Tải bản đầy đủ (.pdf) (304 trang)

Giải quyết khiếu nại, tố cáo - Phương thức bảo đảm pháp chế và kỷ luật trong quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.19 MB, 304 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH
QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH


HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH
_______________





VŨ DUY DUẨN



GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO - PHƯƠNG THỨC BẢO ĐẢM
PHÁP CHẾ VÀ KỶ LUẬT TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH
NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY







LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH CÔNG








HÀ NỘI, NĂM 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH
QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH


HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH
_______________



VŨ DUY DUẨN


GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO - PHƯƠNG THỨC BẢO ĐẢM
PHÁP CHẾ VÀ KỶ LUẬT TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH
NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY



Chuyên ngành: Quản lý Hành chính công
Mã số: 62 34 82 01




LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH CÔNG




NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
1. PGS.TS. Lê Thị Hương
2. PGS.TS. Nguyễn Minh Mẫn


Hà Nội, Năm 2014

i

MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN Error! Bookmark not defined.

LỜI CẢM ƠN Error! Bookmark not defined.

MỤC LỤC i

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT clxxviii

DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN ÁN clxxix

MỞ ĐẦU 1


1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 4
5. Những đóng góp mới của luận án 5
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 5
7. Kết cấu của luận án 6
Chương 1:
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 7

1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU NGOÀI NƯỚC CÓ LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI 7

1.1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về nhà nước pháp quyền 7

1.1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về quyền khiếu nại, tố cáo 8

1.1.3. Nhóm các công trình nghiên cứu về tài phán hành chính và kỷ luật hành chính 10

1.2. NHÓM CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI 12

1.2.1. Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến pháp chế và xây dựng Nhà nước
pháp quyền Việt Nam 12

1.2.2. Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến pháp luật khiếu nại, tố cáo và
việc thực hiện pháp luật khiếu nại, tố cáo 14

1.2.3. Nhóm các công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề giải quyết khiếu nại hành
chính 17


1.2.4. Nhóm các công trình nghiên cứu về nhà nước, cải cách nền hành chính nhà
nước, quyền công dân có liên quan đến nội dung đề tài luận án 19

1.3. MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT
RA 20

1.3.1. Những kết quả nghiên cứu được luận án kế thừa 20

1.3.2. Những vấn đề đặt ra mà luận án phải tiếp tục giải quyết 22

Kết luận Chương 1 24

ii

Chương 2:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO VÀ BẢO ĐẢM
PHÁP CHẾ, KỶ LUẬT TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC 25
2.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ KHIẾU NẠI, TỐ CÁO VÀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI,
TỐ CÁO 25

2.1.1. Khiếu nại và giải quyết khiếu nại 25

2.1.2. Tố cáo và thẩm quyền giải quyết tố cáo 34

2.2. PHÁP CHẾ VÀ BẢO ĐẢM PHÁP CHẾ, KỶ LUẬT TRONG QUẢN LÝ HÀNH
CHÍNH NHÀ NƯỚC 39

2.2.1. Quan niệm về pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước 39


2.2.2. Quan niệm về kỷ luật trong quản lý hành chính nhà nước 50

2.2.3. Bảo đảm pháp chế và kỷ luật trong quản lý hành chính nhà nước 52

2.2.4. Các phương thức bảo đảm pháp chế và kỷ luật trong quản lý hành chính
nhà nước 54

2.3. VAI TRÒ CỦA GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO ĐỐI VỚI BẢO ĐẢM PHÁP
CHẾ VÀ KỶ LUẬT TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC 67

2.3.1. Giải quyết khiếu nại, tố cáo nhằm nâng cao hiệu quả quản lý hành
chính nhà nước 67

2.3.2. Giải quyết khiếu nại, tố cáo nhằm phát hiện, ngăn ngừa vi phạm pháp luật trong
quản lý hành chính nhà nhà nước 69

2.3.3. Giải quyết khiếu nại, tố cáo nhằm nâng cao trách nhiệm của cơ quan hành chính
nhà nước 70

2.3.4. Giải quyết khiếu nại, tố cáo nhằm thu hút sự tham gia của quần chúng nhân dân
vào hoạt động quản lý và giám sát hoạt động quản lý hành chính nhà nước 72

Kết luận Chương 2 75

Chương 3:
THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO VÀ BẢO ĐẢM PHÁP
CHẾ, KỶ LUẬT TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM TỪ
NĂM 1999 ĐẾN NAY 77
3.1. THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG QUẢN LÝ HÀNH
CHÍNH NHÀ NƯỚC 77


3.1.1. Tình hình khiếu nại, tố cáo 77

3.1.2. Kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo 95

3.2. THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM PHÁP CHẾ VÀ KỶ LUẬT TRONG QUẢN LÝ HÀNH
CHÍNH NHÀ NƯỚC 107

3.2.1. Về xây dựng, ban hành pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo 107

3.2.2. Về tổ chức thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo 112

3.2.3. Về thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo 118

3.2.4. Về phát hiện, xử lý kỷ luật thông qua công tác thanh tra giải quyết khiếu nại tố
cáo 119

iii

3.3. NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ 122

3.3.1. Những ưu điểm 122

3.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân 126

3.3.3. Những khó khăn, vướng mắc 130

Kết luận Chương 3 132

Chương 4:

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT
KHIẾU NẠI, TỐ CÁO NHẰM BẢO ĐẢM PHÁP CHẾ, KỶ LUẬT TRONG QUẢN
LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 134

4.1. CÁC QUAN ĐIỂM CƠ BẢN 134

4.1.1. Nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo trên nguyên tắc đảm bảo nguyên tắc
pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và hoạt động quản lý hành chính nhà nước 134

4.1.2. Nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo trên nguyên tắc xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và hội nhập
quốc tế 136

4.1.3. Nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo trên cơ sở bảo đảm hiệu lực, hiệu
quả hoạt động quản lý hành chính nhà nước 139

4.2. CÁC GIẢI PHÁP CỤ THỂ 146

4.2.1. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế về giải quyết khiếu nại, tố cáo 146

4.2.2. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước và giải quyết khiếu nại, tố cáo 149

4.2.3. Tăng cường trách nhiệm phối hợp giữa các thiết chế của hệ thống chính trị trong
giải quyết khiếu khiếu nại, tố cáo 151

4.2.4. Khắc phục những hạn chế trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước nhằm
hạn chế khiếu nại, tố cáo 154

4.2.5. Đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo,
công tác thanh tra, kiểm tra trách nhiệm trong giải quyết khiếu nại, tố cáo 160


4.2.6. Nâng cao chất lượng chuyên môn cũng như đạo đức công vụ và trình độ công nghệ
thông tin đối với đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo 164

Kết luận Chương 4 165

KẾT LUẬN 166

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ 168

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 169

iv

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


GS.TS
HĐND
KNTC
KTNN
NSNN
PGS.TS
TAND
TTCP
TTHC
UBND
UBKT
VKSND
VPCP

XHCN



: Giáo sư, Tiến sĩ
: Hội đồng nhân dân
: Khiếu nại, tố cáo
: Kiểm toán Nhà nước
: Ngân sách nhà nước
: Phó Giáo sư, Tiến sĩ
: Tòa án nhân dân
: Thanh tra Chính phủ
: Tố tụng hành chính
: Ủy ban nhân dân
: Ủy ban kiểm tra
: Viện kiểm sát nhân dân
: Văn phòng Chính phủ
: Xã hội chủ nghĩa

v

DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN ÁN


Trang


Bảng 3.1: Tổng hợp kết quả công tác tiếp công dân từ năm 1999 đến năm
2013 của các cơ quan hành chính nhà nước.


77
Bảng 3.2: Tổng hợp kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan
hành chính nhà nước từ năm 1999 đến năm 2013.

95






i

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Khiếu nại, tố cáo là quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp ghi nhận.
Quyền khiếu nại, quyền tố cáo có vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống các quyền
của công dân, quyền con người. Thực hiện quyền khiếu nại, quyền tố cáo là thực hiện
quyền dân chủ trực tiếp. Một mặt, quyền khiếu nại, quyền tố cáo là quyền tự vệ, phản
kháng của công dân trước các hành vi vi phạm pháp luật xâm phạm đến quyền, lợi ích
của họ; mặt khác, thông qua việc thực hiện quyền khiếu nại, quyền tố cáo công dân
tham gia vào quá trình kiểm tra, giám sát xã hội, kiểm tra, giám sát hoạt động của các
cơ quan nhà nước.
Thông qua khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo, các cơ quan nhà
nước tiếp nhận yêu cầu của công dân về bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị
hại, đồng thời cảnh báo cho Nhà nước về những khiếm khuyết, bất cập của cơ chế,
chính sách, về những yếu kém của hệ thống quản lý và đòi hỏi cần phải được khắc
phục; cảnh báo về những vấn đề của xã hội và quản lý. Công dân khiếu nại, tố cáo đối
với những quyết định, hành vi trái pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền

hoặc của người có chức vụ, quyền hạn nhất định hoặc các cá nhân trong xã hội; không
chỉ nhằm bảo về quyền và lợi ích của họ trong một vụ việc cụ thể mà còn góp phần
quan trọng vào bảo đảm quyền con người, quyền công dân; bảo đảm sự tuân thủ
nghiêm minh pháp luật, tăng cường kỷ luật Nhà nước và nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý của các cơ quan, tổ chức. Mặc dù vậy, khi việc thực hiện các quyền này công
dân luôn phải đối mặt với những thách thức về quyền, lợi ích bị ràng buộc bởi các cơ
quan, cá nhân có thẩm quyền: bởi yếu thế so sánh giữa một cá nhân với một tổ chức.
Do vậy, có thể thấy rằng quyền khiếu nại, quyền tố cáo chỉ có thể được bảo đảm thực
sự trong những điều kiện kinh tế, xã hội nhất định.
Tuy nhiên trên thực tế, tình hình khiếu nại, tố cáo ở nước ta hiện nay vẫn diễn
biến phức tạp với nhiều vụ việc diễn ra gay gắt, kéo dài, nhiều đoàn đông người đi
khiếu nại và khiếu nại vượt cấp; đã xuất hiện khiếu nại, tố cáo có tổ chức hoặc do nhiều
người cùng liên kết, gây sức ép đối với các cơ quan nhà nước, có trường hợp khiếu nại
không đúng, tố cáo sai sự thật, cá biệt có trường hợp người khiếu nại, tố cáo có hành vi
vi phạm pháp luật, gây rối trật tự công cộng, hành hung người thi hành công vụ; việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo chưa được đảm bảo. Các cơ quan quản lý Nhà nước có
ii

thẩm quyền chưa quan tâm giải quyết khiếu nại, tố cáo. Do đó, đơn khiếu nại, tố cáo
tồn đọng có xu hướng tăng, tính chất vụ việc trở nên phức tạp, gây bức xúc trong xã
hội. Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo có nơi, có vụ việc còn chậm trễ, thiếu khách quan
làm giảm lòng tin của nhân dân với cơ quan chức năng của Nhà nước. Mặt khác, trên
thực tế, một bộ phận công dân có hiểu biết pháp luật nhưng do động cơ cá nhân đã cố
tình tố cáo sai sự thật, khiếu nại đòi quyền lợi không chính đáng, vu khống nhằm mục
đích bôi nhọ cán bộ lãnh đạo… làm cho tình hình thêm phức tạp. Những hành vi này
chưa được xử lý theo pháp luật dẫn đến công tác giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo gặp
nhiều khó khăn.
Pháp chế và kỷ luật là những yếu tố cơ bản, cần thiết, có sự gắn kết hữu cơ ảnh
hưởng trực tiếp tới hiệu lực, hiệu quả của quản lý hành chính nhà nước. Pháp chế và kỷ
luật nghiêm minh là những đảm bảo thiết thực cho hiệu lực, hiệu quả tích cực của quản

lý hành chính nhà nước. Bảo đảm pháp chế và kỷ luật trong quản lý hành chính nhà
nước có nhiều phương thức khác nhau, trong đó giải quyết khiếu nại, tố cáo với những
kết quả tích cực là một phương thức cơ bản. Kết quả tích cực của giải quyết khiếu nại,
tố cáo gây được tác động kép: Một mặt đảm bảo được các quyền tự do, lợi ích hợp
pháp của công dân, tổ chức; xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm, bảo đảm duy
trì ổn định trật tự xã hội, tạo dựng niềm tin của xã hội đối với chính quyền nhà nước.
Mặt khác nó tác động tích cực đến nhận thức của cán bộ, công chức cơ quan nhà nước
có thẩm quyền trong ban hành các quyết định hành chính, hành vi hành chính, hoặc kỷ
luật, giúp các đối tượng này nâng cao năng lực, phẩm chất, trình độ, ý thức trách nhiệm,
ý thức tôn trọng pháp luật, thực hiện kỉ cương, đúng kỷ luật trong thực thi công vụ. Từ
đó pháp chế và kỷ luật trong quản lý hành chính nhà nước được đảm bảo.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam là bước đi có tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ xã hội chủ
nghĩa ở nước ta. Đó là quá trình lâu dài với nhiều nội dung phải thực hiện. Trong đó,
việc hoàn thiện hệ thống pháp luật là một nội dung quan trọng. Như Văn Kiện Đại hội
đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ X chỉ rõ: Việc xây dựng cơ chế vận hành của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải trên cơ sở "Hoàn thiện hệ thống pháp luật,
tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật. Xây dựng hoàn thiện
cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định
của các cơ quan công quyền".
iii

Thực trạng và những đòi hỏi trên đã và đang đặt ra cho các nhà nghiên cứu và
hoạt động thực tiễn nhu cầu bức thiết phải giải đáp những vấn đề lý luận và thực tiễn
đối với pháp luật khiếu nại, tố cáo và thực thi pháp luật khiếu nại, tố cáo phù hợp với
những yêu cầu của tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam.
Trước thực trạng trên, để góp phần thực hiện nghiêm minh pháp luật khiếu nại,
tố cáo, nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân đảm bảo pháp chế
và kỷ luật trong quản lý hành chính nhà nước tôi chọn đề tài “Giải quyết khiếu nại, tố

cáo - Phương thức bảo đảm pháp chế và kỷ luật trong quản lý hành chính nhà nước
ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu sinh quản lý hành chính công.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích của luận án
Mục đích của luận án là nghiên cứu làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực trạng đề
xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo
góp phần bảo đảm pháp chế, kỷ luật trong quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam
hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ của luận án
- Làm rõ các khái niệm có liên quan đến khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu
nại, tố cáo, bảo đảm pháp chế và kỷ luật trong quản lý hành chính nhà nước.
- Phân tích thực trạng giải quyết khiếu nại, tố cáo từ năm 1999 đến nay, có so
sánh với các giai đoạn trước để làm rõ mối quan hệ và vai trò của giải quyết khiếu nại,
tố cáo trong bảo đảm pháp chế và kỷ luật trong quản lý hành chính.
- Chỉ rõ sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo nhằm
tăng cường pháp chế và kỷ luật trong quản lý hành chính nhà nước.
- Đưa ra quan điểm và một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo hiện nay ở nước ta hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Giải quyết quyết khiếu nại tố cáo là phương thức bảo đảm pháp chế và kỷ luật
trong quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận án chủ yếu tập trung nghiên cứu vấn đề giải quyết khiếu
nại, tố cáo dưới góc độ là một trong những phương thức bảo đảm pháp chế và kỷ luật
trong quản lý hành chính nhà nước từ khi có Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1999 đến nay.
iv

Để có cơ sở giải quyết vấn đề nêu trên luận án dành sự nghiên cứu thích đáng cho việc
nghiên cứu cơ sở lý luận về giải quyết khiếu nại, tố cáo; Các phương thức bảo đảm

pháp chế và kỷ luật trong quản lý hành chính nhà nước; Vai trò của giải quyết khiếu nại,
tố cáo đối với bảo đảm pháp chế và kỷ luật trong quản lý nhà nước.
- Về thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu việc khiếu nại tố cáo và giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong khoảng thời gian từ năm 1999 đến nay.
- Về không gian: Luận án nghiên cứu việc khiếu nại tố cáo và giải quyết khiếu
nại, tố cáo trên phạm vi cả nước
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận về việc nghiên cứu đề tài là những luận điểm khoa học của học
thuyết Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; các quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh về đường lối đổi mới, đổi mới sự
lãnh đạo của Đảng, cải cách bộ máy nhà nước, cải cách hành chính về bảo đảm các
quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp
quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Đồng thời tác giả có tham khảo và kế thừa có chọn lọc một số công trình nghiên
cứu của các nhà khoa học.
Các phương pháp tác giả sử dụng trong luận án gồm: phương pháp phân tích,
tổng hợp, diễn dịch, quy nạp, phương pháp lịch sử, phương pháp hệ thống, phương
pháp so sánh…
Trong Chương 2, để làm sáng tỏ nội dung các quan niệm, đặc điểm của "khiếu
nại", "khiếu nại hành chính", "giải quyết các khiếu nại hành chính" “tố cáo”, “giải quyết
tố cáo” ; đánh giá sự tác động của "giải quyết khiếu nại, tố cáo" đến bảo đảm pháp
chế, kỷ luật trong quản lý hành chính nhà nước luận án sử dụng phương pháp hệ
thống, phân tích, so sánh, diễn dịch Bằng việc sử dụng phương pháp thống kê, phân
tích, so sánh, diễn dịch, quy nạp ; ở Chương 3 luận án làm rõ cơ chế giải quyết khiếu
nại, tố cáo ở nước ta thời gian qua, làm rõ nguyên nhân của khiếu nại, tố cáo, đánh giá
nhận xét những tác động của công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo đến việc bảo đảm
pháp chế và kỷ luật trong quản lý hành chính nhà nước; ở Chương 4, trên cơ sở sử dụng
các phương pháp phân tích, diễn dịch, quy nạp, so sánh luận án làm rõ những yêu cầu
khách quan và chủ quan cần phải đổi mới cơ chế, quy trình giải quyết khiếu nại, tố cáo

đáp ứng yêu cầu trong thời gian tới, góp phần vào việc tăng cường pháp chế và kỷ luật,
v

nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quản lý hành chính nhà nước.
5. Những đóng góp mới của luận án
Với mục đích và nhiệm vụ nêu trên, những nội dung sau đây là những đóng góp
mới của luận án:
- Làm rõ được giải quyết khiếu nại, tố cáo là một trong các phương thức bảo
đảm pháp chế và kỷ luật trong quản lý hành chính nhà nước.
- Làm rõ vai trò của giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với bảo đảm pháp chế và kỷ
luật trong quản lý nhà nước;
- Đánh giá toàn diện về khiếu nại, tố cáo , giải quyết khiếu nại, tố cáo ở nước ta
từ năm 1999 đến nay, đặc biệt là phần đánh giá những hạn chế, tồn tại của cơ chế, quy
trình giải quyết khiếu nại, tố cáo hiện nay và chỉ ra xu hướng vận động của hoạt động
giải quyết khiếu nại, tố cáo trong giai đoạn tới;
- Đưa ra những quan điểm và một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế, quy
trình giải quyết khiếu nại, tố cáo nhằm nâng cao chất lượng công tác giải quyết khiếu
nại, tố cáo góp phần bảo đảm pháp chế và kỷ luật trong quản lý hành chính nhà nước ở
nước ta hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án là những bổ sung quan trọng vào sự phát triển
của lý luận về quản lý hành chính công, góp phần nâng cao nhận thức về khiếu nại
hành chính và giải quyết khiếu nại hành chính, tố cáo, giải quyết tố cáo. Với ý nghĩa đó,
luận án góp phần:
- Thống nhất một số nhận thức cơ bản về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu
nại, tố cáo; làm rõ vai trò của giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với bảo đảm pháp chế và
kỷ luật trong quản lý hành chính nhà nước;
- Khái quát thực trạng giải quyết khiếu nại, tố cáo ở nước ta thời gian qua, chỉ ra
được những nguyên nhân, tồn tại dẫn đến khiếu nại, tố cáo, những hạn chế bất cập
trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo;

- Cung cấp căn cứ khoa học cho việc hoàn thiện cơ chế, quy trình công tác giải
quyết khiếu nại, tố cáo nhằm góp phần bảo đảm pháp chế và kỷ luật trong quản lý hành
chính nhà nước ở nước ta hiện nay;
- Luận án có thể làm tài liệu khảo cho các nhà nghiên cứu, giảng dạy, những
người làm công tác thực tế và sinh viên, học viên trong các cơ sở đào tạo cử nhân hành
chính, cử nhân luật, các trường đào tạo, bồi dưỡng của cán bộ Đảng và Nhà nước.
vi

7. Kết cấu của luận án
Ngoài các phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm
có 4 chương, cụ thể:
- Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu
- Chương 2: Cơ sở lý luận về giải quyết khiếu nại, tố cáo và bảo đảm pháp chế,
kỷ luật trong quản lý hành chính nhà nước.
- Chương 3: Thực trạng giải quyết khiếu nại, tố cáo và bảo đảm pháp chế, kỷ
luật trong quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam từ năm 1999 đến nay.
- Chương 4: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố
cáo nhằm bảo đảm pháp chế, kỷ luật trong quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam
hiện nay.


vii

Chương 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU NGOÀI NƯỚC CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về nhà nước pháp quyền
Xét nhà nước và pháp luật với nghĩa là hai vấn đề cơ bản của lý luận chung

về nhà nước và pháp luật: Nhà nước là chủ thể trong quan hệ "bình đẳng" với các
chủ thể khác; pháp luật không chỉ là quy tắc để Nhà nước quản lý xã hội mà trước hết là
quy tắc cho Nhà nước tổ chức và quản lý nhà nước. Mối quan hệ vốn có giữa nhà nước
và pháp luật càng được thể hiện sâu sắc hơn khi xem xét chúng trên quan điểm của nhà
nước pháp quyền. Bởi lẽ, nói đến nhà nước pháp quyền là định hướng xem xét vai trò
của pháp luật với tính chất là phương thức tổ chức quyền lực nhà nước và bảo đảm sự
thống trị của quyền lực nhà nước trên cơ sở tôn trọng và tuân thủ pháp luật, tôn trọng
quyền công dân, quyền con người.
Nghiên cứu của Ngân hàng thế giới (1998), (Nhà nước trong một thế giới
chuyển đổi) [150] cho rằng Nhà nước pháp quyền là phương thức thống nhất quyền lực
để bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Trong đó pháp luật giữ địa vị thống trị; có
sự phân công quyền lực nhằm chống lại sự lạm quyền. Nghiên cứu cũng dẫn chiếu đến
một quan niệm khác cho rằng khi nói Nhà nước pháp quyền là đề cập đến sự ngự trị
của pháp luật trong xã hội với tư cách là ý chí của nhân dân. Nhà nước pháp quyền là
đòi hỏi tất yếu của quá trình dân chủ, quá trình phát triển hoàn thiện nhà nước trong
quan hệ pháp lý với công dân, là quá trình xác lập sự kiểm soát nhà nước nhằm bảo
đảm quyền công dân, quyền con người.
Nghiên cứu của Ngân hàng phát triển châu Á (2003) (Phục vụ và duy trì cải
thiện hành chính công trong một thế giới cạnh tranh) [153], (khi nghiên cứu về nhà
nước pháp quyền trong mối quan hệ với nhân dân) đã tổng kết: Nhà nước pháp quyền
đã được nhắc đến mỗi khi các nhà khoa học pháp lý cũng như các chính trị gia xem xét,
đánh giá mối quan hệ giữa nhà nước và pháp luật, nhà nước và công dân; xem xét đến
các phương thức bảo vệ quyền con người, quyền cơ bản của công dân đến nay có rất
nhiều quan niệm khác nhau về Nhà nước pháp quyền. Có quan điểm cho rằng Nhà
nước pháp quyền được hiểu là xác lập một trật tự pháp luật trong điều chỉnh quan hệ xã
hội; pháp luật tổ chức nhà nước, do vậy nhà nước nào thừa nhận sự phân công quyền
viii

lực, sự phục tùng vào pháp luật thì đó là Nhà nước pháp quyền. Nhà nước pháp quyền
là xác lập chế độ pháp trị thay cho nhân trị. Nhà nước pháp quyền là sự lựa chọn, thừa

nhận phương thức trị nước bằng pháp luật. Do đó, Nhà nước pháp quyền là sự thắng
thế của tư tưởng, triết lý pháp trị; Nhà nước pháp quyền với chế độ pháp trị là hai tên
gọi khác nhau của cùng một nội dung.
Nhà nước pháp quyền với các chế độ chính trị khác nhau được thiết lập những
mô hình tổ chức quyền lực khác nhau. Song giữa chúng luôn có những điểm chung là
vươn đến tự do của loài người, là sự cố gắng một cách có ý thức nhằm ngăn chặn một
nhà nước bạo lực, buộc nhà nước phải tôn trọng pháp luật và các quyền con người. Bởi
vậy, khi xem xét một cách tổng thể về các quan hệ xã hội mà pháp luật khiếu nại, tố cáo
bảo vệ và những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền cho thấy việc hoàn thiện
pháp luật khiếu nại, tố cáo có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện những nguyên tắc
của Nhà nước pháp quyền.
Nghiên cứu của nhóm tác giả Konrad - Adenaur - Sfiftung (2002) [191] Từ các
quan niệm khác nhau về nhà nước pháp quyền đã tìm hướng tiếp cận theo những đặc
trưng, giá trị phổ biến của Nhà nước pháp quyền. Chẳng hạn, năm yếu tố và giá trị phổ
biến của Nhà nước pháp quyền là dựa trên nền tảng của chủ nghĩa lập hiến; pháp luật
giữ địa vị chi phối và có hiệu lực pháp lý tối thượng trong xã hội, bảo đảm nguyên tắc
phân quyền và sự độc lập của tư pháp; pháp luật phải được áp dụng công bằng, nhất
quán, phải bảo đảm tính công khai, minh bạch dễ tiếp cận, áp dụng kịp thời; tôn trọng
và bảo vệ quyền công dân và quyền con người. Trong một công trình khác nhóm tác
giả này lại nêu ra tám đặc điểm cơ bản của Nhà nước pháp quyền là: có hệ thống pháp
luật hoàn thiện, bảo đảm tính đồng bộ để thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật; xác
định cơ chế hữu hiệu để bảo đảm tính tối cao của luật; pháp luật mang tính pháp lý cao,
công bằng, nhân dân đạo, tất cả vì lợi ích của con người, nhà nước và công dân bình
đẳng về quyền và nghĩa vụ; quyền tự do dân chủ và lợi ích chính đáng của con người
được bảo đảm; quyền lực nhà nước được tổ chức, phân công khoa học; tồn tại trên cơ
sở một xã hội công dân; thực hiện các cam kết quốc tế.
1.1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về quyền khiếu nại, tố cáo
Nghiên cứu của Ngân hàng thế giới (1999), (Bước vào thế kỉ 21) [151] Khi
nghiên cứu về mối quan hệ giữa nhà nước với nhân dân trong việc tiếp nhận và thỏa
mãn những nhu cầu hợp pháp của công dân đã cho rằng; Pháp luật về khiếu nại, tố cáo

quy định việc tiếp công dân nhằm mục đích tiếp nhận khiếu nại, tố cáo nhưng thực tế
ix

không phải chỉ diễn ra như vậy. Khi đến nơi tiếp công dân, người khiếu nại, tố cáo có
thể đưa khiếu nại, tố cáo hoặc phản ánh, kiến nghị, thắc mắc về tất cả những vấn đề liên
quan đến các mặt của đời sống xã hội. Tiếp dân là kênh giao tiếp để người dân có thể
góp ý, hiến kế, phản ánh kiến nghị, các cơ quan, tổ chức có thông tin phản hồi về hệ
thống và công tác điều hành quản lý của mình. Do còn có những nhận thức rất khác
nhau về mục đích, ý nghĩa của công tác tiếp dân, cho nên việc tiếp công dân hiện nay
chưa được tổ chức với một mô hình thống nhất giữa trung ương và địa phương. Thông
tin về tiếp công dân còn phân tán, chưa được quản lý thống nhất, chưa được phân tích
xử lý triệt để phục vụ yêu cầu quản lý của các cơ quan, tổ chức và phục vụ yêu cầu đấu
tranh chống các hành vi vi phạm pháp luật. Tình trạng người khiếu nại, tố cáo không
biết gửi đơn ở đâu là đúng thẩm quyền, phải đi lại đến nơi tiếp công dân nhiều lần;
công dân không nhận được tư vấn kịp thời và thuận lợi tại nơi tiếp công dân chủ yếu
làm công việc hướng dẫn chuyển đơn và không tiếp nhận xử lý các kiến nghị, phản
ánh, thắc mắc còn là hiện tượng phổ biến.
Từ kinh nghiệm các nước trên thế giới trong giải quyết khiếu nại, tố cáo, nghiên
cứu khuyến cáo, một số công dân có nhiều thông tin và tích cực phản ánh về hành động
của lãnh đạo, chính quyền thì việc giám sát sẽ tốt hơn. Từ đó, đòi hỏi lãnh đạo phải có
thái độ trung thực hơn.
Nghiên cứu của Ngân hàng thế giới (2002), (Kiềm chế tham nhũng hướng tới
một mô hình xây dựng sự trong sạch quốc gia) [152]. Khi nghiên cứu về cách thức
kiềm chế để đi đến giải quyết có hiệu quả nạn tham nhũng đã cho rằng: Quyền khiếu
nại, quyền tố cáo là quyền dân chủ trực tiếp. Dân chủ có nghĩa là quyền lực thuộc về
nhân dân. Nó là một phương thức tổ chức quyền lực và là biện pháp để kiểm soát
quyền lực. Dân chủ còn được nhận biết về ý nghĩa là nội dung của quyền con người.
Theo ý nghĩa đó, dân chủ được coi là một tiêu chí để xem xét những tiến bộ của thời
đại, của các thể chế chính trị. Quan hệ giữa Nhà nước và công dân hiện nay hầu hết
được nhìn nhận trong các giá trị về bảo đảm dân chủ, cụ thể là việc xem xét đến giới

hạn can thiệp của Nhà nước đối với các quyền cơ bản của công dân, giới hạn các quyền
tự do của công dân trong mối quan hệ với quản lý nhà nước cùng với việc bảo đảm các
điều kiện cho công dân thực hiện các quyền cơ bản của mình.
Nghiên cứu của nhóm tác giả Jen - Michel De - Forger (1995), (Luật Hành
chính) [190], khi bàn về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hành chính đã cho
rằng. Việc pháp luật ghi nhận khiếu nại, tố cáo là những quyền cơ bản của công dân có
x

ý nghĩa quan trọng đối với việc củng cố địa vị pháp lý của công dân trong quan hệ với
các cơ quan công quyền, trong việc hỗ trợ, bảo đảm thực tế cho quyền tự do, quyền dân
chủ của con người. Ghi nhận quyền khiếu nại, quyền tố cáo là quyền cơ bản cũng là
việc Nhà nước thừa nhận sự phản kháng theo pháp luật của công dân trước việc làm trái
pháp luật. Về bản chất, khiếu nại, tố cáo phản ánh mối quan hệ giữa công dân, cơ quan,
tổ chức với Nhà nước hoặc giữa công dân, cơ quan, tổ chức với nhau thông qua việc
đòi hỏi về sự can thiệp của Nhà nước. Khiếu nại, tố cáo là sự phản chiếu mức độ đúng
đắn của chính sách pháp luật, thước đo về sự hài lòng của dân chúng đối với cơ quan
công quyền và thước đo về thái độ của công dân đối với chế độ.
1.1.3. Nhóm các công trình nghiên cứu về tài phán hành chính và kỷ luật
hành chính
Xét trên khía cạnh dân chủ thì tài phán hành chính và kỷ luật hành chính là một
cơ chế bảo đảm quyền dân chủ bằng cách cho phép công dân có thể chống lại (phản
đối) các quyết định hoặc hành vi hành chính của các cơ quan công quyền và công chức
đã lạm quyền, vi phạm pháp luật làm thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quyền và
lợi ích hợp pháp của họ.
Từ khía cạnh trên đã có nhiều công trình nghiên cứu của các học giả trên thế
giới tiêu biểu như:
Nghiên cứu của tác giả Francis Lamy với tựa đề Tài phán hành chính ở cộng
hòa Pháp được trình bày tại hội thảo Việt Pháp về Tòa án hành chính - Hà Nội, 1994
[187]. Khi tập trung nghiên cứu về tài phán hành chính tác giả nhận xét: việc trao quyền
xét xử các tranh chấp hành chính cho chính bản thân cơ quan hành chính lại dẫn đến

một hậu quả đương nhiên là làm lẫn lộn chức năng hành chính và chức năng tài phán
do có hai điểm hạn chế rõ ràng sau:
Một là, các nhà hành chính nhiều khi không phải là các luật gia vì thế phán
quyết của họ không phải lúc nào cũng chính xác về phương diện pháp lý.
Hai là, quan trọng hơn là cơ quan hành chính vừa là người bị kiện lại vừa là
người xử kiện, vừa là thẩm phán lại vừa là đương sự, họ là người có quyền phán xét
hành vi của chính mình hoặc của cấp dưới, như vậy rõ ràng không thể bảo đảm tính
công bằng và vô tư trong quá trình giải quyết vụ kiện. Để hạn chế sự bất hợp lý đó ông
đưa ra một nguyên tắc của nền hành chính, đó là nguyên tắc phân chia hành chính quản
lý và hành chính tài phán với lý lẽ: Nền hành chính quốc gia là thống nhất gồm hai hoạt
động:
xi

- Hành chính quản lý hay hành chính điều hành tức là toàn bộ hoạt động thường
ngày của cơ quan hành chính trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
- Hành chính tài phán là hoạt động xem xét tính hợp pháp của các hành vi hành
chính thông qua việc giải quyết các khiếu kiện của người dân khi họ phản đối các quyết
định của cơ quan hành chính.
Hai bộ phận này nhìn bề ngoài có vẻ mâu thuẫn nhau nhưng thực ra đều có mục
đích chung là làm cho bộ máy công quyền ngày càng hoàn thiện hơn, tính kỷ luật và
chịu trách nhiệm trong quản lý hành chính sẽ cao hơn nhất là trong quá trình ra quyết
định hành chính cũng như tiếp nhận và giải quyết tố cáo của công dân.
Nghiên cứu, Những cơ sở của tài phán hành chính ở Cộng hòa Liên bang Đức
của tác giả Karl-Peter Sommermann được chính tác giả trình bày tại Hội thảo
Việt Nam - Đức về Tòa án hành chính - Hà Nội, 1994. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng: Khi
các đạo luật thực hiện chức năng của mình với tư cách là phương tiện chống lại sự
chuyên chế của nhà nước thì tất nhiên cũng phải tìm kiếm những phương tiện nhằm thi
hành đạo luật đó về mặt thực tế. Có nghĩa rằng phải có một cơ chế để kiểm soát hoạt
động của bộ máy nhà nước bảo đảm hoạt động của nó theo đúng khuôn khổ của pháp
luật cho phép, không được lạm quyền, lộng quyền. Điều đó đòi hỏi tất yếu phải có hoạt

động tài phán hành chính. Do đó cần thiết phải có Tòa án hành chính độc lập với hoạt
động điều hành của cơ quan hành chính
Một tác phẩm khác có nhan đề Nhà nước pháp quyền của tác giả Otto Beahr,
xuất bản tại Đức năm 1964 đã viết: pháp luật và đạo luật chỉ có thể giành được ý nghĩa
và quyền lực thực sự ở nơi nó sẵn sàng tìm thấy sự phán quyết về việc thi hành chúng.
Ông đưa ra một câu hỏi mang tính bản chất của việc xử lý các khiếu kiện hành chính là:
Khi đã đi đến một quyết định cơ bản là cần thiết phải tổ chức việc kiểm tra hoạt động
hành chính theo con đường tòa án thì cùng với nó sẽ đặt ra vấn đề: việc kiểm tra này sẽ
giao cho các tòa án “thường” hay tòa án “chuyên trách” về hành chính. Câu hỏi này đã
được trả lời bằng việc thành lập các tòa án chuyên trách ở Đức sau này.
Qua nghiên cứu về tài phán hành chính (mô hình ở một số nước) cho thấy tổ
chức cơ quan tài phán hành chính ở các nước trên thế giới rất khác nhau nhưng về tổng
quát, có thể phân ra làm mấy hệ thống cơ bản sau đây:
* Pháp và một số nước theo mô hình Pháp: Có các Toà án hành chính độc lập
nhưng gắn bó chặt chẽ với nền hành chính quốc gia thông qua việc giao thêm cho Toà
án hành chính chức năng tư vấn pháp lý, nhất là ở trung ương. Cùng với Pháp là các
xii

nước: Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, Bỉ, Italia, Ai Cập, Côlômbia.
* Một số nước có hệ thống cơ quan tài phán hành chính chỉ làm nhiệm vụ xét xử
hành chính. Đó là: Cộng hoà liên bang Đức, Thuỵ Điển, Phần Lan, Áo, Bồ Đào Nha,
Mêhicô…
* Một số nước chọn giải pháp trung gian: Toà án hành chính không tổ chức
thành hệ thống độc lập mà thành các toà án chuyên trách về hành chính trong hệ thống
Toà án thường như ở Trung Quốc, Inđônêxia, Bênanh, Cônggô, Bờ biển Ngà,
Mađagaxca, Môritani, Nigiênia, Xênêgan, Tôgô…
* Ở các nước theo hệ thống luật Anh - Mỹ: Toà án thường có chức năng tài
phán hành chính, ngoài Anh, Mỹ có các nước Ailen, Aixơlen, Nauy, Đan Mạch,
Canađa, Síp, Nigênia, Irắc, Ixraen. Một số nước Đông Nam Á ảnh hưởng Mỹ cũng theo
hệ thống này.

Việc lựa chọn mô hình tổ chức cơ quan tài phán hành chính ở mỗi nước căn cứ
vào nhiều yếu tố và hoàn cảnh cụ thể. Cách thức tổ chức có thể thích hợp với nước này
nhưng lại không thể áp dụng với nước khác hoặc ngược lại. Tuy nhiên, qua khảo sát
thực tiễn hoạt động xét xử các vụ kiện về hành chính ở một số nước, có thể nhận thấy
rằng, mỗi mô hình tổ chức đều có những ưu điểm và hạn chế của nó.
1.2. NHÓM CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI
Những vấn đề về pháp luật khiếu nại, tố cáo và bảo đảm pháp chế trong xây
dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam là những chủ đề giành được sự quan tâm của các
nhà nghiên cứu về khoa học pháp lý và các nhà hoạt động thực tiễn ở nước ta trong
những năm gần đây. Có thể chia các công trình nghiên cứu về những chủ để trên thành
các nhóm sau:
1.2.1. Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến pháp chế và xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam
Nhà nước pháp quyền và bảo đảm pháp chế là vấn đề giành được sự quan tâm
sâu, rộng của các nhà khoa học pháp lý trong và ngoài nước. Ở Việt Nam từ sau những
năm 1990 trở lại đây, việc nghiên cứu về nhà nước pháp quyền trở thành cấp thiết. Các
công trình thuộc nhóm này được thể hiện trong những bài viết trên các tạp chí chuyên
ngành, các giáo trình đào tạo luật học và các tài liệu chuyên khảo như:
- "Nhà nước pháp quyền - một hình thức tổ chức nhà nước", PGS.TS Nguyễn
Đăng Dung, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 6 (7/2001): trong nghiên cứu này tác giả
xiii

đi sâu nghiên cứu phân tích những đặc điểm cơ bản của nhà nước pháp quyền trong đó
có sự so sánh, phân tích từ lý luận đến thực tiễn trong xây dựng nhà nước pháp quyền
qua đó đưa ra những nhận xét mang tính khoa học về sự cần thiết phải xây dựng một
nhà nước pháp quyền ở Việt Nam bởi đây được xem như là một hình thức tổ chức nhà
nước đáp ứng những yêu cầu về thực hiện dân chủ trong hoạt động quản lý nhà nước
cũng như phát huy quyền làm chủ của nhân dân [117].
- "Xây dựng Nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng", GS.TSKH. Đào

Trí Úc, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 7/2001; "Nhận diện Nhà nước pháp quyền",
PGS.TS Hoàng Thị Kim Quế, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 1/2002; "Về tư tưởng
Nhà nước pháp quyền và khái niệm Nhà nước pháp quyền". PGS.TS Lê Minh Tâm, Tạp
chí Luật học, số 2/2002; "Học thuyết Nhà nước pháp quyền, một vấn đề trong lịch sử
hình thành và phát triển", TS. Lê Cảm, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 10/2002; "Xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng", Tô Xuân Dân, Nguyễn Thanh Bình, Tạp chí Cộng sản, số 4 tháng 2/2004;
Các công trình nghiên cứu này chủ trương tìm hiểu và cắt nghĩa về những đặc trưng có
bản của nhà nước pháp quyền, sự cần thiết phải xây dựng nhà nước pháp quyền là cơ sở
để thực hiện dân chủ trong quản lý nhà nước đồng thời nhấn mạnh việc xây dựng nhà
nước pháp quyền và pháp chế xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay là một nhiệm vụ
trọng tâm trong việc giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân. Các nghiên cứu
này đều thống nhất về mặt tư tưởng là xây dựng nhà nước pháp quyền phải đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong chế độ nhân dân làm chủ, quyền làm chủ
của nhân dân được thực hiện chủ yếu bằng thiết chế quyền lực nhà nước. Ðảng Cộng
sản Việt Nam là đảng cầm quyền, lãnh đạo toàn xã hội cũng chủ yếu bằng Nhà nước và
thông qua Nhà nước. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thật
sự của dân, do dân, vì dân, trong sạch, vững mạnh, quản lý có hiệu lực, hiệu quả cao
trong mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối nội, đối ngoại của đất nước
luôn là mối quan tâm, là nhiệm vụ hàng đầu của Ðảng và nhân dân ta.
- "Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa", GS.TS
Hoàng Văn Hảo, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 3/2004: trong nghiên cứu này tác
giả đi sâu nghiên cứu hệ thống các tư tưởng của Chủ Tịch Hồ Chí Minh về nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa đồng thời tác giả đã có những đánh giá, nhận xét về việc
xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay qua đó chỉ ra những cách thức cơ
bản để xây dựng nhà nước pháp quyền trong tình hình mới đồng thời nêu ra một số
xiv

biện pháp, cách thức để thực hiện và bảo đảm pháp chế trong quản lý nhà nước ở Việt
Nam hiện nay.

- "Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật -
Nhiệm vụ trọng tâm xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa của
dân, do dân và vì dân", PGS.TS Trần Ngọc Đường, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số
7/2004: trong nghiên cứu này tác giả đưa ra khuyến nghị cần thường xuyên tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa, tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật bằng
nhiều hình thức trong các tầng lớp nhân dân, để nhân dân biết và nghiêm chỉnh thi
hành. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra. Kịp thời thưởng phạt nghiêm minh theo
đúng pháp luật, để pháp luật ngày càng đi vào cuộc sống.
- Ngoài ra còn có một số nghiên cứu như; "Bàn về Nhà nước pháp quyền và xây
dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta", PGS.TS Phạm Hồng Thái - Nguyễn Quốc Sửu,
Tạp chí Quản lý nhà nước, số 3/2005, cuốn "Giáo trình lý luận chung về Nhà nước và
pháp luật, Chương VII, Chương IX", Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại
học Quốc Gia, Hà Nội 2005 [167]; cuốn "Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân" TS. Trần
Hậu Thành, Nxb Chính trị, Hà Nội 2005; cuốn "Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam", GS.TSKH. Đào Trí Úc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2005;
cuốn "Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam" GS.TSKH. Đào Trí Úc (Chủ biên), Nxb Tư pháp, Hà Nội 2006 : phần lớn
các nghiên cứu này đi nghiên cứu khảo nghiệm về cả hai phương diện lý luận và thực
tiễn trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, trong đó phần lớn các
nghiên cứu đều có nhận xét là muốn xây dựng thành công nhà nước pháp quyền trước
hết cần nâng cao chất lượng của hệ thống pháp luật đồng thời cải thiện khả năng tổ
chức triển khai thực hiện luật của các cơ quan nhà nước đặc biệt là khả năng tổ chức
triển khai thực hiện của các cơ quan hành chính nhà nước trên cở sở mọi hoạt động đều
hướng đến mục tiêu phục vụ nhân dân, phát huy quyền làm chủ nhân dân trong đó có
bàn đến quyền được khiếu nại, tố cáo của nhân dân và trách nhiện của các cơ quan nhà
nước trong việc tiếp nhận và giải quyết kịp thời những kiến nghị hợp pháp của công
dân.
1.2.2. Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến pháp luật khiếu nại,
tố cáo và việc thực hiện pháp luật khiếu nại, tố cáo

Nhóm này bao gồm các công trình nghiên cứu:
xv

- Bài "Những yêu cầu đặt ra trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về
KNTC", Phạm Văn Khanh, Tạp chí Thanh tra, số 9/1999; "Việc giải quyết khiếu nại
của công dân trong hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước sau khi Tòa án hành
chính được thiết lập", Thanh tra Nhà nước (nay là Thanh tra Chính phủ); Đề tài Nghiên
cứu khoa học năm 1996, 2004; "Xây dựng quy trình nghiệp vụ giải quyết khiếu nại
hành chính", Thanh tra Nhà nước (nay là Thanh tra Chính phủ).
- Một số giáo trình phục vụ nghiên cứu và giảng dạy có đề cập đến KNTC và
giải quyết KNTC như: cuốn "Tìm hiểu Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân",
PGS.TS. Lê Bình Vọng, Nxb Pháp lý, Hà Nội 1991; cuốn "Kỉ yếu Bác Hồ với Thanh
tra", Thanh tra Nhà nước, Nxb Thống kê, Hà Nội 1991; cuốn "Giải đáp Luật hành
chính Việt Nam, Chương XIX", TS. Phạm Hồng Thái và TS.Đinh Văn Mậu, Nxb TP
Hồ Chí Minh 1996; cuốn "Tìm hiểu pháp luật về khiếu nại, tố cáo" PGS.TS Phạm
Hồng Thái (Chủ biên), Nxb TP Hồ Chí Minh 2003; cuốn "Hiệp định thương mại song
phương Việt Nam - Hoa Kỳ và cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính ở Việt Nam",
Viện khoa học Thanh tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội 2004; cuốn "Giáo trình Luật hành
chính Việt Nam, Chương XXI, Chương XXII", Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội 2005.
- Một số luận văn thạc sỹ, luận án tiến sỹ luật học có liên quan như: Luận văn
thạc sỹ luật học của Phạm Văn Long, năm 2002: "Hoàn thiện pháp luật khiếu nại, tố
cáo ở nước ta hiện nay [142]; Luận án tiến sỹ luật học của tác giả Trần Văn Sơn (2006):
"Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo
của các cơ quan hành chính nhà nước hiện nay" [161]…
Các nghiên cứu này có nội dung cơ bản sau:
+ Chiếm đại bộ phận là các công trình nghiên cứu về khiếu nại, tố cáo từ góc độ
của pháp luật hành chính. Tập trung nghiên cứu phân tích, lý giải những vấn đề thực
tiễn thi hành pháp luật về khiếu nại, tố cáo hiện hành; về tăng cường pháp chế; về đổi
mới tổ chức, bộ máy giải quyết khiếu nại, tố cáo; về đổi mới quy trình thủ tục giải

quyết khiếu nại, tố cáo; cơ chế, phương thức nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật…
+ Một số công trình đã có nhiều nội dung phân tích, đề cập đến pháp luật khiếu
nại, tố cáo từ nhãn quan của lý luận chung, tuy nhiên các kết quả đạt được cũng mới
dừng lại ở việc tìm hiểu về vấn đề này.
+ Một số công trình nghiên cứu có định hướng cụ thể vào hoàn thiện pháp luật
khiếu nại, tố cáo nhưng kết quả đạt được còn hạn chế, chưa thực sự xem xét việc pháp
xvi

luật khiếu nại, tố cáo từ góc độ của nhà làm luật, người xây dựng và hoàn thiện pháp
luật mà vẫn còn bị cuốn hút bởi việc thực thi pháp luật khiếu nại, tố cáo trong tình hình
hiện nay.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu các vấn đề về pháp luật khiếu nại, tố cáo
hoặc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam với tư cách là những đề tài riêng biệt.
Trong quá trình phân tích các công trình nghiên cứu, chúng tôi thấy rằng đây chủ yếu là
những công trình nghiên cứu về pháp luật
Ngoài ra còn có một số các nghiên cứu khác như:
- “Hoàn thiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo ở nước ta trong giai đoạn hiện nay”,
Luận văn thạc sĩ Luật của tác giả Lương Thanh Cường. Nội dung luận văn tập trung
nghiên cứu lý luận về quyền khiếu nại, tố cáo. Sự hình thành, phát triển của pháp luật
về quyền khiếu nại, tố cáo ở nước ta. Thực trạng khiếu nại tố cáo ở nước ta từ 1999 đến
nay. Đồng thời luận văn đưa ra các giải pháp để hoàn thiện pháp luật về khiếu nại, tố
cáo và nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo [17].
- “Hoàn thiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo của công dân trong điều kiện xây
dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Luật của Mai Thị
Chung (2001). Nội dung luận văn tập trung làm rõ những quy định của pháp luật về
khiếu nại, tố cáo của công dân, cũng như vai trò, thực trạng và vấn đề hoàn thiện pháp
luật về quyền khiếu nại, tố cáo trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước
ta [16];
- "Quyền giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của
công dân", Luận văn thạc sĩ Luật của tác giả Cao Mạnh Linh (2006). Nội dung luận văn

tập trung làm rõ một số vấn đề lý luận về quyền giám sát của Quốc hội, thực trạng giám
sát của Quốc hội và các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quyền giám sát của
Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân [141].
- “Hoàn thiện pháp luật khiếu nại, tố cáo trong điều kiện xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, Luận án tiến sỹ luật học của tác giả Ngô
Mạnh Toan (2008). Nội dung luận án tập trung giải quyết vấn đề hoàn thiện pháp luật
khiếu nại, tố cáo từ những yêu cầu của xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội
chủ nghĩa [172].
- "Phân biệt khiếu nại hành chính với khiếu kiện hành chính", Vũ Trọng Hách,
Tạp chí Quản lý nhà nước, số 3 năm 2008. Bài viết của tác giả tập trung phân tích làm
rõ những đặc điểm chung và khác nhau giữa khiếu nại hành chính và khiếu kiện hành
xvii

chính, tránh nhận thức nhầm lẫn giữa hai quyền này trong hoạt động thực tiễn và trong
thực hiện quyền khiếu nại và quyền khiếu kiện [128].
- "Đổi mới công tác tiếp dân trong lĩnh vực khiếu nại, tố cáo", Luận văn thạc sĩ
Luật của Trần Thị Thúy Mai (2010). Nội dung luận văn tập trung làm rõ cơ sở lý luận
về tiếp công dân, thực trạng công tác tiếp dân, quan điểm, giải pháp đổi mới công tác
tiếp dân trong lĩnh vực giải quyết khiếu nại, tố cáo hành chính [146].
1.2.3. Nhóm các công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề giải quyết khiếu
nại hành chính
1.2.3.1. Nhóm các đề tài luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ chuyên ngành luật học
và chuyên ngành hành chính công đề cập đến việc giải quyết khiếu nại của công dân
- “Tăng cường hiệu lực, hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân ở
Việt Nam hiện nay”, Luận án tiến sĩ luật học của tác giả Nguyễn Thế Thuấn (2001).
Nội dung luận án tập trung phân tích làm rõ cơ sở lý luận và pháp lý của quyền khiếu
nại, tố cáo và hiệu quả pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; tham số
và các tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo của công
dân; thực trạng pháp luật và kết quả, tồn tại, nguyên nhân trong hoạt động giải quyết
khiếu nại, tố cáo của các cơ quan nhà nước; hệ thống các giải pháp cơ bản tăng cường

hiệu quả pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân [171].
- "Thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan hành chính nhà nước",
Luận văn thạc sĩ Luật của tác giả Nguyễn Thị Minh Hà (2002). Nội dung luận văn tập
trung làm rõ thẩm quyền giải quyết KNTC của cơ quan hành chính nhà nước đề và vấn
đề hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả về giải quyết khiếu nại, tố cáo [127].
- "Vai trò của các cơ quan Thanh tra nhà nước trong giải quyết khiếu nại hành
chính ở Việt Nam", Luận văn thạc sĩ Luật của tác giả Nguyễn Văn Kim (2004). Luận
văn tập trung làm rõ cơ sở pháp luật, vai trò và các giải pháp nâng cao vai trò của các
cơ quan hành chính nhà nước trong việc giải quyết khiếu nại hành chính [137].
- "Một số giải pháp nâng cao chất lượng giải quyết khiếu nại nhằm bảo đảm các
quyền công dân" (qua thực tiễn tỉnh Đồng Nai), Luận văn cao học hành chính công của
tác giả Phan Văn Châu (2004). Nội dung luận văn tập trung làm rõ việc giải quyết
khiếu nại - phương thức bảo đảm quyền công dân; thẩm quyền, thủ tục giải quyết khiếu
nại; thực trạng khiếu nại và giải quyết khiếu nại trên địa bàn tỉnh Đồng Nai; phương
hướng và giải pháp nâng cao chất lượng giải quyết khiếu nại ở Đồng Nai [106].
- "Nâng cao năng lực của công chức hành chính nhà nước trong giải quyết khiếu
xviii

nại", Luận văn cao học quản lý hành chính công của tác giả Hoàng Ngọc Dũng (2006).
Nội dung luận văn tập trung làm rõ cơ sở pháp lý về giải quyết khiếu nại hành chính, về
khái niệm, thực trạng và các giải pháp nâng cao năng lực của công chức hành chính
trong giải quyết khiếu nại hành chính [118].
- "Giải quyết khiếu nại hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai ở
nước ta hiện nay", Luận văn cao học chuyên ngành quản lý hành chính công của tác giả
Trương Tiến Dũng (2007). Nội dung luận văn tập trung làm rõ tình hình khiếu nại hành
chính trong lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai, nêu rõ các nguyên nhân, tồn tại trong
quá trình giải quyết khiếu nại về đất đai và kiến nghị các giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng giải quyết khiếu nại hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai [119].
- "Giải quyết khiếu nại về đất đai của các cơ quan hành chính nhà nước ở tỉnh
Hải Dương hiện nay", Luận văn thạc sĩ Luật của tác giả Nguyễn Hoài Thoa (2007). Nội

dung luận văn tập trung làm rõ vấn đề khiếu nại về đất đai và việc giải quyết khiếu nại
về đạt đai, các giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại về đất đai ở tỉnh Hải
Dương [169].
- “Hiệu quả hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hành chính
nhà nước ở Ninh Bình hiện nay", Luận văn thạc sĩ Luật của tác giả Nguyễn Thị Hồng
Thơm (2009). Nội dung luận văn tập trung làm rõ cơ sở lý luận về khiếu nại, tố cáo,
pháp luật về khiếu nại, tố cáo; thực trạng giải quyết khiếu nại, tố cáo tại các cơ quan
hành chính nhà nước ở tỉnh Ninh Bình; phương hướng hoàn thiện pháp luật về khiếu
nại, tố cáo và các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo ở
tỉnh Ninh Bình [170].
1.2.3.2. Nhóm các tác phẩm, đề tài khoa học liên quan đến giải quyết khiếu nại
- "Giải quyết khiếu tố của nhân dân - thực trạng và những bài học kinh nghiệm",
Đề tài khoa học cấp bộ do Tiến sĩ Nguyễn Văn Mạnh chủ nhiệm (1998-1999). Nội
dung đề tài tập trung làm rõ cơ sở lý luận, pháp lý về quyền khiếu nại, quyền tố cáo của
công dân, tình hình giải quyết khiếu nại và các kinh nghiệm, giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng giải quyết khiếu nại, tố cáo ở một số địa phương [145].
- "Một số vấn đề đổi mới cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính ở Việt
Nam", của tiến sĩ Nguyễn Văn Thanh - luật gia Đinh Văn Minh, Nxb Tư pháp, Hà Nội
2004. Nội dung cuốn sách tập trung đề cập đến khiếu kiện hành chính (nghĩa rộng -
khiếu nại hành chính và khiếu kiện hành chính), thực trạng và vấn đề đổi mới cơ chế
nhằm nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu kiện hành chính của công dân [149].

×