nâng cao năng suất lao động, hiệu quả kinh tế và
mức sống của người lao động; nhưng đồng thời Đảng cũng:
Thừa nhận sự tồn tại của thành phần kinh tế tiểu sản xuất hàng
hoá và một bộ phận kinh tế tư bản tư nhân ở mức độ nhất định trong
một thời gian tương đối dài, coi đó là sự cần thiết khách quan để phát
triển lực lượng sản xuất, tận dụng các tiềm năng, tạo thêm việc làm cho
người lao động. Phải sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế đó, vì
lợi ích của chủ nghĩa xã hội. [28, tr.229-230]
Thứ hai, đối với kinh tế tự nhiên, tự cấp tự túc ở các vùng cao miền núi:
Phải xuất phát từ những đặc điểm kinh tế còn rất thấp kém và lạc
hậu ở đấy mà có chính sách tổ chức đúng đắn, với những hình thức
giản đơn, thích hợp để dần dần hướng bộ phận kinh tế này đi vào quỹ
đạo xã hội chủ nghĩa. Không nên máy móc, dập khuôn làm theo các hợp
tác xã ở đồng bằng một cách vội vã. [28, tr.235]
Trong chỉ thị 56 Ban Bí thư Trung ương Đảng có nêu ra, do những đặc
điểm đặc thù của họ có thể duy trì hình thức sản xuất cá thể, không nhất thiết

phải xây dựng hợp tác xã hoặc tập đoàn sản xuất, nhưng phải giúp đỡ họ và
hướng họ từng bước đi vào các tổ đoàn kết sản xuất.
Về vai trò của kinh tế cá thể, tư doanh, Đại hội cũng nói rõ: phải đánh
giá đúng đắn về vai trò kinh tế cá thể và tư doanh trong cơ cấu xã hội của nền
kinh tế thời kỳ quá độ. Đó là vì nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội với đặc điểm là
tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, với tiểu sản xuất là phổ biến, nền kinh tế ở
nhiều vùng và trên nhiều mặt còn mạng dấu vết của sản xuất tự cấp, tự túc, tỷ
suất hàng hóa còn thấp. Do đặc điểm này nên:
22


×