Tải bản đầy đủ (.doc) (128 trang)

Lịch sử ra đòi và phát triến của quyền con người thông qua các công ước quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 128 trang )

:ỉf

BỌ GIAO DỤC VA ĐAO TẠO

ĐẠI
tsọTRƯỜNG
GIAO DỤC
VAHỌC
DAOVINH
TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

TRÀN THỊ HẰNG
TRÀN THỊ HẰNG

LỊCH
LỊCH SỬ
SỬ RA
RA ĐỜI
ĐỜI VÀ
VÀ PHÁT
PHÁT TRIỂN
TRIÉN CỦA
CỦA QUYỂN
QUYỀN
CON NGƯỜI THÔNG QUA CÁC CÔNG ước

QUỐC TÉ

LUẬN VĂN THẠC sĩ KHOA HỌC LỊCH sử


NGHỆ AN - 2013

I__IL_____________________________________________________________________________________________________________________________________________ j


MỤC LỤC
Trang
A. MỞ ĐẦU..................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài............................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề............................................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.................................................................. 4
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu................................................... 5
5. Đóng góp luận văn.......................................................................................... 5
6. Bố cục Luận văn.............................................................................................. ố
B. NỘI DƯNG....................................................................................................7
Chương 1. KHÁI QUÁT LỊCH sử RA ĐỜI CỦA QƯYÈN CON NGƯỜI
7
1.1. Thời cổ đại.................................................................................................... 8
1.1.1. Phương Tây cổ đại.................................................................................8
1.1.2. Phương Đông cổ đại............................................................................11
1.2. Thời trung đại............................................................................................. 14
1.2.1. Phương Tây thời trung đại...................................................................14
1.2.2. Phương Đông thời trung đại................................................................16
1.3. Thời cận đại................................................................................................17
1.4. Thời hiện đại...............................................................................................25
Tiểu kết chương 1.................................................................................................28
Chương 2. QƯÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÈ QUYỀN CON NGƯỜI
THÔNG QUA CÁC CÔNG ƯỚC QUÓC TÉ....................................30
2.1........................................................................................................................ H
iến chương Liên hợp quốc.................................................................................... 30

2.1.1................................................................................................................. S
ự ra đời của Liên hợp quốc..............................................................................30
2.1.2................................................................................................................. H
iến chương Liên hợp quốc................................................................................33
2.2. Bộ luật quốc tế về quyền con người............................................................ 40
2.2.1. Bối cảnh lịch sử................................................................................40


ủy

AICHR
ban liên

chính

phủ

Hiệp

hội

các

quốc

gia

Đông

Nam


Á về Nhân quyền
Đại hội dân
ANC
tộc Phi
Hiệp hội
ASEAN
các quốc gia Đông Nam Á
CEDAW
Công ước về

xóa

bỏ mọi hình thức
biệtVIÉTđối
DANHphân
MỤC Từ
TẮTxử
2.2.2. Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người....................................42
chống lại phụ nữ2.2.3. Công ước về các quyền dân sự và chính trị năm 1966.......................47
Công ướcCRC
về quyền trẻ em
2.2.4 Tuyên bố Công ước về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm
1966........................................................................................................51
Liên minh châu
Eư Âu
2.3. Quyền con người trong một số Công ước quốc tế......................................54
Tổ chức Nông
FAO Lương
2.3.1. Công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng năm 1948............54

ướctrịvề ngăn ngừa và trừng trị tội Apacthai..............................60
Công ước
ICCPR
quốc tế về các quyền2.3.2.
dân sự Công
và chính
Tổ chức lao
ILO
động quốc tế Tiếu kết chương 2.................................................................................................68
Quỹ tiền tệ
IMF
quốc tế

Chương 3. sự ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC CÔNG ƯỚC QUÓC TÉ
VÈ QUYÈN CON NGƯỜI Ở MỘT SÓ KHU vực VÀ

Đại hội toàn
PACchâu Phi

QUÓCGIA................................................................................70
3.1. Đối với châu Âu.......................................................................................... 70
3.2. Đối với khu vực châu Á..............................................................................75
Đối với Trung Quốc............................................................................75
Tố chức
UNESCO
Giáo dục, Khoa học và3.2.1.
Văn hóa
3.2.2. Đối với khu vực Đông Nam Á............................................................88
Đại hộiUN
đồng

GALiên họp quốc3.3. Đối với Việt Nam........................................................................................ 98
Đảng Cộng sản Nam Phi
SACP
Trước công
TCN
nguyên

c. KÉT LUẬN............................................................................................... 111
D. TÀI LIỆU TIIAM KHẢO
113

Hội Đồng
UNHRC
Nhân Quyền Liên hợp quốc
Ngân hàngWB
thế giói
Tổ chức Y tế thế giới
WHO

E. PHƯ LƯC


1
A. MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Quyền con người (Nhân quyền) là giá trị chung của nhân loại, được
cộng đồng quốc tế thừa nhận và trở thành vấn đề cơ bản trong pháp luật quốc
tế và quốc gia, một giá trị đặc biệt trong quá trình phát triển của nền văn minh
nhân loại.

Quyền con người là những yếu tố cơ bản, nền tảng của một xã hội dân
chủ, văn minh. Tư tưởng về quyền con người đã hình thành từ rất sớm trong
lịch sử nhân loại, nhưng không phải trong bất cứ hình thái kinh tế - xã hội
nào, trong bất cứ kiểu Nhà nước nào nó cũng được tồn tại và thừa nhận một
cách đầy đủ. Vì thế quyền con người là một phạm trù lịch sử và là kết quả của
quá trình đấu tranh không ngừng của toàn nhân loại vươn tới những lý tưởng,
giải phóng hoàn toàn con người nhằm xây dựng một xã hội thật sự công bằng,
dân chủ, văn minh.
Ngay trong cuộc cách mạng tư sản do giai cấp tư sản thực hiện đã coi
quyền con người như một vũ khí của mình để tranh giành quyền lực với giai
cấp phong kiến và tập hợp lực lượng trong xã hôi. Do đó từ thế kỉ XVIII, vấn
đề về quyền con người đã được giai cấp tư sản đề cập đến như Tuyên ngôn
độc lập của Họp chủng quốc Hoa Kỳ 1776, Tuyên ngôn nhân quyền và dân
quyền Pháp năm 1789.
Trong bối cảnh lịch sử đầy biến động từ sau cuộc Chiến tranh thế giới
thứ hai kết thúc thì vấn đề về quyền con người trở thành mối quan tâm của cả
Nhà nước xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, nên khi tổ chức Liên hợp
quốc ra đời thì vấn đề cơ bản, đầu tiên của tổ chức này là vấn đề về nhân
quyền. Thật vậy nhân quyền trở thành vấn đề quan trọng, thường xuyên được
đề cập đến trong quan hệ quốc tế. Liên hợp quốc đã ban hành hàng loạt các


2
văn kiện khẳng định quyền tự do của con người, đặc biệt là Hiến chương Liên
hợp quốc 1945 và Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người 1948, và từ
đây vấn đề về nhân quyền đã xuất hiện sang một bước ngoặt mới trong lịch sử
nhân loại, trở thành một vấn đề cơ bản được điều chỉnh bằng pháp luật quốc
tế. Trong thời gian tiếp theo là hàng loạt các công ước quốc tế về quyền con
người đã được nhân loại đón nhận trong hân hoan, phấn khởi.
ơ Việt Nam, trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc tư tưởng về

Nhân quyền đã được dân tộc ta khăng định qua quá trình dựng nước và giữ
nước. Đồng thời được khẳng định bằng những nhân vật đã đi vào những trang
sử hào hùng của dân tộc. Hơn hết kê từ khi giành được độc lập cho đất nước
(năm 1945), Đảng và Nhà nước luôn tôn trọng quyền con người. Tuyên ngôn
độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc
tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Hà Nội ngày 2/9/1945 được coi là một văn
kiện có tính lịch sử trên phương diện quốc tế về quyền con người.
Như vậy, có thể thấy vai trò của các công ước quốc tế từ khi được ra
đời đã được khắng định sự phát triển của quyền con người. Xuất phát từ
những vấn đề lý luận và thực tiễn trên đây Luận văn xin được mạnh dạn chọn
lựa đề tài “Lịch sử ra đòi và phát triến của quyền con người thông qua các
công ước quốc tế” để làm Luận văn thạc sĩ của mình. Hy vọng sẽ góp phần
nghiên cứu đầy đủ hơn về lịch sử ra đời, cũng như vạch ra cho bạn đọc một
hướng nhìn về quyền con người thông qua các công ước quốc tế và những tác
động nhất định tới các quốc gia và khu vực trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên,
vì điều kiện và khả năng còn hạn chế nên Luận văn không tránh khỏi những
thiếu sót, rất mong được sự đóng góp của các thầy cô giáo và các bạn.

2. Lịch sử van đề
Có thể nhận thấy xây dựng quyền con người là một vấn đề không phải
nằm trong phạm vi một quốc gia mà nó là vấn đề được quan tâm trên toàn thế


3
giới. Bởi lẽ, những ý nghĩa nhân văn vô cùng to lớn của nó đã ảnh hưởng tới
từng cá nhân trong một môi trường sống về tự do, bình đẳng, bác ái.
Quyền con người là đề tài tương đối phổ biến, và được nhiều nhà
nghiên cứu trên thế giới hết sức quan tâm. Có những công trình nghiên cứu
hết sức sâu sắc và chi tiết đối với ngành Luật, ngành Triết học... Nhưng chỉ có
số ít cách tác giả nghiên cứu, tiếp cận dưới góc độ nghiên cứu đối với ngành

Lịch sử. Có chăng cũng chỉ là những bài viết tương đối khái quát.
Đe tài dựa trên các văn kiện quốc tế quan trọng nhất về quyền con
người, bao gồm: Hiến chuông của Liên hợp quốc, các Bộ luật quốc tế về
quyền con nguời.
Ngoài ra có tác giả là GS.TS Võ Khánh Vinh, Phó chủ tịch Viện khoa
học xã hội Việt Nam có tác phám gồm hai tập “Quyền con người - tiếp cận
đa ngành và liên ngành luật học” đã tập trung đưa ra những vấn đề lý luận,
lịch sử về con người, bảo vệ quốc tế quyền con người đồng thời Giáo Sư cũng
nêu ra những vấn đề chung về quyền con người ở Việt Nam.
Giáo trình “Quyền con ngưòT do GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên của
Học viện Khoa học xã hội là cuốn giáo trình giảng dạy sau đại học đã đưa ra
các vấn đề về lịch sử, lý luận về quyền con người đặc biệt giáo trình cũng đã
khái lược quyền con người trong lịch sử tư tưởng nhân loại.
Tác giả Nguyễn Linh Giang với bài viết “Các công ước quoc tế về
qiỉyển con người ”, Bài viết đã dưa ra các bộ luật quốc tế về quyền con người
cũng như liệt kê một số Công ước tiêu biêu và quan trọng của Liên hợp quốc.
Còn tác giả Đinh Ngọc Vượng với bài viết “Chuyến hỏa các điều ước
quốc tế về quyền con người vào pháp luật Việt Nam”. Tác giả Nguyễn Thị
Báo với bài viết “Nội luật hỏa các công ước quốc tế trong pháp luật Việt
Nam”. Cả hai tác giả đã tóm tắt quá trình chuyển hóa các công ước quốc tế
phù hợp với pháp luật Việt Nam.


4
Để giúp giáo dục nhận thức về quyền con người trong xã hội Việt Nam
GS. TS Võ Khánh Vinh có sách “Giáo dục quyền con người: những vẩn đề lí
luận và thực tiễn” đã đưa ra những hạn chế về giáo dục quyền con người ở
Việt Nam, đồng thời đưa ra những phương pháp cách thức nhằm giáo dục
nhận thức về quyền con người.
Tuy nhiên những nghiên cứu trên chưa đưa ra được vấn đề quyền con

người theo một chiều dài lịch sử nhất định đặc biệt là phân tích sâu hưn về
lịch sử ra đời và phát triển của các công ước quốc tế về quyền con người.
Những nhân tố ảnh hưởng, tác động đến xã hội Việt Nam cũng chưa được
đánh giá rõ ràng, lôgic.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cún

3.1. Đoi tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu những vấn đề cơ bản về lịch sử quá trình phát trình
phát triển về quyền con người thông qua các công ước quốc tế. Đồng thời
đánh giá về sự tác động tới quyền con người trong xã hội Việt Nam. Những
nội dung được đề cập ở đây bao gồm: Khải quát sự ra đời của quyền con
người trong tiến trình lịch sử, quả trình phát triến về quyền con người thông
qua các công ước quốc tế quan trọng. Từ đó cỏ một sổ nhận xét về sự ảnh
hưởng cửa các công ước quốc tế đến quyền con người đổi với một so khu vực,
quốc gia trong đó có Việt Nam. Đồng thời đưa ra những bài học kinh nghiệm
đế cùng nhau nội luật hóa hợp lý nhân quyền.

3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đe tài nghiên cứu “Lịch sử ra đời và phát triển của quyền con người
thông qua cá Công ước quốc tế”. Được chúng tôi giới hạn như sau:


5
về mặt nội dung: Luận văn bao gồm Khái quát sự ra đời của quyền con
người trong tiến trình lịch sử nhân loại, tìm hiểu quá trình phát triển về quyền
con người thông qua các điều ước quốc tế quan trọng. Từ đó có một số nhận
xét về những ảnh hưởng của Công ước quốc tế đến quá trình nội luận hóa ở
một số khu vực vào quốc gia tiêu biêu trong đó có Việt Nam.


4. Nguồn tài liệu và phưong pháp nghiên cứu.

4.1. Nguồn tài liệu
Luận văn chủ yếu dựa trên nguồn tài liệu tiếng Việt được lấy từ viện Khoa
học xã hội Việt Nam, Viện Nghiên cứu Nhân quyền, các trang Web, các bài báo,
tạp chí Nhà nước và pháp luật, tin tức, bình luận truyền hình, Luận văn...

4.2. Phương pháp nghiên cứu
Đây được xem là một đề tài khoa học Lịch sử vì vậy các phương pháp
nghiên cứu trong luận văn được thực hiện trên nền tảng phương pháp luận
của: Phương pháp luận sử học Mác xit, sử dụng phương pháp lịch sử, phương
pháp lôgic, kết hợp với phương pháp phân tích, phương pháp tổng họp,
phương pháp đối chiếu, so sánh.
Luận văn sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học:
tổng hợp, phân tích, chứng minh, thống kê, so sánh, kết hợp nghiên cứu lý
luận với thực tiễn...

5. Đóng góp luận văn
Thông qua việc thực hiện đề tài, Khóa luận mong muốn bước đầu khái
quát lịch sử ra đời của quyền con người giúp người đọc có cách nhận thức,
cách nhìn cụ thể hơn. Đồng thời đưa ra những đánh giá về quá trình phát triển
của quyền con người thông qua các công ước quốc tế, đặc biệt từ sau Tuyên
ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948.
Bằng những vấn đề được nghiên cứu, góp phần đưa ra những nhân tố
khách quan, chủ quan tác động, đánh giá quá trình ảnh hưởng của Công ước


6
quốc tế về quyền con người trên thế giới. Cuối cùng là quá trình hình thành,
nội luật hóa Công ước đế rồi rút ra phương pháp giáo dục nhận thức về quyền

con người ở nước ta.
Nội dung và tư liệu của luận văn sẽ đóng góp vào tài liệu tham khảo,
phục vụ cho công tác nghiên cứu về lịch sử phát triển quyền con người thông
qua các công ước quốc tế quan trọng đồng thời giúp bạn đọc quan tâm, nhận
thức hon về quyền con người trên thế giới và Việt Nam trong xu thế toàn cầu.
6. Bố cục Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1. Khái quát lịch sử ra đời của quyền con người.
Chương 2. Quá trình phát triển về quyền con người thông qua các
công ước quốc tế.
Chương 3. Sự ảnh hưởng của các công ưức quốc tế về quyền con
người đối với ở một số khu vực và quốc gia.


7
B. NỘI DUNG
Chương 1

KHÁI QUÁT LỊCH sử RA ĐỜI CỦA QUYỀN CON NGƯỜI

Quyền con người gắn chặt với mọi hoạt động xã hội, đó chính là các
mối quan hệ xã hội và các phương thức sống cá nhân. Quyền con người là
biểu hiện của các tiêu chí tác động qua lại, củng cố các mối quan hệ, phối hợp
hành động và hoạt động giữa con người vói con người, ngăn ngừa các mâu
thuẫn đối đầu và xung đột giữa họ trên cơ sở kết hợp tự do cá nhân với tự do
của người khác, với hoạt động bình thường của nhà nước và xã hội. Những
quyền như được sống, quyền được tôn trọng danh dự, nhân phẩm, được bất
khả xâm phạm về thân thể, được tự do ngôn luận, tự do chính kiến, tự do tín
ngưỡng, được tham gia vào các quá trình chính trị là những điều kiện cần

thiết để con người tổ chức đời sống trong xã hội văn minh.
Thiết nghĩ, quyền con người là thành quả phát triển lâu dài của lịch sử
xã hội loài người, là giá trị tinh thần quý giá nhất của nền văn minh nhân loại.
Khái niệm “quyền con người ” (Huinan Rights) xuất hiện đầu tiên ở phương
Tây thế kỷ XVII - XVIII. Trong một số tác phâm của các nhà tư tưởng như
J.J. Rousseau, T. Hobbes, J. Locke.v.v.. đã đề cập đến khái niệm này. Sau đó
khái niệm này đã được cụ thê hóa trong một số văn bản có tính chất pháp lý
của một số quốc gia như: Tuyên ngôn độc lập ở Mỹ năm 1776, Tuyên ngôn
về quyền con người và quyền công dân ở Pháp năm 1789,v.v... Cuối cùng
quyền con người cũng trở thành vấn đề quốc tế mà các quốc gia cùng quan
tâm và bảo hộ khi hàng loạt các điều ước quốc tế ghi nhận.
Và theo như quan điểm của chủ nghĩa duy vật, “quyền con ngườr,
“quyền dân tộc” là những phạm trù lịch sử có quá trình hình thành, phát triển
phản ánh những quy luật vận động khách quan của con người mà là thành quả


8
của quá trình đấu tranh lâu dài trong lịch sử. Mỗi thời đại, nhân dân lao động
và các dân tộc đều phải trải qua sự đấu tranh, hy sinh cũng vì quyền con
người. Vấn đề quyền con người luôn là trung tâm của mọi cuộc cách mạng xã
hội và tiến bộ của nhân loại. Trong khi lịch sử phát triển của xã hội loài người
tùy thuộc vào từng hình thái kinh tế - xã hội khác nhau mà vấn đề quyền con
người cũng được lý giải và thực hiện theo nhiều cấp độ khác nhau.
1.1. Thòi cổ đại
Trong xã hội nguyên thủy, nguyên tắc được đặt lên hàng đầu hay còn
gọi là “nguyên tẳc vàng” đó việc trong cuộc sống sinh hoạt con người luôn
tôn trọng và hoàn toàn bình đẳng với nhau. Kéo theo, các dân tộc (theo nghĩa
là thị tộc, bộ lạc) cũng tồn tại mối quan hệ bình đắng. Mà ở đó, trong mỗi thị
tộc, bộ lạc mọi người đều có quyền ngang nhau. Họ cùng sống, cùng lao động
và cùng thừa hưởng mọi thành quả lao động mà tập thể làm ra. Tuy nhiên tất

cả sự bình đẳng ấy đều dựa trên cơ sở đời sống vật chất còn khá thô sơ lạc hậu
thấp kém [1,7].
Đen khi tất yếu của lịch sử loài người đã tạo ra nhiều cách thức đê đấu
tranh với thiên nhiên và chinh phục thiên nhiên. Như vậy tất yếu kéo theo
chính là sức sản xuất phát triển và lúc này của cải dư thừa càng nhiều, càng
lớn. Và tư hữu cũng dần dần xuất hiện đồng thời lại kéo theo sự ra đời của
một xã hội có giai cấp và nhà nước. Theo đó những nguyên tắc vàng trước
đây của xã hội nguyên thủy cũng bị xé nhỏ ra, những bình đăng bị mất dần.
Như vậy lịch sử loài người bước sang thời kỳ cổ đại đã đánh dấu sự mờ
nhạt của tính bình đẳng giữa bộ lạc (dân tộc) này với bộ lạc (dân tộc) khác đã bị
xóa nhòa. Thay vào đó những sự bất bình đắng đã ngày càng được thê hiện rõ.

1.1.1. Phương Tây cỗ đại
Xã hội phương Tây cổ đại là một xã hội chiếm hữa nô lệ mang tính
chất điển hình. Trong đó hai giai cấp chủ yếu là chủ nô và nô lệ. Do đó, mâu


9
thuẫn chủ yếu là chủ nô và nô lệ tức mâu thuẫn giai cấp. Nô lệ là lực lượng
chính sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội nhưng họ lại bị coi như súc vật
và hàng hóa đê trao đổi, buôn bán. Còn giới chủ nô lại nắm trong tay mọi đặc
quyền đặc lợi.
Giai cấp nô lệ đã đứng lên đê giành lại sự tự do, và đòi lại phâm giá của
họ. Sự uất hận của họ bùng lên thành các cuộc khởi nghĩa. Một trong những
cuộc khởi nghĩa tiêu biểu diễn ra vào năm 7 4 - 7 1 TCN do Xpacstacút lãnh
đạo đòi xóa bỏ áp bức và nô dịch. Song cuộc khởi nghĩa đã bị thất bại không
đề ra được cưong lĩnh, không tuyên bố được mục đích, chưa vượt qua giói
hạn của giai cấp nên họ bị đàn áp rất dã man. Tuy nhiên, mọi thứ đều không
vô nghĩa, và phong trào đấu tranh dù thất bại nhưng đã ảnh hưởng to lớn tới
sự phát triển nhận thức về quyền con người đòi quyền lợi.

Trong xã hội phương Tây cổ đại, nổi bật hưn cả đó là thời ki Hy Lạp La Mã cố đại. Trước hết, có thể nói tư tưởng về quyền con người ở đây đầu
tiên xuất hiện trong các tư tưởng, học thuyết triết học, chính trị - xã hội. Đặc
biệt, tương về quyền con người gắn chặt với những tư tưởng, học thuyết về
con người, về giải phóng, về mối quan hệ giữa con người với con người, con
người và xã hội, con người và nhà nước, v.v... Những tư tưởng và học thuyết
đó có thể coi là những tiền đề, mầm mống đầu tiên của các tư tưởng về quyền
con người. Tư tưởng về quyền con người ở đây đã được đề cập đến trong các
học thuyết của Platon, Aristotelos, Protagore,

V. V. .

Tuy nhiên, lúc này quyền

con người mới chỉ là những tư tưởng manh nha, chưa được quan tâm nghiên
cứu và chưa được thừa nhận như một giá trị phố biến của con người. Xã hội
thời kỳ Hy Lạp - La Mã cổ đại có sự phân hóa giai tầng sâu sắc giữa giai cấp
thống trị và giai cấp bị trị, giữa tầng lớp chủ nô và tầng lóp nô lệ, do vậy
quyền con người lúc này cũng mang tính giai cấp sâu sắc, chỉ những tầng lớp
quý tộc trong xã hội mới có các quyền con người, còn nô lệ thì không hề có
quyền chút nào và Aristotelos cho rằng, chỉ những công dân (nam giới từ 18


10
tuổi trở lên) mới có quyền công dân, còn phụ nữ, trẻ em, nô lệ, v.v... không
có các quyền con người như các công dân khác. Lúc này, các tầng lớp dưới
của xã hội, như tầng lớp nô lệ thậm chí được xem như công cụ biết nói, chứ
không phải là con người. Chẳng hạn, Platon coi nông dân và thợ thủ công là
hạng người thấp nhất. Trong “Nhà nước lý tưởng của ông” [39,150]. Platon
cho rằng: "Trong xã hội cần phải duy trì các hạng người khác nhau và do đó
không thế cỏ sự hoàn toàn bình đắng giữa mọi người được" [39,129].

Do phần lớn các nhà tư tưởng thời kỳ Hy Lạp - La Mã cố đại xuất thân
từ tầng lớp quý tộc, do vậy họ ra sức bảo vệ quý tộc và nhà nước của giai cấp
đó. Chăng hạn, tuy Đêmôcrit là một trong những nhà triết học đầu tiên đặt ra
vấn đề đấu tranh cho dân chủ, những đại diện cho tầng lớp chủ nô, ông bảo vệ
nền dân chủ chủ nô, còn đối với nô lệ thì ông cũng cho rằng phải tuân theo
người chủ (nghĩa là không có quyền con người) [39,176]. Trong quan diêm
của các nhà tư tưởng của thời kỳ này, cá nhân phải tuyệt đối phục tùng nhà
nước, điều đó cũng đồng nghĩa với việc chưa thê có cái gọi là quyền công
dân, quyền cá nhân.
Bên cạnh thực tế lịch sử như trình bày ở trên, trong thời kỳ Hy Lạp - La
Mã cố đại, thậm trí trong những giai đoạn trước đó cũng đã xuất hiện những
tư tưởng đấu tranh đòi quyền con người phải trở thành những quyền phố biến
cho tất cả mọi người. Nghĩa là những người nông dân, nô lệ được hưởng các
quyền đó. Những tư tưởng đó gắn liền với cuộc đau tranh cho sự tự do, bình
đắng của các tầng lớp tận cùng của xã hội - tầng lớp nô lệ [34,36].
Tiếp theo, vào thế kỷ VI TCN, nhiếp chính quan người Hy Lạp ở La
Mã là Arokhont Salon, đã ban bố một đạo luật trong đó xác định một số khía
cạnh của dân chủ và quy định một số quyền của các công dân tự do trong mối
quan hệ với các quan lại nhà nước. Trong thời kỳ diên ra sự tàn bạo khủng
khiếp của chế độ ở La Mã cố đại, thời kỳ mà quyền con người là một thứ “rất
xa lạ ”, người ta đã đề cập đến quyền không vâng lời và quyền chống lại áp


11
bức của những người nô lệ như là một số nỗ lực bảo vệ tầng lớp nô lệ. Đến
thế kỷ thứ V TCN, Protagore (490 - 420) và các nhà triết học thuộc trường
phái ngụy biện Sophism đã đưa ra quan điếm về sự bình đắng và tự do giữa
các cá nhân trong xã hội: “Thượng đế tạo ra mọi người đền là tự do, không ai
biến thành nô lệ cả ”[32,59]. Cùng với câu nói nối tiếng của Socrate, nhà triết
học Hy Lạp cổ đại: “Con người hãy nhận thức lẩy chính mình ” thì đây có thể

được xem như là mầm mong đầu tiên về quyền con người và đấu tranh cho
quyền con người. Rõ ràng, tư tưởng quyền con người trước hết phải xuất phát
từ việc đề cao con người, tôn trọng giá trị con người.
Sự bất lực của quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh với bọn bóc lột
đã dẫn tới sự gia tăng tâm lý tín ngưỡng của, họ tìm kiếm “niềm an ủi tinh thần ’
trong tôn giáo. Vào thế kỷ I, từ sự xáo trộn tín ngưỡng cổ xưa với triết học Hy
Lạp được thị dân hoá đã xuất hiện Thiên chúa giáo như Ph. Ănghen nhận xét
rằng: “Thiên chúa giáo như một phong trào của quần chủng bị áp bức: ban đầu
nó như là tôn giáo của người nô lệ và người được trả tự do, nghèo khô và các
dân tộc không có quyền, bị chinh phục hoặc ở rải rác khắp LaMă\32,32].
Trong các tác phấm sơ khai của giáo lý Thiên chúa giáo đã nói lên sự
căm hờn lũ “hoàng dế thú vậC bọn quan chức nhà giàu, thương nhân. Những
tín đồ Thiên chúa giáo buổi bình minh đã mơ ước tiêu diệt đế chế La Mã chủ
nô và thiết lập “vưong quốc ngàn năm\ Và, trong khi chờ đợi “sứgiả giáng
trần”các, tín đồ đã hướng tới “sựcam chịĩỉ\ 1,10]. Dần dần, Thiên chúa giáo
đã bị giai cấp thống trị lợi dụng và biến thành công cụ cai trị tinh thần đối với
quần chúng nhân dân.

1.1.2. Phương Đông cổ đại


12
Việc này đồng nghĩa với việc diễn ra sự kì thị, mang đến sự bất bình đẳng
giữa con người với con người.
Một trong những biêu hiện rõ nét nhất của sự bất bình đắng chính là
chế độ phân biệt chủng tộc Vácna trong xã hội Ản Độ cố đại. Đây là chế độ
phân biệt đẳng cấp nghiêm ngặt, hà khắc, là sự bất bình đẳng giữa tộc người
Arian và tộc người Đravitđa bản địa. Còn ở Trung Quốc cổ đại, cũng chia xã
hội thành hai hạng người “quân tử’ và “tiểu nhân”. Người phụ nữ thì bị coi
thường và đối xử hà khắc. Tầng lớp nô lệ ở phương Đông cổ đại mặc dù

không điển hình như phương Tây nhưng cũng không có đặc quyền, đặc lợi
nào thậm chí được coi như tài sản của tầng lớp quý tộc.
Nhận thấy được những mâu thuẫn xã hội, giai cấp gay gắt như vậy điều
tất yếu sẽ nảy sinh ra những cuộc đấu tranh ở những quy mô, cách thức khác
nhau. Đặc biệt hơn cả, trong lĩnh vực tư tưởng đã xuất hiện những tư tưởng
tiến bộ thể hiện được quyền con người và muốn vươn lên đế được có quyền
cơ bản cho mình. Nổi bật hơn cả đó là sự ra đời của Phật giáo, Nho giáo hay
những tư tưởng của Lão Tử, Mặc Tử... Tất cả đều mong muốn xây dựng một
xã hội tốt đẹp, được hưởng quyền con người một cách đúng nghĩa. Mặc dù
không tránh khỏi những hạn chế về điều khiên lịch sử, xã hội mang lại (mang
lại quyền lợi cho giai cấp trí thức, thống trị, còn đại đa số nhân dân lao động
thì phải an phận)[ 1,11].
Đáng chú ý trong thời kì cổ đại có những thành tim chủ yếu về tư tưởng
ở Trung Quốc, Ẩn Độ thì nhất thiết không thể bỏ qua được nền văn minh
Lưỡng Hà cổ đại.
Lưỡng Hà là khu vực có những bộ luật sớm nhất. Từ thời Vương triều
III của thành bang Ua, ở Lưỡng Hà đã ban hành bộ luật cổ nhất thế giới.
Nhưng ngày nay chỉ còn lại được một số đoạn. Vào khoảng thế kỷ XX TCN
nước Etnuna ở Đông Bắc Babilon cũng ban hành một bộ luật. Bộ luật này viết


13
trên hai tấm đất sét - rất đặc biệt. Và bộ luật quan trọng nhất ở Lưỡng Hà cổ
đại là bộ luật Hammurabi [67]. Theo lịch sử ghi lại thì nó được khắc trên một
bia đá. Đây là bộ luật cổ sớm nhất hầu như còn nguyên vẹn mà ngày nay đã
phát hiện được.
Năm 1902, phái đoàn khảo cổ học Pháp phát hiện ở Sura một cây trụ
đá hoa cương khắc toàn bộ văn bản bộ luật Hammurabi. Toàn bộ cây trụ đá
ghi lại 282 điều luật cùng một lời nói đầu và lời bạt đề cập tới hầu hết các vấn
đề từ kinh tế xã hội đến mối quan hệ giữa người với người [67]. Người dân có

ruộng đất, phụ nữ được đối xử bình đẳng, đồng thời các quyền khác cũng
được nới lỏng rất nhiều. Rõ ràng, trong những điều kliỏan của bộ luật
Hammurabi, đã phần nào thể hiện được ý thức về các quyền cơ bản cho nhân
dân Babylon cũng như nhân loại.
Nhà vua Hammurabi xứ Babylon đã ban hành một bộ luật mang tên
mình là bộ luậtHammurabỉ (ban hành khoảng năm 1780 TCN) với câu tuyên
bố nổi tiếng, theo đó, mục đích của đức vua khi thiết lập ra đạo này là để:
“ngăn ngừa các kẻ mạnh áp bức kẻ yếu,... làm cho người cô quả có noi
nương tựa ở thành Babylon,... đem lại hạnh phúc chăn chính và đặt nền
thong trị nhân từ” [32,59]. Đây có thể xem như một trong những bộ luật sớm
nhất đề cập đến quyền con người.
Hẳn cũng không ít người biết đến câu chuyện về thần Anu vĩ đại và
thần Enlin trong việc quyết định vận mệnh của đất nước. Câu chuyện kế rằng
vì hạnh phúc của loài người và cũng vì sự yên ốn của nhân loại, hai thần đã
quyết định ra lệnh cho Hammurabi, một vị vua quang minh và ngoan đạo phát
huy chính nghĩa ở đời, diệt trừ những kẻ gian ác không tuân theo pháp luật,
làm cho kẻ mạnh không hà hiếp người yếu, làm cho Hammurabi giống như
thần Samát (Thần Mặt trời, ánh sáng và xét xử) soi đến dân đen, tỏa ánh sáng
khắp mặt đất.


14
Như vậy, trong thời kỳ cổ đại trong các nhà thuyết triết học, chính trị,
pháp lý đã xuất hiện những tư tưởng đầu tiên về quyền con người. Ngay từ
thời kỳ này, quyền con người đã gắn với cuộc đấu tranh đòi quyền tự do, bình
đẳng - những quyền cơ bản nhất của con người. Quyền con người ở đây cũng
gắn liền với đấu tranh của giai cấp nô lệ và giai cấp chủ nô, giữa giai cấp
thống trị và giai cấp bị trị. Do đó, có thể thấy quyền con người ngay từ đầu đã
inang tính giai cấp sâu sắc, nó cũng hên quan chặt chẽ đến việc giải quyết mối
quan hệ giữa cá nhân cộng đồng, đặc biệt là mối quan hệ giữa cá nhân và nhà

nước. Quan niệm phổ biến trong thòi kỳ này là quyền con người không phải
là một giá trị phố biến, hay nói cách khác, quyền con người chỉ được dành
cho một bộ phận người trong xã hội. Do đó con người thời kì này cũng phản
ánh cuộc sống đấu tranh giữa xu hướng: xu hướng đấu tranh đòi quyền giai
cấp công nhân, nô lệ và xu hướng bảo vệ của giai cấp chủ nô, phủ nhận quyền
của giai cấp nô lệ [12,37].
Mặc dù còn sơ khai và nhiều hạn chế nhưng những quan điểm về quyền
con người ở các quốc gia cổ đại phương Đông được xem như những quan
điểm đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Mặt khác đây cũng được coi như
phương thức đê đưa ra tiếng nói của mình và phần nào xoa dịu được ách áp
bức, bóc lột mà từ trước họ phải chịu đựng.

1.2. Thòi trung đại

1.2.1. Phương Tày thời trung đại
Sau khi chế độ chiếm hữu nô lệ tan rã, xã hội cũng bước sang hình thái
kinh tế xã hội phong kiến với tất cả biêu hiện của sự bảo thủ, trì trệ, lạc hậu và
bất bình đắng. Trong đó, vua là người kết hợp cao độ giữa vương quyền và
thần quyền. Còn nhà thờ đóng vai trò thống soái trong hệ tư tưởng của xã hội
phong kiến. Thời kỳ này không phải chỉ là bước lùi về văn hóa, khoa học,
tưởng, v.v... mà còn là bước lùi về quyền con người. Xã hội thời kỳ7 trung đại


15
vừa là bước thụt lùi về mặt xã hội vừa là sự suy đồi về mặt kinh tế, người nông
dân là một lực lượng đông đảo nhưng bị tước mọi quyền hành và là tầng lớp
“toi tăm về trí tuệ ”. “Người nông dân không chỉ bị lệ thuộc về mặt ruộng đất
vào địa chủ mà còn cả về mặt cá nhân, thân thế, không có quyền về chính trị.

c.


Sự lệ thuộc đỏ
Mác gọi là sự cưỡng bức phi kinh tế" [35,215]. Có thể thấy
thời kỳ này với sự thống trị tuyệt đối của nhà thừ đã không chấp nhận bất kỉ
quyền tự do nào của con người, ngoài quyền tự do phục tùng nhà thờ, phục
tùng Thượng đế. Như vậy, giáo hội Thiên chúa giáo bao bọc chế độ phong kiến
bằng vầng hào quang thánh thần và bảo vệ nó qua những quy định về đặc
quyền, đặc lợi của các lãnh chúa. Theo đó, sự bất công xã hội và áp bức nông
nô là do “ý chúa". Những lời kêu gợi “phục tùng chỉnh quyền” và “nô lệ cam
chịu các ông chì của mình” mà từ thời chiếm hữu nô lệ giai cấp thống trị đã áp
dụng thỉ giờ đây nó lại được nhà thờ Thiên chúa giáo sử dụng nhằm duy trì và
biện minh cho sự tồn tại của trật tự phong kiến - trật tự bất bình đắng. Bởi vậy,
khi nhận định về hệ tư tưởng trung đại, Ph. Ảnghen viết: "Trong tay bọn giáo
sĩ, chính trị và luật học, cũng như tất cả các ngành khoa học khác, vẫn chỉ là
những ngành thần học... Những giáo lý Cĩìa giáo hội đồng thời cũng là những
định lý chính trị. Còn những đoạn kinh thánh cũng cỏ hiệu lực lỏn hon toà án
như là pháp luật. (Do vậy) đế có thế đả kích vào những quan hệ xã hội hiện tòn
thì cần phải tước bỏ cái hào quang thiêng liêng của chủng" [39,132].
Ôguýtxtanh, nhà thần học nổi tiếng thời này cùng các nhà thần học
khác đại diện cho giáo hội và thần quyền thời kỳ 7 này đã rất tích cực bảo vệ
cho sự bất bình đẳng trong xã hội. Ông cho rằng, một số người thì được chúa
ban cho quyền hưởng sự sung sướng vĩnh viễn, còn một số người khác thì
phải chịu khổ vĩnh viễn [12,38]. Với những quan niệm có tính chất nguyên lý
nền tảng của thời trung đại. Như vậy, dễ hiếu vì sao thời kỳ này con người
không có các quyền của mình, vấn đề quyền con người không được chú ý.


16
Tuy nhiên, bên cạnh xu hướng chủ yếu là nhân quyền phải khuất phục
thần quyền thời kì trung đại ở phương Tây cũng xuất hiện tư tưởng khai

sáng về quyền con người. Chang hạn, trong Hiến chương Magna Carta của
nước Anh cũng ban hành năm 1215 đã đề cập và khẳng định một số quyền
con người, cụ thể như: quyền sở hữu, quyền thừa kế tài sản; quyền tự do
buôn bán và không bị đánh thuế quá mức; quyền của phụ nữ góa chồng được
quyết định tái hôn hay không; quyền được xét xử đúng đắn và được bình
đắng trước pháp luật,.v.v... Quan trọng hon, bản Hiến chương này được coi
là một trong những văn bản pháp luật đầu tiên của nhân loại đề cập cụ thể
đến việc tiết chế quyền lực của nhà nước để bảo vệ các quyền của công dân,
mà biểu hiện cụ thể ỏ hai quy phạm vẫn còn có giá trị đến tận ngày nay, đó
là quy phạm về lệnh đình quyền giam giữ (hay còn gọi là Luật bảo thân Habeas Corpus) trong đó bắt buộc mọi trường họp tử hình đều phải qua xét
xử và quyết định trước Tòa và quy phạm về luật tôn trọng tất cả các quyền
hợp pháp của công dân.

1.2.2. Phương Đông thời trung đại
Và nếu như tư tưởng về quyền con người được nền móng trong xã hội
cổ đại thì bước sang thời trung đại nó lại bị chế độ phong kiến kìm hãm, vùi
dập. Trong các quốc gia phong kiến phương Đông đã hình thành chế độ
phong kiến chuyên chế trung ương tập quyền cao độ, mà điên hình là Trung
Hoa. Các triều đại phong kiến Trung Hoa đã tìm thấy những điểm có thẻ lợi
dụng trong học các học thuyết Nho giáo như thuyết “thiên mệnh”. Theo đó,
vua được coi là “thiên tử” tức con trời và thay trời trị dân. ơ các quốc gia
phong kiến phương Đông, vua là người kết hợp giữa vương quyền và thần
quyền nên có quyền lực cao độ tức ý vua là ý trời.
Trong các quốc gia phong kiến, mâu thuẫn giai cấp chủ yếu là mâu
thuẫn giữa đông đảo quần chúng nhân dân mà nhất là nông dân với địa chủ


17
phong kiến. Do đó, xuất hiện nhiều cuộc đấu tranh của nông dân, và có những
lúc trở thành khởi nghĩa nông dân. Từ trong những phong trào đó cũng đã

xuất hiện nhiều tư tưởng tiến bộ về quyền con người. Tuy nhiên, tất cả các
cuộc khởi nghĩa nông dân dưới chế độ phong kiến đều không thể vượt qua
được hạn chế giai cấp. Khi khởi nghĩa thành công, những người lãnh đạo lại
thiết lập một trật tự xã hội cũ - xã hội phong kiến và đi vào phản động, ăn
chơi sa đoạ, bóc lột nhân dân.
Bên cạnh áp bức giai cấp, chà đạp lên quyền con người thì chế độ
phong kiến còn tồn tại hiện tượng áp bức dân tộc của các nước lớn đưa quân
xâm lược và nô dịch các dân tộc nhược tiểu. Do đó, ý thức dân tộc và quyền
dân tộc cũng troi dậy mạnh mẽ.
Một trong những quốc gia tiêu biểu cho những cuộc đấu tranh đó là
quốc gia phong kiến Đại Việt. Trải qua các triều đại, họ đã đấu tranh không
mệt mỏi đế khẳng định quyền con người và quyền dân tộc. Dân tộc Việt Nam
từ thời Văn Lang - Âu Lạc cho đến thế kỷ XX, gần như không thế kỷ nào là
không vang lên tiếng va chạm của binh đao chống xâm lược. Kẻ thù càng
hùng mạnh bao nhiêu thì ý thức độc lập dân tộc, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ càng trỗi dậy mạnh mẽ bấy nhiêu. Đe rồi truyền thống ý thức dân tộc ngày
càng được hun đúc và trở thành một chất men không thể thiếu trong quá trình
hình thành và phát triẻn của cộng đồng quốc gia dân tộc Việt. Trong phong
trào đấu tranh đó của quốc gia phong kiến Đại Việt đã xuất hiện những nhà tư
tưởng vĩ đại về quyền con người và quyền dân tộc với những bản “hùng ca
lập quốc vĩ đại ” như Lý Thường Kiệt với “Nam quốc sơn hà... ” hay Nguyễn
Trãi với “Bình Ngô đại cáo ”... [1,12].
1.3. Thòi cận đại
Đen thời kỳ Phục hưng vấn đề quyền con người có sự phát triến đột
phá so với các giai đoạn trước. Sử dĩ như vậy là vì thời kỳ Phục hưng không


18
chỉ phục hồi và phát huy tất cả những giá trị tốt đẹp trong thời kỳ 7 Hy Lạp La Mã cố đại ở phowng Tây đã bị xóa bỏ trong thời kỳ trung đại mà còn có
xu hướng chống lại một cách mạnh mẽ những “gông cùm” của thời trung đại.

Trong số những giá trị tốt đẹp mà thời kỳ Phục hưng hết sức đề cao đó là tư
tưởng nhân văn về con người, tư tưởng giải phóng con người. Con người thời
kỳ này không còn lấy Thượng đế mà lấy chính mình làm trung tâm và thước
đo tất ứiây mọi vật. Các giá trị hiện thực của con người được đề cao. Hình
tượng con người cường tráng ngẩng cao đầu đòi tự do và công lý, không
khuất phục trước mọi trở ngại... đã trở thành phương châm tư tưởng và văn
hóa thời kỳ này [35,253]. Tôn trọng con người, đề cao con người, do đó tất cả
những gì thuộc về con người, như quyền con người đều phải được tôn trọng
và đảm bảo, đó là tinh thần nhân bản của thời kỳ Phục hưng.
B. Spinoza (1632 - 1677), nhà triết học duy vật người Hà Lan đã tiếp
thu và phát triển những giá trị tích cực của thời kỳ Phục hưng, đặc biệt là
những tư tưởng về tự do. Ông nhận thấy tất cả các quyền tự do của con
người đều bị xâm phạm trong xã hội hiện tại. Khi đề cập đến tự do trong
khuôn khổ các điều kiện xã hội và các hệ thống chính trị, ông đã chỉ ra làm
thế nào để đạt được tự do của con người trong phạm vi tất yếu. Theo B.
Spinoza, trong các điều kiện xã hội và chính trị hiện tại có thể đạt tới tự do
tối thiêu nhưng hiện thực, cần thiết cho con người. Theo quan diêm của ông
khái niệm “tựdo” có nội dung cụ thế, riêng biệt, đặc thù, đó là: tự do ngôn
luận, tự do báo chí, tự do lập pháp, tự do tư tưởng, v.v... Nói cách khác đây
là các quyền tự do mà sau này được gọi là quyền tự do dân chủ. Để đạt được
quyền tự do cho mọi người, B. Spinoza đã kiến nghị các nhà cầm quyền thực
hiện các nguyên tắc quản lý hợp lý tối đa và bản thân họ cũng cần tuân thủ
các nguyên tắc ấy. Chính quyền nhà nước cần được tố chức phù hợp với
quan niệm về lương tri và tính nhân văn. Chính B. Spinoza đã đưa ra lối suy
luận như vậy về tự do [12,40].


19
Những tư tưởng đề cao quyền dân tộc và đặc biệt là quyền con người
đã trở thành phong trào đấu tranh rầm rộ từ thời Phục hưng (thế kỷ XIV XV). Sau đó nó được sự “tiếp sức ’ bởi các nhà Duy lý (thế kỷ XVII) và phát

triển mạnh mẽ ở thế kỷ XVIII mà lịch sử vẫn thường gọi là “Thế kỷ Ánh
sáng” hay “Triết học Anh sáng ” để rồi được khẳng định trong các bản Tuyên
ngôn của cách mạng tư sản.
“Khai sáng” là một trong những trào lưu chính của hệ tư tưởng chính
trị Pháp thế kỷ XVIII. Nó thể hiện mong muốn của đẳng cấp thứ ba trong xã
hội Pháp. Đại diện tiêu biểu cho “Thế kỷ Ảnh sảng” ở Pháp là Vônte (1694 1778), Môngtexkiơ (1689 - 1775) và Rútxô (1712 - 1778). về mặt khách
quan, “khai sáng” được thể hiện như là hệ tư tưởng của giai cấp tư sản. Bởi
lẽ, thực hiện “chương trình khai sáng” sẽ dẫn tới thiết lập chế độ tư sản.
Song, về mặt chủ quan, “khai sáng” là hệ tư tưởng của toàn bộ đẳng cấp thứ
ba trong xã hội Pháp tiền cách mạng. Nhiều nhà khai sáng là những nhà tư
tưởng của quần chúng nhân dân bị áp bức đã đứng lên nhân danh toàn xã hội
đòi quyền con người. Họ đã phê phán chế độ chuyên chế, đặc quyền đắng
cấp, ngu muội tăm tối của nhà thờ phong kiến.
Những tư tưởng giải phóng con người, đề cao con người thời kỳ này
tiếp tục được các nhà tư tưởng thời cận đại khẳng định và phát triển, trong
đó tiêu biểu là Thomas Hobbes (1588 - 1679), J. Locke (1632 - 1704) và
Thomas Paine (1731 - 1809), J.J. Rousseau (1712 - 1778), v.v... Thomas
Hobbes cho rằng quyền tự nhiên cốt yếu của con người là “được sử dụng
quyển lực của chỉnh mình đế đảm bảo cuộc sổng của bản thân mình và do
đó, được làm bất cứ điều gì mà mình cho là đủng đan và hợp lý... ” [12,40].
Trong các tác phẩm của mình, J. Locke cho rằng các Chính phủ chang qua
chỉ là một dạng “khế ước xã hội ” giữa những kẻ cai trị và người bị trị (đa số
công dân) tự nguyện kí vào bản khế ước này với kì vọng và mong muốn sử


20
dụng Chính phủ như là một phương tiện để bảo vệ các “quyền tự nhiên ” của
họ chứ không phải là ban phát và quy định các quyền cho họ. Từ cách tiếp
cận đó, J. Locke cho rằng các Chính phủ chỉ có thê “chỉnh danh ” hay “hợp
pháp’’ khi thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ và thúc đấy các quyền bấm sinh, vốn

có của công nhân. J. Locke cho rằng: “Con người sinh ra, như đã được
chứng minh, với một địa vị tự do hoàn hảo và sự thụ hưởng không bị kiếm
soát đoi với tất cả các quyền và những ân huệ của luật tự nhiên, một cách
bình đắng như bất kỳ ai khác hay như với tất cả lượng người trên thế giờ
này”. I.Locke còn chỉ ra rằng: “quyền tự nhiên của con người là quyền
song, qiỉyền tự do, quyền tư hữu” [32,40]. Còn Thomas Paine, trong tác
phẩm nổi tiếng Các quyền của con người (Rihgts of Man, 1791) thì nhấn
mạnh rằng các quyền không thể nào được ban phát bởi bất kì Chính phủ nào,
bởi lẽ, điều đó không đồng thời cho phép các Chính phủ được rút lại các
quyền ấy theo ý chí của họ... Như thế Thomas Paine đã gián tiếp khẳng định
rằng “các quyền của con người là những giá trị tự nhiên” [32,43-45]. Một
trong những đại diện tiêu biếu của triết học khai sáng Pháp là J.J. Rousseau.
Những tư tưởng của ông và các nhà khai sáng Pháp đã tạo ra cơ sở cho sự
phát triển quyền con người nói chung và sự phát triển quyền con người ở
Pháp nói riêng. Trong tác phẩm Khế ước xã hội (1762), J.J. Rousseau tập
trung bàn về lý tưởng tự do, bình đẳng của con người. Tất cả mọi người đều
có quyền tự do, bình đắng, bất kế có nguồn gốc xuất thân như thế nào. Ông
khẳng định con người sinh ra đã tự do, tự do là từ bản chất của con người,
“nhưng dân đâu con người cũng song trong xiềng xích ”. Đe đấu tranh cho tự
do, bình đăng, J.J.Rousseau cho rằng cần đến khế ước xã hội. Nội dung cơ
bản của khế ước xã hội là “mỗi thành viên trong khi khép mình vào tập thể,
dũng sức mạnh tập thế, vẫn được tự do đầy đủ như trước, vẫn chỉ tuân theo
chỉnh bản thân mình ” [9,115].


21
Tư tưởng và học thuyết của các nhà tư tưởng cận đại kể trên đã đề
xướng một thuyết Duy lý mới về quyền tự nhiên. Lý thuyết này đã đóng góp
rất to lớn vào sự hình thành thế giới quan vào việc chuẩn bị nền tảng tư tưởng
cho các cuộc cách mạng tư sản châu Âu. Ngoài ra nó còn góp phần củng cố

về mặt pháp luật, đồng thời vẫn chứng minh cho những ý niệm mới về quyền
và tự do cá nhân, về tính thiết yếu của pháp luật trong quan hệ giữa cá nhân
với nhà nước. Quan niệm về khế ước xã hội như là phần phát sinh cơ sở pháp
luật của hoạt động nhà nước - là một yếu tố cấu thành quan trọng của những ý
niệm mới về quyền tự nhiên của con người và sự tôn trọng những quyền này
trong trạng thái nhà nước [9,76].
Có thể nói, thời kỳ cận đại cùng với sự thành công của cách mạng tư
sản châu Âu và sự ra đời của chế độ tư bản chủ nghĩa đã góp phần thể chế hóa
hiện thực hóa các quyền tự nhiên của con người như quyền sống, quyền tự di
và quyền sở hữu tài sản, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền không bị áp bức,
v.v... Sự xuất hiện của các học thuyết về nhà nước, về các quyền tự nhiên
trong giai đoạn này đã thúc đẩy quyền con người phát triển. Bắt đầu từ giai
đoạn này, quyền con người mới được các nhà tư tưởng phát triển tư sản bàn
đến như một số học thuyết [9,14]. Cũng chính từ đây, xuất hiện các khuynh
hướng khác nhau về quyền con người như: khuynh hướng quyền con người tự
nhiên, khuynh hướng pháp lí, v.v...
Khuynh hướng quyền con người tự nhiên (Natural right) cho rằng
quyền con người là những gì bấm sinh, mọi cá nhân ngay từ khi sinh ra đã có
bởi đơn giản họ là “con người ” là thành viên của gia đình nhân lơại. Điều đó
cũng đồng nghĩa với việc các quyền con người không bị phụ thuộc vào phong
tục, tập quán, truyền thống văn hóa hay ý chí của bất cứ cá nhân giai cấp, tầng
lớp, tổ chức, cộng đồng hay nhà nước nào và không một chủ thể nào, kể cả
nhà nước, có thể tùy ý ban phát hay tước bỏ các quyền con người. Đại diện
cho khuynh hướng quyền tự nhiên là các nhà tư tưởng thời cận đại như T.


22
Hobbes, J. Locke, Thomas Paine, v.v... Thuyết quyền tự do có điểm tích cực
như ở chỗ đề cao con người với tư cách là sản phẩm cao nhất thuần túy nhất
của sự phát triển. Nhưng có nhược điểm ở chỗ chưa nhìn thấy nguồn gốc xã

hội của quyền con người, do đó chưa thấy được tính chất lịch sử, tính giai
cấp, sự phát triển trong những đòi hỏi về quyền con người [32,40].
Ngược lại, khuynh hướng quyền pháp (Legal Right) (hay còn gọi là
khuynh hướng thực định), cho rằng các quyền của con người không phải là
quyền tự nhiên, không phải là bẩm sinh mà là do nhà nước xác định và pháp
điển hóa thành các quy phạm pháp luật hoặc xuất phát từ truyền thống văn
hóa. Nói cách khác, chỉ khi được thừa nhận bằng pháp luật thì các quyền tự
nhiên mới có tính hợp pháp. Như vậy, theo khuynh hướng quyền pháp lý,
phạm vi, giới hạn và các góc độ nhất định, cả thời hạn hiệu lực của các quyền
con người đều phụ thuộc vào ý chí của tầng lóp thống trị và các yếu tố như
phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa của các xã hội theo quan điếm của
các khuynh hướng quyền tự nhiên thì các quyền con người có tính đồng nhất
trong mọi hoàn cảnh mọi không gian, thòi gian. Còn theo khuynh hướng
quyền pháp lý thì các quyền con người có tính chất khác biệt tương đối đầy
đú về lịch sử, văn hóa, kinh tế, chính trị, xã hội, V. V. . .
Khuynh hướng pháp lý có diêm tích cực ở chỗ gắn quyền con người
với pháp luật, với ý chí nhà nước, chỉ khi được pháp luật hóa thì mới trở
thành quyền. Tuy nhiên khuynh hướng này có điếm hạn chế ở chỗ tuyệt đối
hóa nguồn gốc quyền con người và ý chí nhà nước, nhấn mạnh đến tính hợp
pháp mà không chú ý đến tính họp lý của quyền [32,41].
Đại diện tiêu biêu cho khuynh hướng quyền pháp lý là Edmund Burke
(1729 - 1797), Jeremy Bentham (1748 - 1832), John Stuart Mill (1806 1873). Edmund Burke, trong tác phẩm Suy nghĩ về Cách mạng Pháp
(Reílections on the Revolution in France, 1770) và Jeremy Bentham, trong tác


×