Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

Chuyểndịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Yên Hưng tỉnh Quảng Ninh, thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 116 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của khoá luận
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội cung cấp
nhiều loại sản phẩm thiết yếu cho đời sống xã hội, là thị trường rộng lớn của
nền kinh tế, cung cấp nguồn nhân lực và tạo nên tích luỹ ban đầu cho sự ngiệp
phát triển của đất nước. Lý luận và thực tiễn đã chứng minh rằng, nông
nghịêp đóng vai trò to lớn trong sự phát triển kinh tế. Hầu hết các nước phải
dựa vào sản xuất nông nghiệp để tạo sản lượng lương thực, thực phẩm cần
thiết đủ để nuôi sống dân tộc mình và tạo nền tảng cho các ngành, các hoạt
động kinh tế khác phát triển.
Việt Nam là một nước nông nghiệp với điểm xuất phát thấp, trên 70%
dân số sống ở nông thôn và 56% lao động xã hội làm việc trong lĩnh vực nông
nghiệp, sáng tạo ra 68% tổng giá trị kinh tế nông thôn, năng suất khai thác
ruộng đất và năng suất lao động còn thấp… Để giải quyết những vấn đề này
thì thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp có ý nghĩa vô cùng quan
trọng với nước ta.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nhằm tạo dựng một ngành
nông nghiệp có cơ cấu kinh tế hợp lý, qua đó phát huy mọi tiềm năng sản
xuất, phát triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá lớn, giải quyết việc làm,
nâng cao thu nhập và cải thiện mức sống cho người nông dân. Do đó, thúc
đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên phạm vi cả nước
cũng như với từng địa phương là rất cần thiết.
Yên Hưng là một huyện thuần nông thuộc tỉnh Quảng Ninh với trên
89% dân cư sống ở nông thôn và 75,7% lao động nông nghiệp. Đời sống của
nông dân còn khó khăn, thu nhập thấp, tỷ lệ hộ nghèo còn trên 6%. Trong
những năm qua, vấn đề tăng cường quản lý Nhà nước để phục vụ chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông nghiệp tại huyện luôn được quan tâm và từng bước hoàn

1



thiện. Tuy nhiên, thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tại huyện
Yên Hưng còn chậm, cơ cấu nông nghiệp còn bất hợp lý, trồng trọt vẫn chiếm
tỷ trọng cao, tình trạng độc canh cây lương thực vẫn tồn tại trong khi đó nhiều
tiềm năng phát triển chăn nuôi và thuỷ sản chưa được khai thác tốt. Thực
trạng này đòi hỏi phải có giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp tại huyện Yên Hưng một cách hợp lý.
Từ những vấn đề cấp thiết nêu trên, tác giả đã chọn đề tài “Chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Yên Hưng tỉnh Quảng Ninh, thực
trạng và giải pháp” làm khoá luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở tổng hợp một cách có hệ thống quan điểm lý luận về vai trò,
nội dung quản lý Nhà nước đối với nông nghiệp, đi sâu phân tích đánh giá
trung thực, khách quan thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tại
huyện Yên Hưng trong thời gian qua. Từ đó đề xuất các giải pháp cụ thể để
thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tại huyện một cách
hiệu quả.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: là một số chính sách kinh tế, pháp luật tác
động trực tiếp đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tại
huyện.
- Phạm vi nghiên cứu: Trong khuôn khổ luận văn tốt nghiệp, tác giả đề
cập và nghiên cứu vai trò quản lý nhà nước đối với quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp tại địa phương.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành khoá luận của mình, tác giả sử dụng một số phương
pháp chủ yếu sau:
- Phương pháp so sánh;
- Phương pháp phân tích tổng hợp số liệu thống kê;

2



- Phương pháp hệ thống hoá.
Ngoài ra, tác giả còn sử dụng phương pháp lấy ý kiến của một số cán
bộ hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp tại huyện Yên Hưng.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, khoá
luận bao gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung.
Chương 2: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện
Yên Hưng tỉnh Quảng Ninh.
Chương 3: Quan điểm, mục tiêu và một số giải pháp chủ yếu thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Yên Hưng tỉnh Quảng Ninh.

3


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NÔNG NGHIỆP

1.1.1. Vai trò của nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân
Nông nghiệp là ngành sản xuất gắn liền với sự xuất hiện và phát triển
của xã hội loài người. Nông nghiệp là ngành kinh tế quan trọng cấu thành nền
kinh tế quốc dân. Mọi quốc gia trên thế giới đều có những chính sách ưu tiên
phát triển nông nghiệp. Ngay cả những nước có nền kinh tế phát triển như
Mỹ, Nhật, Pháp… sản xuất nông nghiệp cũng luôn được chú trọng và thực tế
cho thấy các sản phẩm nông nghiệp đã đóng góp rất nhiều vào kim ngạch xuất
khẩu.
Ở nước ta, sản xuất nông nghiệp đã có từ xa xưa và được xem là cái nôi

của nền văn minh lúa nước. Đến nay, nông nghiệp vẫn giữ vai trò quan trọng
trong nền kinh tế quốc dân với tỷ trọng 21% GDP và hơn 56% lao động xã
hội đang hoạt động trong lĩnh vực nông ngiệp. Sản xuất nông nghiệp đang
từng bước chuyển từ nền sản xuất nông nghiệp tự cấp, tự túc sang nền nông
nghiệp sản xuất hàng hoá lớn.
Vai trò của nông nghiệp đối với nền kinh tế quốc dân được thể hiện ở
một số điểm sau:
- Nông nghiệp là ngành sản xuất quan trọng trong quá trình sản xuất tư
liệu tiêu dùng thiết yếu cho con người (lương thực, thực phẩm và nguyên liệu
cho công nghiệp) mà không một ngành nào có thể thay thế được. [4]
- Nông nghiệp có ảnh hưởng đến sự tăng trưởng, góp phần đáng kể vào
tích luỹ ban đầu cho sự nghiệp phát triển đất nước, có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng đối với các nước đang phát triển. Tích luỹ trong nông nghiệp được thực
hiện trực tiếp thông qua thuế sử dụng đất nông nghiệp. Nguồn thu này tuy
không lớn nhưng là nguồn ổn định và là nguồn thu chủ yếu có ý nghĩa rất

4


quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của địa phương trong thời kỳ công
nghiệp hoá.
- Nông nghiệp có ảnh hưởng đến nhiều ngành kinh tế quốc dân, đặc
biệt là ngành công nghiệp. Sự phát triển ổn định, vững chắc của nông nghiệp
có ý nghĩa quyết định đối với ngành công nghiệp, dịch vụ và toàn nền kinh tế
quốc dân. Việc giải quyết đủ lương thực cho nhu cầu trong nước và dư thừa
để xuất khẩu được coi là nền tảng quan trọng nhất cho sự ổn định nền kinh tế
quốc dân, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Ngoài lương thực và thực
phẩm, nông nghiệp còn cung cấp nhiều loại nguyên liệu cho các ngành công
nghiệp, đặc biệt là ngành công nghiệp chế biến nông sản. Sự phát triển của
công nghiệp chế biến, ở mức độ rất lớn phụ thuộc vào quy mô và tốc độ của

sản xuất nông nghiệp. Tính phụ thuộc này sẽ càng tăng lên khi nhu cầu sản
xuất và xuất khẩu nông sản với kỹ thuật cao tăng lên.
- Nông nghiệp, nông thôn là thị trường rộng lớn tiêu thụ sản phẩm cho
nền kinh tế quốc dân.
- Nông nghiệp, nông thôn là nguồn cung cấp nhân lực cho các ngành
kinh tế xã hội phát triển. Quá trình phát triển kinh tế ở hầu hết các nước đều
gắn liền với sự chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và
dịch vụ. Sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta đòi hỏi nguồn lao động không
ngừng được bổ sung từ khu vực nông nghiệp.
- Nông nghiệp phát triển tạo điều kiện để chuyển các yếu tố sản xuất
sang khu vực phi nông nghiệp.
1.1.2. Những đặc thù của sản xuất nông nghiệp
So với các ngành kinh tế khác, sản xuất nông nghiệp có những nét đặc
thù riêng biệt mà trong quản lý Nhà nước cần phải quan tâm.
- Sản xuất nông nghiệp chịu tác động và chi phối mạnh của các quy luật
tự nhiên và các điều kiện cụ thể như đất đai, khí hậu, sinh vật, thời tiết.

5


- Lao động nông nghiệp của con người phụ thuộc vào quá trình tăng
trưởng của sinh vật, cây con trong nông nghiệp có quy luật vận động riêng.
Đặc điểm đó có vai trò quyết định đến năng suất lao động trong nông nghiệp.
- Thời gian lao động và thời gian sản xuất không ăn khớp, tính thời vụ
cao, tiềm năng lao động trong nông nghiệp còn rất lớn, nhất là những vùng
chậm phát triển.
- Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản hiện ra trên một không
gian rộng lớn và thời gian dài.
- Đất đai là tư liệu sản xuất quan trọng không thể thay thế được trong
hoạt động nông nghiệp. Tuy nhiên, diện tích đất sản xuất nông nghiệp có xu

hướng giảm do tác động của quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá.
- Chủ thể chính của sản xuất nông nghiệp là nông dân với trình độ văn
hoá, khoa học và kỹ thuật rất thấp.
Ngoài những đặc thù trên, sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam còn có đặc
điểm sau:
- Việt Nam là một nước đất hẹp, người đông, bình quân diện tích đất
canh tác trên đầu người thấp (0.11ha/ người).
- Việt Nam nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm
quanh năm, tạo điều kiện thuận lợi cho các loại cây con phát triển. Khí hậu
Việt Nam lại có sự phân hoá theo độ cao và phân hoá theo hướng Bắc – Nam
tạo cơ hội để phát triển nhiều loại cây trồng vật nuôi khác nhau (kể cả những
loại cây ôn đới). Tuy nhiên, bên cạnh đó Việt Nam cũng là nơi gánh chịu
nhiều thiên tai, điều đó cũng tác động không nhỏ đến sản xuất nông nghiệp.
- Sản xuất nông nghiệp mang nặng thế độc canh lúa nước. Và trồng trọt
vẫn chiếm ưu thế trong sản xuât nông nghiệp, cơ cấu kinh tế nông nghiệp tồn
tại bất hợp lý trong thời gian dài.

6


- Nền nông nghiệp Việt Nam đang chuyển dần từ nền kinh tế tự cấp, tự
túc sang nền nông nghiệp hàng hoá quy mô lớn gắn với thị trường theo xu
hướng hội nhập quốc tế.
1.1.3. Sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
nước ta gắn với thị trường và điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của từng
vùng và của cả nước
Vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp gắn với thị trường là
yêu cầu cần thiết đối với sự phát triển kinh tế – xã hội đất nước bởi những lý
do sau:
Thứ nhất, xuất phát từ vai trò của nông nghiệp đối với đời sống kinh tế

xã hội của đất nước. Trong điều kiện thế giới có nhiều biến động phức tạp, ở
hầu hết các nước trên thế giới đều quan tâm đến phát triển nông nghiệp vì đây
là lĩnh vực rộng lớn, là nơi sản xuất lương thực, thực phẩm, cung cấp nguyên
liệu cho công nghiệp và hàng hoá xuất khẩu, là nguồn tích luỹ cho công
nghiệp hoá, nguồn cung cấp nhân lực và là thị trường tiêu thụ rộng lớn cho
công nghiệp và dịch vụ. Có thể nói sự phát triển của nông nghiệp gắn liền với
sự tồn tại và phát triển của nhân loại.
Thứ hai, từ thực trạng cơ cấu kinh tế nông nghiệp nước ta. Trong
những năm gần đây nông nghiệp nước ta đạt được những thành tựu nổi bật,
tạo tiền đề cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tuy nhiên kinh tế
nông nghiệp vẫn còn những hạn chế:
- Cơ cấu kinh tế nông nghiệp tuy có chuyển biến nhưng còn rất chậm,
kinh tế nông nghiệp chưa thoát khỏi tình trạng độc canh cây lương thực, tự
cấp tự túc là chính, sản xuất hàng hoá phát triển chậm, năng suất đất đai, năng
suất lao động, thu nhập và đời sống nông dân còn thấp. Chất lượng và giá cả
nông sản xuất khẩu thấp, thị trường tiêu thụ chưa ổn định.
- Nhiều vấn đề xã hội ở nông thôn, nhất là đời sống của cư dân nông
nghiệp đang đòi hỏi bức xúc phải giải quyết, trong đó nổi bật là khoảng cách

7


về thu nhập và đời sống giữa nông thôn và thành thị, giữa miền núi và miền
xuôi, giữa người nghèo và người giàu đang có xu hướng mở rộng; lao động
nông nghiệp dư thừa, thiếu việc làm, thu nhập của nông dân thấp, cuộc sống
còn nhiều khó khăn…
- Việc bảo vệ môi trường sinh thái trong nông nghiệp còn nhiều hạn
chế như rừng tiếp tục giảm, đất đai bị xói mòn, ô nhiễm môi trường do sử
dụng nhiều hoá chất độc hại chưa giảm.
Để khắc phục những hạn chế trên, đưa nông nghiệp và kinh tế nông

thôn phát triển thì yêu cầu cấp thiết là phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp.
Thứ ba, từ yêu cầu CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Đây là một
nhiệm vụ trọng tâm trước mắt và lâu dài của Nhà nước ta “nhằm xây dựng và
phát triển nền nông nghiệp bền vững, có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có
cơ cấu kinh tế hợp lý, năng suất lao động và hiệu quả kinh tế cao, đời sống vật
chất và tinh thần của dân cư nông nghiệp được nâng lên, đưa nông nghiệp
nông thôn trở thành giàu đẹp, tiến bộ, văn minh hiện đại”.
Thứ tư, từ yêu cầu đòi hỏi của thị trường trong nước và thế giới. Nền
kinh tế nước ta đang trong quá trình mở cửa và hội nhập với nền kinh tế trong
khu vực và trên thế giới, do vậy để nâng cao chất lượng và khả năng cạnh
tranh của nông sản hàng hoá, đa dạng hoá sản phẩm và thích ứng với sự biến
động của quan hệ cung cầu trên thị trường trong và ngoài nước đòi hỏi chúng
ta phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nhằm đáp ứng những nhu cầu
của thị trường.
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CƠ CẤU KINH TẾ, CƠ CẤU
KINH TẾ NÔNG NGHIỆP VÀ SỰ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
NÔNG NGHIỆP

1.2.1. Cơ cấu kinh tế

8


Sự phát triển sản xuất dẫn đến quá trình phân công lao động. Tuỳ vào
tính chất sản phẩm, chuyên môn kỹ thuật mà chia thành từng ngành, lĩnh vực
khác nhau. Nhưng trong nền sản xuất, các ngành, các lĩnh vực này không thể
hoạt động một cách độc lập mà phải có sự tương tác qua lại lẫn nhau, hỗ trợ
nhau, tuỳ thuộc vào nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Từ đó đòi hỏi nhận
thức đầy đủ về mối quan hệ giữa các bộ phận. Sự phân công và mối quan hệ

hợp tác trong hệ thống thống nhất là tiền đề cho quá trình hình thành cơ cấu
kinh tế.
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm cơ cấu kinh tế. Một
cách khái quát, cơ cấu kinh tế thường được hiểu là tổng thể các ngành, các
lĩnh vực, các bộ phận của hệ thống kinh tế với vị trí, tỷ trọng tương ứng
của chúng trong mối quan hệ hữu cơ tương đối ổn định. [13]
- Cơ cấu kinh tế được phân chia thành:
+ Cơ cấu kinh tế ngành: Phản ánh tỷ trọng mối quan hệ giữa các ngành
kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Thông thường khi xác định cơ cấu kinh tế
ngành người ta phân chia thành 3 ngành chính là nông nghiệp, công nghiệp –
xây dựng và dịch vụ. Mỗi ngành lại phân chia thành những phân hệ nhỏ khác
nhau. Sự biến đổi tỷ trọng của 3 ngành này tạo nên cơ cấu kinh tế trong
những thời kỳ phát triển nhất định.
+ Cơ cấu phân theo thành phần kinh tế: Phản ánh mối quan hệ, tỷ
trọng giá trị đóng góp của các thành phần kinh tế. Có thể phân chia các thành
phần kinh tế thành 2 khu vực lớn là khu vực Nhà nước và khu vực ngoài Nhà
nước, hoặc cũng có thể phân chia một cách cụ thể hơn. Ở nước ta, nếu xét
theo thành phần kinh tế thì cơ cấu kinh tế bao gồm 6 bộ phận:
• Thành phần kinh tế Nhà nước;
• Thành phần kinh tế tập thể;
• Thành phần kinh tế tư nhân;
• Thành phần kinh tế hộ gia đình;

9


• Thành phần kinh tế liên doanh, liên kết;
• Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
+ Cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ: Phản ánh khả năng kết hợp, khai
thác tài nguyên, tiềm lực kinh tế xã hội của các vùng phục vụ cho mục tiêu

phát triển nền kinh tế quốc dân thống nhất. Ở nước ta, cơ cấu kinh tế theo
vùng lãnh thổ được phân chia dựa vào điều kiện tự nhiên, tập quán sản xuất
và trình độ phát triển của các vùng.
Cơ cấu kinh tế mang tính khách quan phản ánh trình độ phát triển của
xã hội và các điều kiện phát triển của một quốc gia. Sự tác động từ chiến lược
phát triển kinh tế hay sự quản lý của Nhà nước có tác dụng thúc đẩy hoặc kìm
hãm sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong một thời gian nhất định chứ không thể
làm thay đổi được hoàn toàn nó.
Mặt khác, mỗi cơ cấu kinh tế lại mang tính lịch sử xã hội nhất định. Cơ
cấu kinh tế được hình thành khi quan hệ giữa các ngành, lĩnh vực, bộ phận
kinh tế được thiết lập một cách cân đối và sự phân công lao động diễn ra một
cách hợp lý.
Sự vận động và phát triển của lực lượng sản xuất là xu hướng phổ biến
ở mọi quốc gia. Song mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con
người với tự nhiên trong quá trình tái sản xuất mở rộng ở mỗi giai đoạn lịch
sử, ở mỗi quốc gia lại có sự khác nhau. Sự khác nhau đó bị chi phối bởi quan
hệ sản xuất, đặc trưng văn hoá xã hội và bởi các yếu tố lịch sử của mỗi dân
tộc. Các nước có hình thái kinh tế giống nhau song luôn có sự khác nhau
trong việc hình thành cơ cấu kinh tế bởi vì điều kiện kinh tế – xã hội, chiến
lược phát triển của mỗi nước có sự khác nhau.
Cơ cấu kinh tế được hình thành một cách hợp lý khi chủ thể quản lý
Nhà nước có khả năng nắm bắt các quy luật khách quan, đánh giá đúng nguồn
lực trong nước và nước ngoài để tác động trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá

10


trình hình thành cơ cấu kinh tế. Nhưng sự tác động này không mang tính áp
đặt duy ý chí mà là sự tác động mang tính định hướng.
- Xu hướng vận động của cơ cấu kinh tế:

Cơ cấu kinh tế luôn vận động nhưng là sự vận động trong mối quan hệ
cân đối ổn định. Các yếu tố cấu thành cơ cấu kinh tế luôn biến đổi, phá vỡ thế
cân bằng và lại được điều chỉnh để tạo ra sự cân đối ổn định.
Xu hướng vận động của nền kinh tế thế giới là tăng tỷ trọng của các
ngành công nghiệp, dịch vụ, giảm tỷ trọng của ngành nông nghiệp trong nền
kinh tế quốc dân. Nói như vậy có nghĩa là về giá trị sản lượng tất cả các
ngành đều phải tăng lên để đáp ứng nhu cầu của con người và sự gia tăng dân
số. Song về cơ cấu tỷ trọng giữa các bộ phận phải có sự thay đổi nghĩa là sự
phát triển của ngành công nghiệp và dịch vụ sẽ nhanh hơn sự phát triển của
ngành nông nghiệp.
Hiện nay ở các nước trên thế giới, quá trình CNH, HĐH đã giúp các
nước này sản xuất ra một khối lượng hàng hoá tương đối lớn vì vậy trong cơ
cấu kinh tế của họ các ngành sản xuất như nông nghiệp và công nghiệp có xu
hướng giảm mạnh, trong khi đó các ngành dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân
lại tăng lên nhanh chóng.
Còn ở nước ta, do đang trong quá trình CNH, HĐH nên các ngành công
nghiệp – xây dựng, dịch vụ cần phải tăng nhanh hơn nữa để cơ bản xây dựng
nước ta trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020.
Riêng trong ngành nông nghiệp, vừa phải giảm tỷ trọng của ngành
trong nền kinh tế, vừa thay đổi cơ cấu bên trong của ngành theo hướng giảm
tỷ trọng ngành trồng trọt, tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi.
1.2.2. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Nông nghiệp là một ngành sản xuất vật chất được hình thành sớm nhất
trong lịch sử phát triển kinh tế của nhân loại. Vì vậy, nó luôn có vai trò quan
trọng trong hoạt động của nền kinh tế quốc dân của hầu hết các nước trên thế

11


giới, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển như nước ta hiện nay. Cho

nên phát triển nông nghiệp là một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát
triển kinh tế – xã hội nước ta hiện nay.
Theo phân ngành kinh tế quốc dân của quốc tế cũng như của nước ta,
nền kinh tế quốc dân được chia thành 3 khu vực chính:
- Khu vực I: bao gồm nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp.
- Khu vực II: gồm công nghiệp và xây dựng.
- Khu vực III: gồm tất cả các ngành dịch vụ phục vụ cho sản xuất và
tiêu dùng cá nhân.
Từ đó cho thấy, nông nghiệp là một bộ phận cấu thành quan trọng trong
hệ thống nền kinh tế quốc dân. Nhưng đồng thời bản thân nông nghiệp cũng
là một hệ thống nhỏ được cấu thành bởi các bộ phận khác nằm trong tổng thể
hệ thống kinh tế quốc dân. Quá trình phát triển dẫn đến sự thay đổi của nông
nghiệp trong cơ cấu kinh tế nói chung, đòi hỏi bản thân ngành nông nghiệp
cũng phải có sự chuyển đổi phù hợp với các điều kiện và xu thế phát triển
chung.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp là thuật ngữ chỉ mối quan hệ hợp thành
của các sản phẩm nông nghiệp tuỳ theo mục tiêu sản xuất của con người ở
từng địa bàn cụ thể trong một khoảng thời gian nhất định.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp thường được nghiên cứu theo những nội
dung cơ bản sau:
Một là, cơ cấu kinh tế – kỹ thuật của nông nghiệp theo nghĩa rộng và
nghĩa hẹp:
- Ngành nông nghiệp (theo nghĩa rộng) là tổ hợp các ngành gắn liền
với quá trình sinh học gồm nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp. Khi phân
tích đánh giá cơ cấu kinh tế thì tiêu chí, cơ cấu ngành thường được xem trọng
nhất bởi vì nó phản ánh trình độ phát triển của phân công lao động xã hội.
Lực lượng sản xuất càng phát triển, phân công lao động xã hội càng sâu sắc,

12



tỷ mỉ thì càng có nhiều ngành kinh tế hình thành và phát triển đa dạng khác
nhau. Ở nước ta cho đến nay, về cơ bản vẫn là một nước nông nghiệp cho nên
sự phát triển của nó giữ vai trò quyết định trong kinh tế nông thôn, đồng thời
là một trong những ngành cơ bản của nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, nó vừa
chịu sự chi phối của nền kinh tế quốc dân vừa gắn bó chặt chẽ với các ngành
khác, vừa phản ánh những nét riêng biệt mang tính đặc thù của một ngành mà
đối tượng sản xuất là những cơ thể sống.
- Ngành nông nghiệp (theo nghĩa hẹp): bao gồm trồng trọt và chăn
nuôi. Trong trồng trọt được phân ra trồng cây lương thực, cây công nghiệp,
cây ăn quả… Ngành chăn nuôi gồm có chăn nuôi đại gia súc, gia súc, gia
cầm… Những ngành trên có thể phân ra thành các ngành nhỏ hơn. Chúng có
mối quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình phát triển và tạo thành cơ cấu
nông nghiệp. Hiện nay, trong cơ cấu nông nghiệp có hai vấn đề quan trọng là
cơ cấu hợp lý giữa trồng trọt và chăn nuôi, giữa trồng cây lương thực và cây
công nghiệp, cây ăn quả, cây thực phẩm. Chuyển từ trạng thái độc canh cây
lương thực sang đa canh cây trồng là xu hướng khách quan nhằm sử dụng hợp
lý các điều kiện và các nguồn lực như đất đai, lao động, tăng thu nhập cho
người lao động, đáp ứng nhu cầu đa dạng của xã hội cũng như phát huy được
một cách triệt để tiềm năng, lợi thế của từng địa phương trong quá trình phát
triển.
- Ngành lâm nghiệp bao gồm nhiều chủng loại thực vật và động vật
rừng. Đây là nguồn tài nguyên vô cùng phong phú và đa dạng. Rừng là một
nguồn lợi to lớn về kinh tế và có vai trò quan trọng trong việc phòng hộ, hạn
chế lũ lụt, phát triển du lịch. Cơ cấu kinh tế lâm nghiệp bao gồm các nội
dung: bảo tồn rừng tự nhiên, phát triển và trồng rừng, khai thác tài nguyên
rừng, chế biến lâm sản.
- Ngành ngư nghiệp: là một trong những ngành kinh tế quan trọng cấu
thành kinh tế nông thôn ở nước ta. Cơ cấu kinh tế ngư nghiệp bao gồm các


13


nội dung chủ yếu: nuôi trồng thuỷ sản, khai thác thuỷ hải sản, chế biến thuỷ
hải sản.
Hai là, cơ cấu vùng (lãnh thổ)
Nếu cơ cấu ngành kinh tế hình thành từ quá trình phân công lao động
xã hội và chuyên môn hoá sản xuất thì cơ cấu kinh tế vùng lại được hình
thành chủ yếu từ việc bố trí sản xuất theo không gian địa lý. Cơ cấu vùng và
cơ cấu ngành kinh tế thực chất là hai mặt của một thể thống nhất và đều là
biểu hiện của sự phân công lao động xã hội. Cơ cấu lãnh thổ hình thành gắn
liền với cơ cấu ngành và thống nhất trong vùng kinh tế. Ở nước ta, trong các
năm qua các vùng kinh tế sinh thái đã được hình thành và phát triển từng
bước tạo nên các vùng sản xuất nông nghiệp hàng hoá có trình độ chuyên
môn hoá cao như vùng trồng lúa, cây công nghiệp, cây ăn quả.
Ba là, cơ cấu thành phần kinh tế:
Cơ cấu kinh tế được hình thành từ chế độ sở hữu: “Một cơ cấu thành
phần kinh tế hợp lý phải dựa trên cơ sở hệ thống, tổ chức kinh tế với chế độ
sở hữu có khả năng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, thúc đẩy
phân công lao động xã hội”.
Ở nước ta, cơ cấu thành phần kinh tế tham gia trong lĩnh vực nông
nghiệp bao gồm: kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế các thể, kinh tế hộ;
trong đó, kinh tế hộ gia đình nông dân là chủ yếu và đang chiếm vai trò quan
trọng trong đời sống kinh tế nông nghiệp nước ta.
Ngoài 3 loại cơ cấu chính nêu trên, trong sản xuất nông nghiệp còn có
các loại cơ cấu khác như cơ cấu mùa vụ, cơ cấu công nghệ sử dụng trong
nông nghiệp…
- Cơ cấu mùa vụ nói lên thời điểm gieo trồng các loại cây, chu kỳ sinh
trưởng và thu hoạch chúng. Việc bố trí mùa vụ cho từng loại cây phụ thuộc
vào các yếu tố chính như thời tiết, đất đai, đặc điểm sinh học của giống cây

trồng, tiến bộ khoa học kỹ thuật… Trong sản xuất nông nghiệp, sự thay đổi

14


cơ cấu mùa vụ cũng bao hàm sự thay đổi cơ cấu cây trồng và góp phần vào
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
- Cơ cấu công nghệ nói lên tỷ trọng và mức độ áp dụng các loại công
nghệ trong sản xuất nông nghiệp như công nghệ lạc hậu, tiên tiến và hiện đại.
Ngày nay, dưới sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ nói chung và
trong lĩnh vực nông nghiệp nói riêng thì vịêc thay đổi từ công nghệ sản xuất
cũ, lạc hậu sang công nghệ tiên tiến, hiện đại là một yêu cầu cấp thiết nhằm
bảo đảm việc nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của các loại nông
sản của mỗi quốc gia.
1.2.3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng luôn
thay đổi theo từng thời kỳ phát triển bởi các yếu tố hợp thành cơ cấu kinh tế
không cố định. Đó là sự thay đổi số lượng các ngành (nông, lâm, ngư nghiệp)
hoặc sự thay đổi về quan hệ tỷ lệ giữa các ngành, các vùng, các thành phần do
sự xuất hiện hoặc biến mất của một số ngành và tốc độ tăng trưởng giữa các
yếu tố cấu thành cơ cấu kinh tế là không đồng đều.
Có thể nói, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là sự thay đổi
của cơ cấu kinh tế nông nghiệp từ trạng thái này sang trạng thái khác cho
phù hợp với môi trường phát triển [10]. Đây không đơn thuần là sự thay đổi
vị trí mà là sự biến đổi cả về lượng và chất trong nội bộ cơ cấu. Việc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp phải dựa trên cơ sở một cơ cấu hiện có, do đó
nội dung của chuyển dịch cơ cấu là cải tạo cơ cấu cũ, lạc hậu hoặc chưa phù
hợp để xây dựng cơ cấu kinh tế mới tiên tiến, hoàn thiện và bổ sung cơ cấu
kinh tế cũ nhằm biến cơ cấu cũ thành cơ cấu mới hiện đại và phù hợp hơn.
Như vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế thực chất là sự điều chỉnh cơ cấu trên 3

mặt biểu hiện của cơ cấu (ngành, vùng, thành phần) nhằm hướng sự phát triển
của toàn bộ nền kinh tế theo các mục tiêu kinh tế - xã hội đã xác định cho
từng thời kỳ phát triển.

15


- Mục đích của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp:
Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp cần được tiến hành
khẩn trương. Mục đích của chuyển dịch là tạo ra sự cân đối giữa nông nghiệp
và các ngành kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân. Đồng thời tạo dựng
một ngành nông nghiệp có cơ cấu hợp lý, qua đó phát huy mọi tiềm năng sản
xuất, lợi thế so sánh của từng vùng, từng miền và trên cả nước nhằm phát
triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá lớn, giải quyết công ăn việc làm cho
nông dân, nâng cao thu nhập và mức sống cho người nông dân ở nông thôn.
- Các điều kiện đảm bảo cơ cấu kinh tế nông nghiệp hợp lý:
+ Cơ cấu kinh tế phải phù hợp với các quy luật khách quan;
+ Cơ cấu kinh tế nông nghiệp phải phản ánh khả năng khai thác các
điều kiện tự nhiên và lợi thế so sánh của từng vùng, từng miền và trong cả
nước, đáp ứng được yêu cầu hội nhập với quốc tế và khu vực nhằm tạo ra sự
cân đối, phát triển bền vững.
+ Cơ cấu kinh tế nông nghiệp phải phù hợp với xu thế kinh tế chính trị
của khu vực và trên thế giới.
Bối cảnh thế giới và trong nước hiện nay đòi hỏi nền nông nghiệp Việt
Nam phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nhằm thích ứng với sự biến
động của quan hệ cung – cầu nông sản hàng hoá ở cả thị trường trong nước và
thế giới trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
1.3. VAI TRÒ VÀ NỘI DUNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI QUÁ
TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG
NGHIỆP


1.3.1. Vai trò quản lý của Nhà nước
Quản lý Nhà nước về kinh tế trong thời đại ngày nay trở thành nhân tố
cơ bản quyết định sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Đối với nước ta, quá trình phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp là vấn đề rộng lớn, phức tạp, chịu tác động bởi nhiều yếu tố khác

16


nhau như: thể chế, chính sách, điều kiện tự nhiên, khoa học công nghệ, vốn và
các điều kiện kinh tế – xã hội, yếu tố vùng địa lý, yếu tố thị trường và quan hệ
quốc tế… thì vai trò quản lý Nhà nước càng có ý nghĩa quyết định. Vai trò đó
được thể hiện trong việc Nhà nước thực hiện một cách đầy đủ, đúng chức
năng quản lý của mình đối với nền kinh tế nói chung và đối với nông nghiệp
nói riêng. Để đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp trong nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cần thiết phải đổi mới vai trò quản
lý của Nhà nước theo hướng xây dựng một thể chế nông nghiệp, nông thôn
hợp lý và đổi mới hoạt động của chính quyền các cấp, củng cố và tăng cường
vai trò của chính quyền các xã.
1.3.2. Nội dung quản lý Nhà nước về phát triển và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp
- Một là, quản lý Nhà nước về quy hoạch phát triển nông nghiệp
Quy hoạch, kế hoạch phát triển nông nghiệp nhằm đưa ra các định
hướng lớn có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với sự phát triển kinh tế – xã
hội ở nông thôn mà còn ảnh hưởng lớn tới bước tiến chung của cả nước. Vì
vậy, vấn đề quy hoạch phát triển nông nghiệp cần được xem xét trong mối
liên hệ chặt chẽ với quy hoạch xây dựng vùng nông thôn mới ở nước ta hiện
nay.
- Hai là, hướng dẫn, hỗ trợ quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất

nông nghiệp
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp phải được gắn liền với quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Điều này được thể hiện trong
quan điểm chỉ đạo của Đảng: “Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, gắn
phát triển nông nghiệp với công nghiệp chế biến, gắn sản xuất với thị trường
để hình thành sự liên kết nông – công nghiệp – dịch vụ và thị trường ngay
trên địa bàn nông thôn và trên phạm vi cả nước; gắn phát triển nông nghiệp
với xây dựng nông thôn mới…”

17


- Ba là, phát huy vai trò của các thành phần kinh tế trong nông
nghiệp
Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần góp phần xây dựng hệ thống
quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất đó.
Trước tiên, thực hiện công tác quản lý Nhà nước đối với các thành phần
kinh tế cần nắm vững địng hướng XHCN trong việc xây dựng nền kinh tế
nhiều thành phần như Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng đã nêu:[15]
+ Thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần. Trong kinh tế nông nghiệp, mỗi thành phần kinh tế đều
có vai trò riêng và đều được khuyến khích phát triển theo định hướng XHCN.
+ Chủ động đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế Nhà nước,
kinh tế hợp tác. Kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo cùng với kinh tế hợp
tác xã dần dần trở thành nền tảng. Nhà nước tạo điều kiện kinh tế và pháp lý
thuận lợi để các nhà kinh doanh tư nhân yên tâm đầu tư làm ăn lâu dài.
+ Xác lập, củng cố và nâng cao địa vị làm chủ của người lao động
trong nền sản xuất xã hội, thực hiện công bằng xã hội ngày một tốt hơn.
+ Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao
động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng

góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất – kinh doanh và phân phối thông
qua phúc lợi xã hội. Phân phối và phân phối lại hợp lý các thu nhập, khuyến
khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói, giảm nghèo.
+ Tăng cường hiệu lực quản lý vĩ mô của Nhà nước, khai thác triệt để
vai trò tích cực đi đôi với khắc phục và ngăn ngừa, hạn chế những tác động
tiêu cực của cơ chế thị trường. Bảo đảm sự bình đẳmg về quyền và nghĩa vụ
trước pháp luật của mọi doanh nghiệp và cá nhân, không phân biệt thành phần
kinh tế.
+ Giữ vững độc lập, chủ quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc trong
quan hệ với bên ngoài.

18


Thứ hai, thực hiện chủ trương, chính sách đối với từng thành phần kinh
tế trong sản xuất nông nghiệp.
- Bốn là, phát triển khoa học công nghệ, khuyến khích phục vụ sản
xuất và chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp
Bước vào thế kỷ 21, trước yêu cầu bức bách về phát triển một nền nông
nghiệp hàng hoá chất lượng cao, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng nông
sản Việt Nam, đòi hỏi lĩnh vực khoa học công nghệ phải được phát triển nâng
lên tầm cao mới, tạo ra bước đột phá về giống cây trồng, vật nuôi, các tiến bộ
về bảo vệ thực vật, thú y, các công nghệ chế biến, quản lý nguồn tài nguyên
thiên nhiên bền vững… ngang tầm với khu vực và thế giới. Nghị quyết số
09/2000/NQ-CP ngày 15/6/2000 của Chính phủ đã chỉ rõ nhiệm vụ và yêu
cầu phát triển khoa học công nghệ như sau: “Trong thập kỷ tới phải đưa trình
độ khoa học công nghệ của nhiều ngành trong nông nghiệp Việt Nam đuổi
kịp các nước trong khu vực và nâng cao mức đóng góp của tiến bộ khoa học
công nghệ vào giá trị gia tăng của nông nghiệp từ khoảng 30% hiện nay lên
trên 50%. Tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác khuyến nông,

khuyến lâm, khuyến ngư đến tận cơ sở và hộ nông dân, nhằm giúp nông dân
hiểu và áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật để nâng cao năng suất, chất
lượng và hạ giá thành sản phẩm nông nghiệp” [6].
- Năm là, hỗ trợ và thúc đẩy phát triển công nghiệp và dịch vụ nông
thôn, xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn.
+ Để phát triển nông nghiệp và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn,
Nhà nước cần có những chính sách, giải pháp hỗ trợ và thúc đẩy công nghiệp
phát triển, nhất là công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản đồng thời phát
triển mạnh mẽ các dịch vụ nông thôn. Bằng cách này có thể thu hút lực lượng
tại chỗ chuyển sang sản xuất công nghiệp và làm dịch vụ, hình thành các thị
tứ, đô thị vùng nông thôn, liên kết với các khu công nghiệp và đô thị lớn, thực
hiện điện khí hoá, cơ khí hoá và thuỷ lợi hóa trong sản xuất nông nghiệp.

19


+ Kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn như: thuỷ lợi, giao thông
nông thôn, điện, chợ, trường học… đóng vai trò quan trọng trong việc bảo
đảm cho nông nghiệp tăng trưởng và phát triển. Từ đặc điểm cơ bản của kết
cấu hạ tầng là vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn chậm hoặc gián tiếp, đòi
hỏi Nhà nước phải quan tâm và ưu tiên đầu tư nguồn vốn ngân sách vào xây
dựng các công trình kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi thu hút vốn đầu tư
và tạo nên thị trường thông suốt, tạo mối liên kết nhanh chóng với các vùng
trong nước và vươn ra thế giới. Kết cấu hạ tầng càng hoàn thiện thì quy mô,
tốc độ tăng trưởng kinh tế nông thôn và sản xuất nông nghiệp càng có điều
kiện mở rộng và tăng hiệu quả. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với những
vùng sản xuất hàng hóa lớn về lương thực, thực phẩm và nông sản xuất khẩu.

20



- Sáu là, giải quyết các vấn đề văn hoá - xã hội ở nông thôn:
Bên cạnh việc phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn, Nhà nước cần
tăng cường quản lý và nâng cao đời sống văn hoá - xã hội nông thôn trên các
lĩnh vực giáo dục, y tế, dân số và kế hoạch hoá gia đình, giải quyết việc làm,
xoá đói giảm nghèo, dân chủ ở cơ sở…
Ngoài những nội dung quản lý Nhà nước nói trên, trong quá trình phát
triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp đòi hỏi Nhà nước cũng phải
quan tâm đến những lĩnh vực liên quan trong quá trình quản lý như công tác
phòng chống lụt bão, giảm nhẹ thiên tai, bảo vệ môi trường, quản lý đất đai,
quản lý tài chính, thuế…
1.4. KINH NGHIỆM QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ
CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI

1.4.1. Kinh nghiệm của Thái Lan [9]
Thái Lan là một quốc gia nằm trong khu vực Đông Nam Á, thuộc khối
ASEAN, diện tích tự nhiên là 514.000 km 2; trong đó, diện tích đất canh tác là
20.800.000 ha, gấp 2,86 lần Việt Nam, bình quân đất canh tác trên đầu người
là 0,64ha/người. Hiện nay, Thái Lan đã trở thành nước phát triển trong khu
vực với thu nhập bình quân đầu người là trên 2.450 USD (năm 1998) mặc dù
40 năm trước Thái Lan cũng chỉ là một nước nông nghiệp lạc hậu, kém phát
triển như nước ta.
Qua nghiên cứu tài liệu chúng ta thấy thời kỳ đầu bước vào phát triển
kinh tế, Thái Lan đã chọn mô hình công nghiệp hoá đô thị và tập trung xây
dựng một số ngành công nghiệp trọng yếu như động lực, hoá dầu… nhưng
mô hình này vấp phải nhiều trở lực, nhất là làm cho nền nông nghiệp què
quặt, phân tán, kém phát triển. Trước tình hình đó, Chính phủ Thái Lan đã
chấp nhận những biện pháp đặc biệt để giải quyết tình hình tụt hậu của nông
nghiệp trong kế hoạch 5 năm lần thứ tư (1977 – 1981) để giải quyết tình trạng
nghèo khó của 15 triệu hộ nông dân. Do thay đổi chính sách phát triển kinh tế


21


nên các tiềm năng trong nông nghiệp bắt đầu phát huy tác dụng và đạt được
những kết quả đáng kể, qua đó từng bước đưa Thái Lan từ một nước nông
nghiệp còn lạc hậu trở thành nước nông nghiệp phát triển với nhiều sản phẩm
nông, lâm, ngư nghiệp có chất lượng, có sức cạnh tranh và hướng mạnh về
xuất khẩu (với thị trường tiêu thụ trên 100 nước). Ngày nay, Thái Lan trở
thành một trong những nước đứng đầu về xuất khẩu gạo, sắn, tôm, gà đông
lạnh, cao su, trái cây, hoa, cây cảnh…
Tóm lại, qua nghiên cứu tài liệu và thực tế quá trình công nghiệp hoá
nông nghiệp nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của Thái Lan hơn
40 năm qua có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm quý báu:
- Quá trình phát triển kinh tế đất nước phải toàn diện và trên quan điểm
“nông thôn là xương sống của đất nước”.
- Chính phủ đóng vai trò quan trọng trong việc đẩy mạnh quá trình phát
triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn thông qua các
chính sách đòn bẩy như chính sách đầu tư, chính sách tín dụng, thị trường, giá
cả; chính sách thuế, chính sách khuyến nông… Điển hình Chính phủ đã quan
tâm đến việc ổn định giá vật tư – lương thực (mặc dù tự do hoá thị trường)
thông qua việc thành lập uỷ ban về giá gạo, ngân hàng nông nghiệp và hợp
tác xã có chương trình đặc biệt cho vay bằng hiện vật (vật tư giá rẻ) thế chấp
bằng thóc, miễn thuế các mặt hàng do nông dân sản xuất và xuất khẩu.
- Thực hiện đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp, xây dựng sản phẩm
chiến lược trên cơ sở ưu thế về tài nguyên thiên nhiên để phục vụ cho mục
tiêu xuất khẩu, trong đó vẫn đảm bảo ổn định sản xuất lương thực, bảo vệ tài
nguyên theo hướng phát triển bền vững.
- Đầu tư kịp thời và đi trước một bước so với các nước trong khu vực
về công nghệ chế biến, bảo quản nông sản hiện đại để nâng cao chất lượng

sản phẩm xuất khẩu, bảo đảm quyền lợi và tránh được rủi ro cho nông dân,
giữ được chữ tín với khách hàng.

22


- Ngoài đầu tư cho nông nghiệp và công nghiệp chế biến, Thái Lan còn
quan tâm phát triển đồng bộ các ngành công nghiệp cơ khí, điện, giao thông,
công nghệ sinh học và thị trường phục vụ phát triển kinh tế nông nghiệp.
- Cho đến giai đoạn phát triển kinh tế ở mức độ cao, trọng tâm của
chính sách hiện đại hoá đất nước đã chuyển sang sản xuất sản phẩm công
nghệ cao nhưng Chính phủ vẫn quan tâm đến phát triển nông nghiệp như đổi
mới công nghệ sinh học, bảo quan và tiêu thụ nông sản (gạo, rau quả, thịt,
tôm…) và hỗ trợ nông dân đầu tư phát triển dưới nhiều hình thức.
1.4.2. Kinh nghiệm của Nhật Bản
Nhật Bản là nước nằm ở vùng Đông Á, diện tích tự nhiên là 372.313
km2, diện tích đất canh tác khoảng 4.422.000 ha chiếm 11,7% diện tích đất tự
nhiên do địa hình đồi núi. Vì vậy, Nhật Bản là nước có bình quân đất canh tác
trên đầu người vào loại thấp nhất thế giới (khoảng 390m 2/người). Tuy nằm ở
vùng Đông Á song Nhật Bản có điều kiện tự nhiên và kinh tế – xã hội lúc
xuất phát khá giống nước ta như đất ít, người đông, ruộng đất manh mún, quy
mô các hộ nông dân nhỏ bé, lúa nước là cây trồng chính.
Nhưng từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay, Nhật Bản là nước
đầu tiên ở Đông Á và Châu Á đưa nông nhiệp đi lên CNH, HĐH. Từ một nền
sản xuất thủ công, cổ truyền theo phương thức sản xuất Châu Á đến nay Nhật
Bản đã xây dựng được một nền nông nghiệp với trình độ khoa học công nghệ
cao đứng đầu Châu Á và mang những nét đặc thù Nhật Bản. Ngày nay, Nhật
Bản trở thành một trong những nước công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới,
có thu nhập bình quân trên đầu người năm 1998 là 40.940 USD.
Quá trình phát triển nông nghiệp ở Nhật Bản có những đặc điểm nổi bật

sau:
- Từ năm 1946 – 1950: Chính phủ đã trưng thu ruộng đất của địa chủ
đem bán lại cho nông dân tá điền với phương thức trả tiền dần. Từ đó hình
thành nền kinh tế hộ nông dân phát triển từ sản xuất tự túc lên sản xuất hàng

23


hoá theo mô hình trang trại gia đình. Ngay từ những năm 50, trong chính sách
khôi phục kinh tế, Chính phủ đã coi sản xuất nông nghiệp và công nghiệp
hàng tiêu dùng là hàng đầu, trong đó trọng tâm là thực hiện an toàn lương
thực và phát triển tổng hợp các cây con khác.
- Quá trình công nghiệp hoá nông nghiệp, Chính phủ đã tập trung các
chính sách, giải pháp để đưa nhanh các tiến bộ khoa học công nghệ và phục
vụ sản xuất, từ giống cây trồng, vật nuôi đến vật tư, kỹ thuật, máy móc thiết
bị, công nghệ sản xuất và chế biến nông sản trên cơ sở tham khảo và vận
dụng kinh nghiệm của thế giới nhưng có chọn lọc, cải tiến, sáng tạo nhằm đạt
hiệu quả kinh tế cao với chi phí thấp. Quá trình thực hiện thuỷ lợi hóa, cơ giới
hoá, hoá học hoá và điện khí hoá đã đạt được những kết quả lớn trực tiếp thúc
đẩy sản xuất, tăng năng suất lao động trong nông nghiệp.
- Chính phủ khuyến khích thành lập các hợp tác xã dịch vụ đầu vào và
đầu ra để phục vụ cho sản xuất kinh doanh của các trang trại và hộ nông dân.
Mạng lưới các hợp tác xã cung ứng vốn, vật tư, thiết bị nông nghiệp và tiêu
thụ nông sản có chân rết đến từng làng xã. Ở Nhật Bản có hơn 400.000 hợp
tác xã dịch vụ nông thôn đã cung cấp cho nông nghiệp 70% phân bón, 50%
hóa chất khác, 40% thức ăn gia súc, 45% máy công nghiệp và đảm nhiệm tiêu
thụ 95% sản phẩm lúa gạo, 25% rau quả, 16% sản phẩm thịt.
- Nhà nước khuyến khích phát triển ngành nghề truyền thống hướng
vào các hàng hoá tinh, mẫu mã đẹp, giá thành hạ để thu hút lao động nông
thôn và tăng thu nhập cho nông dân. Đặc biệt Chính phủ Nhật Bản đã thành

công trong việc xây dựng mô hình phát triển công nghiệp 3 tầng theo nguyên
tắc liên hoàn có quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ nhau phát triển. Trong đó
tầng 3 là công nghiệp hộ gia đình nông dân thực hiện các hợp đồng gia công
sản xuất các chi tiết máy đơn giản, yêu cầu kỹ thuật thấp cho các xí nghiệp ở
tầng 2 và cả tầng 1. Hoạt động của hệ thống công nghiệp 3 tầng đã thúc đẩy

24


chuyển dịch lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp ngay
tại các vùng nông thôn.
Tóm lại, qua nghiên cứu tình hình phát triển nông nghiệp, nông thôn
của Nhật Bản có thể rút ra bài học kinh nghiệm về khuyến khích phát triển
sản xuất hàng hóa trong các nông trại theo quy luật kinh tế thị trường có sự
điều tiết của Chính phủ. Đồng thời bằng tiềm lực kinh tế có được, Chính phủ
hỗ trợ nông dân ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại
vào sản xuất, chế biến nông sản hàng hoá, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng quan
trọng như thuỷ lợi, giao thông nông thôn, điện… Nhà nước chú trọng và
khuyến khích xây dựng, phát triển hệ thống các hợp tác xã đầu vào và đầu ra.
Bên cạnh phát triển nông nghiệp, để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn và
chuyển dịch lao động, Chính phủ khuyến khích phát triển nhiều ngành nghề
nông thôn, biến nông thôn thành khu vực sản xuất công nghiệp vệ tinh và
thực hiện đô thị hoá nông thôn.
1.4.3. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Trung Quốc là quốc gia thuộc khu vực Đông Á, có biên giới giáp với
Việt Nam, diện tích tự nhiên là 932.641 km 2, dân số đông nhất thế giới, bình
quân diện tích đất canh tác là 0,11ha/người. Trung Quốc có nhiều điểm tương
đồng về tự nhiên, kinh tế, chính trị và xã hội như nước ta. Khi mới giành độc
lập, Trung Quốc cũng là nước xuất phát điểm từ một nền nông nghiệp lạc hậu.
Công cuộc xây dựng CNXH ở Trung Quốc trong giai đoạn này khá giống với

Việt Nam là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, ít quan tâm đến nông
nghiệp, nông thôn.
- Thời kỳ cải cách ruộng đất từ năm 1950 – 1952, Nhà nước đã tịch thu
ruộng đất của địa chủ, không bồi hoàn đem chia cho tất cả nông dân không có
ruộng và thiếu ruộng đất, nông dân không phải trả tiền. Sau cải cách ruộng
đất, Trung Quốc tiến hành xây dựng hợp tác xã sản xuất nông nghiệp theo mô
hình tập thể hoá tư liệu sản xuất và nông trường quốc doanh trên cơ sở công

25


×