Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.73 KB, 11 trang )

I. Đặt vấn đề:
V.L.Lênin đã nói về tập trung dân chủ: “…chế độ tập trung được hiểu theo
nghĩa thực sự dân chủ, đã bao hàm khả năng…phát huy một cách đầy đủ và tự
do không những đặc điểm của địa phương mà cả những sáng kiến của địa
phương, tính chủ động của địa phương, tính muôn hình muôn vẻ của đường lối,
của phương pháp và phương tiện để đạt đến mục đích chung.” Nguyên tắc tập
trung dân chủ là một nguyên tắc quan trọng được vận dụng trong tổ chức và hoạt
động của các cơ quan hành chính nhà nước nói riêng của toàn bộ cơ quan nhà
nước nói chung. Phạm vi bài viết sẽ phân tích nguyên tắc tập trung – dân chủ và
chỉ ra ý nghĩa của nguyên tắc này trong quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam
hiện nay
II. Giải quyết vấn đề:
1. Nguyên tắc tập trung dân chủ và cơ sở pháp lý:
Tập trung dân chủ là nguyên tắc chính trị xã hội và là một trong những
nguyên tắc cơ bản trong quản lí hành chính nhà nước. Nó được quy định trong
điều 6 Hiến pháp 1992(sửa đổi 2001): “Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ
quan khác của nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân
chủ”. Nguyên tắc này là sự kết hợp giữa tập trung và dân chủ, coi đây là hai mặt
của vấn đề và không thể thiếu một trong hai yếu tố để thực hiện quản lý hành
chính nhà nước. Tập trung ở đây được hiểu là việc đảm bảo mọi quyền lực nhà
nước thống nhất thuộc về chủ thể quản lý có thẩm quyền để thực hiện công việc
quản lý nhà nước một cách thống nhất thông qua chỉ đạo điều hành. Dân chủ lại
là việc mở rộng quyền cho đối tượng quản lý nhằm phát huy được mặt tích cực,
khả năng của tập thể và cụ thể là đối tượng quản lý trong việc thực hiện chính
sách pháp luật. Như đã nói, tập trung và dân chủ luôn phải gắn liền với nhau.
Nếu chỉ có sự tập trung không nó sẽ dẫn đến lạm quyền, quan liêu tham nhũng,
những “căn bệnh” nguy hiểm của quản lý nhà nước. Còn nếu chỉ có dân chủ mà
1


không có sự thống nhất sự tập trung sẽ dẫn đến dân chủ quá trớn, dẫn đến tình


trạng tuỳ tiện, vô chính phủ đến lúc đó công việc quản lý khó mà có thể thực
hiện một cách chính xác và đúng đắn.
2. Biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành
chính nhà nước ở Việt Nam:
Nguyên tắc tập trung dân chủ được coi là một trong những nguyên tắc cơ bản
trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Việt Nam, cụ thể hơn nó là một
nguyên tắc quan trọng trong quản lý hành chính nhà nước và được thể hiện qua
nhiều mặt của công việc quản lý, góp phần quan trọng vào hoạt động quản lý.
2.1. Sự phụ thuộc của cơ quan hành chính nhà nước vào cơ quan
quyền lực cùng cấp:
Cơ quan quyền lực nhà nước như Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp
là những cơ quan đại diện cho ý chí của nhân dân, được nhân dân bầu ra và coi
là công cụ để họ thực hiện quyền lực nhà nước. Còn các cơ quan hành chính lại
là do các cơ quan quyền lực thành lập ra nhằm thực hiện chức năng quản lý hành
chính nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội và các cơ quan này được
hình thành thành một hệ thống từ trung ương đến địa phương. Chính vì vậy mà
cơ quan hành chính luôn có sự phụ thuộc vào cơ quan quyền lực cùng cấp sự phụ
thuộc được thể hiện dưới nhiều góc độ.
Thứ nhất có thê nói đến đó là việc thành lập, xác nhập hay giải thể của các
cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp hoặc việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi
nhiệm các vị trí trong cơ quan hành chính nhà nước có thể do cơ quan quyền lực
nhà nước thực hiện hay những người có quyền hạn trong cơ quan quyền lực thực
hiện theo quy định của pháp luật. Chính phủ là do Quốc hội thành lập ra trao cho
quyền hành pháp. Ở địa phương, uỷ ban nhân dân các cấp do hội đồng nhân dân
cùng cấp bầu ra và thực hiện qủan lý ở địa phương được quy định tại điều 123
Hiến pháp 1992(sửa đổi 2001): “Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu là
2


cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính Nhà nước ở địa

phương, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của các cơ
quan Nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân”. Các cơ quan
trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước đều do cơ quan quyền lực nhà nước
thành lập, thay đổi hay bãi bỏ một cách trực tiếp hay gián tiếp. Ví dụ như khi
quy định về nhiệm vụ quyền hạn của Quốc hội tại điều 84 cũng đã nói đền việc
Quốc hội có quyền thành lập hoặc bãi bỏ các bộ, cơ quan ngang bộ thuộc Chính
phủ hay trong luật tổ chức hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân tại điều 17
cũng đã công nhận quyền hạn của hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong việc quyết
định thành lập, sáp nhập, giải thể một số cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban
nhân dân cùng cấp theo hướng dẫn của Chính phủ…
Về hoạt động, các cơ quan hành chính nhà nước luôn phải chịu sự giám
sát, chỉ đạo và phải chịu trách nhiệm báo cáo hoạt động trước cơ quan quyền lực
nhà nước cùng cấp. Chính phủ cũng như Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm
trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Uỷ ban nhân dân là cơ quan chịu trách nhiệm chủ yếu trong việc triển khai, tổ
chức thực hiện các nghị quyết của hội đồng nhân dân, biến các nghị quyết đó
thành hiện thực và phải chịu trách nhiệm, báo cáo công tác trước hội đồng nhân
dân cùng cấp.
Thông qua tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước có
thể thấy được rõ được mục tiêu tập trung quyền lực vào hệ thống cơ quan quyền
lực nhưng không phải vì vậy mà yếu tố dân chủ không được đề cập đến. Yếu tố
này luôn đan xen và hiện hữu cùng với tập trung. Việc hướng dẫn, kiểm tra,
giám sát hoạt động của các cơ quan quyền lực đối với cơ quan hành chính chỉ
mang tính chất định hướng hướng dẫn tạo điều kiện phát huy tính chủ động sáng
tạo trong việc thực hiện hiến pháp, luật và các văn bản khác. Cơ quan quyền lực
không can thiệp vào quá sâu hoạt động của các cơ quan hành chính mà chỉ tạo ra
3


những điều kiện cần thiết, hỗ trợ đúng lúc để các cơ quan này hoàn thành tốt

chức năng quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Thêm vào đó, việc tập trung mọi quyền lực vào cơ quan quyền lực ngay trong đó
đã thể hiện được yếu tố dân chủ. Trong hệ thống cơ quan quyền lực, Quốc hội và
Hội đồng nhân dân lại do nhân dân cả nước bầu theo con đường bầu cử, hoạt
động theo ý chí và nguyện vọng của chính nhân dân, do nhân dân làm chủ.
2.2 Sự phục tùng của cấp dưới đối với cấp trên, địa phương đối với trung
ương:
Sự phục tùng cũng được thể hiện thông qua cả hai phương diện là tổ chức và
hoạt động và hoàn toàn hợp pháp dựa trên quy định của pháp luật.
Về tổ chức, sự phục tùng được thể hiện qua việc chấp hành các yêu cầu liên
quan đến tổ chức mà cấp trên đưa ra. Kết quả bầu cử các thành viên thuộc Uỷ
ban nhân dân cấp dưới phải được sự phê chuẩn của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
cấp trên trực tiếp thông qua. Mọi quyết định của cấp trên liên quan đến nhân sự,
tổ chức phải được cấp dưới chấp hành nghiêm chỉnh và đúng đắn tạo điều kiện
cho hoạt động quản lý được tiến hành có hiệu quả.
Về hoạt động, sự phục tùng lại càng được thể hiện rõ nét. Hiến pháp có quy
định về quyền hạn của Chính phủ trong việc “lãnh đạo công tác của các Bộ, các
cơ quan ngang Bộ và các cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp,
xây dựng và kiện toàn hệ thống thống nhất bộ máy hành chính Nhà nước từ
trung ương đến cơ sở…”. Thêm vào đó, Uỷ ban nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh
đạo của Uỷ ban nhân dân cấp trên và tất cả chịu sự lãnh đạo của Chính phủ. Do
đó, văn bản của uỷ ban nhân dân ban hành(quyết định, chỉ thị) không được trái
với nội dung của cơ quan hành chính cấp trên và Chính phủ. Chính sự phục tùng
này đảm bảo cho cấp trên và trung ương tập trung quyền lực để chỉ đạo, giám sát
hoạt động của cấp dưới và điạ phương thể hiện rõ yếu tố tập trung. Nếu không có
sự phục tùng này sẽ dẫn đến việc buông lỏng sự lãnh đạo quản lý tập trung của
4


trung ương và cấp trên, làm nảy sinh tình trạng tùy tiện, vô chính phủ. Nhưng

việc phục tùng, tập trung này phải dựa trên cơ sở quy định pháp luật, không phải
là phục tùng vô điều kiện và phải gắn liền với dân chủ, không thể là có tập trung
mà không có dân chủ. Trong quá trình thực hiện, cấp dưới, địa phương có quyền
phản ánh những kiến nghị của mình lên cấp trên trung ương; có quyền chủ động
sáng tạo trong hoạt động thực hiện của mình cho phù hợp với điều kiện của địa
phương. Cấp trên trung ương vì thế mà cũng phải giúp đỡ cấp dưới, địa phương
tháo gỡ các vướng mắc khó khăn trong quá trình thực hiện quyết định của mình.
2.3 Việc phân cấp quản lý:
“Phân cấp quản lý là sự chuyển giao thẩm quyền từ cấp trên xuống cấp
dưới nhằm đạt được một cách có hiệu quả mục tiêu chung của hoạt động quản lý
hành chính nhà nước”( Giáo trình luật hành chính Việt Nam trang 306). Đây là
một biện pháp quan trọng trong việc cải cách hành chính nhà nước và còn là xu
hướng phổ biến trên thế giới. Phân cấp quản lý là để trung ương làm đúng chức
năng của mình, chủ yếu tập trung vào hoạch định chính sách vĩ mô; xây dựng thể
chế; thanh tra, kiểm tra... Tổ chức thực hiện cụ thể, quản lý cụ thể thì chính
quyền địa phương do sát dân, sát việc nên có khả năng quản lý tốt hơn. Phân cấp
quản lí là một biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ. Những vấn đề quan
trọng, cơ bản liên quan đến nhiều lĩnh vực trong xã hội thì do trung ương đảm
nhiệm, những vấn đề cụ thể, mang đặc điểm của từng địa phương thì do cơ quan
ở địa phương quản lý.
Để đảm bảo tính tập trung dân chủ, việc phân cấp quản lý cần phải đảm
bảo: trung ương có quyền quyết định trong lĩnh vực then chốt, chiến lược, đảm
bảo sự quản lý tập trung thống nhất; mạnh dạn giao quyền cho các địa phương
phát huy tính chủ động sáng tạo; việc phân cấp quản lí phải thật cụ thể, hợp lí
trên cơ sở những quy định của pháp luật, tránh trường hợp chồng chéo gây mất

5


hiệu quả. Do ý nghĩa của phân cấp quản lý là rất lớn và việc phân cấp này còn

phụ thuộc vào các vấn đề: cơ sở kinh tế xã hội, kết cấu hạ tầng…việc ban hành
các quyết định về phân cấp quản lý cần có sự cân nhắc kĩ càng và bao giờ cũng
được thể hiện trong văn bản của cơ quan có thẩm quyền như nghị quyết của
Chính phủ về tiếp tục đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và
chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương số 08/2004/NQ-CP.
2.4. Sự hướng về cơ sở:
“Hướng về cơ sở là việc cơ quan hành chính nhà nước mở rộng dân chủ
trên cơ sở quản lí tập trung đối với hoạt động của toàn bộ hệ thống các đơn vị
kinh tế, văn hoá- xã hội trực thuộc.”(Giáo trình Luật hành chính trang 93). Các
đơn vị cơ sở của bộ máy hành chính là nơi trực tiếp tạo ra của cải vật chất, trực
tiếp phục vụ đời sống vật chất và tinh thần của người lao động do đó cơ quan nhà
nước phải tạo điều kiện cho các đơn vị kinh tế, văn hoá xã hội hoàn thành tốt
công việc của mình thông qua việc cung cấp các trang thiết bị để hoạt động, giúp
đỡ về vật chất tinh thần, giúp các đơn vị này hoạt động có hiệu quả. Nhưng đồng
thời nhà nước nhà nước cũng có các chính sách và biện pháp quản lý một cách
thống nhất và chặt chẽ tổ chức và hoạt động của hệ thống các đơn vị cơ sở. Dân
chủ là cần thiết nhưng không thể thiếu sự quản lý thống nhất tập trung của cơ
quan nhà nước để thúc đẩy mọi hoạt động của các đơn vị này phát triên một cách
mạnh mẽ.
2.5 Sự phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính nhà nước ở địa
phương:
Sự phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương
còn được gọi là song trùng trực thuộc. Đó là việc các cơ quan hành chính nhà
nước ở địa phương chịu sự quản lý đồng thời của hai cơ quan cấp trên trực tiếp;
một theo sự quản lý của ngành dọc, và một theo sự quản lý của lãnh thổ theo

6


chiều ngang. Biểu hiện này được thể hiện ở cả tổ chức và hoạt động của các cơ

quan hành chính địa phương
Về tổ chức, đối với các uỷ ban nhân dân, hội đồng nhân dân mỗi cấp xác
định số lượng và bầu ra các thành viên của uỷ ban nhân dân cấp mình( theo
chiều ngang). Kết quả bầu cử các thành viên uỷ ban nhân dân mỗi cấp phải được
chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp phê chuẩn (theo chiều dọc). Riêng
với uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thì do chính thủ tướng chính phủ phê chuẩn.
Về hoạt động, Uỷ ban nhân dân là cơ quan thực hiện chức năng qủan lý
hành chính nhà nước, chấp hành nghị quyết của hội đồng nhân dân cùng cấp
cũng như văn bản của cơ quan hành chính cấp trên; chịu trách nhiệm và báo cáo
công tác trước hội đồng nhân dân cùng cấp và cơ quan hành chính nhà nước cấp
trên trực tiếp. Ðối với cơ quan chuyên môn, một mặt phụ thuộc vào cơ quan
hành chính nhà nước có thẩm quyền chung cùng cấp, mặt khác nó phụ thuộc vào
cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn cấp trên trực tiếp. Cụ
thể là thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc uỷ ban nhân dân phải chịu trách
nhiệm mỗi tháng một lần báo cáo hoạt động của ngành mình, lĩnh vực mình phụ
trách trước uỷ ban nhân dân và cơ quan quản lí chuyên môn cấp trên.
Thông qua tổ chức và hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước ở địa
phương ta có thể thấy rõ biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ. Nếu là sự
phụ thuộc theo chiều ngang thì nó là việc tạo điều kiện cho cấp dưới phát huy
được tính năng động sáng tạo, tận dụng thể mạnh của từng địa phương để hoàn
thành nhiệm vụ. Còn nếu là sự phụ thuộc theo chiều dọc thì lại là việc tập trung
mọi quyền lực vào cấp trên phục vụ cho việc chỉ đạo hoạt động của cấp dưới.
Các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương là một thành phần không thể
thiếu trong hệ thống cơ quan hành chính của nước ta, đây là cơ quan gắn liền với
thực tiễn, gắn liền với dân, thay mặt cơ quan quyền lực thực hiện việc quản lý

7


hành chính ở địa phương, vậy nên việc áp dụng đúng và trúng nguyên tắc tập

trung dân chủ là vô cùng cần thiết.
3. Ý nghĩa của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính nhà
nước ở Việt Nam:
Nguyên tắc tập trung dân chủ bao hàm sự kết hợp giữa hai yếu tố tập trung
và dân chủ, vừa đảm bảo sự lãnh đạo tập trung trên cơ sở dân chủ, vừa đảm bảo
mở rộng dân chủ dưới sự lãnh đạo tập trung. Tuy nhiên, đây không phải là sự
tập trung toàn diện và tuyệt đối, mà chỉ đối với những vấn đề cơ bản, chính yếu
nhất, bản chất nhất. Sự tập trung đó bảo đảm cho cơ quan cấp dưới, cơ quan địa
phương có cơ sở và khả năng thực hiện quyết định của trung ương; đồng thời,
căn cứ trên điều kiện thực tế của mình, có thể chủ động sáng tạo trong việc giải
quyết các vấn đề của địa phương và cơ sở. Cả hai yếu tố này vì thế phải có sự
phối hợp chặt chẽ, đồng bộ. Chúng có mối quan hệ qua lại, phụ thuộc và thúc
đẩy nhau cùng phát triển trong quản lý hành chính nhà nước. Tập trung dân chủ
thể hiện quan hệ trực thuộc, chịu trách nhiệm và báo cáo của cơ quan quản lý
trước cơ quan dân chủ; phân định chức năng, thẩm quyền giữa cơ quan quản lý
các cấp, bảo đảm sự lãnh đạo tập trung của cấp trên của trung ương và quyền chủ
động của cấp dưới. Ngoài ra, đó là hệ thống "song trùng trực thuộc" của nhiều cơ
quan quản lý, bảo đảm sự kết hợp tốt nhất sự lãnh đạo tập trung theo ngành với
quyền quản lý tổng thể của địa phương. Và nó có sự phân cấp rành mạch, quyền
lực nhà nước không phải được ban phát từ cấp trên xuống cấp dưới. Sự phân
quyền cho từng cấp là cần thiết nhưng phải đồng thời được kết hợp với việc xác
định vai trò của từng cấp hành chính: trung ương, tỉnh, huyện, xã. Từ khi ra đời,
mỗi cấp đã có "sứ mệnh lịch sử" và vai trò quản lý hành chính nhà nước riêng,
đặc thù. Có những chức năng được thực hiện ở cấp dưới lại có hiệu quả hơn cấp
trên, hoặc có những chức năng tất yếu phải được thực hiện ở cấp cơ sở.

8


Chính vì vậy, việc vận dụng nguyên tắc này vào quản lý hành chính nhà

có ý nghĩa vô cùng to lớn.
Thứ nhất, nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc thể hiện đúng bản
chất của nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, một nhà nước của dân,
do dân và vì dân, một nước dân chủ thực sự. Nhưng sự dân chủ này lại cần có sự
tập trung quyền để điều khiển được xã hội, thiết lập được một trật tự xã hội nhất
định. Trong từng giai đoạn phát triển của đất nước thì mối quan hệ giữa tập trung
và dân chủ luôn được điều chỉnh để phù hợp với tình hình, nhận thức, điều kiện
kinh tế xã hội.
Thứ hai, nguyên tắc này tạo ra sự thống nhất trong việc quản lý hành
chính nhà nước, tạo điều kiện cho nhiệm vụ quản lý của các chủ thể quản lý
được diên ra dễ dàng hơn. Cấp trên thông qua việc thực hiện yêu cầu của cũng
như báo cáo công việc của cấp dưới có thể nắm rõ tình hình thực tế hoạt động
của từng vùng từng lĩnh vực ở địa phương mình; nhanh chóng phát hiện những
hành vi vi phạm của cấp dưới, đưa ra phương án xử lý kịp thời hạn chế hết mức
có thể hậu qủa xảy ra. Tất cả sự phụ thuộc này nhằm mục đích bảo đảm cho hoạt
động của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước, phù hợp với ý chí, nguyện
vọng và lợi ích của nhân dân lao động, bảo đảm sự tập trung quyền lực vào cơ
quan quyền lực-cơ quan do dân bầu và chịu trách nhiệm trước nhân dân.
Thứ ba, tập trung dân chủ tạo ra hướng đi, đường lối cơ bản cho các cơ
quan cấp dưới hoạt động có hiệu quả. Thông qua quy định, hướng dẫn và hỗ trợ
của cấp trên, cấp dưới có một khung pháp lý để thực hiện nhiệm vụ của mình
một cách hợp pháp và hợp lý. Đồng thời, tập trung dân chủ tạo điều kiện cho cấp
dưới có khả năng sáng tạo, áp dụng những tiến bộ mới vào quản lý hành chính
nhà nước, tránh khỏi tình trạng áp đặt ý chí, cửa quyền, hách dịch và “căn bệnh”
tham nhũng. Việc này sẽ khắc phục tình trạng trung ương ôm đồm nhiều việc,
quản lý nhiều việc cụ thể trên các lĩnh vực như kinh tế, văn hoá - xã hội, dịch vụ
9


công... trong khi đó địa phương bị động trong thẩm quyền giải quyết các vấn đề

này. Trung ương làm đúng chức năng của mình, chủ yếu tập trung vào hoạch
định chính sách vĩ mô; xây dựng thể chế; thanh tra, kiểm tra... Tổ chức thực hiện
cụ thể, quản lý cụ thể thì chính quyền địa phương do sát dân, sát việc nên có khả
năng quản lý tốt hơn. Phân cấp quản lý nhà nước sẽ làm cho bộ máy nhà nước
thực hiện đúng vai trò chức năng theo đúng cấp của mình, tạo sự năng động
trong việc giải quyết công việc và là một giải pháp góp phần chống quan liêu.
Thứ tư, chính nguyên tắc này là phương tiện để tiến hành cải cách hành
chính. Nó quy định những việc trung ương cần làm, nhất thiết phải làm và những
việc phải "để"cho địa phương làm. Đối với trung ương sẽ tạo điều kiện cho
Chính phủ và các bộ trở lại làm đúng chức năng, nhiệm vụ của mình là quản lý
vĩ mô các lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội, có chỉ đạo thống nhất trong cả nước
và làm tốt công tác kiểm tra, thanh tra. Địa phương được phân cấp mạnh thì sẽ
chủ động trong quản lý, có thể tự mình ra các chủ trương cụ thể phù hợp với tình
hình, điều kiện của nơi đó. Ngoài ra, địa phương sẽ chủ động hơn về nguồn lực
tài chính, tổ chức và cán bộ thực hiện. Khắc phục tình trạng các cơ quan quản lý
trung ương can thiệp vào công việc của địa phương
III. Kết thúc vấn đề:
Nguyên tắc tâp trung dân chủ là một nguyên tắc cơ bản trong việc quản lý
hành chính nhà nước nói chung, trong mọi hoạt động của cơ quan nhà nước nói
chung. Đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo hoạt động quản lý cũng như
tạo điều kiện để lộ trình cải cách hành chính được diễn ra theo đúng kế hoạch
nhưng việc xác định đúng và thực hiện đúng nguyên tắc này lại gặp nhiều khó
khăn. Cần phải có sự kết hợp hài hoà giữa hai yếu tố tập trung và dân chủ, để
Việt Nam ta vẫn là nước dân chủ nhưng vẫn có sự quản lý đúng mức, đúng mực
của cơ quan nhà nước.

10


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1.

Giáo trình luật hành chính Việt Nam- Trường đại học luật Hà
Nội- Nxb Công an nhân dân- Hà Nội 2010

2. Giáo trình luật hành chính Việt Nam- PGS. TS. Nguyễn Cửu
Việt- Nxb Đại học quốc gia Hà Nội
3. Hiến pháp 1992(sửa đổi 2001)
4. Luật tổ chức Chính phủ 2001
5. Luật tổ chức hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân năm 2003

11



×