Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

giải pháp phù hợp nhằm góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ Đảng viên xã Pả Vi- huyện Mèo Vạc- tỉnh Hà Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (277.49 KB, 51 trang )

LỜI CẢM ƠN
Thời gian học tập và rèn luyện, phấn đấu tại Trường Học viện
Thanh thiếu niên việt nam. Được sự quan tâm, chỉ bảo tận tình của
Ban giám đốc, phòng quản lý đào tạo tổ chức, các thầy cô giáo bộ
môn, cô giáo chủ nhiệm. Đã truyền đạt kiến thức cơ bản và kinh
nghiệm về Lý luận chính trị và nghiệp vụ Đoàn- Hội- Đội cho tất cả
học viên nói chung và bản thân em nói riêng.
Thực hiện phương châm lý luận gắn với thực tiễn, nhà trường
gắn liền với xã hội. Em đã được nhà trường tạo điều kiện cho em
được thực tập tại xã Pả Vi- huyện Mèo Vạc- tỉnh Hà Giang.
Để hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp với đề tài “Nâng cao chất
lượng đội ngũ Đảng viên ở cơ sở” ngoài những kiến thức đã tiếp thu
được nhà trường, sự quan tâm giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô
giáo , đặc biệt là sự giúp đỡ trực tiếp của cô giáo Ngô Thị Khánh.
Cô đã tận tình đóng góp những ý kiến quý báu từ xây dựng đề
cương chi tiết đến hoàn thành chuyên đề. Trong quá trình nghiên
cứu ở địa phương em đã nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ nhiệt tình
của các đồng chí cán bộ lãnh đạo xã đã cung cấp tài liệu, số liệu về
công tác nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên ở địa phương trong
những năm gần đây, giúp em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp.
Trong quá trình thực hiện chuyên đề do trình độ kiến thức và khả
năng nhất định sẽ không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót và tồn
tại. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của ban lãnh đạo nhà
trường, các thầy cô giáo để em hoàn thiện tốt chuyên đề.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn cô giáo Ngô Thị Khánh,
cung các cấp ủy Đảng, lãnh đạo địa phương xã đã tạo điều kiện giúp đỡ
em trong thời gian thực tập, viết chuyên đề tốt nghiệp tại địa
phương.
Em xin chân thành cảm ơn!
1



MỤC LỤC

2


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ĐCS

: Đảng Cộng sản

TW

: Trung ương

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

TCCSĐ

: Tổ chức cơ sở đảng

TSVM

: Trong sạch vững mạnh


CNH,HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
KHKT

: Khoa học kỹ thuật

THCS

: Trung học cơ sở.

HĐND-UBND: Hội đồng nhân dân - Ủy ban nhân dân.

PHẦN I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
3


Trong những năm thực hiện đường lối đổi mới, Ban Chấp hành
Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã có nhiều chủ
trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định về xây dựng, phát triển đội ngũ
đảng viên. Thực tiễn phong phú và những thành tựu đạt được qua 25
năm đổi mới đã chứng minh rằng: sự phát triển lớn mạnh của đội ngũ
cán bộ, đảng viên của Đảng đã góp phần quan trọng, có ý nghĩa quyết
định đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trong thời gian qua, công
tác xây dựng đội ngũ đảng viên còn những hạn chế, yếu kém. Do đó,
chất lượng đội ngũ đảng viên chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Đó là
tình trạng một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ chủ chốt ở các
cấp, yếu kém cả về phẩm chất và năng lực; tính chiến đấu, tinh thần đấu

tranh tự phê bình và phê bình yếu; một bộ phận chưa thể hiện vai trò
tiền phong gương mẫu, còn nói nhiều làm ít, hoặc nói nhưng không làm,
trung bình chủ nghĩa, thờ ơ, vô cảm và thiếu trách nhiệm trước những vụ
việc tiêu cực, muốn làm theo cách cũ, không chịu đổi mới, bệnh cơ hội,
chủ nghĩa cá nhân có chiều hướng gia tăng, tình thương yêu đồng chí
trong Đảng giảm sút; tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy vị trí công
tác, chạy tội, chạy bằng cấp, còn xảy ra ở nhiều nơi, tệ quan liêu, tham
nhũng, lãng phí, tiêu cực chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, làm suy giảm
lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Trong lúc đó, công tác kiểm tra,
giám sát đảng viên thiếu chặt chẽ, cấp uỷ, chi bộ chưa nắm chắc tình
hình tư tưởng và phẩm chất đạo đức của đảng viên, nhất là những đảng
viên hoạt động phân tán, công tác ở nơi xa. Nhiều đảng viên có khuyết
điểm, vi phạm Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước nhưng tổ chức
đảng không biết, hoặc phát hiện chậm, việc giáo dục, xử lý đối với đảng
viên vi phạm ở nhiều nơi thiếu kịp thời và chưa nghiêm túc. Trong từng
lĩnh vực hoạt động, đội ngũ đảng viên cũng có những hạn chế, khuyết
điểm như: ở xã, phường, thị trấn, trình độ năng lực của một bộ phận
không nhỏ đảng viên, nhất là đảng viên giữ chức vụ trong Đảng, chính
4


quyền, đoàn thể còn thấp, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên
gặp nhiều khó khăn, chất lượng hạn chế, tư tưởng cục bộ địa phương,
dòng họ còn nặng. Trong các đơn vị sự nghiệp, nhiều đảng viên còn thờ
ơ, chưa coi trọng việc học tập lý luận chính trị. Nhiều đảng viên trong
các doanh nghiệp, nhất là ở các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước
chỉ quan tâm, chú ý đến sản xuất kinh doanh, lợi ích kinh tế, chưa quan
tâm đúng mức đến công tác xây dựng Đảng, phát huy vai trò tiền phong,
gương mẫu của đảng viên. Ngày nay, đất nước đang trong thời kỳ CNH,
HĐH với nhiều khó khăn, thử thách đã và đang đòi hỏi con người phải

năng động, sáng tạo hơn đặc biệt là đối với lực lượng trẻ.
Tuy nhiên do mặt trái của kinh tế thị trưởng đã tác động không nhỏ đến
một bộ phận tâm lý đảng viên, một bộ phận đảng viên sống buông thả,
đua đòi, thực dụng, chay lười, ỷ lại, thờ ơ với chế độ chính trị, với tổ
chức cơ sở Đảng. Do vậy ảnh hưởng không nhỏ đến công tác tập hợp
đảng viên vào tổ chức cơ sở Đảng.
Công tác nâng cao chất lượng đội ngũ Đảng viên tại xã Pả Vihuyện Mèo Vạc- tỉnh Hà Giang. Trong những năm qua đã có những
chuyển biến rõ rệt, nội dung và hình thức sinh hoạt đã được cải thiện và
đổi mới, phù hợp với yêu cầu cảu các cấp ủy Đảng, chính quyền địa
phương về công tác nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. Tuy nhiên
ngoài những thành quả đã đạt được, vẫn còn tồn tại những khó khăn,
hạn chế. Công tác nâng cao chất lượng đảng viên còn chưa cao. Nhận
thức được vấn đề trên, em lựa chọn đề tài : “Nâng cao chất lượng đội
ngũ Đảng viên”. Để nghiên cứu và đề xuất một số giải pháp phù hợp
nhằm góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ Đảng viên xã Pả Vi- huyện
Mèo Vạc- tỉnh Hà Giang.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài.
2.1.Mục đích nghiên cứu.
5


Khảo sát thực trạng công tác nâng cao chất lượng đội ngũ Đảng
viên tại xã Pả Vi- huyện Mèo Vạc- tỉnh Hà Giang. Trên cơ sở phân
tích nguyên nhân của những mặt mạnh, và tồn tại nhằm đề xuất
những biện pháp khả thi để góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ
đảng viên tại xã Pả Vi- huyện Mèo Vạc- tỉnh Hà Giang.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
2.2.1. Phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác
nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên.

2.2.2. Khảo sát đánh giá thực trạng, nguyên nhân và những vấn đề
đặt ra trong công tác nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên xã Pả Vi
-huyện Mèo Vạc – tỉnh Hà Giang.
2.2.Đề xuất những phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng đội ngũ đảng viên xã Pả Vi - huyện Mèo Vạc – tỉnh Hà
Giang.
3. Đối tượng nghiên cứu và khách thể nghiên cứu.
3.1. Đối tượng nghiên cứu.
- Công tác nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên.
3.2. Khách thể nghiên cứu.
- Tổ chức cơ sở đảng
- Đội ngũ cán bộ đảng viên trên địa bàn
- Các tổ chức chính trị xã hội trên địa bàn
- Quần chúng nhân dân trên địa bàn
4. Phạm vi nghiên cứu.
4.1. Về không gian: Địa bàn xã Pả Vi - huyện Mèo Vạc- tỉnh Hà
Giang.
4.2. Về thời gian: từ năm 2008-2011.
5. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp duy vật biện chứng
- Lôgíc - lịch sử
- Điều tra xã hội học
- Tọa đàm trao đổi
6


- Xin ý kiến chuyên gia
6. Kết cấu tiểu luận.
Ngoài phần mở đầu, mục lục, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo
thì chuyên đề được kết cấu thành 3 chương:

Chương 1:Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về công tác nâng cao chất
lượng đội ngũ đảng viên.
Chương 2: Thực trạng nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên xã Pả Vihuyện mèo Vạc- tỉnh Hà Giang.
Chương 3: Những phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng đội
ngũ đảng viên xã Pả Vi- huyện Mèo vạc- tỉnh Hà Giang.

7


Phần II. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ CÔNG TÁC NÂNG
CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ ĐẢNG VIÊN
1.1. Lý luận chung về chất lượng đảng viên.
1.1.1. Một số khái niệm.
1.1.1.1. Đảng viên và đội ngũ đảng viên.
Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCS)là đội tiên phong của giai cấp
công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của
dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và của dân tộc. Mục đích của Đảng là xây dựng nước
Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh,
không còn người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội
và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.
Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, phát huy truyền thống
tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy
luật khách quan, xu thế thời đại và thực tiễn của đất nước để đề ra
Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với
nguyện vọng của nhân dân. Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý
chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản,

thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thương yêu đồng chí, kỷ
luật nghiêm minh, đồng thời thực hiện các nguyên tắc: tự phê bình và
phê bình, đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng, gắn
bó mật thiết với nhân dân, Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp
và pháp luật.
Đảng viên là người trong tổ chức của một chính Đảng. Điều lệ
Đảng Cộng sản Việt Nam do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X thông
qua đã xác định: “Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách
mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, suốt đời
8


phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng. Đặt lợi ích của tổ quốc, của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân, chấp
hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng và pháp luật của
Nhà nước. Hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, có đạo đức, có lối sống
lành mạnh, gắn bó mật thiết với nhân dân, phục tùng tổ chức, kỷ luật
của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng”.
Đảng viên là những phần tử tạo thành các tổ chức cơ sở đảng và
tạo thành Đảng. Vì vậy, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của từng tổ
chức cơ sở đảng được quyết định bởi yếu tố đảng viên của tổ chức cơ sở
đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định : “Mỗi đảng viên tốt, mỗi chi
bộ tốt là Đảng được mạnh lên một phần; Đảng viên kém, chi bộ kém là
những khâu yếu của Đảng”. Nhiệm vụ chính trị của tổ chức cơ sở đảng
và trực tiếp trong quá trình thực hiện, đảng viên là người góp phần kiểm
nghiệm, khẳng định tính đúng đắn, phát hiện những điều chưa hợp lý của
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và nhiệm vụ chính trị của
từng tổ chức cơ sở đảng, để cấp có thẩm quyền bổ sung, làm cho đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng đúng đắn hơn, cấp uỷ cơ sở sửa
chữa, điều chỉnh để nhiệm vụ chính trị của cơ sở hoàn chỉnh hơn.

Thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các nội dung nhằm nâng cao
chất lượng đảng viên; trong đó, chú ý các vấn đề, như: đổi mới nội
dung, phương pháp giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng cho đảng viên về
tư tưởng chính trị; về trình độ kiến thức và năng lực công tác thực
tiễn; về phẩm chất, đạo đức cách mạng và lối sống trong sạch, lành
mạnh. Việc phân công công tác cho đảng viên cần phù hợp, gắn với
việc nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ và đánh giá chất lượng
đảng viên hằng năm. Cùng với đó, làm tốt công tác kiểm tra, giám
sát, khen thưởng và kỷ luật đảng viên theo đúng quy định của Điều
lệ Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Xây dựng đội ngũ đảng viên thật sự trong sạch, vững mạnh,
làm cơ sở, nền tảng xây dựng Đảng ta xứng đáng với trọng trách là
9


đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo toàn dân tộc thực hiện thắng lợi
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong thời
kỳ mới, là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, trước
hết là của cấp uỷ, tổ chức đảng các cấp.
1.1.1.2. Chất lượng đội ngũ đảng viên.
Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên dưới sự hướng dẫn, giúp
đỡ của cấp trên, cấp uỷ cơ sở cần cụ thể hoá tiêu chuẩn đội ngũ đảng
viên. Trong quá trình nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở cần coi
trọng nâng cao chất lượng những cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt của
tổ chức cơ sở đảng, chính quyền và các đoàn thể ở cơ sở, nhất là đồng
chí bí thư, thủ trưởng cơ quan, đơn vị.
Chất lượng đội ngũ đảng viên là sự thống nhất về phẩm chất và
năng lực của từng thành viên với số lượng và cơ cấu các thành viên
trong tổ chức Đảng, nhằm phát huy cao nhất khả năng của từng người và
của cả đội ngũ đảng viên, được biểu hiện ở kết quả lãnh đạo hoàn thành

các nhiệm vụ theo theo phạm vi, chức năng, quyền hạn quy định của
từng cấp. Nâng cao chất lượng đảng viên của tổ chức cơ sở Đảng không
chỉ là trách nhiệm của tổ chức cơ sở Đảng mà còn là trách nhiệm của
chính quyền, lãnh đạo cơ quan, đơn vị và các đoàn thể nhân dân ở cơ sở.
Hơn nữa qua phong trào cách mạng của nhân dân, được nhân dân góp ý
kiến xây dựng là phương thức đem lại hiệu quả cao có tác dụng thiết
thực để nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên của tổ chức cơ sở Đảng.
Vì vậy cần phát huy vai trò của chính quyền, ban lãnh đạo cơ quan, đơn
vị và các đoàn thể nhân dân tham gia vào hoạt động nâng cao chất lượng
đội ngũ đảng viên.
Nâng cao chất lượng Đảng viên là yếu tố then chốt nâng cao chất
lượng Đảng. Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị. Gắn kết chặt chẽ
và đồng bộ các nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng
là then chốt, phát triển văn hóa – nền tảng tinh thần của xã hội và tăng
cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân là phương châm xuyên
suốt quá trình thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công
10


CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ Quốc XHCN. Để làm tốt công tác này,
Đảng cần củng cố, chọn lựa, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tuyên giáo
có trình độ, năng lực truyền thụ, cảm hóa khi tổ chức tuyên truyền vận
động, phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước đến tận thôn, buôn, khu phố, kết hợp vạch trần các luận điệu xuyên
tạc của các thế lực phản động lợi dụng con đường du lịch, núp bóng từ
thiện biến tướng, truyền đạo trái phép, gieo rắc tư tưởng buông xuôi,
hưởng lạc, hoài nghi, mơ hồ lý tưởng và hệ tư tưởng chính thống của
Đảng.
Rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá
nhân. Đưa hoạt động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí

Minh trở thành nội dung sinh hoạt thường xuyên của toàn Đảng, toàn
quân và toàn dân, trong đó cán bộ, đảng viên đầu tàu gương mẫu thực
hiện trước quần chúng nhân dân.
1.1.2. Vị trí, vai trò của đội ngũ đảng viên.
Bước sang giai đọa cách mạng xã hội chủ nghĩa, ĐCS không chỉ
là đội tiên phong chính trị của giai cấp công nhân, mà còn là đội tiên
phong chính trị của toàn xã hội, là lực lượng lãnh đạo toàn bộ quá trình
xây dựng và bảo vệ đất nước. Đây là sự thay đổi căn bản vị trí, vai trò
của ĐCS đối với xã hội trong điều kiện có chính quyền.
Quan hệ giữa đảng viên với lý tưởng cộng sản, đường lối, chủ
trương chính sách của Đảng và nhiệm vụ chính trị của tổ chức cơ sở
đảng.
Công dân Việt Nam chỉ có thể là đảng viên của ĐCS Việt Nam
khi họ gắn với lý tưởng cộng sản chủ nghĩa. Đảng viên của Đảng mà rời
xa lý tưởng cộng sản họ sẽ mất phương hướng suy nghĩ và hành động,
sẽ tự hạ mình ngang hàng với người ngoài Đảng. Vì thế, giác ngộ lý
tưởng cộng sản chủ nghĩa là điểm khác nhau quan trọng, cơ bản, đầu
tiên giữa đảng viên với người ngoài Đảng. Lý tưởng cộng sản chủ nghĩa
được thể hiện ở đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng trong từng
thời kì cách mạng. Đối với từng tổ chức cơ sở đảng thì nhiệm vụ chính
11


trị của tổ chức cơ sở đảng chính là đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng được cụ thể hóa phù hợp với tổ chức cơ sở đảng. Bởi vậy, ngoài
mối quan hệ giữa đảng viên với lý tưởng cộng sản, đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, vị trí, vai trò của đảng viên còn được thể
hiện ở mối quan hệ giữa đảng viên với nhiệm vụ chính trị của tổ chức cơ
sở đảng.
Đảng viên là người đóng góp ý kiến, góp phần xây dựng hoàn

thiện đường lối chủ trương, chính sách của Đảng, nhiệm vụ chính trị của
tổ chưc cơ sở đảng và trực tiếp thực hiện. Trong quá trình thực hiện,
đảng viên là người góp phần kiểm nghiệm, khẳng định tính đúng đắn,
phát hiện những điều chưa hợp lý của đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng và nhiệm vụ chính trị của tổ chức cơ sở đảng, để cấp có thẩm
quyền bổ sung, làm cho đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng
đúng đắn hơn, cấp ủy cơ sở sửa chữa, điều chỉnh nhiệm vụ chính trị cơ
sở hoàn chỉnh hơn. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy rằng: “Mọi công việc của
Đảng đều do đảng viên làm. Mọi nghị quyết của Đảng đều do đảng vien
chấp hành. Mọi khẩu hiệu, mọi kế hoạch của Đảng đều do đảng viên cố
gắng thực hiện”(1). Vì thế, nếu không có đảng viên thì lý tưởng cộng
sản cao đẹp, đường lối, chủ trương, chính sách đúng dắn của Đảng,
nhiệm vụ chính trị đúng đắn của tổ chức cơ sở đảng sẽ không thành hiện
thực.
Đảng viên với tổ chức cơ sở đảng, với năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng.
Đảng viên là những phần tử tạo thành các tổ chức cơ sở đảng và
tạo thành Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Mỗi đảng viên
tốt, mối chi bộ tốt là Đảng được mạnh thêm một phần; đảng viên kém,
chi bộ kém là những khâu yếu của Đảng”(1); Đảng mạnh là do các chi
bộ mạnh. Chi bộ mạnh là do các đảng viên hăng hái và gương mẫu”(2).
Tổ chức cơ sở đảng cũng tác động trực tiếp và có vai trò to lớn, quyết
định sự trưởng thành của đảng viên. Chi bộ, đảng bộ cơ sở và toàn Đảng

12


vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao thì năng lực, sở
trường của đảng viên sẽ được phát huy đầy đủ và được nhân lên gấp bội.
Đảng viên với phong trào cách mạng của quần chúng

Đảng viên là người đưa đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng vào quần chúng, trực tiếp tổ chức, giáo dục và lãnh đạo quần
chúng thực hiện. Họ là người duy trì và tăng cường mối quan hệ giữa
Đảng với quần chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Mọi chính sách của
Đảng đều do đảng viên mà thấu đến quần chúng”(1); “Mỗi đảng viên
là một người thay mặt cho Đảng đứng trước quần chúng, để giải thích
chính sách của Đảng và của chính phủ cho quần chúng hiểu rõ và vui
lòng thi hành”(2).
Được Đảng tổ chức, giáo dục và đưa vào phong trào hành động
cách mạng, quần chúng sẽ trưởng thành, mối quan hệ giữa đảng viên và
quần chúng ngày càng được tăng cường. Từ phong trào cách mạng của
quần chúng sẽ sản sinh ra những người ưu tú, để Đảng giáo dục, kết nạp
họ vào Đảng, bổ sung cho Đảng nguồn lực và tố chất mới, góp phần
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và
toàn Đảng.
1.1.3. Những căn cứ để nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên.
Trong giai đoạn mới của Cách mạng Việt Nam hiện nay, người
đảng viên đứng trước những đòi hỏi mới và nhiệm vụ mới. Đó là nhiệm
vụ tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa;
là yêu cầu giữ vững, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong điều
kiện đổi mới hệ thống chính trị, dân chủ hóa, xây dựng Nhà nước pháp
quyền Xã hội chủ nghĩa; là nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc lập chủ
quyền, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế
lực thù địch trong điều kiện mở cửa, hội nhập quốc tế và khu vực.
Tình hình, nhiệm vụ đó đòi hỏi người đảng viên không thể như
trước mà ngoài những phẩm chất chung, cần có sự phát triển phù hợp
với điều kiện, hoàn cảnh và yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng.
13



Về lập trường giai cấp, bản lĩnh chính trị.
Đảng viên phải kiên định lập trường cách mạng của giai cấp công
nhân, trung thành với lý tưởng cộng sản, đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ chế độ Xã hội chủ nghĩa,
vững vàng, không dao động trước bất kỳ khó khăn, thử thách nào.
Lập trường giai cấp và bản lĩnh chính trị của đảng viên lúc này
được thể hiện là sự kiên định những vấn đề về quan điểm có tính nguyên
tắc mà Đảng ta đã đề ra. Đó là: Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa
Xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng ta, dân tộc ta; Chủ nghĩa Mác-Lê
nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho
mọi hành động của Đảng; Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh
đạo cách mạng Việt Nam, không chấp nhận “đa nguyên, đa đảng”; Nhà
nước Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân, thể hiện khối đại
đoàn kết toàn dân trên nền tảng liên minh của giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng; tập
trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, sinh hoạt và hoạt động
của Đảng; kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế
trong sáng của giai cấp công nhân.
Xét về sự phát triển nhân cách của người đảng viên, mối quan hệ
giữa vốn sống thực tiễn và học vấn; giữa kinh nghiệm và lý luận, giữa lý
thuyết và thực hành, nếu được xử lý đúng đắn sẽ tạo nên cơ sở cho sự
phát triển tính tích cực và sáng tạo của mỗi người. Người đảng viên
trong công cuộc đổi mới và con người mới được đào luyện trong sự
nghiệp xây dựng Chủ nghĩa Xã hội là con người có học thức, có tư duy
khoa học, có tính tư tưởng cao; đồng thời, cũng là con người thiết thực
trong hành động. Phải tránh rơi vào những cực đối lập sau đây làm cho
con người không có sự phát triển lành mạnh về nhân cách: hoặc thô
thiển, thực dụng (sống và hành động tùy tiện, buông thả, chạy theo lợi
ích vật chất); hoặc lý thuyết suông, không phải con người hành động (do

tách rời lý thuyết với kinh nghiệm trong thực tiễn).

14


Về nhận thức, kiến thức, năng lực toàn diện thực hiện công cuộc
đổi mới.
Đổi mới là một cuộc vận động cách mạng toàn diện và sâu sắc,
diễn ra trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội, từ kinh tế đến cơ chế
quản lý, từ chế độ kinh tế đến hệ thống chính trị. Đó là một quá trình
khó khăn, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, chưa có mô hình định sẵn. Đổi
mới đụng chạm đến rất nhiều vấn đề, phá vỡ nhiều cái cũ, trong khi có
những cái cũ đã tồn tại quá lâu, ăn sâu vào nếp nghĩ, cách làm, đã thành
thói quen, thành cơ chế chính sách rất khó sửa.
Trong tình hình đó, nếu cán bộ đảng viên không có kiến thức,
không có trình độ nhất định về các mặt văn hóa, khoa học kỹ thuật, quản
lý kinh tế, pháp luật thì không thể có đủ năng lực để thực hiện tốt nhiệm
vụ được giao, thậm chí còn phạm những sai lầm. Vừa qua, không ít
trường hợp đảng viên không phát huy được tác dụng, rơi vào tình trạng
“trung bình”, mất uy tín trước quần chúng, là do thiếu hiểu biết, thiếu
kiến thức. Đã qua rồi cái thời hễ cứ là đảng viên, là cán bộ thì dường
như có thể làm được mọi việc. Ngày nay, mỗi người cộng sản chỉ có thể
khẳng định vai trò lãnh đạo và uy tín của mình trong quần chúng bằng
sự kiên định, trí thông minh, sự hiểu biết và năng lực hoàn thành nhiệm
vụ.
Năng lực là một khái niệm đa nghĩa và nhiều cấp độ. Người đảng
viên không chỉ là con người hành động một cách chủ động, mà còn phải
có năng lực làm việc, năng lực tổ chức quản lý, năng lực giáo dục quần
chúng, năng lực tổng kết thực tiễn, năng lực giao tiếp, đối thoại, tranh
luận một cách dân chủ và có văn hóa. Những năng lực đó không có sẵn,

không hình thành tự động, ngẫu nhiên mà là kết quả của rèn luyện, học
hỏi, tích lũy. Xuyên suốt tất cả những năng lực đó là năng lực phê phán,
tự phê phán, sự nhạy cảm, khả năng điều chỉnh và thích ứng để thường
xuyên tự đổi mới theo đúng quy luật. Yêu cầu này cần thiết cho mọi
đảng viên. Nó càng đặc biệt cần thiết đối với các đảng viên ở các cương
vị lãnh đạo, nhất là lãnh đạo cao cấp. Năng lực của người đảng viên ở
15


cương vị này là năng lực chiến lược, chung đúc trong đó cả tri thức,
kinh nghiệm, bản lĩnh chính trị, tài tổ chức và thuyết phục. Đáp ứng đầy
đủ những yêu cầu về năng lực đó đối với các đảng viên và toàn Đảng là
một yêu cầu đặc biệt đối với Đảng lúc này.
Về phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách.
Để thúc đẩy công cuộc đổi mới tới những bước tiến và kết quả
cụ thể theo quan điểm thực tiễn, cần phải tổ chức việc giáo dục đạo
đức trong Đảng và trong xã hội sao cho mỗi người thấm nhuần sâu
sắc rằng, đạo đức mới của những người tham gia đổi mới xã hội là
đạo đức hành động, đạo đức trong lao động, trong công việc, trong
quan hệ với con người, trong đấu tranh khắc phục mọi tệ nạn tha
hóa để hướng tới sự cao đẹp, hướng tới việc lành mạnh hóa các
quan hệ xã hội.
Đối với người đảng viên, chí phấn đấu cho cá nhân trở nên
lương thiện, giữ gìn phẩm chất cá nhân cho trong sạch là chưa đủ
và chưa thể hiện tính tiên phong gương mẫu. Người đảng viên
không thể là người đứng ngoài cuộc đấu tranh loại trừ cái ác, thờ ơ
và lảng tránh trước sự hoành hành của cái ác trong đời sống. Phẩm
chất đó được biểu hiện trong đấu tranh bảo vệ sự trong sạch, vững
vàng của Đảng, uy tín của Đảng đối với xã hội; đồng thời, còn biểu
hiện trong đời sống chính trị- xã hội, gắn liền mật thiết với các sinh

hoạt của nhân dân, của xã hội, tích cực bảo vệ pháp luật, kỷ cương,
an ninh trật tự, luân lý đạo đức, văn hóa tinh thần và lối sống lành
mạnh của từng gia đình, từng tập thể đến toàn xã hội.
Về quan hệ với quần chúng nhân dân lao động. Đảng ta đã xác
định chế độ chính trị của nước ta là chế độ làm chủ của nhân dân
lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng; sức mạnh vô địch của Đảng là
mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng nhân dân. Đảng chủ trương
phát huy dân chủ, coi dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực của
công cuộc đổi mới. Mỗi đảng viên, trước hết đảng viên là cán bộ
lãnh đạo, có chức có quyền, phải tôn trọng và phát huy quyền làm
16


chủ của dân, chăm lo đời sống hằng ngày của quần chúng, tìm hiểu
nguyện vọng và lắng nghe ý kiến của quần chúng, giúp đỡ quần
chúng khi gặp khó khăn, kiên quyết đấu tranh chống bệnh quan
liêu, mệnh lệnh, gia trưởng, độc đoán, đặc quyền đặc lợi, trù dập ức
hiếp quần chúng và mọi hành vi vi phạm quyền làm chủ của dân.
Đây là một vấn đề hết sức quan trọng, một yêu cầu rất cần thiết đối
với người đảng viên trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền. Nó
quyết định sự tín nhiệm của nhân dân đối với đảng viên. Không
phải ngẫu nhiên khi còn sống, Bác Hồ luôn luôn quan tâm đến vấn
đề này, nói nhiều về vấn đề này. Người thường nhắc nhở cán bộ,
đảng viên phải thường xuyên rèn luyện đạo đức cách mạng, trau dồi
quan điểm và thái độ đúng đắn đối với quần chúng, coi việc tôn
trọng quần chúng, học hỏi quần chúng, có quan hệ mật thiết với
quần chúng là một vấn đề thuộc về phẩm chất, tư cách, đạo đức của
đảng viên. Dân chủ phải đi đôi với kỷ luật và pháp luật. Dân chủ
không có nghĩa là tự do vô tổ chức, vô chính phủ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh tự phê bình và phê bình

phải đi đôi với nhau. Tự phê bình phải thật thà, có khuyết điểm gì nói
hết, không giấu giếm và kiên quyết sửa chữa khuyết điểm. Phê bình phải
trung thực, ngay thẳng, thành thật, không giấu giếm, không thổi phồng.
Người cũng yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải tự phê bình và phê bình
thường xuyên, phải tự sửa chữa khuyết điểm như rửa mặt, hít thở không
khí hàng ngày. Nhưng hiện nay tình trạng tự phê bình và phê bình còn
rất yếu, tại sao chúng ta không sợ mất lòng dân, không sợ mất lòng
Đảng, lại sợ mất lòng nhau, dẫn đến nể nang, né tránh, ngại va chạm còn
khá phổ biến ở trong Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ mục đích và ý nghĩa tác dụng
của công tác kiểm tra: "Nếu tổ chức việc kiểm tra cho chu đáo thì cũng
như có ngọn đèn "pha". Bao nhiêu tình hình, bao nhiêu ưu điểm và
khuyết điểm, bao nhiêu cán bộ chúng ta đều thấy rõ. Có thể nói rằng:
chín phần mười khuyết điểm trong công việc của chúng ta là vì thiếu sự
17


kiểm tra". Kiểm tra không chỉ giúp cho lãnh đạo nắm chắc được chất
lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, ngăn ngừa khuyết điểm, sai lầm, chống
được bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy, xa rời thực tiễn, mà còn giúp cán
bộ, đảng viên phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm, thúc đẩy và giáo
dục cán bộ, đảng viên hoàn thành nhiệm vụ được giao, nêu cao tính tiền
phong gương mẫu trước quần chúng. Trong các hình thức và phương
pháp kiểm tra, Người đặc biệt đề cao kiểm tra thường xuyên đối với cán
bộ, đảng viên: Giao công việc mà không kiểm tra, đến lúc thất bại mới
chú ý đến. Thế là không biết yêu dấu cán bộ. Qua thực tiễn, Người đã
phê phán hai loại cán bộ, đảng viên: một là, cậy mình là công thần cách
mạng rồi đâm ra ngang tàng, không giữ gìn kỷ luật, không thực hiện
nghị quyết của Đảng và Chính phủ. Họ kiêu ngạo, bất chấp kỷ luật, kỷ
cương. Với những người này, cần phải đưa xuống công tác hạ tầng,

khép vào kỷ luật của Đảng và Chính phủ; hai là, những người nói suông.
Hạng người này tuy thật thà, trung thành nhưng không có năng lực làm
việc, chỉ biết nói suông.
1.1.4. Tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ đảng viên.
Tiêu chuẩn của đảng viên trong giai đoạn hiện nay đã được Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng thông qua. Đó là tiêu chuẩn
chung cho đảng viên trong toàn Đảng. Đó là tiêu chí để từng đảng viên
phấn đấu, rèn luyện, đánh giá, phân loại đảng viên, để đưa người không
đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng. Để quần chúng phấn đấu vầ tổ chức
cơ sở Đảng xem xét kết nạp họ vào Đảng. để ngăn chặn những phần tử
cơ hội chui vào trong Đảng. Xác định đúng tiêu chuẩn đảng viên là khâu
đầu tiên chi phối tất cả các khâu trong công tác đảng viên. Vì vậy, các
cấp uỷ ở ngành, địa phương, cơ quan đơn vị và cấp uỷ cơ sở phải cu thể
hoá tiêu chuẩn đảng viên do Điều lệ Đảng quy định, phù hợp với nhiệm
vụ chính trị, chức năng, nhiệm vụ và điều kiện cụ thể của mình.
Tiêu chuẩn đảng viên đã được cụ thể hoá phải rõ ràng, không
được chung chung, trừu tượng và không được trái với tiêu chuẩn đảng
viên do Điều lệ Đảng quy định và đường lối, chủ trương, chính sách của
18


Đảng. Trong tình hình hiện nay, khi cụ thể hoá tiêu chuẩn đảng viên của
mình, tổ chức cơ sở Đảng cần tập trung vào những điểm chủ yếu như:
Về lập trường giai cấp, bản lĩnh chính trị; về nhận thức, kiến thức, năng
lực thực hiện thành công cuộc đổi mới; về phẩm chất, đạo đức, lối sống,
phong cách làm việc; về ý thức tổ chức kỷ luật, giữ gìn sự đoàn kết
thống nhất trong Đảng, thực hiện các nguyên tắc tổ chức dân chủ trong
đảng viên.
Tiêu chuẩn đảng viên là những chuẩn mực cơ bản về phẩm chất
chính trị, đạo đức và năng lực của người đảng viên, nhờ đó phân biệt

được ranh giới giữa người đảng viên và quần chúng tích cực ngoài
Đảng. Xác định đúng tiêu chuẩn đảng viên bảo đảm cho Đảng luôn giữ
được bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong, giúp Đảng có căn
cứ đó xây dựng đội ngũ đảng viên trong sạch, vững mạnh đảm bảo thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng. Nhận thức được điều đó, thời gian
qua các cấp uỷ đảng đã quán triệt và tổ chức cho đảng viên thực hiện
nghiêm túc các tiêu chuẩn được quy định tại: Điều 1, Điều lệ Đảng
Cộng sản Việt Nam, kiên định sáu vấn đề về quan điểm có tính nguyên
tắc được nêu trong Nghị quyết Trung ương 6 lần 2 (khoá VIII), tích cực
cụ th hoá tiêu chuẩn đảng viên cho phù hợp với tình hình, đặc điểm của
địa phương và đơn vị. Tuy nhiên, việc cụ thể hoá mới chỉ dừng lại ở một
vài tiêu chí như trình độ văn hoá, thực hiện chính sách dân số- kế hoạch
hoá gia đình, không thuộc diện hộ nghèo, chưa xây dựng được một hệ
thống các tiêu chuẩn cho đảng viên trên từng lĩnh vực công tác khác
nhau. Hạn chế đó làm cho các cấp uỷ đảng gặp không ít khó khăn trong
đánh giá, đưa ra giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên.
Tình hình và nhiệm vụ cách mạng luôn vận động, phát triển, đòi
hỏi tiêu chuẩn đảng viên được bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp. Trong
giai đoạn hiện nay, để khắc phục những hạn chế, trên cơ sở những tiêu
chuẩn chung, các cấp uỷ đảng cần xây dựng đội ngũ đảng viên theo
những tiêu chuẩn sau:

19


Một là, có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với lý
tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng, không hoang mang dao động
trước mọi khó khăn thách thức, tích cực thực hiện đường lối đæi mới
của Đảng, hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao; có ý thức giữ
vững, nêu cao vai trò lãnh đạo của Đảng, truyền thống đoàn kết thống

nhất trong Đảng, tình thương yêu đồng chí đồng nghiệp; dù bất kỳ
cương vị nào, hoàn cảnh nào đảng viên cũng phải thể hiện sự hơn hẳn
của mình đối với quần chúng ở tính tiên phong gương mẫu, đức hy sinh;
phải là ngọn cờ dẫn đường, định hướng chính trị, là chỗ dựa tin cậy của
nhân dân.
Hai là, trình độ và năng lực không ngừng được nâng lên. Trong đó,
phải có trình độ lý luận và sự giác ngộ chính trị nhất định, được trang bị
những kiến thức cơ bản về quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; có
trình độ học vấn ở hàng đầu hoặc cao hơn mặt bằng chung của quần
chúng nơi đảng viên công tác và sinh hoạt; có trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, kiến thức về kinh tế, văn hoá, xã hội đủ sức hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao; có năng lực tổ chức thực tiễn, năng lực vận động
và lãnh đạo quần chúng; chống bảo thủ và trì trệ, biểu hiện ở sự tự thoả
mãn với những gì đã có mà không thấy hết đòi hỏi ngày một cao của
công cuộc đổi mới.
Ba là, có tinh thần trách nhiệm cao, gương mẫu đi đầu trong công
tác, đặt lợi ích của Đảng và Tổ quốc lên trên; liên hệ mật thiết với nhân
dân, tôn trọng và bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân; có lối sống trong
sạch, lành mạnh, chấp hành tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, không quan liêu, tham nhũng, lãng phí và
kiên quyết đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực trong xã hội; gia
đình gương mẫu, con cái tiến bộ.
1.2. Cơ sơ thực tiễn
1.2.1. Sự cần thiết khách quan nâng cao chât lượng đảng viên ở cơ
sở.
20


Tính cấp thiết phải tăng cường, nâng cao chất lượng công tác

chính trị- tư tưởng cho đảng viên xuất phát từ những căn cứ lý luận và
thực tiễn:
- Xây dựng Đảng về chính trị, củng cố nền tảng tư tưởng của
Đảng, sự đoàn kết thống nhất của Đảng về tư tưởng- chính trị là một
nguyên lý nền tảng trong xây dựng Đảng, là nội dung cơ bản mang tính
thời sự, cấp bách trong công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.
- Một trong những phương thức lãnh đạo của Đảng là bằng thuyết
phục, giáo dục, bằng công tác tư tưởng và bằng sự gương mẫu của cán
bộ, đảng viên. Vì vậy, để giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của
mình, tất yếu Đảng viên phải thường xuyên đổi mới nâng cao chất lượng
công tác chính trị- tư tưởng.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là sự nghiệp vĩ đại của
toàn dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đó là công tình lao động
sáng tạo, tính tự giác, làm chủ cao của quần chúng lao động cơ sở. Do
đó, cấp ủy, các cấp, nhất là cấp ủy cơ sở, tất yếu phải tăng cường công
tác giáo dục chính trị- tư tưởng., động viên toàn Đảng, toàn dân nêu cao
lòng tự tôn dân tộc, ý thức tự lực, tư cường, ra sức phấn đấu vượt qua
mọi khó khăn thử thách, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ, mục tiêu CNH,
HĐH đất nước.
- Tình hình trong nước và những biến động chính trị to lớn trên
thế giới, đòi hỏi Đảng ta phải tăng cưởng nâng cao chất lượng công tác
chính trị- tư tưởng. Sau sự kiện ngày 11-9-2001, nhân danh chống
khủng bố, đế quốc Mỹ và các thế lực thù địch, ngày càng ngang ngược,
trắng trợn phớt lờ Liên hiệp quốc và dư luận quốc tế, căn thiệp thô bạo
vaò các quốc gia độc lập, có chủ quyền. Kéo theo đó là sự điều chỉnh
chiến lược của các quốc gia trên thế giới, nhất là các nước lớn. Tình
hình đó làm cho bầu không khí chính trị thế giới xấu đi, không có lợi
cho hòa bình và phong trào cách mạng thế giới, đang tác động mạnh mẽ
đến tư tưởng, tình hình ủa cán bộ, đảng viên và các tần lớp nhân dân.


21


Ở trong nước, bên cạnh những thành tựu to lớn đạt sau gần 20
năm đổi mới, đất nước ta đang đứng trước những thử thách rất gay gắt.
Trong đó đáng lo ngại nhất là tệ quan liêu, tham nhũng, buôn lậu và
những tệ nạn xã hội khác chưa được ngăn chặn, đẩy lùi và đang có chiều
hướng phát triển ngày càng tinh vi hơn. Thêm vào đó là sự tấn công của
các thế lực thù địch bằng “ diễn biến hòa bình” với những thủ doạn cực
ký hiểm độc, hòng chuyển hóa Đảng ta, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa
ở nước ta. Vì những căn cứ lý luận và tình hình trên đây, đòi hỏi Đảng
ta, các tổ chức cơ sở Đảng phải đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công
tác chính trị- tư tưởng trong Đảng ta và toàn xã hội.
1.2.2. Thực tiễn chất lượng đội ngũ đảng viên ở Đảng bộ xã Pả Vihuyện Mèo Vạc- tỉnh Hà Giang,
Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tiến hành tự phê bình
và phê bình trong các cấp ủy, tổ chức cơ sở đảng chưa đặt yêu cầu đề ra,
chưa tạo được chuyển biến cơ bản, chưa ngăn chặn và đẩy lùi được tệ
quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
Công tác giáo dục chính trị- tư tưởng chưa đổi mới mạnh mẽ nội
dung và phương thức, tính chiến đấu, tính thuyết phục và hiệu quả chưa
cao, thiếu chủ động và sắc bén trong đấu tranh chống tuyên truyền phản
động, bác bỏ các quan điểm sai trái, chỉ đạo, quản lý hoạt động của báo
chí còn nhiều yếu kém. Công tác lý luận còn nhiều bất cập, chưa theo
kịp yêu cầu của công cuộc đổi mới, công tác giáo dục lý tưởng cách
mạng, đạo đức, lối sống còn chung chung, thiếu những biện pháp hữu
hiệu. Chậm xây dựng, hoàn thiện tổ chức và quy định bảo đảm chức
năng giám sát trong Đảng và trong hệ thống chính trị, giám sát của nhân
dân đối với Đảng Và Nhà nước. Mối quan hệ trách nhiệm giữa tập thể
và cá nhân, trước hết là người đứng đầu chưa được quy định cụ thể. Dân
chủ trong Đảng còn hạn chế, kỷ cương, kỷ luật không nghiêm, tình trạng

mất đoàn kết ở một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa được giải quyết dứt
điểm. Nhìn chung, bộ máy còn cồng kềnh, chồng chéo, hiệu lực, hiệu
quả thấp. Nhiều địa bàn trọng yếu chưa có tổ chức đảng và đảng viên,
22


đảng viên còn yếu không đủ sức giải quyết những vấn đề phức tạp nảy
sinh từ cơ sở, thậm chí tê liệt, mất sức chiến đấu.
Những khuyết điểm, yếu kém trong công tác cán bộ chậm được
khắc phục, nhất là việc giáo dục, rèn luyện cán bộ về tư tưởng, đạo đức,
thực hành dân chủ và tách nhiệm trong công tác. Chậm đổi mới cơ chế,
phương pháp và quy trình đánh giá, bổ nhiệm, miễn nhiệm, từ chức đối
với cán bộ. Tư tưởng cá nhân, cục bộ, nể nang, né tránh trong công tác
cán bộ còn nặng ở không ít cấp ủy, chậm khắc phục những biện hiện
mất dân chủ, độc đoán, cơ hội. Chưa kiên quyết và thiếu quy chế có hiệu
lực để sắp xếp, bố trí đội ngũ cán bộ, thay thế, điều chỉnh kịp thời
những cán bộ yếu kém về phẩm chất và năng lực, để công việc trì trệ, vì
vậy, công tác cán bộ chưa đóng góp đúng tầm vào cuộc đấu tranh chống
quan lieu, tham nhũng, lãng phí. Chậm khắc phục tình trạng hụt hẫng
cán bộ ở một số lĩnh vực, địa bàn, vị trí trọng yếu.
Công tác bảo vệ chính trị nội bộ còn nhiều hạn chế trong việc xem
xét, giải quyết những vấn đề chính trị hiện nay, chậm bổ sung và sửa đổi
một số điểm không còn phù hợp trong Quy định 75- QĐ/TW. Tổ chức
bộ máy làm cho công tác bảo vệ chính trị nội bộ chậm được kiện toàn,
nhiều cấp ủy, tổ chức đảng chưa quan tâm đúng mức chỉ đạo công tác
này. Nhiều cấp ủy, tổ chức Đảng chưa coi trọng công tác kiểm tra và thi
hành kỷ luật trong Đảng và Nhà nước chưa được quan tâm so với yêu
cầu đối với một Đảng duy nhất lãnh đạo và cầm quyền.
Cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đầy đủ và sâu sắc, có mặt chưa
rõ, chư thống nhất một số vấn đề ở tầm quan điểm, chủ trương về công

tác xây dựng Đảng trong điều kiện mới. Chưa cụ thể hóa và tổ chức thực
hiện kịp thời và đồng bộ một số quan điểm lớn, đúng đắn về xây dựng
Đảng đề ra trong cương lĩnh và các nghị quyết của Đảng. Một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện về phẩm chất
năng lực, chạy theo chủ nghĩa cá nhân.

23


Chương 2
THỰC TRẠNG NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ
ĐẢNG VIÊN Ở ĐẢNG BỘ XÃ PẢ VI- HUYỆN MÈO VẠC
- TỈNH HÀ GIANG
2.1. Đặc điểm về tự nhiên- kinh tế xã hội.
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên.
Pả Vi là một xã vùng cao núi đá cách trung tâm huyện Mèo Vạc
03km về phía bắc. Tổng diện tích đất tự nhiên là 2.848,96 ha, trong đó,
dienj tích đất canh tác là 813,3 ha. Tổng dân số toàn xã là 456 hộ= 2.355
khẩu. Dân tộc Mông chiến 98% dân số. Trong những năm qua được sự
quan tâm lãnh chỉ đạo trực tiếp của Huyện Ủy- HĐND- UBND và các
ban ngành cấp trên với chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, một lòng quyết tâm phấn đấu thắng lợi các mục tiêu kinh tếvăn hóa, xã hội mà Đảng và Nhà nước đề ra. Tuy nhiên do đặc điểm tự
nhiên khắc nghiệt, địa hình phức tạp, giao thông đi lại giữa các thôn,
bản trong xã còn rất khó khăn, trình độ dân trí thấp. Vì vậy việc phổ
biến tuyên truyền cho nhân dân tiếp thu ứng dụng các tiến bộ KHKT
vào sản xuất còn nhiều hạn chế.
2.1.2. Đặc điểm kinh tế- xã hội.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, thực hiện sự nghiệp
đổi mới của Đảng . Xã Pả Vi luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ, mục tiêu
kinh tế- xã hội hàng năm đề ra.

- Về phát triển kinh tế: mức tăng trưởng kinh tế tư 7,6% năm 2008
lên 12,5% năm 2010. Trong đó, giá trị nông nghiệp chiếm 80%, các
ngành sản xuất khác chiếm 20%.

24


- Về công tác xây dựng cơ sở vật chất, các công trình phúc lợi xã
hội luôn được quan tâm, đầu tư.
- Về quốc phòng an ninh: An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội
được giữ vững, ổn định.
- Về văn hóa- xã hội: Đã có bước phát triển tốt về mọi mặt,
Trường Mầm Non, Trường tiểu học, Trường THCS hai năm liền đạt tiên
tiến cấp huyện.
Công tác an sinh xã hội được thực hiện tốt,thực hiện tốt chương
trình xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm cho thanh niên. Hoàn
thành tiêu chí xây dựng nông thôn mới. xây dựng đời sống văn hóa ở
khu dân cư.
2.2. Thực trạng nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên ở Đảng bộ xã
Pả Vi- huyện Mèo Vạc- tỉnh Hà Giang.
2.2.1. Những thành tựu và nguyên nhân đạt được.
Được sự quan tâm chỉ đạo của UBND huyện và các ban ngành
cùng với sự nỗi lực, cố gắng của Đảng ủy xã- HĐND- UBND và toàn
thể nhân dân trong xã nên kết quả sản xuất trong năm qua có những
chuyển biến tích cực. Tổng diện tích gieo trồng toàn xã là 813,3 ha đạt
95,7% so với kế hoạch giao, lương thực bình quân đầu người 20082010. tăng 7,9% so với năm 2006- 2007.
Từ khi đất nước thống nhất, cả nước bước vào giai đoạn xây dựng
CNXH, Đảng ta đã đặt ra yêu cầu đổi mới nội dung và phương thức lãnh
đạo. Đại hội IV, Đại hội V của Đảng nêu rõ yêu cầu phải xác định chức
năng, nhiệm vụ và giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và

các đoàn thể; chỉ ra tình trạng lẫn lộn chức năng, nhiệm vụ giữa cơ quan
đảng và cơ quan nhà nước; tổ chức đảng bao biện, làm thay công việc
chính quyền, xem nhẹ vai trò, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước và
tổ chức kinh tế; xác định cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân
dân làm chủ. Đại hội VI của Đảng (12-1986) đánh dấu đường lối đổi mới
về kinh tế-xã hội, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp. Đại hội
nhấn mạnh đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
25


×