Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

Đoàn TNCS hồ chí minh huyện bảo lâm tỉnh cao bằng với sự nghiệp giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (280.64 KB, 49 trang )

LỜI CẢM ƠN
Thời gian học tập tại Học viện Thanh Thiếu Niên Việt Nam trôi qua
thật nhanh thấm thoát đã hết 2 năm học, giờ đây sắp phải xa trường xa thầy
cô xa bạn bè thân yêu, nơi đã chôn dấu biết bao kỷ niệm. Em không thể nào
quên những năm tháng được thầy cô tận tình dẫn dắt, dạy bảo trang bị cho
chúng em những kiến thức vô cùng quý báu để chúng em bước vào đời.
Qua cuốn chuyên đề tốt nghiệp này cho các em được bày tỏ lời cảm ơn
chân thành và sâu sắc nhất tới ban giám độc Học viện, phòng quản lý đào tạo
- tổ chức, các khoa, phòng, thầy giáo chủ nhiệm, các thầy cô giáo bộ môn.
Đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình của cô giáo An Thị Mai người đã giúp đỡ
trong thời gian em thực hiện chuyên đề này.
Do thời gian không nhiều tài liệu thu thập được ở địa phương còn hạn
chế nên khi thực hiện chuyên đề này em không tránh khỏi những sai sót. Rất
mong nhận được sự đóng góp ý kiến, cũng như sự giúp đỡ của quý thầy cô
giáo để em hoàn thành tốt chuyên đề tốt nghiệp này.
Em xin chân thành cảm ơn!

1


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TNCS

: Thanh niên cộng sản

TTN

: Thanh thiếu niên

TN


: Thanh niên

ĐVTN

: đoàn viên thanh niên

TNTP

: Thiếu niên tiền phong

CNH - HĐH

: Công nghiệp hoá - Hiện đại hóa

HĐND - UBND

: Hội đồng nhân dân - Uỷ ban nhân dân

CNXH

: chủ nghĩa xã hội

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

MTTQ

: Mặt trận tổ quốc


VH - TT - DL

: Văn hoá - Thể thao - Du lịch

TDTT

: Thể dục thể thao

BCH

: Ban chấp hành

BCH TW

: Ban chấp hành trung ương

2


PHẦN MỞ ĐẦU - NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

I. LÝ DO CHỌN CHUYÊN ĐỀ
1. Về mặt lý luận:
Lúc sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng lĩnh vực văn hoá.
Người đã nói rằng "Trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề cần
chú ý đến, cũng phải coi trọng ngang nhau đó là: Chính trị - Kinh tế - Văn hoá
- Xã hội...". Lời nói của Bác đã khẳng định vai trò to lớn của văn hoá trong sự
nghiệp phát triển đất nước.
Văn hoá là nền tảng của xã hội, Hồ Chí Minh cho rằng văn hoá nói
chung, chủ nghĩa Mác - Lênin nói riêng đóng vai trò trong tư duy hành động

của con người và của dân tộc bị áp bức, bị tha hoá đến các vương quốc của
con người phát triển tự do và toàn diện. Hồ Chí Minh từng nói "Văn hoá soi
đường cho quốc dân đi, phải đem văn hoá lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc
lập, tự cường, tự chủ, phải xúc tiến công tác văn hoá đào tạo con người cho
cuộc kháng chiến kiến quốc". Trong thời đại Hồ Chí Minh với đường lối đúng
đắn và sáng tạo của Đảng ta, văn hoá Việt Nam tiếp tục được phát huy, đã
góp phần quyết định vào những thắng lợi to lớn của nhân dân ta trong sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH.
Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và không ngừng phát triển những giá
trị cao đẹp của nền văn hoá đất nước, đã góp phần sức mạnh vào những thành
quả đấu tranh giữ nước và dựng nước của các dân tộc sống trên đất nước Việt
Nam.
Văn hoá Việt Nam là thành quả do lao động sáng tạo, đấu tranh kiên
cường trong quá trình dựng nước và giữ nước qua hàng ngàn năm của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam. Là kết quả giáo dục và tiếp thu tinh hoa của nền
văn hoá trên thế giới để không ngừng phát triển và hoàn thiện mình. Văn hoá

3


Việt Nam hun đúc trên tâm hồn khí phách, bản lĩnh Việt Nam, góp phần làm
rạng danh lịch sử vẻ vang của dân tộc.
Trong những thập kỷ gần đây quá trình CNH - HĐH và cuộc cách
mạng khoa học công nghệ đã đưa loài người tiến lên những nấc thang phát
triển mới. Từ xã hội nông nghiệp cổ truyền chuyển sang xã hội hậu công
nghiệp có nền kinh tế tri thức đóng vai trò chủ đạo. Cùng với sự phát triển vũ
bão của cuộc cách mạng công nghệ và nền văn minh tri thức, trình độ dân trí,
điều kiện sống và mức sống của con người được nâng lên rõ rệt. Từ đó, Nghị
quyết Đại hội Đảng VIII đến Đại hội lần thứ IX của Đảng đều xác định văn
hoá trong thời kỳ đổi mới: "Văn hoá là nền tảng tinh thần trong xã hội, vừa là

mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế, văn hoá; xây dựng nền văn
hoá đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc" là nhiệm vụ của Đảng và toàn dân.
Vì vậy, việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trước sau vẫn
là một vấn đề sống còn, là trách nhiệm nặng nề nó có tầm ảnh hưởng rất quan
trọng với sự phát triển của đất nước. Đây là trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng,
chính quyền, các ban ngành đoàn thể, quần chúng nhân dân. Trong đó, Đoàn
TNCS Hồ Chí Minh giữ vai trò nòng cốt.
2. Cơ sở thực tiễn
Ngày nay, đất nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN, có sự quản lý, điều tiết của nhà nước.
Nền kinh tế của Việt Nam với đặc trưng của lịch sử văn hoá là luôn luôn giao
lưu, đối thoại với các nền văn hoá mà chủ thể của nó thường là những kẻ đối
đầu, có những nền văn hoá hùng mạnh hơn. Vì vậy chủ thể văn hoá Việt Nam
phải bao gồm những giá trị đặc biệt về ứng xử thông minh và khôn khéo, để
có thể tiếp thu và chọn lọc những giá trị văn hoá của các nước có nền văn hoá
phát triển, đồng thời có thể tránh được những âm mưu mà kẻ thù muốn đánh
vào nền văn hoá đang phát triển của nước ta. Nhưng nền kinh tế mở cũng kéo
theo những luồng văn hoá khác nhau du nhập vào nước ta, lịch sử nước ta đã
chứng minh được cách mạng sống lưu truyền đó. Kế thừa truyền thống văn
4


hóa dân tộc vì văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội. Bên cạnh đó còn có
những hủ tục lạc hậu như: ma chay, tảo hôn, đám cưới, mê tín dị đoan, làm lễ
bãi cầu mưa, cầu mùa màng bội thu... còn tồn tại một đất nước gồm 54 dân
tộc anh em như nước ta. Làm cho nền văn hoá dân tộc "dậm chân tại chỗ" hay
kém phát triển so với sự phát triển hiện đại của nền văn hoá các nước khác
trên thế giới.
Với điều kiện hiện nay, để hội nhập, hoà chung vào vòng chảy của xã
hội cũng như ta phải đáp ứng đòi hỏi có một trình độ văn hoá tương ứng để

tiếp biến các thành tựu của nhân loại, đồng thời chống lại những ảnh hưởng
tiêu cực của xu hướng "toàn cầu hóa" mặt trái của quá trình "hiện đại hóa"
đang diễn ra hiện nay.
Nhiệm vụ giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, không phải là
của riêng ai mà là của chung tất cả mọi người... Nước ta nói chung, huyện
Bảo Lâm - tỉnh Cao Bằng nói riêng với việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hoá dân tộc trong TN là một vấn đề cấp bách và quan trọng, phù hợp với yêu
cầu thực tiễn và góp phần vào việc giáo dục thế hệ trẻ, hình thành con người
mới XHCN, sẵn sàng và phát huy tối đa vai trò của con người chủ vận mệnh
đất nước.
Sự xuống cấp về tư tưởng đạo đức và lối sống trong TN hiện nay ngày
càng nhanh. Thanh thiếu niên quan tâm tới lợi ích của mình hơn tập thể, chạy
theo lối sống thực dụng, theo văn hoá ngoại không có sự chọn lọc, không
quan tâm đến giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam. Một số người không
thích vào Đoàn, không tham gia vào các tổ chức hoạt động của Đoàn thanh
niên.
Nền kinh tế nông nghiệp truyền thống - Thiết lập nên lối sống và chuẩn
mực có sự phát triển ưu lợi về đạo đức được thay thế bằng nền kinh tế hàng
hoá thị trường cơ chế mới. Lối sống hiện nay cần được coi đúng mức phù hợp
hơn từ góc độ lợi ích kinh tế: mức lương, mức thu nhập tiêu dùng, y tế, các
phúc lợi xã hội, sức khoẻ. Song cho đến nay, chúng ta chưa biết chính xác
5


những chuẩn mực giá trị đúc kết xã hội Việt Nam chuyển mình như thế nào.
Sự nghiệp CNH - HĐH đất nước đặt ra những yêu cầu mới đối với chuẩn mực
giá trị của con người. Đồng thời nó là quá trình đô thị hoá làm biến đổi tính
chất căn bản của xã hội.
Chưa bao giờ những vấn đề văn hoá lại được quan tâm như hiện nay cả
về phương diện lý luận và thực tiễn. Điều đó, được quyết định bởi vai trò của

văn hoá đối với sự phát triển của một quốc gia. Trên cơ sở xác định đúng đắn
vai trò quan trọng của văn hoá. Nghị quyết TW5 khoá VIII của Đảng đã
khẳng định "tiếp tục xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
xây dựng nền tảng tinh thần, coi đó vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy
sự phát triển kinh tế - xã hội".
Những thành tựu của cách mạng khoa học công nghệ thế giới cùng với
việc mở rộng giao lưu quốc tế, là cơ hội để chúng ta tiếp thu những thành quả
trí tuệ của loài người. Đồng thời cũng đặt ra những thử thách mới trong việc
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Đó là xã hội hoá ngày càng sâu
sắc hơn, đồng thời với cơ chế thị trường, xuất hiện và du nhập những tư tưởng
phản động có tác dụng không ít đến thanh niên làm cho họ trở thành con
người không có lý tưởng, niềm tin với xã hội, ích kỷ, cực đoan, khinh lao
động và gạt bỏ những đức tính truyền thống tốt đẹp.
Nghiên cứu việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc cho đến
nay không phải là một lĩnh vực mới; trước đây cũng đã có nhiều nhà nghiên
cứu, nhiều hội thảo quan tâm đến vấn đề này nhưng cũng chỉ ở mức độ
nghiên cứu chung chung; chưa đi sâu đi sát một cách tỉ mỉ, cụ thể tới từng địa
bàn dân cư như địa bàn huyện Bảo Lâm - Tỉnh Cao Bằng.
Chính vì vậy, là người cán bộ Đoàn trong tương lai, là người con của
quê hương đất nước, tôi mạnh dạn chọn đề tài: "Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
huyện Bảo Lâm - tỉnh Cao Bằng với sự nghiệp giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hoá dân tộc" mong góp phần nhỏ bé của mình cùng các cấp bộ
Đoàn, các đoàn thể, quần chúng nhân dân huyện Bảo Lâm - tỉnh Cao Bằng
6


đưa ra những giải pháp khả thi nhằm nâng cao nhận thức, tư tưởng hành động
của đoàn viên thanh niên trong sự nghiệp giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá
dân tộc.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận vấn đề giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hoá dân tộc của huyện Đoàn Bảo Lâm - tỉnh Cao Bằng, làm rõ
những nguyên nhân cơ bản của thực trạng nhằm đưa ra giải pháp kiến nghị
phù hợp để nâng cao chất lượng công tác giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá
dân tộc của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh huyện Bảo Lâm - tỉnh Cao Bằng
III. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
- Làm rõ cơ sở lý luận
- Khảo sát thực trạng công tác giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân
tộc trên địa bàn huyện Bảo Lâm - tỉnh Cao Bằng và làm rõ nguyên nhân của
thực trạng.
- Đề xuất những giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công
tác giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc của Đoàn TNCS Hồ Chí
Minh huyện Bảo Lâm - tỉnh Cao Bằng.
IV. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1. Không gian nghiên cứu: trên địa bàn huyện Bảo Lâm - tỉnh Cao
Bằng.
2. Thời gian nghiên cứu: 2007 - 2009
3. Thời gian thực hiện chuyên đề: từ tháng 01 đến tháng 03 năm 2010
V. KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
1. Đoàn viên thanh niên
2. Các cán bộ ban ngành khác
3. Các cán bộ văn hóa ở địa phương
4. Các cán bộ Đoàn.
VI. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

7


Công tác giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc của Đoàn TNCS
Hồ Chí Minh huyện Bảo Lâm - tỉnh Cao Bằng.

VII. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Đọc tài liệu, phân tích tài liệu
- Đọc báo cáo tổng kết của Đoàn
- Khảo sát thực tế trên địa bàn
- Trưng cầu ý kiến - bằng phiếu hỏi.
VIII. BỐ CỤC CHUYÊN ĐỀ
Ngoài phần danh mục tài liệu tham khảo, mục lục, nội dung chuyên đề
gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của chuyên đề
Chương 2: Thực trạng của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân
tộc của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trên địa bàn huyện Bảo Lâm - tỉnh Cao
Bằng.
Chương 3: Những giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả
việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc của Đoàn TNCS Hồ Chí
Minh huyện Bảo Lâm - tỉnh Cao Bằng.
- Kiến nghị
- Kết luận

8


NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
(Gồm 3 chương)
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CHUYÊN ĐỀ
1.1. Hệ thống các khái niệm liên quan đến chuyên đề.
1.1.1. Khái niệm văn hoá:
Văn hoá là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau:
Khảo cổ học, dân tộc học, nhân học triết học, xã hội học, lịch sử... Vì thế sắc
thái, ý nghĩa của nó rất đa dạng. Từ khi khái niệm đầu tiên về "văn hoá"
(1871 trong sách văn hoá nguyên thủy của E.B Taylor) xuất hiện đến nay đã

có hàng trăm định nghĩa khác nhau về văn hoá. Mỗi cách định nghĩa được
dựa trên cách nhìn khác nhau, nhưng nói chung tổng hợp lại thì các định
nghĩa đó đều đề cập đến các vấn đề sau đây:
- Văn hoá là hoạt động của con người, là biểu hiện trình độ nhận thức
của con người.
- Văn hoá thể hiện khát vọng vươn tới chân, thiện, mỹ.
- Văn hoá là tổng hợp các giá trị được cộng đồng thừa nhận, tuân thủ
trong một môi trường, một không gian cụ thể.
- Văn hoá vừa là mục tiêu vươn tới, vừa là động lực thúc đẩy phát triển
xã hội.
Từ đó ta có thể nêu một định nghĩa văn hoá rằng: "Văn hoá là toàn bộ
sự hiểu biết của con người, tích luỹ được trong quá trình lao động thực tiễn xã
hội. Vốn hiểu biết ấy được đúc kết thành hệ giá trị và chuẩn mực xã hội, biểu
hiện thông qua vốn di sản văn hoá và hệ ứng xử văn hoá (lối sống) cộng đồng
người. Hệ giá trị và chuẩn mực xã hội là yếu tố cốt lõi làm nên bản sắc riêng
của một cộng đồng xã hội. Nó có chức năng định hướng và điều tiết hoạt
động của mọi thành viên trong cộng đồng xã hội ấy" (Quản lý nhà nước về
văn hoá thông tin).
9


Hay định nghĩa "văn hoá" trong cuộc sống cũng như trong phạm vi
chuyên đề nghiên cứu là việc "giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc"
bao gồm cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Văn hoá là tổng thể những kết quả lao
động, là toàn bộ những giá trị mà con người sáng tạo nên để thoả mãn nhu
cầu của chính mình. Bác Hồ nói "văn hoá là tổng thể của mọi phương thức
sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sẵn sàng hy sinh nhằm
thích ứng những nhu cầu đòi hỏi của sự sinh tồn" (Hồ Chí Minh về văn hoá
bảo tàng Hồ Chí Minh xuất bản Hà Nội 1997 trang 9).
Văn hoá theo nghĩa rộng bao gồm phúc hợp những nét riêng về tinh

thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm tri thức, tín ngưỡng và tôn giáo, phong tục
và tập quán lối sống, văn hoá và nghệ thuật, lý luận và luật pháp, công nghệ
khoa học kỹ thuật do con người sáng tạo trong quá trình lịch sử, tồn tại và
phát triển của một dân tộc, một đất nước.
Những giá trị vật chất tồn tại do con người sáng tạo ra như: tủ, bàn ghế,
các công trình kiến trúc, kết cấu hạ tầng... Lúc này những vật đó mang giá trị
văn hoá. Tuy nhiên có những vật chất do con người sáng tạo ra nhưng không
phục vụ cho cuộc sống của con người thì không có giá trị văn hoá mà chỉ có
yếu tố văn hoá đó là bom nguyên tử, tên lửa... Giá trị tinh thần được tồn tại ở
hai góc độ một là dưới dạng thành văn (tức là được ghi chép, ấn hành như
sách, ảnh...), hai là tồn tại trong dân gian được nhân dân công nhận và lưu
truyền sâu rộng trong xã hội như các phong tục tập quán, các lễ hội văn hoá.
Văn hoá được tồn tại dưới dạng vật chất và tinh thần, được thể hiện qua
con người. Con người chính là vật mang vác, chuyển tải lưu giữ, thông qua
con người văn hoá mới tồn tại và phát triển được.
Xét tổng quát về mục đích cao cả nhất vì sự nghiệp phát triển hoàn
thiện con người và xã hội, văn hoá có 5 chức năng đó là: chức năng giáo dục,
chức năng nhận thức, chức năng dự báo, chức năng thẩm mỹ và chức năng
giải trí. Văn hoá là các lĩnh vực hoạt động, sáng tạo rộng lớn, phát triển không
ngừng của nhân loại, của từng dân tộc, từng con người, từng gia đình văn hoá
10


là toàn bộ những nét riêng của một dân tộc về tinh thần, vật chất, trí tuệ và
tình cảm đã được hình thành trong quan hệ ứng xử hợp lý với môi trường
thiên nhiên, giữa con người với con người. Kết quả hoạt động và sáng tạo ra
văn hoá đồng thời sáng tạo ra tư tưởng, triết học, tôn giáo, tín ngưỡng, văn
học nghệ thuật và những quy tắc ứng xử trong gia đình, xã hội được coi là
luân lý, đạo đức thuần phong mỹ tục của một dân tộc.
Vậy văn hoá là hệ thống hữu cơ các giá trị tinh thần và vật chất do con

người sáng tạo, giao lưu tích lũy và phát triển thông qua hoạt động cải biến và
ứng xử với thiên nhiên, xã hội và bản thân mình, được biểu hiện dưới các thể
thức ngày càng sâu sắc, đa dạng, để tôn vinh và phát triển toàn diện con
người, nhằm làm cho thế giới có tính người.
1.1.2. Khái niệm bản sắc văn hoá:
Những tinh hoa văn hoá của một dân tộc tồn tại và hiển hiện trong nếp
sống, trong suy nghĩ... thích ứng với môi trường thiên nhiên và xã hội nơi cư
trú lâu đời, nếp cư xử với thiên nhiên và xã hội của cộng đồng đó là bản sắc
dân tộc cho nên còn gọi là bản sắc văn hoá dân tộc. Bản sắc văn hoá dân tộc
không phải là bất biến, luôn đổi mới, luôn sáng tạo, năng động thích ứng với
môi trường sống. Điều kiện sống đã thay đổi dân tộc ta luôn luôn biết linh
hoạt tiếp thu những cái hay, cái mới trong khi giao tiếp với nền văn hoá để
làm giàu thêm vốn văn hoá của mình và giữ được cốt cách tốt đẹp, lâu đời của
nền văn hoá mình.
Bản sắc văn hoá dân tộc là điểm tựa, là động lực luôn toả sáng và dẫn
đường cho mỗi dân tộc tiến lên phía trước. Việt Nam chúng ta tự hào là một
quốc gia có bản sắc dân tộc độc đáo, đậm nét, trải qua hàng ngàn năm bị
phong kiến phương Bắc đô hộ và gần trăm năm Pháp thuộc nhưng dân tộc
Việt Nam vẫn đứng vững và phát triển, điều đó chứng tỏ sức sống mãnh liệt
của bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam. Những giá trị văn hoá mà ông cha để
lại cho chúng ta phần to lớn, chúng ta phải khai thác những giá trị ấy phục vụ

11


cho công việc xây dựng và phát triển đất nước công bằng văn minh, ấm no, tự
do hạnh phúc.
1.1.3. Khái niệm bản sắc văn hoá dân tộc:
Bản sắc là màu sắc, tính chất riêng tạo thành đặc điểm chính. Bản sắc
dân tộc là một hệ thống những sắc thái riêng biệt, những đặc tính bên trong

bền vững gắn với cội nguồn văn hoá dân tộc, là cái để phân biệt văn hoá của
dân tộc này với văn hoá của dân tộc khác. Nói đến dân tộc là nói đến văn hoá,
đến bản sắc. Bản sắc dân tộc chính là bản sắc văn hoá dân tộc, chính là những
nét riêng biệt đặc thù của một dân tộc. Bản sắc văn hoá dân tộc bao gồm
những giá trị lịch sử văn hoá, tín ngưỡng, tôn giáo. Khoa học do chính dân tộc
đó sáng tạo ra trong lịch sử hình thành và tồn tại và phát triển của dân tộc
mình, phần khác là do dân tộc tiếp thu những giá trị văn hoá thích hợp của
nhân loại để làm giàu thêm vốn văn hoá của dân tộc mình.
Nghị quyết hội nghị lần thứ 05 Ban chấp hành trung ương Đảng khoá
VIII về "xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc".
Bản sắc văn hoá dân tộc bao gồm những giá trị bền vững tinh hoa của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp trong lịch sử của bảy ngàn năm
dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân
tộc, tinh thần đoàn kết ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân, gia đình làng xã, tổ
quốc lòng nhân ái khoan dung trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng
tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, giản dị trong lối sống... Bản sắc
văn hoá dân tộc còn đậm nét trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc
độc đáo. Nền văn hoá nhiều dân tộc của Việt Nam như một vườn hoa đầy
hương sắc 54 dân tộc cùng chung sống trong một tổ quốc, chung một lý tưởng
độc lập, tự do và CNXH, chung một Đảng lãnh đạo, chung một chế độ quản
lý của chính quyền nhà nước bảo đảm quyền bình đẳng, quyền bảo vệ bản sắc
các giá trị văn hoá, các lễ hội văn hoá, các phong tục tập quán, tự do tín
ngưỡng và không tín ngưỡng.

12


Sự phát triển không đồng đều về kinh tế - xã hội là một trong những
nguyên nhân chính của tình trạng chênh lệch nhau về học vấn, về số lượng tri
thức và công nhân kỹ thuật, về đời sống tinh thần, về các công trình văn hoá,

mặc dù vậy mỗi dân tộc vẫn có thể phát huy các giá trị văn hoá truyền thống,
có thể sáng tạo ra đời sống văn hoá phù hợp với hoàn cảnh sống của từng dân
tộc. Mối quan hệ giao lưu văn hoá trong cả nước ngày càng được mở rộng từ
Bắc đến Nam, từ đồng bằng lên miền núi và các dân tộc được tạo những điều
kiện thuận lợi để tiếp xúc với nhau, hiểu nhau, trao đổi với nhau, bổ sung cho
nhau nhằm khai thác và phát huy các giá trị văn hoá tốt đẹp của từng dân tộc.
Tóm lại nhận thức đúng về bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam chúng ta
mới có thể hiểu, coi trọng từ đó đề ra những chủ trương, biện pháp bảo vệ, tôn
tạo, thừa kế, phát huy nền văn hoá Việt Nam.
1.1.4. Nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc.
Nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc được biểu hiện
đó là sự thống nhất giữa hai thành tố căn bản, đó là tiên tiến và bản sắc văn
hoá dân tộc, trong tiên tiến có bản sắc văn hoá dân tộc, bản sắc văn hoá dân
tộc hoà quyện với tính chất tiên tiến tạo nên giá trị tổng thể của nền văn hoá
mới do nhân dân ta dựng nên. Bản sắc văn hoá dân tộc là cội nguồn, và là
khởi đầu tiến trình của lịch sử phát triển của văn hoá, là nền tảng tinh thần của
dân tộc, còn tính tiên tiến của văn hoá đóng vai trò như một nhu cầu, một đòi
hỏi, một phẩm chất mới trong sự phát triển của nền văn hoá dân tộc lên trình
độ cao hơn trong thời kỳ hiện đại.
* Về phẩm chất tiên tiến của văn hoá:
Một là: Nền văn hoá phải được xây dựng trên nền tảng chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hai là: tính tiên tiến là sự biểu hiện trình độ đạo đức cao của văn minh
xã hội, sự không ngừng tiến bộ về đời sống vật chất và đời sống tinh thần của
nhân dân.

13


Ba là: thể hiện được khát vọng của dân tộc về một cuộc sống tốt đẹp

dân chủ, công bằng, văn minh, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
Bốn là: nền văn hoá tiên tiến phải thể hiện tinh thần văn minh cách
mạng vì con người, giải phóng con người khỏi áp bức bóc lột.
Năm là: nền văn hoá tiên tiến là nền văn hoá mang tinh thần dân chủ
phải đảm bảo dân chủ tự do, trong mọi sáng tạo và hoạt động văn hoá.
Sáu là: nền văn hoá tiên tiến thể hiện ở phương thức và phương tiện
truyền tải nội dung.
* Về bản sắc văn hoá dân tộc:
Nền văn hoá mới mà chúng ta xây dựng hôm nay và mai sau có nguồn
gốc xa từ bản thân văn hoá dân tộc, trong đó linh hồn là thể hiện cái cốt lõi
của bản lĩnh, bản sắc, truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta từ ngàn xưa để lại, là
tinh hoa xứng giá nhất được hàn đúc trong quá trình đấu tranh sinh tồn trước
tự nhiên và xã hội.
Một là: chính là đặc thù của một nền văn hoá là chứng minh thư, là thẻ
căn cước của một dân tộc.
Hai là: phản ánh cốt lõi bản lĩnh, đặc trưng, quan niệm và lối sống của
con người Việt Nam.
Ba là: Khám phá, bảo vệ và phát triển những giá trị truyền thống bền
vững của con người Việt Nam trong quan hệ với cộng đồng, trong đời sống
cộng đồng.
Bốn là: Phát huy và phát triển những phương thức biểu hiện của nền
văn hoá truyền thống, phù hợp với cách cảm nghĩ, tâm lý, cách tiếp nhận và
sáng tạo văn hoá của con người Việt Nam.
Năm là: nền văn hoá đã phản ánh tính phong phú đa dạng của các dân
tộc trong cộng đồng người Việt.
1.1.5. Khái niệm Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị - xã hội của thanh niên
do Đảng Cộng sản Việt Nam và chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và
14



rèn luyện. Đoàn bao gồm những thanh niên tiên tiến phấn đấu vì mục tiêu, lý
tưởng của Đảng là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
Được xây dựng, rèn luyện và trưởng thành qua các thời kỳ đấu tranh
cách mạng, Đoàn đã tập hợp đông đảo thanh niên phát huy chủ nghĩa cách
mạng, cống hiến xuất sắc cho sự nghiệp giải phóng dân tộc thống nhất đất
nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc bước vào thời kỳ mới, Đoàn tiếp tục phát
huy những truyền thống quý báu của dân tộc và bản chất tốt đẹp của mình, kế
tục trung thành và xuất sắc sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và chủ
tịch Hồ Chí Minh. Thường xuyên bổ sung lực lượng trẻ cho Đảng, tổ chức
động viên đoàn viên thanh niên cả nước đi đầu trong sự nghiệp CNH - HĐH
đất nước bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN.
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là đội dự bị tin cậy của Đảng Cộng sản Việt
Nam, là lực lượng xung kích cách mạng, là trường học XHCN của thanh niên,
đại diện chăm lo và bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của tuổi trẻ, phụ
trách đội TNTP Hồ Chí Minh, là lực lượng nòng cốt chính trị trong phong
trào thanh niên và các tổ chức thanh niên Việt Nam.
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là thành viên của hệ thống chính trị, hoạt
động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Đoàn phối hợp với các cơ quan nhà nước, các đoàn thể và
các tổ chức xã hội, các tập thể lao động và gia đình chăm lo giáo dục, đào tạo
và bảo vệ thânh thiếu nhi, tổ chức cho ĐVTN tích cực tham gia vào việc quản
lý nhà nước và xã hội.
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đoàn kết, phát triển quan hệ hữu nghị, hợp
tác bình đẳng với các tổ chức thanh niên tiến bộ, thanh niên và các nhân dân
các nước trong cộng đồng quốc tế phấn đấu vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội, vì tương lai và hạnh phúc của tuổi trẻ.

15



1.2. Những quan điểm về việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá
dân tộc.
1.2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác Ăngghen-Lênin
Chủ nghĩa Mác-Lê Nin là thế giới quan, và phương pháp luận khoa
học, nó cung cấp cho con người một công cụ để nhận thức và cải tạo thế giới;
nó chi ra quy luật vận động của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Theo chủ nghĩa Mác-Lê Nin, văn hoá có vị trí độc lập tương đối so với kinh
tế. C.Mác khẳng định: “Phương thức sản xuất tinh thần; tức là cơ sở kinh tế
không tác động trực tiếp mà tức khắc tới văn hoá, không phải có nền kinh tế
cao thì văn hoá cao và ngược lại”. Tuy vậy để có một nền văn hoá phát triển
ổn định thì kinh tế phải bắt rễ vào văn hoá.
Trên cơ sở phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, văn hoá có
khả năng biến yếu tố ngoại sinh thành yếu tố nội sinh phục vụ cho quá trình
phát triển. Văn hoá phát sinh mặt tích cực và làm hạn chế mặt tiêu cực của
những yếu tố khách quan, của những biểu hiện bên trong và bên ngoài, đảm
bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định thì kinh tế phát triển hài hoà, nền chính
trị xã hội ổn định.
Như vậy: Phương thức sản xuất vật chất và phương thức sản xuất tinh
thần có mối quan hệ biện chứng với nhau, chúng hỗ trợ lẫn nhau, tồn tại song
song với nhau, trong phát triển kinh tế luôn có văn hoá và kinh tế cũng luôn là
điều kiện về vật chất cũng như tinh thần giữa mức sống cao vào lối sống đẹp,
vừa an toàn, vừa bền vững, không phải chỉ có ý nghĩa trước mắt, tạm thời cho
một số người, một thế hệ mà có ý nghĩa lâu dài cho cả xã hội và cho mai sau.
Đất nước Việt Nam gồm 54 dân tộc anh em, mỗi dân tộc có một nền
văn hoá riêng, những nét đặc trưng riêng của cả một dân tộc, và tất nhiên
những gì tốt đẹp ta luôn giữ gìn và phát huy vì Angghen đã khẳng định: “Cái
hợp lý là cái tồn tại” và C.Mác cũng cho rằng: “Cái tồn tại là cái hợp lý” từ đó


16


ta sẽ biến nó thành động lực cho sự phát triển nhưng do giữ gìn bản sắc văn
hoá dân tộc khác mà đất nước đó đã vững bước đi lên.
1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hoá dân tộc:
Lúc sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm chăm lo xây dựng
mối đoàn kết cũng như sự nghiệp phát triển văn hoá của tất cả các dân tộc.
Người nhìn thấy rõ các sắc thái riêng văn hoá của mỗi dân tộc, từ đó tạo ra sự
phong phú đa dạng, đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc của nền văn học Việt
Nam. Người đã nói rằng "trong cuộc kiến thiết nước nhà có 4 vấn đề cần chú
ý đến, cũng phải coi trọng ngang nhau đó là: Chính trị - Kinh tế - Văn hoá Xã hội...", lời nói của Bác đã khẳng định vai trò to lớn của văn hóa trong sự
nghiệp phát triển của đất nước. Chính ở đó ta tìm thấy "tiếng nói" chung của
nền văn hoá Việt Nam, của cộng đồng các dân tộc của ngàn đời nay cùng
sống, lao động, bảo vệ và xây dựng tổ quốc Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh
là người đặc biệt tôn trọng lối sống văn hoá của mỗi dân tộc, mỗi tộc người,
Người luôn mong các dân tộc Việt Nam được bình đẳng sao cho các dân tộc
được đảm bảo về cuộc sống, được hưởng thụ các giá trị văn hoá.
Vì văn hoá là nền tảng của xã hội, Hồ Chí Minh cho rằng văn hoá nói
chung, chủ nghĩa Mác - Lênin nói riêng đóng vai trò trong tư duy hành động
của con người và của dân tộc bị áp bức, bị tha hoá đến các vương quốc của
con người phát triển tự do và toàn diện. Hồ Chí Minh từng nói "văn hoá soi
đường cho quốc dân đi, phải đem văn hoá lãnh đạo quốc dân để thực hiện,
độc lập, tự cường, tự chủ, phải xúc tiến công tác văn hoá đào tạo con người
cho cuộc kháng chiến kiến quốc". Trong thời đại Hồ Chí Minh với đường lối
đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta, văn hoá Việt Nam tiếp tục được phát huy,
đã góp phần quyết định vào những thắng lợi to lớn của nhân dân ta trong sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra khái niệm văn hoá từ trước cách mạng

tháng 8: "Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích cuộc sống, loài người
17


mới sáng tạo ra và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa
học, tôn giáo, văn học nghệ thuật... những công cụ sinh hoạt hàng ngày về
mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo đó là văn
hoá".
Theo Người một nền "văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc" là nền
tảng tinh thần cho quá trình giữ vững độc lập, dân tộc, đẩy mạnh sự nghiệp
CNH - HĐH đất nước, thể hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ văn minh, vững bước đi lên CNXH, giữ vững bản sắc văn hoá dân tộc
không có nghĩa là thực hiện việc "đóng cửa" để xây dựng một nền văn hoá
đơn điệu, nghèo nàn mà phải nhìn ra thế giới, tiếp thu tinh hoa văn hoá của
các dân tộc trên thế giới để làm giàu và phong phú thêm nền văn hoá Việt
Nam. Phải có sự đào thải (những cái cũ, cái lỗi thời, cái mới nhưng độc hại),
đấu tranh đào thải với những luồng văn hoá xấu làm ảnh hưởng tới sự tồn tại
và phát triển của nền văn hoá tốt đẹp, của dân tộc nhằm củng cố giữ gìn và
phát huy những cái tốt đẹp, những tinh hoa của dân tộc tiếp thu có chọn lọc có
giá trị văn hoá cao đẹp của nhân loại, hình thành văn hoá mới dân tộc nhưng
phải phù hợp với truyền thống dân tộc, theo hướng phát triển của nền văn hoá
hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng nước ta. Trong quá trình
xây dựng chúng ta cần phải nắm vững và quán triệt các quan điểm chỉ đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam về văn hoá.
Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc xây dựng văn hoá mới, tổ ấm suốt
đời của con người, là tế bào lành mạnh của xã hội, là nơi thế hệ trẻ được nuôi
dưỡng, giáo dục trong tình thương yêu để trở thành người công dân có ích cho
xã hội. Sự nghiệp văn hoá lớn nhất quan trọng nhất của Hồ Chí Minh là đã
huy động được sức mạnh truyền thống hàng ngàn năm của văn hoá dân tộc
kết hợp với tinh hoa văn hoá của nhân loại, lãnh đạo thành công sự nghiệp

giải phóng dân tộc giành lại cho nhân dân ta quyền làm người, quyền được
sống một cuộc sống xứng đáng với nền văn hoá Việt Nam, đồng thời là một
sự nghiệp có ý nghĩa to lớn đối với nền văn hoá thế giới.
18


Chủ tịch Hồ Chí Minh là anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn
hoá thế giới. Vì vậy sự nghiệp văn hoá của Hồ Chí Minh đem đến cho kho
tàng văn hoá thế giới những giá trị và quyền dân tộc cơ bản. Vì cuộc sống ấm
no, hạnh phúc của mỗi dân tộc khẳng định được bản sắc văn hóa riêng của
mình và phát triển sự biểu hiện của nền văn hoá với các dân tộc khác trên thế
giới. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và không ngừng phát triển
những giá trị cao đẹp của nền văn hoá đất nước, đã góp phần sức mạnh vào
những thành quả đấu tranh giữ nước và dựng nước của các dân tộc.
1.2.3. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về vấn đề giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Quan điểm của Đảng là sự thể hiện tập trung đường lối văn hoá của
Đảng, là tư tưởng chỉ đạo toàn bộ các hoạt động văn hoá ở nước ta, nó vừa
giúp cho hoạt động văn hóa đi đúng phương hướng chiến lược vừa giúp giải
quyết tốt những vấn đề cụ thể đặt ra trong đời sống. Ngay từ năm 1943, khi
chưa có chính quyền dưới ánh sáng của cương lĩnh chính trị 1950, Đảng ta đã
xây dựng đề cương văn hoá Việt Nam với phương châm dân tộc, khoa học và
đại chúng. Ba nguyên tắc cơ bản ấy của nền văn hoá có đặc trưng dân tộc,
hiện đại, nhân văn. Đó là định hướng của nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản
sắc văn hoá dân tộc mà ngay nay chúng ta đang phấn đấu trong thời kỳ đẩy
mạnh CNH - HĐH đất nước ở nước ta. Cốt lõi của nền văn hoá cách mạng
Việt Nam trước sau vẫn là chủ nghĩa nhân văn Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh.
Hội nghị lần thứ V BCH TW Đảng (họp từ 6/7/1998 - 16/7/1998) đã
thảo luận và ra nghị quyết "về xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến

đậm đà bản sắc dân tộc". Hội nghị cho rằng sự cần thiết phải có một nghị
quyết của Đảng về văn hoá trong tình hình đổi mới với những trọng tâm cần
tập trung và ra nghị quyết vấn đề văn hoá hiện nay là: "Tư tưởng, đạo đức, lối
sống, đời sống văn hoá". Trong những quan điểm chủ đạo cơ bản của hội nghị
và quan điểm thứ hai "nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên
19


tiến đậm đà dân tộc". "Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững,
những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua
lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh giữ nước và dựng nước", mới tạo nên bản
sắc văn hóa dân tộc.
Trong những chuẩn mực giá trị tinh thần của một dân tộc có những giá
trị từ bền vững trong suốt chiều dài lịch sử và những giá trị biến đổi nhất định
hoặc ít. Có những yếu tố, những bộ phận, có những giá trị chỉ thích hợp với
từng thời kỳ nhất định. Vì vậy chỉ "những giá trị bền vững, những tinh hoa
của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn
năm đấu tranh dựng nước và giữ nước", mới tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc.
Những yếu tố cơ bản cấu thành: những giá trị bền vững, truyền thống yêu
nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết ý thức cộng đồng
gắn kết cá nhân, giá đình, xã hội - tổ quốc - lòng nhân ái, khoan dung, trọng
nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong
ứng xử, tính giản dị trong lối sống...
Vì vậy việc giữ gìn và bảo vệ bản sắc dân tộc có khuynh hướng cần
tránh là: đóng cửa, thu mình trong chủ nghĩa hẹp hòi, giữ mãi hoặc phục hồi
những gì lạc hậu, lỗi thời không phù hợp với sự phát triển của thời đại. Cho
nên chúng ta phải mở rộng giao lưu với thế giới tiếp thu có chọn lọc những
cái hay cái tiến bộ trong nền văn hoá của các dân tộc khác trong mở rộng giao
lưu văn hoá quốc tế, yêu cầu hàng đầu là phải trên tinh thần độc lập dân tộc.
Mặt khác phải biết giữ gìn, khai thác phát triển và nâng cao bản sắc văn hóa

dân tộc tức là nâng cao năng lực tiếp thu cái mới, cái tiến bộ của tinh hoa văn
hoá thế giới. Nhằm chống lại sự xâm nhập của mọi thứ văn hoá độc hại, cực
đoan, chủ nghĩa cá nhân, thực dụng ích kỷ, lối sống hưởng thụ...
Như vậy, nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc bao
gồm trong nó các mối quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại, kế
thừa và phát triển, dân tộc và quốc tế, trên cơ sở Mác - Lênin và tư tưởng Hồ

20


Chí Minh. Ngày nay càng rõ ràng, văn hoá có vị trí vai trò to lớn, điều đó
được thể hiện trong 5 quan điểm cơ bản của Đảng về văn hoá:
- Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động
lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
- Nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến đậm đà
bản sắc văn hoá dân tộc.
- Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất mà đa dạng trong
cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
- Xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân, Đảng lãnh
đạo trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
- Văn hoá là một mặt trận xây dựng và phát triển văn hoá là một sự
nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì trân
trọng.
1.2.4.Vai trò của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trong sự nghiệp giữ gìn
và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị xã hội của thanh niên
Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập
lãnh đạo và rèn luyện. Đảng và Nhà nước ta khẳng định vai trò làm chủ và
tiềm năng to lớn của thanh niên trong công cuộc xã hội và bảo vệ tổ quốc Việt
Nam XHCN thanh niên là lực lượng hùng hậu, có sức khoẻ, có trình độ học

vấn, năng động tiếp thu nhanh những thành tựu khoa học kỹ thuật, những cái
mới của xã hội. Thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay vinh dự được thừa hưởng cả
một kho tàng giá trị tinh thần do cha ông để lại, nhưng cũng là trách nhiệm
lớn lao của mỗi đoàn viên thanh niên, vừa phải kế thừa vừa phải phát huy và
bảo đảm tính truyền thống của dân tộc để không hổ thẹn với cha ông, đó là
điều mà không chỉ có tuổi trẻ mà mỗi người dân Việt Nam biến thành tình
cảm hành động cách mạng.
Đất nước đang trên đà phát triển thì việc giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hoá dân tộc càng trở nên cần thiết và mang một ý nghĩa đặc biệt quan
21


trọng cùng với việc mở rộng giao lưu với thế giới thì văn hoá Việt Nam có cơ
hội để bạn bè thế giới biết đến nhiều hơn, chúng ta có nhiều cơ hội nhiều điều
kiện để tiếp thu và học tập những tinh hoa của nhân loại để làm phong phú
thêm bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam.
Thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay cần phải vượt qua những thách thức đó
thì chúng ta mới giữ vững và phát triển được bản sắc văn hóa dân tộc theo
định nghĩa khoa học cách mạng. Với đặc trưng cơ bản là cả dân tộc, hiện đại
và nhân văn. Thế hệ trẻ làm được như vậy là chúng ta đã tạo được nền tảng
tinh thần vững chắc, là động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội
đất nước. Như vậy thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay và mai sau có trách nhiệm
thật nặng nề nhưng đầy vinh quang khi được Đảng, Bác Hồ tin tưởng giao
cho trọng trách, điều này khẳng định vị trí vai trò quan trọng của ĐVTN.
Đáp lại lòng tin tưởng của Đảng, Nhà nước, Bác Hồ và nhân dân, tổ
chức Đoàn cần xung kích đi đầu và có những chương trình cụ thể, thiết thực
để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, cần có những biện pháp giáo
dục hữu hiệu của đoàn viên thanh niên nhận thức đầy đủ sâu sắc nhiệm vụ
này. Từ đó biến thành tình cảm hành động thành phong trào cách mạng, xây
dựng, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.

Trong bối cảnh giao lưu, mở cửa và toàn cầu hoá, thời đại của CNH HĐH đất nước như hiện nay, giữ gìn và bồi bổ văn hoá dân tộc vừa là cơ hội,
vừa là nhiệm vụ, vừa là thách thức. Dân tộc và văn hoá là hai thực thể văn hoá
với nhau, có dân tộc là có văn hoá, mất văn hoá là mất dân tộc. Vì thế nhiệm
vụ của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là phải hiểu, biết về văn hoá để xây dựng
nền văn hóa dân tộc vừa tiên tiến vừa đậm đà bản sắc.
* Những hoạt động của Đoàn tham gia giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hoá dân tộc.
Thực hiện chủ trương chính sách của Đảng, nhà nước và trên cơ sở
nghị quyết đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ VII. Hai phong trào lớn "Thanh
niên lập nghiệp" và "Tuổi trẻ giữ nước" là một chủ trương đúng đắn được
22


triển khai có hiệu quả, rộng khắp, góp phần cổ vũ hàng triệu thanh niên vươn
lên lập thân, lập nghiệp, xung kích thực hiện các chương trình kinh tế xã hội,
quốc phòng an ninh... đánh dấu bước phát triển mới trong công tác Đoàn về
phong trào thanh niên trong điều kiện mới, tạo nên nguồn lực to lớn về tinh
thần vật chất, làm chuyển biến nhận thức và hành động của cán bộ, đoàn viên
thanh niên của cả nước, được toàn xã hội quan tâm ủng hộ (báo cáo tại đại hội
Đoàn toàn quốc lần thứ VII).
Công tác tư tưởng - văn hoá, tuyên truyền giáo dục của Đoàn bám sát
các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng được thanh niên tiếp nhận
một cách tích cực. Các hoạt động giáo dục tuyên truyền dân tộc và truyền
thống cách mạng của Đảng, của Đoàn viên được triển khai sâu rộng và có
hiệu quả các hoạt động văn hoá văn nghệ, TDTT, giáo dục lối sống cho thanh
niên thông qua cuộc vận động "hai xây một chồng" thông qua các cuộc thi
thanh niên thanh lịch, liên hoan thanh niên hát dân ca và cuộc vận động "Toàn
dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư". Tất cả những phong
trào trên khi phát động được đông đảo thanh niên ủng hộ, hưởng ứng mạnh
mẽ và thiết thực.

Văn hoá gắn liền với thế hệ trẻ như một quá trình tự nhiên, vì văn hoá
là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội, đồng thời là mục tiêu của CNXH, CNH - HĐH đất nước là
hiện thân của một đời sống văn hoá rộng lớn với những sáng tạo vật chất và
tinh thần cao đẹp. Nguồn lực to lớn của tuổi trẻ chỉ có thể được tăng cường
khi kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống của nền văn hoá dân tộc.
Trách nhiệm to lớn của thế hệ trẻ ngày nay là chuẩn bị hành trang đi vào thế
kỷ mới, là góp phần xây dựng con người Việt Nam về tâm hồn tình cảm có lối
sống lành mạnh phù hợp với những chuẩn mực xã hội. Mặt trái cơ chế thị
trường giúp cho thế hệ năng động sáng tạo, nhưng bên cạnh đó cũng làm tha
hoá cuộc sống và sống với lối sống thực dụng, chỉ biết hưởng lạc... trước tình
hình đó, để khắc phục phần nào hậu quả mỗi chúng ta phải xây dựng được
23


một bản lĩnh văn hoá Việt Nam nhất là trong thế hệ trẻ hiện nay. Xây dựng
bản lĩnh văn hoá đó chính là giữ gìn và phát huy truyền thống bản sắc văn hoá
dân tộc theo tinh thần "gạt đục khơi trong" mà Bác Hồ đã dạy: vững vàng và
tỉnh táo trong tiếp thu những tinh hoa văn hoá của nhân loại.
Tuổi trẻ phải trang bị cho mình kho tàng hành trang văn hoá, đó chính
là giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Nhưng bên cạnh đó không thể
thiếu là bản lĩnh chính trị vững vàng, bản lĩnh trong học tập, bản lĩnh lao động
sáng tạo hiệu quả... Đây là những nền tảng cơ bản giúp thế hệ thắng lợi đường
lối chính sách của Đảng và Nhà nước. Đoàn TNCS Hồ Chí Minh giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hoá dân tộc chính là giữ gìn phát huy tư tưởng đạo đức
lối sống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam thông qua chức năng nhiệm vụ của
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là giáo dục thế hệ trẻ.

24



CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CỦA VIỆC GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN
HOÁ DÂN TỘC HUYỆN BẢO LÂM - TỈNH CAO BẰNG.
2.1. Vài nét về vị trí địa lý, điều kiện kinh tế chính trị - văn hoá xã hội huyện Bảo Lâm - tỉnh Cao Bằng.
2.1.1. Vị trí địa lý:
Bảo Lâm là một huyện miền núi có vị trí chiến lược quan trọng nằm ở
phía tây tỉnh Cao Bằng, với địa thế chủ yếu là núi non hiểm trở, thị trấn Pắc
Miầu - huyện Bảo Lâm nằm dọc theo sông Gâm với tổng diện tích tự nhiên là
1.003.426,67 ha (trong đó đất chưa sử dụng là 47.303 ha chiếm 52,41% diện
tích đất tự nhiên).
Là huyện miền núi cách tỉnh là 187km theo trục đường quốc lộ 34 phía
Tây Nam, phía Bắc giáp với huyện Mèo Vạc tỉnh Hà Giang và nước bạn
Trung Quốc, phía Nam giáp với huyện Nà Hang tỉnh Tuyên Quang và huyện
Pắc Nặm tỉnh Bắc Kạn, phía Đông giáp huyện Bảo Lạc, phía Tây giáp với 2
huyện Yên Minh và Bắc Mê tỉnh Hà Giang. Cách thủ đô Hà Nội khoảng
500km.
Bảo Lâm nằm ở toạ độ 105 - 105 58' độ kinh đông từ 22 038' - 23003' vĩ
độ Bắc. Nên huyện có khí hậu gió mùa, trong năm có 2 mùa rõ rệt. Mùa nóng
ẩm bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10, mùa lạnh khô bắt đầu từ tháng 11 đến
tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình là 22 0c/năm, mùa hè 260c/ mùa đông
190c, song có ngày nắng nóng ở mùa hè nhiệt độ lên tới 40 0C và xuống thấp
nhất là -10C nhưng ít xuất hiện và không kéo dài. Lượng mưa trung bình
1.100 - 1.600mm/năm, nhưng lượng mưa phân bố không đồng đều. Lượng
mưa ở tháng 6,7 và 8 chiếm 70% lượng mưa cả năm. Vùng cao có khí hậu
lạnh, nhiệt độ ban ngày và ban đêm chênh lệch nhau rất nhiều, khí hậu có
ngày thay đổi đột ngột, có năm rét hại xuống tới -1 0C và sương mù dày đặc,
khí hậu mát mẻ và dễ chịu nhất là cuối xuân đến giữa thu.
25



×