Tải bản đầy đủ (.doc) (132 trang)

TIỂU THUYẾT NGUYỄN XUÂN KHÁNH từ góc NHÌN THẺ LOẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (694.43 KB, 132 trang )

Bộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

VÕ THỊ HÒNG THẮM

TIỂU THUYẾT NGUYỄN XUÂN KHÁNH
TỪ GÓC NHÌN THẺ LOẠI
TIỂU
THUYÉT
XUÂN
KHÁNH
(QUA BA
TÁC PHẤM:NGUYỄN
HÒ QUỶ LY, MẪU
THƯỢNG
NGÀN
TỪ GÓC
THẺ
LOẠI
VÀ ĐỘINHÌN
GẠO LÊN
CHÙA)

(QUA BA TÁC PHẲM: HÔ QUÝ LY, MẪU THƯỢNG NGÀN VÀ
ĐỘI GẠO LÊ CHÙA)

CHUYÊN NGÀNH: LỶ LUẬN VĂN HỌC
MÃ SÓ: 60.22.32

LUẬN
LUẬN VĂN


VĂN THẠC
THẠC sĩ
sĩ NGỮ
NGỮ VĂN
VĂN
Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ VÃN DƯƠNG

NGHỆ AN-2013
NGHỆ AN-2013


MỤC LỤC

MỎ ĐẰU..................................................................................................................................................... 1

1.
2.
3.
4.
5.
6.

Lí do chọn đề tài.............................................................................................................1
Lịch sử vấn đề...............................................................................................................2
Đối tượng nghiên cứu và phạm vi tư liệu khảo sát...................................................6
Nhiệm vụ nghiên cứu..................................................................................................6
Phương pháp nghiên cứu..............................................................................................7
Đóng góp và cấu ừúc của luận văn..............................................................................7

Chương 1. TIỂU THUYẾT NGUYỄN XUÂN KHÁNH TRONG BỐI CẢNH TIỂU THUYẾT

VỆT NAM THÒI KỈ ĐỔI MỚI..................................................................................................................8

1.1. Giới thuyết chung về tiểu thuyết.................................................................................8
1.1.1......................................................................................................Khái niệm tiểu thuyết
.........................................................................................................................................8
1.1.2......................................................................................................................................M
ột số đặc trưng thi pháp cơ bản của tiểu thuyết..........................................................9
1.2. Một số thành tựu cơ bản của tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới.........................12
1.2.1.
Đổi mới tư duy nghệ thuật gan với quan niệm nghệ thuật mới về con người,
về
hiện thực, về vị trí, chức năng của văn học...................................................................12
1.2.2.............................................................................................................Đổi mới thi pháp
.......................................................................................................................................15
1.3. Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh - hiện tượng nổi bật của tiểu thuyết Việt Nam
đương đại......................................................................................................................23
1.3.1......................................................................................................................................Qu
an niệm của Nguyễn Xuân Khánh về tiểu thuyết lịch sử..........................................23
1.3.2.
Bộ ba tiểu thuyết Hồ Quý Ly, Mau Thượng Ngàn và Đội gạo lên chùa
trong sự
nghiệp văn học của Nguyễn Xuân Khánh.....................................................................25
Chương 2. TIỂU THUYẾT NGUYỄN XUÂN KHÁNH NHÌN TỪ NỘI DUNG CỦA
THỂ LOẠI ..31
2.1. Hai nguồn cảm hứng lớn trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh.....................31
2.1.1........................................................................................................................Cả
m hứng về lịch sử dân tộc..............................................................................31
2.1.2........................................................................................................................Cả
m hứng về văn hóa dân tộc............................................................................35
2.1.3.

Moi quan hệ gan bó giữa lịch sử và văn hóa - một cách kiến giải
về sức song dân
tộc của Nguyễn Xuân Khánh.........................................................................................41
2.2. Con người và thế giới trong nhận thức, phản ánh của tiểu thuyết Nguyễn Xuân
Khánh 43
2.2.1......................................................................................................................................Co
n người trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh.........................................................43


2.2.2......................................................................................................................................Kh
ông gian, thời gian trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh......................................66

Chương 3. TIỂU THUYẾT NGUYỄN XUÂN KHÁNH TỪ GÓC NHÌN THI PHÁP THỂ LOẠI. 84
3.1. Kết cấu...........................................................................................................................84
3.1.1..........................................................................................................Một vài giới thuyết
.......................................................................................................................................84
3.1.2......................................................................................................................................Ket
cấu theo trình tự thời gian...........................................................................................84
3.1.3..............................................................................................................Kết cấu đan lồng
.......................................................................................................................................86
3.1.4.........................................................................................................Ket cấu lưỡng phân
.......................................................................................................................................90
3.2. Điếm nhìn trần thuật và nhịp điệu trần.......................................................................93
3.2.1.......................................................................................................Điểm nhìn trần thuật


1
MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Tiểu thuyết là thể loại dài hơi, luôn vận động, biến đổi và chưa hoàn tất. M.
Bathtin xem đối tượng ưu tiên của tiểu thuyết là cái “hiện tại chưa hoàn thành” bởi
khả năng bắt nhịp, miêu tả một cách sống động, chân thực thực tại đang biến động và
khả năng tổng hợp, khái quát cao nhất những hiện tượng đời sống của thể loại này.
Tiểu thuyết đương đại Việt Nam, nhất là tiểu thuyết thời kì đổi mới đã có
những bước “xé rào” ngoạn mục, thoát dần bộ đồng phục của văn chương minh hoạ đê
tiếp cận đời sống đa diện, nhiều chiều hơn. Các nhà văn say sưa khai vỡ mảnh đất hiện
thực mới, say mê tìm tòi những phương thức biểu hiện hiện đại. Khiêm nhường, điềm
tĩnh lựa chọn cho mình một lối đi riêng, Nguyễn Xuân Khánh đã tạo được dấu ấn đậm
nét và nhanh chóng trở thành “tâm điểm”, “hiện tượng” trong đời sống văn học những
năm đầu thế ki XXI. Nghiên cứu Hồ OuýLy, Mau Thượng Ngàn và ĐỘI gạo lên chùa
cũng là cách đánh giá đúng sự đóng góp về mặt thể loại của lão nhà văn và hiểu hơn
cái năng động của nghệ thuật tiểu thuyết.
1.2. Bộ ba tiểu thuyết Hồ Quý Ly (2000), Mau Thượng Ngàn (2006) và Đội
gạo lên chùa (2011) là những tác phẩm được đánh giá có những kiến giải sâu sắc về
lịch sử, văn hoá và sức sống dân tộc. Trung thành với cách tiếp cận đời sống từ góc
nhìn lịch sử, văn hoá nhưng ở mỗi tác phẩm, tác giả nổ lực làm mới mình bằng vốn
kiến thức uyên bác, sự sâu sắc trong thể hiện ý tưởng và tìm tòi đổi mới về hình thức
thể hiện. Dau đón nhận nhiều lời khen, chê song không thể phủ nhận sức hút cũng như
giá trị của ba cuốn tiểu thuyết, nhất là khi nó “ẵm” về những giải thưởng danh giá: giải
thưởng Hội Nhà văn Hà Nội, giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam. Đây là phần thưởng
xứng đáng ghi nhận sự cống hiến không mệt mỏi của nhà văn “lão thành” đầy tài năng,
tâm huyết này.
1.3. Nghiên cứu tác phẩm văn học từ góc độ thể loại là việc làm cần thiết nhằm
tìm hiểu sâu hơn đặc điểm sáng tác của một tác giả, phong cách nhà văn và đóng góp
của họ về mặt thể loại. Nguyễn Xuân Khánh là hiện tượng văn học khá nổi bật trong
thời gian gần đây. Với những nổ lực tìm tòi đôi mới cả về mặt tư duy nghệ thuật và
phương thức tổ chức trần thuật, tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh rất cần được nghiên



2
cứu một cách hệ thống để đánh giá đúng vị trí của nó trong dòng chảy tiểu thuyết Việt
Nam đưong đại.

2. Lịch sử vấn đề
Tiểu thuyết Hổ Quỷ Ly (2000), Mau Thượng Ngàn (2006) và DỘI gạo lên chùa
(2011) ngay thời điểm mới ra đời đã nhanh chóng ừở thành “hiện tượng” trên văn đàn.
Nhiều cuộc toạ đàm, hội thảo được tổ chức, liên tục những lần tái bản và lần lượt các
bài nghiên cứu phê bình “mổ xẻ” tác phấm từ nhiều phương diện là minh chứng cho
sức lan toả của hiện tượng Nguyễn Xuân Khánh.
Trình làng năm 2000, tiểu thuyết Hồ Ouỷ Ly ngay lập tức thu hút sự quan tâm
của dư luận, đặc biệt khi cuốn tiểu thuyết giành được nhiều giải thưởng danh giá từ
Hội Nhà văn. vấn đề được giới nghiên cứu, phê bình văn học quan tâm là nội dung
lịch sử và những nét nổi bật về nghệ thuật của tác phẩm như kết cấu, cốt truyện, nghệ
thuật xây dựng nhân vật, điểm nhìn trần thuật, giọng điệu...

xếp tiểu thuyết Hồ Quỷ Ly vào khuynh hướng tiểu thuyết lịch sử luận giải,
Nguyễn Văn Dân đã phát hiện ra “cái luận đề” xuyên suốt tác phấm Hồ Ouý Ly chính
là luận đề về ý nghĩa “thời thế” của nhân vật này trong thời đại suy tàn của nhà Trần,
khi mà số phận của nhà Trần không còn cho phép nó đảm đương trọng trách của lịch
sử [14].
Quan tâm đến số phận và sự vận động của hình tượng nhân vật, Iloà Vang đã
nhận xét về nét độc đáo trong nghệ thuật xây dụng nhân vật của tác phẩm: “Lực hấp
dẫn của tiểu thuyết Hồ Quý Ly còn nằm trong sự phân thân, sự vận động của các hình
tượng nhân vật... mỗi người một số phận, một tính cách, một dạng nổi trôi và vùng
vẫy, một kết cục, để mỗi người một nét cùng vẽ nên sinh động, rõ ràng và bi hùng một
hoàn cảnh lịch sử cụ thể...” [ 66 ].
Nguyễn Diệu cầm trong bài Tiểu thuyết lịch sử đang hấp dẫn trở lại đã phân
tích thành công của cấu trúc vòng tròn trong tác phấm và sự đa dạng điểm nhìn trần
thuật khi miêu tả nhân vật Iiồ Quý Ly.

Trong tham luận Đọc Hồ Ouý Ly, nghĩ về tư duy tiểu thuyết của Nguyễn Xuân
Khánh, Phạm Phú Phong trên cơ sở soi chiếu đặc trưng thể loại và đối chiếu với một
số tiểu thuyết lịch sử trước Hồ Ouỷ Ly đã chỉ ra đóng góp của tác phấm trên các
phương diện như đề tài, kết cấu và cốt truyện, thế giới nhân vật, giọng điệu. Tác giả


3
cho rằng, Hồ OuỳLy “thể hiện một tư duy tiểu thuyết hoàn toàn mới, vừa là sản phẩm
của không khí thời kì đổi mới, vừa đánh dấu bước khẳng định một phong cách tiểu
thuyết không trộn lẫn với bất kì ngưòi nào khác” [ 22, 267].
Ngoài ra, còn rất nhiều bài nghiên cứu tiếp cận tác phẩm từ các góc độ khác
nhau: Hồ Ouý Ly tiểu thuyết lịch sử của Nguyên Xuân Khánh của Lại Nguyên Ân (Báo
Thể thao và Vãn hoá, số 58/2000); Tiểu thuyết của Hồ Quý Ly thưởng thức và cảm
nhận của Hoàng Cát (Tạp chí Sách, số 11/2000); Mắt bão giữa trần ai của Đỗ Ngọc
Yên (Báo Sức khoẻ đòi song, số 74/2000); Đọc Hồ Ọuỷ Ly của Phạm Xuân Nguyên
(Tạp chí Tia sáng, 1/2001),...
Nhiều bài nghiên cứu đã soi chiếu tiểu thuyết Mau Thượng Ngàn (2006) từ
nhiều phương diện: đề tài, chủ đề, kết cấu, hệ thống hình tượng, các kĩ thuật tụ sự hiện
đại... Có thể kể đến các bài viết: Hoài Nam với Sức hấp dân của cái được viết (Vãn
nghệ, số 29/2006); Đoàn Ánh Dương với Tự sự hậu thực dân: Lịch sử và huyền thoại
trong Mau Thượng Ngàn (Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 9/2010); Trần Thị An với
Sức ám ảnh của tín ngưỡng dân gian trong tiểu thuyết Mau Thượng Ngàn (Tạp chí
Nghiên cứu văn học, số 6/2007); Lê Thị Thanh Bình với Nhà vãn Nguyễn Xuân Khánh
- “về từ miền hoang tưởng” (An ninh cuối tháng, số 65/2006); Văn Chinh với Nơi bắt
đầu Mau Thượng Ngàn của Nguyễn Xuân Khánh (Báo Tiền phong cuối tuần, số
11/2007); Mẩu Thượng Ngàn - nội lực văn chương của Nguyễn Xuân Khánh trong
cuộc trao đổi giữa VTC News với nhà nghiên cún phê bình văn học Phạm Xuân
Nguyên; Đỗ Hải Ninh với Ouan niệm về lịch sử trong tiểu thuyết cĩia Nguyễn Xuân
Khánh ()...
Hầu hết, các ý kiến đều thống nhất cho rang Mau Thượng Ngàn là cuốn tiểu

thuyết về văn hoá, lịch sử có vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại. Trong đó việc lựa chọn
đề tài đạo Mau - tôn giáo bản địa, tôn giáo của người nghèo để khởi đầu cho mọi sự
diễn giải về lịch sử, về văn hoá, về sức sống của dân tộc cũng là đống góp to lớn của
Nguyễn Xuân Khánh.

về nghệ thuật tự sự, các bài viết ghi nhận những đổi mới trong kĩ thuật tự sự
trên cơ sở lối viết cổ điển đã tạo nên lục hấp dẫn cho Mầu Thượng Ngàn. Đặc biệt, soi
chiếu từ lí thuyết hậu thực dân và lí thuyết tự sự học, Đoàn Ảnh Dương trong bài
nghiên cứu Tự sự hậu thực dân: Lịch sử và huyền thoại trong Mau Thượng Ngàn (Tạp


4
chí Nghiên cứu văn học, số 9/2010) đã đề cập tới hệ thống các nhân vật / các tiếng nói,
hệ thống các biểu tượng và cách thức tổ chức ngôi kể như là các kĩ thuật tự sự phục vụ
mục đích diễn giải lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh. Các bài nghiên cứu đã gợi mở
cho người đọc nhiều hướng tiếp cận Mau Thượng Ngàn và các tác phấm khác của
Nguyễn Xuân Khánh.
Đội gạo lên chùa (2011) lại khuấy động làng văn khi được vinh danh ở vị trí
cao nhất giải thường Hội Nhà văn Việt Nam 2011 - 2012. Tác phấm thu hút sự quan
tâm của đông đảo giới nghiên cứu, phê bình văn học, nhà văn và độc giả trong cả
nước, nhất là khi Hội Nhà văn Hà Nội kết hợp với Nhà xuất bản Phụ nữ tổ chức Giới
thiệu và toạ đàm về Độĩ gạo lên chùa của Nguyễn Xuân Khánh (vào ngày 20/6/2011).
Theo QĐND Online, hầu hết tham luận trong toạ đàm đều dành những lời tốt đẹp cho
đứa con út của nhà văn sát vách tuổi 80. Nhà văn Hoàng Quốc Hải tâm đắc: “Anh luôn
đụng đến nhũng vấn đề bản chất của văn hoá Việt... và bây giờ là đạo Phật - hiện
tượng văn hoá du nhập nhưng đã được Việt hoá”. Nguyễn Thị Minh Thái cho rằng
trong Đội gạo lên chùa, đạo Phật được Việt Nam hoá ở cái “lõi” tuỳ duyên, hoàn toàn
nhập thế. Phạm Xuân Thạch đánh giá đóng góp độc đáo của cuốn tiểu thuyết “Đọ/ gạo
lên chừa “Trong một thòi đại khi mà mọi hình thức kĩ thuật đã trở nên bão hoà, nhà
văn trở về với hình thức sơ khai nhất của tiểu thuyết. Chính xác hơn, ông đưa tiểu

thuyết về lại với cội nguồn của thế loại: những câu chuyện kể.” Trong bài Vãn xuôi
Việt Nam năm 2011 gừng già mới cay? (Báo An ninh thế giới giữa tháng, số 50/2012),
Hoài Nam nói đến sức hấp dẫn của văn phong Nguyễn Xuân Khánh cùng khả năng
chuyển tải tư tường trong Đội gạo lên chùa. Tác giả viết: “Đơn giản ông chỉ kế
chuyện, có lớp lang, dẫn dắt mạch lạc, diễn giải kĩ càng, từng bước, từng bước đưa
chúng ta vào thế giới của Phật giáo Việt Nam. Ông nói với chúng ta về tác động của tư
tưởng Phật giáo tới văn hoá - lối sống của con người Việt Nam trong trường kì lịch
sử.” Ngoài ra, có thế dẫn ra một số bài nghiên cứu khác như: Tiểu thuyết như một tham
khảo Phật giáo của Mai Anh Tuấn (Tạp chí Nhà vãn, số 8/2011); Văn xuôi Việt Nam
năm 2011 gừng gỉà mói cay của Hoài Nam (Báo An ninh thế giỏi giữa tháng, số
50/2012); Tinh thần dân chủ Phật giáo Việt Nam qua tiểu thuyết ĐỘI gạo lên chùa của
Nguyễn Xuân Khánh của Văn Chinh ( Vãn nghệ, số 6/2012); Kiến giải về dân tộc trong
Đội gạo lên chùa của Nguyễn Xuân Khánh của Đoàn Ánh Dương (Văn nghệ, số


5
27/2011); Cảm nhận đọc ĐỘI gạo lên chúa của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh của
Nguyễn Thanh Lâm (Tạp chí Nhà văn, số 8/ 2011); Đội gạo lên chừa - trong chùa và
ngoài chừa của Hoài Nam ()...
Gần đây nhất, cuốn sách Lịch sứ và văn hoá - cái nhìn nghệ thuật Nguyễn Xuân
Khánh (Nguyễn Đăng Điệp chủ biên, 2012) đã chọn lọc các tham luận tham gia toạ
đàm về tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh do Viện Văn học và Nhà xuất bản Phụ nữ
phối họp tổ chức nhân dịp nhà văn tròn 80 tuổi. Đáng chú ý, một số tham luận đã
nghiên cứu xâu chuỗi ba tác phẩm đế đánh giá thành công và hạn chế của tiểu thuyết
Nguyễn Xuân Khánh. Có thể tóm lược một số ý kiến liên quan đến đề tài nghiên cứu
của chúng tôi như sau:
Tham luận Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh - một diễn ngôn về lịch sử và văn
hoá của Nguyễn Đăng Điệp đã khang định cả ba tiếu thuyết, nhà văn trung thành lối
viết truyền thống, chi dùng thủ pháp hiện đại để làm sinh động lịch sử.
Bùi Việt Thắng với tham luận Tiếp cận tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ

phưong diện kết cấu thể loại đã tìm cách đối sánh với các tiểu thuyết ngan đương đại
Việt Nam đê khám phá đặc điểm của kết cấu tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh. Đó là
kết cấu đa tuyến có tầm khái quát rộng lớn, kết cấu “hoà âm lịch sử và tâm lí” mà ở đó
lịch sử được nhìn qua tâm lí nhân vật và ngược lại qua dòng chảy tâm lí mà biến cố
lịch sử được tái hiện.
Ó tham luận Tính đối thoại trong tiểu thuyết Nguyên Xuân Khánh, Thái
Phan Vàng Anh trên cơ sở tìm hiểu tính đối thoại - nét bản chất của tiểu thuyết
hiện đại đã phân tích sâu sắc những dạng thức đối thoại trong tiểu thuyết Nguyễn
Xuân Khánh. Đặc biệt, bài viết đã có những nhận định xác đáng về đóng góp của
nhà văn khi vận dụng kĩ thuật tự sự hiện đại. về điểm nhìn trần thuật: “ Nguyễn
Xuân Khánh đã khước từ lối tự sự tiêu cự Zero với một điểm nhìn duy nhất. Liên
tục chuyển đối điểm nhìn, chuyển đối vai kế, ở cả ba tiểu thuyết, tác giả đã xử lí
khá ổn thoả mối quan hệ giữa hư cấu và sự thực lịch sử” [22, 76]. về ngôn ngữ và
giọng điệu:“ Nhờ sự phối kết hợp lí giữa ngôn ngữ và giọng điệu, Nguyễn Xuân
Khánh đã làm bật nên tính đa thanh cùng với những xung đột tư tưởng của tiểu
thuyết” [22, 80]. Giọng tự thuật và biện giải, chất vấn và hoài nghi cũng góp phần
làm tăng tính đối thoại ở tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh.


6
Một số luận văn thạc sĩ cũng đã nghiên cứu về đặc điểm tiểu thuyết lịch sử, về
thế giới nghệ thuật ừong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh.
Hoàng Thị Thuý Iloà (2007) với đề tài Đặc điêm tiểu thuyết lịch sử Nguyễn
Xuân Khánh đã khẳng định đóng góp của nhà văn trong dòng văn học đương đại. Từ
việc khảo sát hai tiểu thuyết Hồ Quỷ Ly và Mâu Thượng Ngàn, luận văn đã phân tích,
luận giải hướng khai thác các vấn đề lịch sử, hư cấu lịch sử trong sáng tạo tiểu thuyết
và xác định những đặc sắc trong nghệ thuật thế hiện của Nguyễn Xuân Khánh [31].
Lê Thị Thuý Hậu (2009) với đề tài Thế giói nghệ thuật trong tiểu thuyết Hổ Ouỷ
Ly và Mau Thượng Ngàn của Nguyễn Xuân Khánh bước đầu đã tìm hiểu tác phẩm của
tiểu thuyết gia 80 tuổi ừên các mặt: nhân vật, không gian - thời gian, giọng điệu, ngôn

từ, kết cấu, nghệ thuật trần thuật. Cuối cùng, tác giả đi đến kết luận về sự đa dạng và
phong phú trong thế giới nghệ thuật của tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh và đóng góp
của nhà văn cho nền văn học hiện đại [29]. Luận văn thạc sĩ của tác giả Đào Thị Lý
tìm hiểu nhân vật trong hai tác phẩm Hồ Ouý Ly và Mau Thượng Ngàn [42],...
Như vậy, các bài báo ngan và một số luận văn thạc sĩ nghiên cứu về Hồ Ouý Ly,
Mau Thượng Ngàn và Đội gạo lên chùa được trích dẫn ở trên chỉ xoay quanh vấn đề
văn hoá, phong tục và bước đầu lí giải nhũng thành công về kĩ thuật viết văn cũng như
hạn chế của ba tác phấm. Trong số những tài liệu chúng tôi có được đến nay, chưa có
công trình nghiên cứu nào đi vào tìm hiểu một cách hệ thống tiểu thuyết Nguyễn Xuân
Khánh từ góc độ thể loại.
3. Đối tuọng nghiên cứu và phạm vi tư liệu khảo sát
Lấy tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn thể loại làm đối tượng khảo sát,
luận văn tập trung khảo sát: Hồ OuỷLy (Nxb Phụ nữ, 2002); Mau Thượng Ngàn (Nxb
Phụ nữ, 2006); Đội gạo lên chùa (Nxb Phụ nữ, 2011).
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Đưa ra một cái nhìn chung về tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh trong bối
cảnh tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới.
4.2. Khảo sát tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ phương diện nội dung của thế
loại (hệ thống cảm hứng, hệ thống hình tượng,...).
4.3. Xác định, phân tích và lí giải một số đóng góp của tiểu thuyết Nguyễn Xuân
Khánh về thi pháp thể loại.


7
Cuối cùng rút ra một số nhận xét về thi pháp thể loại của tiểu thuyết Nguyễn
Xuân Khánh.
5. Phương pháp nghiên cún
Luận văn chủ yếu sử dụng các phương pháp sau: phương pháp thống kê - miêu
tả; phương pháp so sánh - đối chiếu; phương pháp phân tích - tổng hợp; phương pháp
loại hình, phương pháp cấu ừúc - hệ thống.

6. Đóng góp và cấu trúc của luận văn
6.1. Đóng góp:
Luận văn là công trình khảo sát tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh với cái nhìn
tập trung và hệ thống.
6.2. Cấu trúc của luận văn
Ngoài Mở đầu và Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1. Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh trong bối cảnh tiểu thuyết Việt
Nam thời kì đổi mới
Chương 2. Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh nhìn từ nội dung của thể loại
Chương 3. Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn thi pháp thể loại


8

Chương 1

TIẺƯ THƯYÉT NGUYỄN XUÂN KHÁNH
TRONG BÓI CẢNH TIẺU THUYÉT VIỆT NAM TIIỜI KÌ ĐỎI MỚI

1.1. Giói thuyết chung về tiếu thuyết
1.1.1. Khải niệm tiêu thuyầ
Tiểu thuyết là thể loại giữ vai trò then chốt trong đời sống văn học nhân loại bởi
khả năng riêng trong việc phản ánh hiện thực đời sống một cách khái quát, sinh động,
sâu sắc và dân chủ nhất. Thể loại này cũng được xem là “nhân vật chính” trên sân
khấu văn học hiện đại bởi tiểu thuyết gắn liền với quan niệm nhân bản về con người,
nhìn con người như bản ngã cá nhân có ý thức.
Xung quanh khái niệm tiếu thuyết còn có nhiều quan niệm khác nhau, vì “thế loại
văn chương duy nhất đang biến chuyển và còn chưa định hình... nòng cốt thế loại của
tiểu thuyết chưa hề rắn lại và chúng ta chưa thế dự đoán được hết những khả năng

uyển chuyển của nó” (M.Bakhtin) nên việc đi tìm một định nghĩa đầy đủ về tiểu thuyết
có thể thích ứng cho mọi trường hợp trong thực tế văn học là điều khó có thể làm
được. Các nhà lí luận, tuỳ theo góc nhìn và hoàn cảnh, phát biểu, khi thì nhấn mạnh
đặc điểm này khi nhấn mạnh đặc điểm kia mà đưa ra quan điểm khác nhau về tiểu
thuyết.
Iiêghen gọi tiểu thuyết là “Sử thi tư sản hiện đại” và nhấn mạnh tính chất “văn
xuôi”của tiểu thuyết. Đồng quan điểm với Hêghen, BanZac xem “Tiểu thuyết là những
tấn kịch của xã hội tư sản”. Bêlinxki cho tiểu thuyết là “sự tái hiện thực tại với sự thực
trần trụi của nó”, là “xây dựng một bức tranh toàn vẹn, sinh động và thống nhất”.
Bakhtin đề cập đến vai trò thể loại và khái quát đặc diêm riêng của thể loại tiểu thuyết.
Ông xem thể loại là nhân vật chính của lịch sử văn học, trong đó tiểu thuyết là thể loại
quan trọng nhất, đang vận động biến đổi và chưa hoàn tất.
Ở Việt Nam, khái niệm tiểu thuyết được nhiều nhà lí luận, nhà văn bàn đến như
Phạm Quỳnh, Thanh Lãng, Nguyễn Văn Trung, Phan Cư Đệ, Trần Đình Sử, Thạch
Lam, Nguyễn công Hoan, Nguyễn Đình Thi ... Chưa toàn diện song hầu hết các ý kiến
đã chỉ ra dấu hiệu đặc trưng của thể loại tiểu thuyết. Phạm Quỳnh khẳng định “Tiểu


9
hội hay là những sự tích lạ đủ làm cho người đọc có hứng thú” [56; 12]. Còn Nguyễn
Văn Trung trong “Những áng vãn chương quốc ngữ đầu tiền” đề nghị hiểu tiểu thuyết
theo lối Tây phương “là một thể văn xuôi, kể một câu chuyện, tuy là tương tượng
nhưng phải dựa vào thực tế đời sống hàng ngày, có thể có thực và người đọc không thể
dự đoán trước mọi diễn biến hay kết thúc của câu chuyện kế (nghĩa là truyện không
nhất thiết phải có hậu).
Theo Từ điển thuật ngữ văn học (do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc
Phi đồng chủ biên), tiểu thuyết là “Tác phẩm tự sự cỡ lớn có khả năng phản ánh hiện
thực đời sống ở mọi giới hạn không gian và thời gian. Tiểu thuyết có thể phản ánh số
phận của nhiều cuộc đời, những bức tranh phong tục, đạo đức xã hội, mô tả các điều
kiện sinh hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính cách đa dạng ” [26; 328].

1.1.2. Một so đặc trung thi pháp cơ bản của tiêu thuyết
1.1.2.1. Tiểu thuyết nhìn cuộc song dưới góc độ đòi tư
Nhìn cuộc sống dưới góc độ đời tư là một trong những đặc trưng quan trọng
hàng đầu của tiểu thuyết. Bêlinxki từng nói “tiểu thuyết là sử thi của đời tư” bởi gan
liên khả năng phản ánh đời sống ở quy mô lớn, mở rộng về không gian, thời gian, nhân
vật, sự kiện là năng lực đi sâu khám phá số phận cá nhân xoay quanh những góc khuất
đời tư như tình yêu, hạnh phúc hoặc bất hạnh trong cuộc sống riêng tư. Neu sử thi
thường quan tâm đến những vấn đề của cộng đồng, ngợi ca những con người anh
hùng, những cá nhân tiêu biếu của cộng đồng thì tiểu thuyết cơ bản quan tâm đến
những vấn đề bình thường, những con người, cá nhân có hoàn cảnh và số phận riêng.
Mỗi cuốn tiểu thuyết không phải là “một cuộc đời” được nhà văn “cưa” lấy một
khoảnh khắc có ý nghĩa để thể hiện ý đồ nghệ thuật mà là câu chuyện của nhiều cuộc
đời với những thăng trầm của số phận, những bi kịch cá nhân... Đó là số phận của
Anđrây, Natasa, Pie, Mary (Chiến tranh và hoà bình - L.Tônxtôi), Grigôri, Acxênhia,
Natalia (Sổng Đông êm đềm - Sôlôkhôp), Thứ, Oanh, San (Song mòn - Nam Cao),
nghị Hách, Long, Mịch, Tú Anh (Giông Tố - Vũ Trọng Phụng), Kiên, Phương (Nỗi
buồn chiến tranh - Bảo Ninh)... Mỗi cuộc đời là một ô cửa mà nhà văn dụng công trổ
ra để phản ánh thực tại đang biến đổi bằng cảm quan của riêng mình.
Dưới góc độ đời tư, tiểu thuyết nhìn con người ở tính người, chất người đích
thực trong “tổng hoà các mối quan hệ xã hội” với nhũng góc khuất: tốt - xấu, cao cả -


10
thấp hèn... Bakhtin thật có lí khi cho rằng: “Nhân vật tiểu thuyết không nên là “anh
hùng” trong cái nghĩa sử thi và bi kịch của từ đó, mà nên thống nhất trong bản thân các
nét vừa chính diện vừa phản diện, vừa tầm thường, vừa cao cả, vừa buồn cười, vừa
nghiêm túc”. Nhà văn Thạch Lam khi bàn về nhân vật tiểu thuyết đã phủ nhận quan
niệm “vai chính hoàn toàn” của tiếu thuyết: “Cái hoàn toàn tốt hay cái hoàn toàn xấu
không có ở trên đời, đó là một điều ai cũng biết. Người ta là một động vật rất phiền
phức.. .Người ta là người với những sự cao quý và hèn hạ của người”. Tuy nhiên, tuỳ

vào từng thời kì nhất định mà cái nhìn đời tư có thể kết họp với các chủ đề thế sự hoặc
lịch sử dân tộc. Khi yếu tố đời tư càng phát triển thì chất tiểu thuyết càng tăng và
ngược lại, khi yếu tố lịch sử càng phát triển thì chất sử thi càng đậm nét.
1.1.2.2. Chat văn xuôi
Chất văn xuôi làm cho thể loại này khác biệt với truyện thơ, trường ca, sử thi.
Với tâm thế phơi bày sự thật, không thi vị hoá, lãng mạn hoá cuộc sống, đặc điếm này
tạo nên một trường lực mạnh mẽ để tiểu thuyết hấp thụ cái “hiện tại chưa hoàn thành”
ở tất cả các yếu tố ngổn ngang, bề bộn của cuộc đời, bao hàm cái cao cả lẫn cái tầm
thường, nghiêm túc và buồn cười, bi và hài... Chất văn xuôi cũng biến tiểu thuyết
thành thể loại có “sở trường” trong miêu tả tâm lí nhân vật, đào xới tận cùng những
biến thái tinh vi trong đời sống tâm hồn con người. Các thể loại khác, trên quỹ đạo của
văn học hiện đại, có thể bị “tiểu thuyết hoá” nhưng không thể dung nạp chất văn xuôi
như một đặc trưng của nội dung thể loại như ở tiểu thuyết. Chất văn xuôi thể hiện rất
rõ trong các tiểu thuyết của Banzac, xtanđan, Phlobe, Đôtxtôiepxki, Sêkhop, Vũ
Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyễn Khải, Bảo Ninh... Chính chất văn xuôi tạo ra một
vùng tiếp xúc tối đa với thời hiện tại đang sinh thành, cho phép tiểu thuyết phơi bày
đến tận cùng sự phức tạp muôn màu của hiện thực đời sống...
1.1.2.3. Nhân vật tiểu thuyết thường là “con người nếm trải



Đây là thuật ngữ vận dụng ý tưởng của Bakhtin nhằm chỉ những nhân vật phải
chịu rất nhiều những trải nghiệm trong cuộc đời với bao nhiêu thăng trầm, biến đổi,
suy nghĩ, dằn vặt đau khổ và có sự lớn lên, trưởng thành trong ý thức, tư duy. Neu
nhân vật sử thi tương đối đơn giản và thường là nhân vật hành động thì nhân vật tiểu
thuyết là “con người trong con người”, “con người không trùng khít với chính nó”
(Bakhtin). Nghĩa là nhân cách con người tiểu thuyết phức tạp hơn nhiều so với những


11

lược đồ đơn giản về vị thế, giới tính, giai cấp của chính họ. Chính vì thế, khác với sử
thi cổ đại và truyện trung đại, tiểu thuyết thường tìm mọi cách thâm nhập, khám phá
thế giới bên trong của con người để phát hiện ra những bí ẩn trong chiều sâu tâm hồn
họ, kể cả đường biên mong manh giữa tốt - xấu, cao cả - thấp hèn.
Đe thực sự có được những “con người nếm trải” trong tiểu thuyết, nhà văn phải
nhìn thấy logic của tính cách và mối quan hệ giữa con nguôi với hoàn cảnh. Trong tiểu
thuyết trung đại (và văn xuôi trung đại nói chung), tính cách nhân vật ổn định và nếu
có biến đổi thì cũng biến đôi trong khuôn khổ tính cách đã có từ trước. Tiểu thuyết
lãng mạn cũng chưa phát hiện ra tính logic của tính cách mà chủ yếu lí giải sự biến đổi
của con người dựa trên ý chí, nội lực bản thân, vì vậy nhân vật lãng mạn ít so đo tính
toán hay dằn vặt nội tâm. Phải đến chủ nghĩa hiện thực trở đi, tiểu thuyết mới thực sự
có những nhân vật lớn lên, trưởng thành trong ý thức, tư duy bởi chủ nghĩa hiện thực
phát hiện ra mối quan hệ giữa con người với hoàn cảnh, tìm thấy tư duy phân tích xã
hội và “phép biện chúng của tâm hồn”. Những nhân vật như Juyliêng, Xoren (Đỏ và
Đen), Anđrây {Chiến tranh và hoà bình), Anna Karênina {Anna Karênina) Grigôri
Mêlêkhôv (Sông Đỏng êm đềm), Long (Giông to), Thứ (Song mòn)... đều là những
con người nếm trải và tư duy.
1.1.2.4. Sự gia tăng vai trò của các yến to ngoài cốt truyện
Trong truyện cổ dân gian và văn xuôi trung đại, cốt truyện đóng vai trò quan trọng
nhất, cốt truyện lấn át nhân vật. Đen tiểu thuyết hiện đại, cốt truyện được đơn giản hoá,
nhiều khi rất khó kể lại... vốn là thể loại dài hơi, quy mô phản ánh sâu rộng, tất yếu khi
vai trò cốt truyện giảm bót thì vai trò của nhân vật, sự kiện, tình tiết ... được gia tăng.
Chính vì thế, tiểu thuyết có rất nhiều yếu tố “thừa" như suy tư của nhân vật về thế giới, về
đời người, sự miêu tả môi trường, đồ vật, sự phân tích cặn kẽ diễn biến tình cảm, trình bày
tường tận tiểu sử nhân vật, bình luận của người trần thuật... Những yếu tố này nhiều khi
được miêu tả một cách tỉ mỉ, chi tiết nhằm hướng tới một mục đích nghệ thuật nhất định.
Đọc tiểu thuyết lãng mạn, người đọc thường bị hấp dẫn bởi những trang viết về thiên
nhiên, miêu tả nội tâm nhân vật. Tiểu thuyết hiện thực thiên về phân tích tâm lí nhân vật,
mô tả môi trường sống để lí giải, cắt nghĩa mối quan hệ biện chứng giữa hoàn cảnh và tính
cách. Tiểu thuyết sử thi quan tâm miêu tả môi trường cộng đồng, tập thể với tâm thế ngợi



12
ca... Những yếu tố thừa này góp phần không nhỏ trong việc tạo dựng dấu ấn cá nhân
của từng nhà văn và đưa lại sinh mệnh sống thực sự cho từng tác phẩm.
1.1.2.5. Rứt ngan khoảng cách trần thuật
Neu trong sử thi giữa người trần thuật và đối tượng luôn tồn tại khoảng cách
tuyệt đối để thành kính, ngưỡng mộ, tôn sùng thì tiểu thuyết xoá bỏ khoảng cách này.
Điểm nhìn trần thuật trong tiếu thuyết ở thì hiện tại, ở cái chưa hoàn thành, do đó
người trần thuật có thể tiếp xúc, nhìn nhận các nhân vật một cách gần gũi như người
bình thường, có thể hiểu họ bằng kinh nghiệm của mình. Đặc điểm này làm cho tiểu
thuyết trở thành thế loại dân chủ, cho phép người trần thuật có thái độ thân mật, thậm
chí suồng sã đối với nhân vật. Đồng thời, thể loại này cũng cho phép nhìn sự vật từ
nhiều chiều, sử dụng nhiều giọng nói tạo nên sự đối thoại giữa nhiều giọng khác nhau
mà ta gọi là đa thanh, đa giọng.
1.1.2.6. Tính chất tông hợp của thể loại
Tiểu thuyết là thể loại có khả năng tổng hợp nhiều nhất những đặc trưng
nghệ thuật của các loại hình nghệ thuật khác. Nó có thê dung nạp phong cách
nghệ thuật của các thể loại văn học khác như thơ, kịch, kí... và các thủ pháp
nghệ thuật của những loại hình ngoại biên như hội họa, âm nhạc, điêu khắc, điện
ảnh, thậm chí cả các bộ môn khoa học khác như tâm lý học, phân tâm học, đạo
đức học và các bộ môn khoa học tự nhiên, khoa học viễn tưởng khác. Nhiều
thiên tài nghệ thuật đã định hình phong cách từ khả năng tống hợp này của thế
loại như L.Tônxtôi với tiểu thuyết - sử thi, Đôtxtôiepxki với thể loại tiểu thuyết
- kịch, Solokhop với tiểu thuyết anh hùng ca - trữ tình, Macxen Pruxt với tiểu
thuyết tâm lí - trữ tình, Gorky với tiểu thuyết thế sự - trữ tình, Roman Roland
với tiểu thuyết - giao hưởng ...
1.2. Một số thành tụu cơ bản của tiếu thuyết Việt Nam thời kì đối mói
1.2.1. Dôi mới tư duy nghệ thuật gắn với quan niệm nghệ thuật mới về con
người, về hiện thực, về vị trí, chức năng của văn học

1.2.1.1. Ouan niệm nghệ thuật mói về con ngưòi
Quan niệm nghệ thuật về con người là sự lí giải, cắt nghĩa, sự cảm thấy con
người được hoá thân thành các nguyên tắc, phương tiện, biện pháp thể hiện con người
trong văn học, tạo nên giá trị nghệ thuật và thẩm mĩ cho các hình tượng nghệ thuật


13
trong đó. Một nền văn học mới bao giờ cũng được bắt đầu từ việc đổi mới trong quan
niệm nghệ thuật về con người.
Neu con người trong tiểu thuyết 1945 - 1975 được nhìn nhận chủ yếu ở phương
diện công dân, trách nhiệm với cộng đồng thì con người trong tiểu thuyết sau 1986
được nhận thức đầy đủ, toàn diện và sâu sắc hơn. Đó là con người cá nhân, con người
đời thường tồn tại trong mối quan hệ vói xã hội, với tự nhiên và với chính mình những quan hệ mà trước đây do nhu cầu của đòi sống thời chiến đã không được chú ý
một cách thích đáng. Nhà văn đặt con người trong nhiều mối quan hệ xã hội phức tạp,
nhìn nhận con người như là tổng hoà các mặt đối lập: sáng - tối, thiện - ác, cao cả thấp hèn ... Đặc biệt, không bị ám ảnh bởi cái nhìn sử thi, tiểu thuyết đi sâu phân tích
bi kịch cá nhân thời hậu chiến và khi đụng chạm mặt trái cơ chế thị trường phải đối
diện thường trục với nhiều con người trong một con người. Giang Minh Sài trong Thời
xa vắng, Iloan, Khiêm trong Ngược dòng nước lũ, Bối trong Ba người khác, anh Khải
trong Thượng đế thì cưòi... là những con người bi kịch như thế.
Con người bản năng với những ham muốn, những dục vọng, thậm chí cả tình
dục cũng không còn là cấm kị trong văn học. Tiểu thuyết sau đôi mới, nhất là tiểu
thuyết những năm đầu thế kỉ XXI, yếu tố tình dục xuất hiện khá dày đặc. Không nhằm
“lạ hoá” để câu khách mà sex có ngôn ngữ và đời sống riêng của nó. Sex được nhìn
nhận như một phần cuộc sống, một nhu cầu tự nhiên và khát vọng chính đáng của con
người trên hành trình tìm kiếm hạnh phúc đích thực. Khai thác các yếu tố tích cực của
con người tự nhiên, ứng xử với nó một cách văn hoá là khía cạnh nhân bản của tiêu
thuyết giai đoạn này.
Tiểu thuyết cũng không ngần ngại khám phá đời sống tâm linh để thâm nhập và
lí giải chiều sâu bí ẩn trong tâm hồn con người. Đó là thế giới của cõi vô thức, tiềm
thức, giấc mơ... Và xu hướng huyền thoại hoá con người để nhân vật hiện diện với sức

mạnh bí ẩn, có những hành động lạ lẫm, kì quặc, khó giải thích theo nhận thức thông
thường xuất hiện nhiều trong tiểu thuyết thời kì này như Thiên sứ của Phạm Thị Hoài,
Thiên thần sám hoi của Tạ Duy Anh, Cõi người mng chuông tận thế của Hồ Anh Thái,
Người sông Mê của Châu Diên, Mau Thượng Ngàn của Nguyễn Xuân Khánh...
Như vậy, con người không phải là lát cắt nguyên phiến mà luôn tồn tại trong
nhiều mối quan hệ đa chiều, mang nhiều sắc thái đối lập và luôn tiềm ẩn sức mạnh kì


14
lạ bên trong đòi hỏi người nghệ sĩ khơi mở, khám phá. Đổi mới quan niệm về con
ngirời trong tiểu thuyết thời kì đôi mới là kết quả của sự vận động tất yếu trong nội tại
nền văn học khi mà mối quan hệ giữa văn học và đời sống luôn khăng khít, hiện thực
luôn là đối tượng phản ánh của văn học.
1.2.1.2. Quan niệm mới về hiện thực, về vị trí, chức năng của văn học
Với phương châm nhìn thang vào sự thật, hiện thực giờ đây không đơn thuần là
vấn đề chiến tranh, cách mạng mà là hiện thực hàng ngày với các mối quan hệ thế sự
vốn phức tạp, chằng chịt mạch nổi mạch ngầm trong cuộc sống. Hàng loạt vấn đề nóng
hổi được đặt ra đài hỏi nhà văn phải tỉnh táo và sâu sắc trong nhận thức, lí giải, đánh
giá vấn đề như mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, xung đột giữa truyền thống và
hiện đại, vấn đề chiến tranh và cách mạng, vấn đề văn hoá, tín ngưỡng ... Đây là thách
thức lớn đối với nhà văn bởi hiện thực không nguyên phiến, đơn giản, một chiều mà
“đa sự”, “đa đoan”, nhiều khi rất khó nắm bắt.
Văn học là hiện tượng đa chức năng. Xét đến cùng sứ mệnh của văn học
không nằm ngoài mục đích cải tạo thế giới, đấu tranh vì sự tiến bộ của con người.
Phát triển trong bối cảnh đất nước bước vào công cuộc đổi mới, tiểu thuyết Việt
Nam một mặt vẫn kiên trì mục tiêu đấu tranh cách mạng, mặt khác nhấn mạnh đến
mục tiêu chiến đấu vì quyền sống của từng cá nhân con người. Thế nên, hơn bao
giờ hết, đời tư cá nhân, bi kịch con người giữa đời thường được đật ra với ý thức
phản tỉnh ráo riết nhằm nhận thức nó trong tất cả mối quan hệ xã hội phức tạp vốn
có. Bên cạnh đó, nhiều vấn đề về lịch sử, về hiện thực mà một thời xem chuấn mực

được nhận thức lại, nhiều “cấm địa”, thậm chí kiêng kị bị kìm nén bấy lâu nay, tự
do bung toả như sex, thế giới tâm linh, cõi tiềm thức, vô thức,... Tiểu thuyết trở
thành “vũ khí phê bình” đắc lực đấu tranh cho giá trị nhân bản của cá nhân con
người. Mặt khác, đề cao chức năng giải trí của văn chương, tiểu thuyết quan tâm
nhiều đến khoái cảm thẩm mĩ và là “sân chơi” đế nhà văn và độc giả cùng sáng tạo,
cùng đối thoại về các vấn đề đời sống.
Một thành tim đáng chú ý của tiểu thuyết sau 1986 là sự xuất hiện của những
nhà văn và độc giả mới “không hề bị vướng mắc bởi cái nhìn sử thi” (Hoàng Ngọc
Hiến). Nhà văn tự do sáng tạo và lí giải những vấn đề đời sống bằng kinh nghiệm và ý
hướng cá nhân. Độc giả cũng tự do lựa chọn món ăn tinh thần, tự do bày tỏ quan điểm,


15
đòi hỏi được ừải nghiệm, khám phá mình trên những trang sách, kể cả đối thoại với
nhà văn, với nhân vật để nhận thức về đời sống.
1.2.2. Đồi mới thi pháp
1.2.2.1. Sự đa dạng về bút pháp
Những đối mói trong tư duy nghệ thuật đã tiếp sức cho nhà văn tìm kiếm những
phương thức biếu hiện mới trong việc khám phá đời sống vốn phong phú và đa dạng.
Có thể kể đến một số bút pháp nổi trội được nhiều nhà văn sử dụng trong tác phẩm
như bút pháp kì ảo, bút pháp giễu nhại, bút pháp tả thực mới...
Bút pháp kì ảo là một trong những cách thức chiếm lĩnh đời sống được nhiều
cây bút của văn học thời kì đổi mới sử dụng. Tác phấm được xem có yếu tố kì ảo khi
“Có sự thâm nhập họp lí của yếu tố “hư”, yếu tố “ảo” vào cái “thực” để tạo nên những
tác phẩm văn chương, vừa có tính hiện thực, nhân văn, vừa kích thích óc tưởng tượng
tích cực của người đọc, tạo ra những hình tượng đa nghĩa, có kết cấu mở, giúp người
đọc có thế đồng sáng tạo với nhà văn” [18, 169]. Bút pháp kì ảo vốn rất quen thuộc
trong các truyện cổ dân gian hay các tác phẩm văn học trung đại như Việt điện u linh,
Lĩnh Nam chích quái, Thanh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục ... Đen văn học hiện đại,
người đọc biết đến một thế giới “liêu trai”, hoang drờng, rùng rợn qua tác phấm của

những nhà văn tài hoa có phong cách độc đáo như Thế Lữ, Nguyễn Tuân, Nhất Linh. Ba
mươi năm chiến tranh, với nhiệm vụ trớ thành vũ khi trên mặt trận văn hoá tư tưởng,
yếu tố kì ảo trở nên lạc lõng trong văn học. Văn học thời kì đổi mới đánh dấu sự hồi sinh
mạnh mẽ của văn xuôi kì ảo nói chung và tiểu thuyết ki ảo nói riêng. Bởi hình thức cuộc
sống mới và hiện thực tâm hồn con người mới luôn chứa đựng những điều kì bí mà cách
nhìn thông thường không dễ tiếp cận và lí giải nổi. Nhiều cây bút như Phạm Thị Hoài,
Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Châu Diên, Võ Thị Hảo, Nguyễn Xuân Khánh... trong tác
phẩm của mình đã sáng tạo ra một thế giói ki ảo mà cái thực và cái hư trộn lẫn, nhập
nhoang những suy tư, dằn vặt về lương tâm, nghĩa vụ của con người trước cuộc đời.
Được “cởi trói” bởi tư tưởng dân chủ, tiểu thuyết gia đương đại sử dụng bút
pháp giễu nhại như là cách để “giải thiêng” và tiếp cận đời sống trong tính đa nguyên,
phi quy phạm. Nhiều nhà văn sử dụng bút pháp giễu nhại như Nguyễn Khải, Phạm Thị
Hoài, Thuận... nhưng thành công nhất phải kể đến Hồ Anh Thái. Tác giả nhại tên tác
phẩm, nhại hành động nhân vật, nhại ca khúc nghệ thuật, nhại ca dao, tục ngũ' ... Bút


16
pháp giễu nhại luôn đi liền với tinh thần phê phán những cái xấu xa, “dị biệt” trong
cuộc sống mà chúng ta không thể dung túng, buông tha.
Bút pháp tả thực mới có khả năng phản ánh hiện thực đa chiều, phức tạp.
Neu bút pháp hiện thực trước đây xem hiện thực trong tác phẩm có cấu trúc đồng đẳng
với hiện thực ngoài đời, hoặc ít nhiều thi vị hoá hiện thực thì bút pháp tả thực mới
phản ánh cuộc sống và con người trong tính chất phức tạp, đa chiều. Nghĩa là hiện
thực với tư cách đối tượng phản ánh phải là đời thường, đời tư với những số phận cá
nhân bi kịch, những ẩn ức bên trong, tiềm thức, vô thức... kể cả những điều vốn được
xem là kiêng kị trong văn học truyền thống. Bút pháp hiện thực mới tôn ừọng cá tính
sáng tạo của nhà văn, để họ tự nói lên chính kiến cá nhân chứ không nhân danh tập
thể, cộng đồng. Từ đây nhiều vấn đề lịch sử được “nhận thức lại” một cách sâu sắc
như tư tưởng bảo thủ, thói gia trưởng, tâm lí tiểu nông, tâm lí nô lệ, nhiệt tình cách
mạng, giáo điều, máy móc... Đây chính là cản trở lớn trên con đường xây dựng xã hội

mới. Thời xa vang của Lê Lựu, Ba người khác của Tô Hoài, Mảnh đất lam người
nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Dòng sóng Mía của Đào Thang... là những tiểu
thuyết khai thác sâu sắc những vấn đề cần nhận thức lại này.
1.2.2.2. Đổi mới kết cấu và nghệ thuật xây dựng nhân vật
Tiểu thuyết truyền thống thường triển khai kết cấu theo trình tự thời gian. Ket
cấu này gan chặt với cách tổ chức cốt truyện sự kiện, men theo dòng đời của nhân vật.
Tiểu thuyết thời kì đối mới, bên cạnh những nhà văn vẫn trung thành với kiểu kết cấu
truyền thống thì nhiều tác giả đã tìm tòi, thử nghiệm kiểu kết cấu lắp ghép, phân mảnh,
đồng hiện. Kiểu kết cấu này dựa ừên kĩ thuật lắp ghép (collage) của điện ảnh. Ớ đó, cấu
trúc truyện có vẻ rời rạc, lỏng lẻo, nội dung được kể không tuân theo logic nhân quả,
thường triển khai theo mạch vận động của dòng ý thức, cái ảo và thực đan xen nhau, các
đoạn hội thoại không đặt nặng tính hô ứng rõ rệt, câu chuyện thường hình thành theo
kiếu chuyện nọ xọ chuyện kia... cốt truyện, vì thế ít theo mạch tuyến tính, lỏng lẻo và
rất khó tóm tắt. cốt truyện ‘truyện lồng trong truyện”, “tiểu thuyết trong tiểu thuyết” rất
được các nhà văn đương đại yêu thích như Nổi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Cơ hội
của Chúa, Khải huyền muộn của Nguyễn Việt Hà, Thoạt kí thuỷ của Nguyễn Bình
Phương... Những hình thức kĩ thuật tạo dựng kết cấu này góp phần thể hiện các tính
sáng tạo của nhà văn. Họ đang chơi trò chơi kết cấu trong lãnh địa tiểu thuyết của mình.


17
Xây dựng nhân vật theo lối ẩn danh, có có nghĩa là thông tin cá nhân của nhân
vật bị mờ hoá đang là xu hướng chủ yếu của tiểu thuyết sau thời kì đổi mới. Nhân vật
không nhất thiết phải có một bộ hồ sơ đầy đủ về bản thân như tiểu thuyết truyền thống
mà chỉ là những ‘"mảnh vỡ” về ngoại hình, về tính cách, thậm chí cả cái tên của nó
cũng không có, hoặc có nhưng không rõ ràng, không ám ảnh. Chẳng hạn, nhân vật T
trong T mất tích của Thuận, tiến sĩ N trong Đi tìm nhân vật của Tạ Duy Anh hoặc nhân
vật được mô hình hoá trong Thiên sứ của Phạm Thị Hoài. Thiên sứ chỉ đánh số 2 mô
hình I (Quang lùn) và II (Hùng), nhưng người đọc cũng có thế tăng con số đó lên
thành mô hình III (người đần bà công dân), mô hình IV (người không mặt)... Mỗi mô

hình cũng được coi là một lời cảnh báo đối với con người đang dần đi vào quá trình xơ
cứng hoá, lược đồ hoá bởi những ảo tưởng về văn minh và bị trói chặt trong những
thiết chế của nó. Nhân vật Khẩn trong Ngồi của Nguyễn Bình Phương lúc đầu không
có tên mà chỉ là dấu ba chấm, tiếp đó chỗ ba chấm được thay thế dần bang “h” đến
“ẩn” rồi “han” và cuối cùng là “Khẩn”. Được biểu diễn theo nguyên tắc lộ rõ dần, nhà
văn đã vẽ nên chân dung một loại người trong xã hội. Họ làm việc trong công sở Nhà
nước, nhàn rỗi đến nhàm chán, không có việc gì quan trọng, ngoài việc tán gẫu và dễ
dãi trong chuyện ngoại tình. Tiểu thuyết đương đại không quá chú trọng đến sự hoàn
chinh về tính cách bởi bản thân cuộc sống luôn chứa nhiều bất định, nhiều khi không
đáng tin cậy mà một nhân vật điển hình không thể đại diện hết được. Mờ hoá nhân vật
làm cho nhân vật tiếu thuyết trở nên sống động, hấp dẫn hơn.
1.2.2.3. Sự gia tăng các thủ pháp nghệ thuật tự sự hiện đại
Khước từ mô hình đại tự sự, xuất phát từ quan niệm về một hiện thực phi trật
tự, chưa hoàn kết, không đáng tin cậy, nhà văn xem tiểu thuyết như lãnh địa của trò
chơi đê thể nghiệm những mô hình thế giới do mình tạo ra và đôi thoại cùng độc giả.
Nhiều kĩ thuật tự sự hiện đại được lựa chọn (dòng ý thức, đồng hiện, lắp ghép, phân
mảnh...) như là phương tiện hũu hiệu đế nhà văn chuyển thông điệp thẩm mĩ đến với
người đọc.
Dòng ỷ thức là sự tái hiện trực tiếp đời sống nội tâm, những cảm xúc, những
liên tưởng ở con người. Ờ đó, những tư tưởng, cảm xúc, liên tưởng bất chợt luôn lấn
át, đan bện vào nhau, nhiều khi rất “phi logic’. Dòng ý thức là một dạng đặc biệt của
độc thoại nội tâm... Tiểu thuyết 1945 - 1975 nặng tính duy lý nên tiếng nói nội tâm


18
nhân vật chủ yếu là phát ngôn của ý chí, lý tưởng của con người thời đại. Cuộc sống
sau đôi mới nẩy sinh nhiều vấn đề phức tạp, chứa nhiều bất định nên đời sống tâm hồn
con người cũng đa dạng và khó nắm bắt hơn. Kĩ thuật dòng ý thức cho phép nhà văn đi
sâu vào thế giới nội tâm, vùng mờ của ý thức, tiềm thức, vô thức của con người bằng
cách sắp xếp, trộn lẫn, đồng hiện các mảnh ghép cảm xúc, những dòng suy tưởng, liên

tưởng, hồi ức, hoài niệm, giấc mơ... Nôi buồn chiến tranh của Bảo Ninh là cuốn tiểu
thuyết đi được xa nhất trong việc sử dụng bút pháp này đế miêu tả tâm trạng cô đơn,
không thể hoà nhập với cuộc sống thực tại và luôn chìm đắm trong hồi ức, mộng mị
đứt nối. Người sông Mê của Châu Diên miêu tả dòng ý thức phân lập, lẫn lộn, kì quặc
của người sống trong trạng thái mê mê tỉnh tỉnh không phân biệt được mình là Hương
hay Hoa, sống hay đã chết.
Đong hiện vốn là kĩ thuật của điện ảnh nhưng được nhà văn sử dụng như một
bút pháp đế đào sâu vào thế giới tâm linh của con người. Kĩ thuật đồng hiện có khả
năng xoá bỏ sự ngăn cách của các thời quá khứ - hiện tại - tương lai. ơ đó, hiện tại,
hồi tường, ảo giác, giấc mơ được xáo trộn theo chủ đích nghệ thuật của nhà văn và từ
khoảnh khắc tâm lí dó, các vỉa tầng hiện thực và tâm thức nhân vật được đào xới. Có
thể đồng hiện về không gian, thời gian và các bình diện tâm lí nhân vật. Cùng với kĩ
thuật dòng ý thức, thủ pháp đồng hiện có khả năng dịch chuyển điểm nhìn từ bên
ngoài vào bên trong và như thế độc giả dễ dàng nam bắt những trạng thái tâm lí phức
tạp, tinh vi của nhân vật. Nhân vật Kiên trong Nôi buồn chiến tranh luôn có những
tạt ngang về thời gian, không gian nhất là khi anh một lúc mộng mị về tình yêu với
Phương và mộng mị về chiến tranh. Trong Giàn thiêu, Võ Thị Hảo đế cho nhân vật
Thần Tông luôn đi về giữa hai tầng vô thức và hữu thức khi chứng kiến lễ hành hình
cung nữ Ngạn La. Kĩ thuật đồng hiện giúp nhà văn miêu tả những chuyển động thẳm
sâu trong tâm hồn nhân vật.
Lắp ghép vốn là thuật ngữ điện ảnh nhung được sử dụng rộng rãi trong tự sự
hiện đại. Kĩ thuật lắp ghép là sự pha trộn, sắp xếp các hiện tượng xa nhau nhưng
được đặt cạnh nhau đế tạo ra những lớp nghĩa mới. Tiểu thuyết đương đại thường
pha trộn các biểu tượng, các yếu tố kì ảo và giấc mơ khiến cho hiện thực thấm đẫm
chất siêu thực. Xuyên qua biểu tượng, huyền thoại và giấc mơ đó, người đọc sẽ “lọc”
ra chất hiện thực được phản ánh và nắm bắt được ý đồ nghệ thuật của nhà văn. Bé


19
Hon trong Thiên sứ của Phạm Thị Hoài, nhân vật bào thai trong Thiên thần sám hối

của Tạ Duy Anh là những biểu tượng huyền thoại sinh động, là hiện thân của cái đẹp
trong sáng giữa cuộc đời lạnh lùng, ô trọc. Tiểu thuyết Người sông Mê của Châu Diên,
Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Ngồi của Nguyễn Bình Phương... cũng dày đặc
những mộng mị, nhân vật thường đi về giữa tầng hữu thức và vô thức, giữa cõi thực
và mộng, mê và tỉnh. Tiếu thuyết đương đại còn có sự lắp ghép nhiều thể loại như
thơ, ừuyện, tiểu luận, cổ tích, huyền thoại, đồng giao... tạo nên sự phức hợp điểm
nhìn ừần thuật, giúp nhà văn khám phá đời sống từ nhiều góc độ khác nhau.
Ngoài một số thủ pháp nghệ thuật tự sự trên, tiểu thuyết thời kì đổi mới còn sử
dụng các thủ pháp khác như: thủ pháp huyền thoại hoá, phân mảnh, cắt dán... để gia
tăng tính hiện đại cho tiểu thuyết. Những kĩ thuật hiện đại này có khả năng phá vỡ
mạch tuyến tính của kết cấu tác phẩm, phân rã cốt truyện, giảm thiểu vai trò của sự
kiện, dịch chuyến vào bên trong, xoá nhoà khoảng cách giữa người trần thuật và nhân
vật nhằm giúp người đọc đồng thời trải nghiệm nhiều cung bậc tâm lí khác nhau của
nhân vật. Trong tiểu thuyết đổi mới, chúng tôi thấy những thủ pháp này thường được
vận dụng phối họp và xuyên thấm vào nhau tạo nên sự lạ hoá, hấp dẫn của tiểu thuyết
giai đoạn này so với tiểu thuyết truyền thống.
1.2.2.4. Đổi mới về phương thức trần thuật
Trước hết cần nói đến đôi mới điểm nhìn trần thuật. Điểm nhìn trần thuật có thể
hiếu là vị trí của người kế chuyện quan sát, cảm thụ và miêu tả, đánh giá đối tượng. So
với tiểu thuyết truyền thống, tiểu thuyết thời kì đổi mới có sự đa dạng hóa điểm nhìn
trần thuật và dịch chuyển điểm nhìn trần thuật. Thay vì toàn bộ mạch chuyện được xác
lập bởi điểm nhìn từ một người kể chuyện toàn tri, đáng tin cậy, tiểu thuyết theo xu
hướng hiện đại thường lựa chọn trần thuật từ điểm nhìn của người kể chuyện không
biết hết, thậm chí không đáng tin cậy, hoặc điểm nhìn từ những con người dị biệt, khác
thường (Trong Thiên thần sám hoi là một thai nhi, ở Thoạt kì thủy là một người điên
loạn). Điểm nhìn trần thuật có sự đan xen và dịch chuyến liên tục tạo nên tính linh
hoạt và uyến chuyển trong nghệ thuật dẫn chuyện. Người kể chuyện có khi ở ngôi 3,
khi lại ở ngôi 1 xưng tôi, hoặc có khi được trao cho các nhân vật khác trong tiểu
thuyết. Điểm nhìn của người kể chuyện và nhân vật có khi song song tồn tại, có khi
‘trùng khít”, đan bện vào nhau rất khó phân biệt rạch ròi. Đây là lúc cái nhìn trần thuật



20
có sự dịch chuyển từ bên ngoài vào bên trong. Nghĩa là người kế chuyện đã nhập thân
vào nhân vật, nhìn thế giới và trình bày cảm nhận bàng chính cảm nhận của nhân vật
chứ không đứng ở vị trí bên ngoài để quan sát và miêu tả đối tượng. Trong các tiểu
thuyết Cơ hội của Chúa, Nỗi buồn chiến ừ anh, Hồ Quỷ Ly, Mau Thượng Ngàn, Giã
biệt bóng toi, Khải huyền muộn, Phiên bản... điểm nhìn trần thuật có sự dịch chuyển
linh hoạt như thế. Chính điều này tạo nên tính phức điệu, đa âm và gia tăng tính đối
thoại ở tiểu thuyết đương đại.
Thứ hai là đôi mói ngôn ngữ trần thuật. Từ chối thứ ngôn ngữ diễm lệ, mượt
mà của chủ nghĩa lãng mạn, ngôn ngữ giàu chất thơ của văn học cách mạng, tiểu
thuyết đương đại đã có những bước chuyển mình, bứt phá khi tạo ra thứ ngôn ngữ đa
thanh vừa giàu sắc thái đời thường vừa giàu chất triết lí, suy tư. Đó là thứ ngôn ngữ
góc cạnh, thô ráp, thậm chí thô tục. Không còn bị ràng buộc bởi những tín điều đạo
đức luân lí, khát vọng diễn đạt chân thật cái đời sống “đa sự”, con người “đa đoan”,
nhà văn thang than trong cách định danh, định tính, suồng sã trong giọng điệu, thành
phần khấu ngữ gia tăng và cú pháp cũng linh hoạt mềm mại hơn. Không khó đế tìm
thấy những lời trần thuật như: “chúng ta chỉ thu nhận những đức tin đã đóng gói và
chế biến sẵn”, “nền âm nhạc thiếu tự tin của chúng ta"{Thiên sứ), “Con này dáng
người tạm được nhưng răng hơi lộ và thối mồm” {Cõi người rung chuông tận thế)...
hoặc “lạ hoá” ngôn ngữ: “Tóc tôi lên cơn sốt”, “ngôi sao lùn”, “bán đứng V.Hugo cho
nền kinh doanh nước đá”, “các phụ tùng đời sống” {Thiên sứ)... Thứ ngôn ngữ này có
khả năng kéo văn chương gần cuộc sống và diễn đạt chân thực trạng thái xô bồ, hỗn
loạn của đời sống hiện đại.
Bên cạnh ngôn ngữ đối thoại, ngôn ngữ độc thoại nội tâm giàu tính hướng nội,
đậm chất trữ tình là phương tiện hữu hiệu để nhà văn đi sâu vào ừạngthái tâm lí chập
chờn, đút nối, mong manh, mơ hồ và hư ảo của tâm thức con người. Có thể coi Nỗi
buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Tấm ván phóng đao của Mạc Can, Người sông mê của
Châu Diên, Thoạt kì thuỷ của Nguyễn Bình Phương... là những tác phấm thành công

trong việc sử dụng ngôn ngữ độc thoại nội tâm để khai sáng thế giới tâm linh, những
vùng mờ ý thức, cõi tiềm thức, vô thức. Và như thế, nhận thức của nhà văn về con
người, về cuộc sống trở nên sâu sắc và toàn vẹn hơn.


21
Tính triết luận, khái quát đời sống cũng được gia tăng trong tiểu thuyết thể hiện
nhu cầu nhận thức và lí giải đời sống theo cách riêng của từng nhà văn. Họ triết lí về
sự sống, cái chết, về đạo đức, nhân cách, về tình yêu... Gia tăng tính triết luận tạo
chiều sâu trong nhận thức và phản ánh cho tiểu thuyết đuơng đại.
Ngoài ra, tiểu thuyết thời kì đổi mới có sự dung hợp nhiều kênh ngôn ngữ, trộn
lẫn nhiều loại phong cách ngôn ngữ khác nhau tạo nên hiện tượng đa sắc trong ngôn
ngữ. Tiểu thuyết có thể sử dụng các lóp từ khác nhau như lớp từ của Thiên chúa giáo,
Phật giáo, từ ngữ khoa học, ngôn ngữ nước ngoài... hoặc pha trộn nhiều phong cách
ngôn ngữ như phong cách báo chí và văn chương trong Paris 11 tháng của Thuận,
phong cách thơ, kịch, tiểu luận trong Thiên sứ của Phạm Thị Hoài, phong cách sinh
hoạt hàng ngày và phong cách văn chương trong Cơ hội của Chúa của Nguyễn Việt
Hà... Sự đa dạng trong ngôn ngữ trần thuật đưa tiểu thuyết thời kì đổi mới thoát li hẳn
ngôn ngữ văn chương trang trọng, gọt giũa, bóng bẩy một thời, kéo tác phẩm về gần
với độc giả trong tính đối thoại đa chiều của nó.
Thứ ba là đỏi mói giọng điệu trần thuật. Giọng điệu là yếu tố cấu thành phong
cách nhà văn và cũng là biểu hiện thái độ ứng xử của nhà văn trước hiện thực đời
sống. Tiểu thuyết 1945 - 1975, vói sự chi phối của khuynh hướng sử thi và cảm hứng
lãng mạn, giọng điệu chiếm ưu thế trên văn đàn là giọng ngợi ca, tự hào. Giọng điệu
này góp phần thi vị hoá hiện thực gian khổ, khốc liệt, gieo vào lòng người niềm lạc
quan bay bống, tạo động lực tinh thần đế chiến đấu và chiến thang. Sau chiến tranh,
giọng điệu trần thuật có nhiều biến chuyển trên cơ sở những thay đổi quan niệm về
hiện thực và văn học. Đó là sự kết hợp của nhiều giọng tạo thành sự phức điệu trong
tiểu thuyết. Giọng điệu phân tích, lí giải thường xuất hiện trong khuynh hướng tự vấn,
nhận thức lại lịch sử (Tiểu thuyết của Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Lê Lựu, Hồ Anh

Thái, Châu Diên, Nguyễn Nuân Khánh...). Giọng điệu tranh biện, đối thoại nhằm
hướng tới nhận thức sâu hơn, toàn diện hơn các giá trị đời sống (Tiếu thuyết Nguyễn
Việt Hà, Nguyễn Khải, Bắc Sơn, Bảo Ninh.. ,).Giọng trữ tình chủ yếu bày tỏ cảm xúc
cá nhân trước hiện thực đời sống. Giọng điệu hoài nghi thể hiện cái nhìn “bất khả tín”
của nhà văn đối với hiện thực đời sống và bản chất con người (Tiểu thuyết Phạm Thị
Hoài, Hồ Anh Thái, Thuận, Nguyễn Bình Phương...). Nhưng nổi bật nhất làm nên sự


22
đổi mới giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết đương đại là giọng giễu nhại và giọng
vô âm sắc.
Giễu nhại là bắt chước để cười cợt, mỉa mai, hài hước nhằm phê phán những cái
xấu xa, “dị biệt” trong cuộc sống mà chúng ta không thể dung túng, buông tha. Giễu
nhại đã trở thành giọng điệu phổ biến ở nhiều cây bút tiếu thuyết như Iiồ Anh Thái, Tạ
Duy Anh, Nguyễn Việt Iià, Châu Diên, Phạm Thị Hoài... Dường như không có địa hạt
nào là cấm kị đối với nhà văn, từ nếp sinh hoạt trong đời sống đến những vấn đề chính
trị, lí tưởng, từ tầng hữu thức đến tầng vô thức trong mỗi con người. Chẳng hạn: giễu
nhại văn hóa thi hoa hậu: “Bạn sẽ làm gì ngay sau khi đăng quang hoa hậu? Em kính
thưa ban giám khảo, nếu em đăng quang hoa hậu, việc đầu tiên em sẽ hiến thân cho
người nghèo trong xã hội ”(Mười lè một đêm); giễu nhại lối sống của giới trẻ qua
những ca khúc trữ tình hiện đại: “Neu mai anh chết em có buồn không? Một bài rền rĩ
mà nghe chỉ thấy vui vui tai. Thậm chí tôi suýt bật cười. Ngươi cứ việc chết đi, người
tình duy nhất của ngươi, một nữa cuộc đời ngươi sẽ lập tức đi hát karaoke với một
người tình duy nhất khác.” (Cõi người ning chuông tận thế); giễu nhại những tác
phẩm kinh điển ngợi ca lí tưởng một thời: “Lời tuyên bố của anh ta về cái chết “... để
đến khi nhắm mắt xuôi tay, khỏi thấy mình sống hoài sống phí...” đã sổ một nét tàn
nhẫn phân cách đời sống và cõi bên kia, đặt một câu hỏi vô lí về ý nghĩa cuộc đời. (...)
Anh ta hẳn không bao giờ biết tới những thiên sứ pha lê vụt đến, vụt đi, ban phát và
trao tặng không hỏi vì sao, bí ẩn và mỏng manh như bé Hon của tôi” (Thiên sứ)...
Với giọng giễu nhại, những thói hư tật xấu bị bóc mẽ, những nhân cách tha hoá

bị phê phán riết róng và sâu xa hơn nhà văn muốn giải thiêng những giá trị cũ vốn
được tôn thờ để thiết lập một giá trị mới theo cảm quan cá nhân. Giọng giễu nhại góp
phần diễn đạt các trạng thái đời sống sinh động, hấp dẫn hơn.
Giọng vô âm sắc thực chất là không giọng điệu, nó thể hiện ở lời trần thuật
mang màu sắc trung tính, không hề có điểm nhìn bên trong mà chỉ đơn thuần trình bày
sự việc từ bên ngoài, theo kiếu ống kính máy quay. Chủ trương tẩy trang giọng điệu,
các nhà văn sử dụng những câu văn ngắn gọn, thường chỉ gồm chủ ngữ và vị ngữ,
thậm chí chủ ngữ cũng bị lược bỏ. Chính vì vậy, các câu văn chỉ có nội dung thông
báo, không hề có lời bình luận thậm chí không hề có sắc thái biểu cảm. Có thể gặp
giọng điệu này trong một số tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Bình Phương,


×