Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Một số vấn đề cơ bản về phí, lệ phí thuộc ngân sách nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.54 KB, 22 trang )

Học viện hành chính

KH10HCH1

LỜI MỞ ĐẦU
Thu Ngân sách nhà nước phản ảnh các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá
trình nhà nước sử dụng quyền lực chính trị để phân phối các nguồn tài chính của
xã hội dưới hình thức giá trị nhằm hình thành quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước.
Như vậy, thu ngân sách nhà nước bao gồm toàn bộ các khoản tiền được tập
trung vào tay nhà nước để hình thành quỹ ngân sách nhà nước đáp ứng cho các
nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Thu ngân sách nhà nước bao gồm: thu trong cân
đối ngân sách và thu bù đắp thiếu hụt của ngân sách. Đứng về phương diện pháp
lý, thu ngân sách nhà nước bao gồm những khoản tiền Nhà nước huy động vào
ngân sách để thỏa mãn nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Về mặt bản chất, thu
ngân sách nhà nước là hệ thống những quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và xã hội
phát sinh trong quá trình Nhà nước huy động các nguồn tài chính để hình thành
nên quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước nhằm thỏa mãn các nhu cầu chi tiêu của
mình. Lệ phí và phí là các khoản thu tuy chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng
nguồn thu của ngân sách nhà nước nhưng có ý nghĩa quan trọng vì nó liên quan
đến tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. Trong khuôn khổ bài tiểu
luận này, em xin phép được nói về thu ngân sách từ phí, lệ phí và thực trạng
hoạt động thu phí lệ phí ở nước ta trong những năm gần đây.
Do thời gian và trình độ cũng như khả năng có hạn nên bài tiểu luận của
em còn có những hạn chế thiếu sót. Vì vậy em rất mong được sự đóng góp của
các thầy giáo
Em xin chân thành cảm ơn!

1


Học viện hành chính



KH10HCH1

I. Một số vấn đề cơ bản về phí, lệ phí thuộc Ngân sách nhà nước
1.

Khái niệm, đặc điểm, bản chất, tác dụng của phí, lệ phí

1.1. Khái niệm phí và lệ phí
1.1.1. Khái niệm lệ phí
Một số hoạt động của bộ máy nhà nước mang tính phục vụ, nhất là những
hoạt động cung cấp dịch vụ quản lý nhà nước cho dân chúng và các tổ chức bên
ngoài. Ví dụ: đăng ký quốc tịch, hộ khẩu, bảo hộ quyền tác giả, cấp giấy phép
kinh doanh, công chứng, giấy phép xuất nhập khẩu… Bên cạnh những công
việc quản lý hành chính, các cơ quan nhà nước còn cung cấp các dịch vụ cho
người có nhu cầu như : kiểm dịch động thực vật, đo đạc và lập bản đồ địa chính,
chứng nhận xuất xứ hàng hóa, giám định hàng xuất nhập khẩu, thẩm định an
toàn bức xạ… Người thụ hưởng những dịch vụ này tất yếu phải trả cho cơ quan
cung cấp dịch vụ một khoản tiền gọi là lệ phí để bù đắp một phần kinh phí nhà
nước đã bỏ ra để cung cấp dịch vụ công. Lệ phí không phải giá cả của dịch vụ
công mà chỉ động viên một phần thu nhập của người thụ hưởng nhằm thực hiện
công bằng trong tiêu thụ dịch vụ công.
Như vậy, lệ phí là khoản tiền mà các tổ chức, cá nhân phải nộp cho một
cơ quan nhà nước khi thụ hưởng dịch vụ liên quan đế quản lý hành chính nhà
nước do cơ quan này cung cấp .
1.1.2. Khái niệm phí thuộc NSNN
Phí thuộc NSNN là khoản tiền mà các tổ chức và cá nhân phải trả cho
một cơ quan nhà nước khi nhận được dịch vụ do cơ quan này cung cấp. Trong
hoạt động xã hội, nhiều tổ chức kinh doanh lẫn tổ chức thuộc bộ máy công
quyền cung cấp ra bên ngoài những dịch vụ công. Phí của những dịch vụ này

chính là số tiền cần thiết phải thu của đối tượng thụ hưởng để bù đắp chi phí
hoạt động và có lợi nhuận ( đối với tổ chức kinh doanh).
1.2. Đặc điểm của phí, lệ phí thuộc NSNN
Mặc dù phí, lệ phí thuộc NSNN đều là những khoản thu thuộc hệ thống
thu NSNN song chúng có nhiều đặc điểm riêng.
2


Học viện hành chính

KH10HCH1

- Phí và lệ phí thuộc NSNN tuy không phải là giá bán của hàng hóa, dịch
vụ công nhưng ít nhiều mang tính bồi hoàn trực tiếp. Chính phủ cung cấp hàng
hóa, dịch vụ công không nhằm mục đích tìm kiếm thu nhập mà thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về mọi hoạt động của nền kinh tế - xã hội. Do vậy, phí,
lệ phí thuộc NSNN là những khoản thu góp phần giảm nhẹ gánh nặng chi tiêu
của nhà nước.
- Phí, lệ phí thuộc NSNN không thể đặt ra tùy tiện mà phải do cơ quan
nhà nước có thẩm quyền quy định. Nếu không, chúng không chỉ làm hao mòn
cơ sở của thuế mà còn ảnh hưởng nhiều đến thái độ của công chúng đối với nhà
nước. Do đó, mọi khoản phí, lệ phí thuộc NSNN phải công bố rõ ràng tại tất cả
các cơ quan cung cấp dịch vụ công.
- Phí và lệ phí là công cụ tài chính của nhà nước để điều chỉnh cả việc
cung cấp lẫn việc tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ công. Do vậy, xây dựng mức thu
đóng vai trò rất quan trọng. Khi một khoản phí và lệ phí được các cơ quan chức
năng của nhà nước xác định, nếu mức phí hoặc lệ phí được xác định là cao sẽ
làm giảm thu nhập của người thụ hưởng, và chắc chắn sẽ gây tâ lý tiêu cực đối
với người thụ hưởng hàng hóa, dịch vụ công, nếu mức thu quá ít thì việc thu lại
không đáng kể và không đảm bảo bù đắp chi phí của nhà nước đã bỏ ra.

1.3. Bản chất của phí, lệ phí thuộc NSNN
Phí là khoản thu nhằm thu hồi chi phí đầu tư cung cấp các dịch vụ công
cộng không thuần túy theo quy định của pháp luật và là khoản tiền mà các tổ
chức, cá nhân phải trả khi sử dụng các dịch vụ công cộng đó.
Thu phí tạo ra kinh phí để duy trì, bảo dưỡng, trùng tu, tái tạo các công
trình phúc lợi công cộng, đảm bảo cho các công trình này phát huy tác dụng lâu
dài và đạt hiệu quả cao.
Còn lệ phí là khoản thu gắn liền với việc cung cấp trực tiếp các dịch vụ
hành chính pháp lý của nhà nước cho các thể nhân, pháp nhân nhằm phục vụ
cho công viêc quản lý nhà nước theo quy định của pháp luật.

3


Học viện hành chính

KH10HCH1

1.4. Tác dụng của phí, lệ phí
Việc thu phí, lệ phí của nhà nước sẽ làm tăng thêm nguồn thu cho NSNN
để đầu tư cung cấp dịch vụ công cộng tốt hơn nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn
nhu cầu của xã hội.
Những người được hưởng lợi ích từ các hàng hóa, dịch vụ công cộng do
nhà nước đầu tư phải trả phí. Qua đây nâng cao ý thức sử dụng tiết kiệm, hiệu
quả đối với các tổ chức, cá nhân thụ hưởng dịch vụ , góp phần thực hiện công
bằng xã hội .
Đối với một nền kinh tế theo hướng cơ chế thị trường thì việc Chính phủ
đặt ra phí, lệ phí là hình thức tạo thị trường cho một số hoạt động công cộng.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và xu thế xã hội hóa, số thu từ phí,
lệ phí vào NSNN có thể không tăng nhưng sẽ góp phần giảm bớt gánh nặng cho

NSNN.
Phí, lệ phí giúp nhà nước thực hiện việc kiểm tra, giám sát mọi hoạt động
kinh tế - xã hội của các tổ chức, cá nhân trong xã hội.
2. Phân loại phí, lệ phí
2.1. Phân loại phí
Có nhiều cách để phân loại phí dựa vào các tiêu thức khác nhau để phân loại
• Theo chủ thể đầu tư và quản lý:
- Phí thuộc NSNN: là phí thu từ các dịch vụ do nhà nước đầu tư cung cấp
nhưng chưa chuyển giao cho các tổ chức, cá nhân thực hiện theo nguyên tắc
hạch toán.
- Phí không thuộc NSNN: là phí thu được từ các dịch vụ không do nhà
nước đầu tư hoặc do nhà nước đầu tư nhưng đã chuyển giao cho các tổ chức, cá
nhân thực hiện theo nguyên tắc hạch toán.
• Theo lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội:
- Phí phát sinh từ các lĩnh vực hoạt động kinh tế như:
+ Phí bảo vệ nguồn lợi thủy sản
+ Phí thẩm định đầu tư
4


Học viện hành chính

KH10HCH1

+ Phí thẩm định kinh doanh thương mại có điều kiện
+…
- Phí phát sinh từ các hoạt động văn xã như:
+ Phí tham quan
+ Phí thẩm định văn hóa phẩm
+ Học phí

+ Viện phí
+ ...
- Phí phát sinh từ các lĩnh vực khác như:
+ Án phí
+ Phí dịch vụ pháp lý
+ ...
• Theo cấp quản lý thuộc bộ máy nhà nước:
- Phí trung ương: là loại phí thuộc nguồn thu của ngân sách trung ương và
do cơ quan , đơn vị thuộc trung ương tổ chức thu.
- Phí địa phương: là loại phí thuộc nguồn thu của ngân sách địa phương
và do cơ quan , đơn vị thuộc địa phương tổ chức thu.
Hệ thống phí của Việt Nam hiện hành được phân loại theo tính chất, công
việc gắn với lĩnh vực, nhóm ngành có những đặc điểm về kinh tế, kỹ thuật tương
tự nhau để tránh trùng lắp và gắn với trách nhiệm của các bộ, ngành trong công
tác quản lý và kiểm soát đối với từng loại phí.
2.2. Phân loại lệ phí
Cũng như phí, lệ phí cũng có nhiều cách phân loai khác nhau
• Theo tính chất của các dịch vụ thu lệ phí:
- Lệ phí quản lý nhà nước liên quan đến quyền và nghĩa vụ của công dân như:
+ Lệ phí quốc tịch
+ Lệ phí hộ khẩu
+ Lệ phí cấp hộ chiếu
+ ...
5


Học viện hành chính

KH10HCH1


- Lệ phí quản lý nhà nước liên quan đến quyền sở hữu, quyền sử dụng tài
sản như:
+ Lệ phí trước bạ
+ Lệ phí địa chính
+…
- Lệ phí quản lý nhà nước liên quan đến sản xuất kinh doanh như:
+ Lệ phí cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
+ Lệ phí cấp giấy phép hành nghề
+…
- Lệ phí quản lý nhà nước đặc biệt về chủ quyền quốc gia như:
+ Lệ phí bay qua vùng trời
+ Lệ phí hoa hồng chữ ký
+…
- Lệ phí quản lý nhà nước trong các lĩnh vực khác như:
+ Lệ phí công chứng
+ Lệ phí cấp văn bằng
+…
• Theo cấp quản lý thuộc bộ máy nhà nước:
- Lệ phí trung ương quản lý: là loại lệ phí thuộc nguồn thu của ngân sách
trung ương và do các cơ quan, đơn vị thuộc trung ương tổ chức thu.
- Lệ phí địa phương quản lý: là loại lệ phí thuộc nguồn thu của ngân sách
địa phương, và do các cơ quan, đơn vị thuộc địa phương tổ chức thu.
Hệ thống lệ phí hiện hành ở nước ta được phân loại theo nhóm các công
việc quản lý nhà nước để thuận tiện cho công tác quản lý và kiểm soát đối với
từng loại lệ phí. Mỗi nhóm lại được chia thành các loại khác nhau.
3.

So sánh phí, lệ phí thuộc NSNN và thuế

• Giống nhau:

- Đều là nguồn thu chủ yếu, thường xuyên của NSNN
- Đều gắn với quyền lực nhà nước, có tính chất pháp lý cao
6


Học viện hành chính

KH10HCH1

- Đều là những công cụ phục vụ cho công tác quản lý điều hành xã hội
của nhà nước
• Khác nhau:
- Về tính pháp lý, thuế là khoản thu mang tính pháp lý cao hơn so với phí,
lệ phí.
Mỗi sắc thuế tương đương với một luật thuế và chỉ có cơ quan cao nhất
của nhà nước mới có thể ban hành luật thuế, vì thế tính pháp lý rất cao. Còn phí,
lệ phí thì chỉ cần cơ quan nhà nước đủ thẩm quyền là có thể ban hành các quy
định thu phí, lệ phí. Do đó tính pháp lý thấp hơn thuế.
- Về tính chất động viên, thuế là khoản thu không bồi hoàn trực tiếp, còn
phí, lệ phí là khoản thu có bồi hoàn trực tiếp của nhà nước, thể hiện bằng việc
trả tiền và được hưởng hàng hóa, dịch vụ do nhà nước cung cấp.
- Về mục đích sử dụng
Thuế và lệ phí nói chung là các khoản thu không gắn một cách rõ rệt với
mục đích sử dụng cụ thể, mà chủ yếu được sử dụng cho nhu cầu chi tiêu thường
xuyên nói chung của nhà nước .
Ngựơc lại, phí là khoản thu thường gắn với những mục đích cụ thể. Nói
chung, mục đích của loại phí nào thường được dùng đặt tên cho loại phí đó. Ví
dụ: phí cầu đường, học phí, viện phí….
- Về tác dụng phục vụ quản lý kinh tế - xã hội của nhà nước
Thuế là công cụ quan trọng điều tiết vĩ mô nền kinh tế của nhà nước, thuế

có tác dụng kích thích, hướng dẫn sản xuất và tiêu dung, tác động đến mọi mặt
của đời sống kinh tế - xã hội .
Phí và lệ phí là công cụ quản lý kinh tế - xã hội của nhà nước, nhưng có
phạm vi hẹp hon, mức độ yếu hơn so với thuế.
- Về quy mô phát sinh
Nói chung thuế có quy mô lớn, phát sinh tương đối tập trung, gắn liền với
các hoạt động của nền kinh tế quốc dân. Trong điều kiện kinh tế thị trường, thuế
là khoản thu chủ yếu của NSNN. Trong khi đó, phí và lệ phí là những khoản thu
7


Học viện hành chính

KH10HCH1

nhỏ, lẻ tẻ, rải rác ở nhiều lĩnh vực hoạt động. Vì vậy, phí và lệ phí thường được
giao cho chính quyềnđịa phương quản lý, chúng là khoản thu quan trọng của
ngân sách địa phương các cấp.
II. Quản lý thu phí và lệ phí thuộc ngân sách nhà nước
1. Phân cấp thẩm quyền quy định về phí và lệ phí
Thẩm quyền quy định về phí và lệ phí là thẩm quyền quy định mức thu,
chế độ thu nộp, quản lý và sử dụng tiền phí và lệ phí. Phân cấp thẩm quyền quy
định phí và lệ phí thu được thực hiện dựa vào tính chất và phạm vi ảnh hưởng
của tùng loại phí, lệ phí.
Chính phủ quy định đối với một số phí quan trọng, có số thu lớn, liên
quan đến nhiều chính sách kinh tế - xã hội của nhà nước. HĐND tỉnh thành
phố trực thuộc trung ương quy định đối với một số loại phí gắn liền với quản lý
đất đai, tài nguyên thiên nhiên, thuộc chức năng quản lý hành chính nhà nước
của chính quền địa phương. Bộ tài chính quy định đối với các loại phí con lại áp
dụng thống nhất trong cả nước.

Chính phủ quy định đối với một số phí quan trọng, có số thu lớn, có ý
nghĩa pháp lý quốc tế, HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quy định
đối với một số loại lệ phí gắn chức năng quản lý hành chính nhà nước của chính
quyền địa phương, phù hợp với đặc điểm và điều kiện cụ thể của địa phương.
Bộ Tài chính quy định đối với những lệ phí còn lại.
2. Xác định mức thu phí và lệ phí
Mức thu phí đối với các dịch vụ do nhà nước đầu tư phải bảo đảm thu hồi
vốn trong thời gian hợp lý, có tính đến những chính sách của nhà nước trong
tưng thơì kỳ. Mức thu phí đối với các dich vụ do tổ chức, cá nhân đầu tư vốn
phải bảo đảm thu hồi vốn trong thời gian hợp lý, phù hợp với khả năng đóng góp
của người nộp.
Căn cứ để xác định mức thu phí gồm vốn đầu tư để trang trải cho các chi
phí thực hiện các dich vụ thu phí, bao gồm cả các chi phí để thực hiện các việc
8


Học viện hành chính

KH10HCH1

thu phí; khả năng thu phí, hiệu quả thu phí dự kiến trong đề án thu phí, tính chất
đặc điểm của từng dịch vụ thu phí; Chủ trương chính sách của nhà nước, tình
hình kinh tế - xã hội và đặc điểm của các vùng trong từng tồi kỳ; Mức thu loại
phí tương ứng của các nước trong khu vực và thế giới nếu có.
Các khoản chi phí để thực hiện các dịch vụ thu phí bao gồm:
- Chi phí xây dựng, mua sắm, duy tu, bảo dưỡng, sửa chữa thường xuyên
và định kỳ máy móc, thiết bị, phương tiện làm việc… hoặc thuê ngoài tài sản
trực tiếp phục vụ công việc thu phí. Chi phí này được phân bổ theo mức độ hao
mòn của những tài sản trực tiếp phục vụ công việc thu phí;
- Chi phí vật tư, nguyên, nhiên, vật liệu sử dụng trong quá trình thực hiện

công việc thu phí;
- Chi trả các khoản tiền lương hoặc tiền công, các khoản phụ cấp, các
khoản đóng góp theo tiền lương, tiền công theo chế độ hiện hành cho lao động
trực tiếp thu phí, lệ phí;
Tổ chức, cá nhân được thu phí có trách nhiệm xây dựng mức thu kèm
theo đề án thu phí để trình cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định. Đề án
thu phí phải nêu rõ phương thức đàu tư sử dụng, thời gian đầu tư hoàn thành,
thời gian đưa dự án đầu tư vào sử dụng, thời gian dự kiến bắt đầu thu phí, dự
kiến mức thu và căn cứ xây dựng mức thu, đánh giá khả năng đóng góp của đối
tượng nộp phí, hiệu quả thu phí và khả năng thu hồi vốn. Mức thu phí trước khi
trình cơ quan có thẩm quyền hoặc ban hành có sửa đổi, bổ xung cần có ý kiến
của cơ quan tài chính cùng cấp (trừ trường hợp cơ quan xây dựng mức thu là cơ
quan tài chính). Ý kiến bằng văn bản của cơ quan tài chính phải được gửi kèm
trong hồ sơ trình duyệt mức thu phí và là một căn cứ pháp lý để cơ quan có thẩm
quyền xem xét, quyết định mức thu phí.
Việc xây dựng mức thu đối với những loại phí thuộc thẩm quyền của
chính phủ quy định được thực hiện theo quy định của chính phủ đối với từng
loại phí cụ thể, những loại phí thuộc thẩm quyền của bộ tài chính và thuộc thẩm

9


Học viện hành chính

KH10HCH1

quyền của HĐND cấp tỉnh quy định do UBND cấp tỉnh trình được thực hiện
theo hướng dẫn của Bộ Tài chính.
Mức thu lệ phí được ấn định trước bằng một số tiền nhất định đối với từng
công việc quản lý nhà nước,không nhằm mục đích bù đắp chi phí thực hiện công

việc thu lệ phí, phù hợp với thông lệ quốc tế.
Tổ chức được thu lệ phí có trách nhiệm xây dựng mức thu kèm theo văn
bản đề nghị thu lệ phí Bộ Tài chính để Bộ Tài chính trình Chính phủ xem xét
ban hành hoặc Bộ Tài chính nghiên cứu, ban hành theo thẩm quyền.
Riêng lệ phí trước bạ, mức thu được tính bằng tỷ lệ phần trăm trên giá trị
tài sản trước bạ theo quy định của Chính phủ.
3. Đối tượng nộp và các tổ chức, cá nhân được thu phí, lệ phí.
Đối tượng nộp phí và lệ phí là các thể nhân và pháp nhân được các tổ
chức,cơ quan của nhà nước cung cấp các dịch vụ công cộng theo quy định của
pháp luật có thu phí hoặc lệ phí. Các thể nhân và pháp nhân là đối tượng nộp phí
và lệ phí có nghĩa vụ thực hiện nộp phí, lệ phí theo đúng quy định của pháp luật.
Tất cả các khoản phí và lệ phí phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
quy định mới thu được. Các tổ chức, cá nhân được thu phí, lệ phí bao gồm :
- Cơ quan thuế nhà nước
- Cơ quan hải quan
- Cơ quan khác của nhà nước, tổ chức kinh tế, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ
trang nhân dân, tổ chức khác và cá nhân cung cấp dịch vụ, thực hiện công việc
theo quy định của pháp luật được thu phí lệ phí;
- Các tổ chức, cá nhân được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ủy quyền
việc thu phí, lệ phí.
4. Quản lý thu phí, lệ phí thuộc ngân sách nhà nước.
4.1. Đăng ký, khai, thu, nộp phí và lệ phí
Các tổ chức (không phải là cơ quan thuế, cơ quan hải quan) và cá nhân
thu phí, lệ phí phải đăng ký với cơ quan thuế địa phương về loại phí, lệ phí, địa
điểm thu, chứng từ thu và việc tổ chức thu phí, lệ phí theo đúng thời gian quy
10


Học viện hành chính


KH10HCH1

định trước khi bắt đầu thu phí, lệ phí. Tổ chức thu phí, lệ phí trực thuộc trung
ương, tỉnh hoặc cấp tương đương quản lý đăng ký với cục thuế tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương. Tổ chức thu phí, lệ phí trực thuộc quận, huyện, thị xã, thị
trấn, xã, phường hoặc cấp tương đương quản lý và cá nhân thu phí, lệ phí đăng
ký với chi cục thuế quận, huyện. Trường hợp thay đổi, kết thúc hoặc đình chỉ
thu phí, lệ phí thì phải thông báo với cơ quan thuế đúng thời gian quy định trước
khi thay đổi, kết thúc hoặc đình chỉ thu phí, lệ phí.
Tổ chức, cá nhân thu phí, lệ phí thực hiện khai phí, lệ phí từng tháng và
nộp tờ khai cho cơ quan thuế nơi đăng ký thu phí , lệ phí để theo dõi quản lý.
Trong trường hợp tháng không phát sinh số thu phí, lệ phí vẫn phải khai và nộp
tờ khai cho cơ quan thuế. Tổ chức, cá nhân thu phí, lệ phí phải khai đầy đủ
đúng mẫu tờ khai, đúng thời hạn theo quy định và phải chịu trách nhiệm trước
pháp luật về việc khai phí, lệ phí của mình.
4.2. Quản lý sử dụng tiền thu phí và lệ phí
Tiền phí , lệ phí do cơ quan thuế trực tiếp tổ chức thu và trường hợp tổ
chức khác thu phí, lệ phí đã được NSNN bảo đảm kinh phí cho hoạt động thu
phí, lệ phí theo dự toán hàng năm thì tổ hức thu phải nộp toàn bộ số tiền phí, lệ
phí thu được vào NSNN.
Trường hợp tổ chức thu chưa được NSNN bảo đảm kinh phí cho hoạt
động thu phí, lệ phí hoặc tổ chức thu được ủy quền thu phí, lệ phí thì tổ chức thu
được để lại một phần trong số tiền phí, lệ phí thu được để trang trải phí cho việc
thu phí, lệ phí, phần tiền phí, lệ phí còn lại phải nộp vào ngân sách nhà nước.
Phần phí, lệ phí để lại cho tổ chức thu để trang trải chi phí cho việc thu phí, lệ
phí được tính theo tỉ lệ phần trăm trên tổng số tiền phí, lệ phí thu được hàng
năm. Căn cứ vào tính chất, đặc điểm của từng loại phí, lệ phí và nội dung chi
cho việc thu phí và lệ phí, cơ quan nhà nước có thẩm quền quyết định tỷ lệ phần
trăm để lại cho tổ chức thu phí và lệ phí ổn định trong một số năm.


11


Học viện hành chính

KH10HCH1

Đối với phí thuộc NSNN mà tiền phí thu được được nhà nước đầu tư trở
lại cho tổ chức thu như học phí, viện phí… thì việc quản lý, sử dụng phải bảo
đảm đúng mục đích đầu tư trở lại và cơ chế quản lý tài chính hiện hành.
Tiền phí, lệ phí để lại cho tổ chứ thu không phải chịu thuế và được quản
lý, sử dụng như sau:
- Chi thanh toán cho cá nhân trực tiếp thực hiện công việc, dịch vụ và thu
phí, lệ phí như tiền lương, tiền công, phụ cấp lương, các khoản đóng góp theo
quy định được tinh trên tiền lương;
- Chi phí trực tiếp phục vụ cho việc thực hiện công việc, dịch vụ và thu
phí, lệ phí như văn phòng phẩm, vật tư, văn phòng, thông tin liên lạc, điện nước,
công tác phí… theo tiêu chuẩn định mức hiện hành;
- Chi sửa chữa thường xuyên, sửa chữa lớn tài sản, máy móc, thiết bị phục
vụ trực tiếp cho thực hiệnn công việc, dịch vụ và thu phí, lệ phí; khấu hao tài sản
cố định để thực hiện công việc, dịch vụ, thu phí;
- Chi mua sắm vật tư, nguyên liệu và các khoản chi khác liên quan trực
tiếp đến việc thực hiên công việc, dịch vụ và thu phí, lệ phí;
- Chi khen thưởng, phúc lợi cho cán bộ, nhân viên trực tiếp thực hiện
công việc, dịch vụ và thu phí, lệ phí trong đơn vị theo nguyên tắc bình quân một
năm, một người tối đa không quá ba tháng lương thực hiện nếu số thu năm nay
cao hơn năm trước và tối đa bằng hai tháng lương thực hiện nếu số thu năm nay
không cao hơn năm trước, sau khi đảm bảo các chi phí nêu trên.
Cơ quan nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện chế độ tự chủ,
tự chịu trách nhiệm theo quy định của chính phủ thì tiền phí và lệ phí để lại cho

cơ quan, đơn vị được quản lý và sử dụng theo chế độ quản lý tài chính nói trên.
4.3. Thu nộp tiền thu phí, lệ phí vào kho bạc nhà nước
Đối với phí, lệ phí do cơ quan thuế thu thì đối tượng nộp phí, lệ phí trực
tiếp nộp tiền phí, lệ phí vào KBNN ở địa phương nơi thu theo hướng dẫn của cơ
quan thuế. Trường hợp KBNN chưa tổ chức thu tiền phí, lệ phí trực tiếp từ đối

12


Học viện hành chính

KH10HCH1

tượng nộp thì cơ quan thuế thu tiền phí, lệ phí vào cuối ngày phải làm thủ tục
nộp hết số tiền phí, lệ phí đã thu trong ngày vào KBNN.
Đối với phí lệ phí do cơ quan nhà nước, tổ chức khác (ngoài cơ quan
thuế) thu thì cơ quan nhà nước, tổ chức thu phí, lệ phí được mở tài khoản tạm giữ
tiền phí, lệ phí tại KBNN nơi thu để theo dõi, quản lý tiền phí, lệ phí. Căn cứ vào
tình hình thu phí, lệ phí mà định kỳ hàng ngày hoăc hàng tuần, các cơ quan nhà
nước, tổ chức thu phí, lệ phí phải gửi số tiền phí, lệ phí đã thu được trong kỳ vào
tài khoản tạm giữ tiền phí, lệ phí và phải tổ chức hạch toán riêng khoản thu này.
Trường hợp pháp luật quy định tổ chức, cá nhân thu phí, lệ phí thực hiện
nộp tiền phí, lệ phí vào KBNN theo thông báo của cơ quan thuế thì trình tự, thủ
tục được thực hiện như sau:
- Nhận được tờ khai thu, nộp phí, lệ phí của tổ chức, cá nhân thu gửi tới
cơ quan thuế thực hiện kiểm tra tờ khai và thông báo cho cơ quan thu phí, lệ phí
về số tiền phí, lệ phí phải nộp, thời hạn nộp và chương, loại, khoản, mục, tiểu
mục theo mục lục NSNN quy định;
- Căn cứ vào thông báo nộp tiền phí, lệ phí của cơ quan thuế, tổ chức, cá
nhân thu phí, lệ phí làm thủ tục nộp KBNN theo đúng thời hạn quy định. Trường

hợp đã đến thời hạn nộp phí, lệ phí mà chưa nhận được thông báo của cơ quan
thuế, tổ chức, cá nhân thu phí, lệ phí chủ động nộp phí, lệ phí vào KBNN theo tờ
khai; nếu nộp thừa thì được trừ vào số phí, lệ phí phải nộp kỳ tiếp theo; nếu nộp
thiếu thì phải nộp đủ số còn thiếu vào kỳ nộp phí, lệ phí kế tiếp theo.
Tiền phí, lệ phí nộp vào KBNN được phân chia cho các cấp ngân sách và
được quản lý, sử dụng theo quy định của luật NSNN và các văn bản hướng dẫn
thi hành.
4.4. Kế toán, quyết toán phí và lệ phí
Tổ chức, cá nhân thu phí, lệ phí phải có trách nhiệm mở sổ sách kế toán
để theo dõi, phản ánh việc thu nộp và quản lý, sử dụng số tiền phí, lệ phí theo
chế độ kế toán thực hành của nhà nước; định kỳ báo cáo quyết toán việc thu, nộp
sử dụng số tiền phí, lệ phí theo quy định của nhà nước đối với từng loại phí, lệ
13


Học viện hành chính

KH10HCH1

phí; thực hiện chế độ công khai tài chính theo quy định của pháp luật. Trường
hợp thay đổi, kết thúc hoặc đình chỉ thu phí, lệ phí thì tổ chức, cá nhân thu phí,
lệ phí phải quyết toán phí, lệ phí đúng thời hạn quy định.
Quyết toán phí, lệ phí thuộc NSNN thực hiện cùng thời gian với quyết
toán NSNN. Cơ quan thuế thực hiện quyết toán số thu theo biên lai, tổng số thu,
số được để lại phải nộp NSNN. Cơ quan tài chính, cơ quan thuế quyết toán số
chi từ nguồn thu phí, lệ phí được để lại đơn vị theo quyết định của bộ tài chính
đối với từng loại phí, lệ phí.
III. Thực trạng hoạt động thu phí và lệ phí trong những năm gần đây
1. Ưu điểm
Thời gian qua, việc thực hiện Pháp lệnh Phí và lệ phí, chính sách huy

động và sử dụng các khoản đóng góp của nhân dân đã đạt được nhiều kết quả
tích cực, bước đầu lập lại trật tự kỷ cương trong việc tổ chức thu, nộp, quản lý
và sử dụng phí, lệ phí; góp phần huy động các nguồn lực tài chính cho đầu tư
phát triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn.
Các văn bản pháp luật về phí và lệ phí quy định khá đầy đủ, chi tiết, rõ
ràng về thẩm quyền ban hành và việc thu, nộp, quản lý, sử dụn phí, lệ phí .
Các quy định của pháp luật khá thường xuyên được sửa đổi, bổ sung
hoàn thiện cho phù hợp với thay đổi trong cơ chế quản lý, thực trạng kinh tế, xã
hội và yêu cầu mới trong quản lý phí, lệ phí trong điều kiện phát triển nền kinh
tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.
2. Nhược điểm
Bên cạnh những kết quả đã đạt được vẫn còn rất nhiều tồn tại trong việc
quản lý thu phí và lệ phí:
Các quy phạm pháp luật điều chỉnh phí, lệ phí quy định ở nhiều các văn
bản pháp luật khác nhau do nhiều cơ quan ban hành ở nhiều thời điểm khác
nhau, do nhiều quy định đã lạc hậu so với thực tế, không bao quát hết các nội
dung trong quản lý phí, lệ phí dẫn đến một thực trạng làm cho tính hệ thống
14


Học viện hành chính

KH10HCH1

thống nhất, tính toàn diện, tính pháp chế của pháp luật phí, lệ phí có thể bị phá
vỡ làm giảm tính hiệu quả của pháp luật trên thực tế.
Pháp lệnh về phí và lệ phí có quy định: hội đồng nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương quyết định thu phí, lệ phí, được phân cấp do ủy ban
nhân dân cùng cấp trình lên. Như vậy, tùy theo nhận định của từng cấp đơn vị
hành chính mà mỗi nơi sẽ quy định các loại phí theo các cách khác nhau làm

việc quyết định loại phí, mức phí, cách thức tổ chức thu, nộp, quản lý, sử dụng
không đồng bộ, chồng chéo lên nhau. Thực tế hiện nay còn có tình trạng một số
khoản phí, lệ phí không được qui định trong pháp lệnh nhưng lại được qui định
ở một số văn bản chuyên ngành. Hoặc các văn bản quy định một đường nhưng
thực tế lại làm một nẻo nhưng không thấy các cơ quan ban ngành đưa ra giải
pháp để xử lý.
Những điều trên cho thấy có sự không đồng bộ, không thống nhất và
chồng chéo giữa các văn bản quy phạm pháp luật, hoặc văn bản pháp luật được
ban hành nhưng lại không được thực thi trên thực tế do không có cơ chế đảm
bảo thực hiện, cụ thể ở đây là các văn bản liên quan đến vấn đề phí và lệ phí.
Một số khỏan phí, lệ phí chưa được đưa vào dự toán hàng năm. Trên thực
tế, các cơ quan, đơn vị Nhà nước vẫn được để lại một phần từ nguồn thu phí, lệ
phí để bù đắp chi phí thu, phần còn lại mới nộp vào NSNN. . một số khoản phí,
lệ phí chưa được ghi thu, ghi chi kịp thời vào ngân sách khiến người dân băn
khoăn, chẳng hạn viện phí, học phí. .. Khoản phí, lệ phí là con số không nhỏ
(ước tính hàng ngàn tỷ đồng) và đây là nguồn thu ngân sách nhà nước cần phải
được đưa vào cân đối, bố trí trong dự toán hàng năm. Việc để lại chi phí thu như
vậy chưa đáp ứng được nguyên tắc đầy đủ của NSNN và gây phức tạp trong
công tác quản lý. Mặt khác, việc xác định tỷ lệ để lại chưa thống nhất, dẫn đến
một số cơ quan hành chính không chỉ bù đắp cho chi phí thu mà còn để sử dụng
cho các nhiệm vụ khác, gây bất bình đẳng giữa các cơ quan với nhau.

15


Học viện hành chính

KH10HCH1

Một số địa phương chậm bãi bỏ các khoản phí, lệ phí không đúng quy

định của pháp luật; có một số khoản phí, lệ phí được ban hành không đúng thẩm
quyền, không phù hợp với quy định của pháp luật;
Việc thu và sử dụng các khoản thu từ phí, lệ phí còn thiếu công khai,
minh bạch. Có thực trạng nhiều địa phương “bày” ra vận động dân đủ loại quỹ
nhưng chỉ ghi sổ chứ không có phiếu thu, không công khai việc sử dụng. Có nơi
còn vận động “có điều kiện”, khi ký hồ sơ giấy tờ cho dân lại vận động dân hỗ
trợ! Nhưng câu trả lời là: Địa phương vận động chứ không bắt buộc, nếu dân
thấy không hợp lý thì có quyền không đóng (?)
Thế nhưng, người dân vẫn phải còng lưng ra đóng một số loại phí đã được
loại bỏ dưới hình thức vận động các quỹ.
Trong 340 loại phí, lệ phí Chính phủ chỉ đạo các địa phương phải bãi bỏ
thì một số địa phương vẫn chưa có báo cáo cụ thể về việc bãi bỏ.
Có những loại phí Trung ương ban hành không phù hợp thực tế. Theo
đánh giá của Ủy ban Tài chính - ngân sách của Quốc hội, Chính phủ vẫn chưa
bao quát hết những khoản phát sinh phí, lệ phí và mức thu chưa phù hợp với cơ
chế thị trường, chậm được bổ sung.
Cụ thể, phí kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm được quy định mức thấp
nhất là 200.000 đồng/lần. Mức này được áp dụng cho những người mua bán,
kinh doanh nông hải sản từ 20 tấn trở lên.
Thế nhưng, đối với những hộ tiểu thương buôn bán nhỏ ở chợ; mua gánh
bán bưng cũng bị chụp vô một rọ vì đó là mức thấp nhất rồi. Người buôn bán
nhỏ cũng đè cổ bắt đóng bằng người buôn bán lớn thì dân nghèo chịu sao nổi
Rồi có những chuyện khi giá bán biểu mẫu của trung ương cao hơn mức
phí mà địa phương được thu như trường hợp thu lệ phí bản sao kết hôn. Theo
quyết định của UBND TP thì mức thu lệ phí cấp bản sao kết hôn là 2.000
đồng/bản sao thế nhưng giá mua mỗi tờ mẫu này tại NXB Bộ Tư pháp lại là
2.500 đồng/bản. Chỉ tính tiền chi ra - thu vào đã lỗ rồi chứ chưa tính chi phí giấy
mực…
16



Học viện hành chính

KH10HCH1

Người dân phải gánh quá nhiều loại phí. Việc đóng góp phí, lệ phí là một
việc rất bình thường bởi người dân phải có trách nhiệm đóng góp vào ngân sách
nhà nước thông qua việc sử dụng các dịch vụ hoặc một số công việc liên quan
đến quản lý nhà nước. Nguồn thu đó góp phần đầu tư vào các công trình phục vụ
chính người dân.
Nhưng Chưa bao giờ người dân ta phải nộp và có lẽ sẽ còn phải nộp nhiều
loại phí và lệ phí với mức thu cao như hiện nay. Nhất là nhân dân thành thị.
Loại trừ các khoản phí, lệ phí phải nộp theo qui định của Nhà nước khi
giải quyết các việc hành chính, mỗi hộ dân còn phải đóng góp hằng năm từ 2,5 5,2% thu nhập bình quân của mình cho các loại phí khác, điều này gây khó khăn
cho họ trong đầu tư sản xuất, đi lại, học hành, y tế...
Hiện nay, vấn đề về phí và lệ phí đang là đề tài nóng mà dư luận rất quan
tâm vì ảnh hưởng nhiều tới quyền lợi của người dân. Rất nhiều bất cập trong
việc thu các loại phí giao thông như phí chồng phí, quá nhiều trạm thu phí san
sát nhau không đảm bảo khoảng cách giữa hai trạm thu phí tối thiểu phải từ
70km trở lên hoặc dù không sử dụng đường nhưng vẫn phải đóng phí , rồi vấn
đề thu phí phương tiện cá nhân,… tính ra một xe máy sẽ chịu năm loại phí, ôtô
và xe tải sẽ chịu chín loại phí.
Ngay người nghèo chạy xe ôm cũng phải đóng “bến đậu” cho phường
20.000 đồng/tháng. Các phường tự phát hành biên lai thu, không nộp ngân sách
mà để giải quyết đời sống cán bộ.
Ngành chức năng cứ đưa ra mức thu và người dân chỉ có cách là nộp mà
không có sự lựa chọn nào khác bởi hầu hết các khoản phí, lệ phí đều đánh vào
các tiêu dùng thiết yếu và cũng không biết kêu ai.
Hiện nay Các khoản phí liên tục tăng làm giảm thu nhập và khiến chi trả
thực tế của người dân trong cuộc sống hằng ngày tăng lên. Như vậy, người dân

sẽ phải bóp mồm bóp miệng khi chi cho các khoản khác.

17


Học viện hành chính

KH10HCH1

Việc áp các phí này cũng làm tăng chi phí của toàn xã hội và đánh trực
tiếp vào giá của từng quả trứng, mớ rau. Khi người dân không chi tiêu nhiều, giá
thành bị đội lên thì sức mua của nền kinh tế không phát triển.
Việc thu phí, lệ phí còn nhiều bất cập như vậy nhưng cơ chế kiểm tra,
kiểm soát đối với việc tổ chức thu phí, quản lý sử dụng các loại phí này của các
tổ chức, cá nhân được quyền thu phí còn lỏng lẻo. Công tác kiểm tra, kiểm soát
thực hiện pháp lệnh phí và lệ phí còn nhiều hạn chế, thiếu chặt chẽ.

18


Học viện hành chính

KH10HCH1

KẾT LUẬN
Cùng với thuế, phí và lệ phí đóng vai trò cung rất quan trọng trong quá
trình hoạt động quản lý hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, tạo môi
trường pháp lý bình đẳng, tăng thu ngân sách nhà nước góp phần đẩy lùi lạm
phát ổn định giá cả, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. TUy nhiên có thể thấy rằng
hoạt độngthu phí, lệ phí hiện nay ở nước ta còn nhiều hạn chế, vì vậy nhà nước

cần có những điều chỉnh hợp lý nhất để góp phần đảm bảo an sinh xã hội phù
hợp với mục tiêu phát triển của đất nước

19


Học viện hành chính

KH10HCH1

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Giải đáp về quản lý tài chính công, TS. TRần Văn Giao, NXB. Chính

trị quốc gia, Hà Nội, 2009.
2.

Giáo trình Quản lý tài chính công, NXB. Tài chính, Hà Nội, 2007

3.

www.google.com.vn

20


Học viện hành chính

KH10HCH1


MỤC LỤC

21


Học viện hành chính

KH10HCH1

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH

TIỂU LUẬN
MÔN: QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CÔNG VÀ CÔNG SẢN
ĐỀ TÀI:

PHÍ VÀ LỆ PHÍ THUỘC NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

Giảng viên: KHUẤT VIỆT HẢI
Sinh viên
:
Lớp
: KH10 - HCH1

Hà Nội, năm 2012

22




×