Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

NHỮNG CUỘC cải CÁCH của các TRIỀU đại PHONG KIẾN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.39 KB, 39 trang )

NHỮNG CUỘC CẢI CÁCH CỦA CÁC TRIỀU ĐẠI PHONG KIẾN
VIỆT NAM
LỜI MỞ ĐẦU
Cải cách là một nội dung xuyên suốt quá trình xây dựng và phát triển của
các triều đại phong kiến độc lập. Dân tộc Việt Nam kể từ thời kỳ Hùng
Vương dựng nước cho đến bây giờ đã trải qua nhiều thăng trầm lịch sử. Qua
việc học tập, nghiên cứu đã khẳng định được truyền thống của con người Việt
Nam là : không chỉ cần cù, chịu khó, bền bỉ, mà còn rất yêu nước, có tinh thần
chống giặc ngoại xâm, dám hy sinh cả tính mạng của mình để bảo vệ cho Tổ
quốc,…Trải qua nhiều triều đại với từng giai đoạn lịch sử khác nhau. Dù đã
có nhiều biến động, nhiều thay đổi, hay đó là sự thành công hoặc thất bại,
cũng có thể là sự chuyển biến từ chế độ này sang chế độ khác nhưng dù ở
triều đại nào cũng đã có nhiều cống hiến cho lịch sử để đời sau còn lưu truyền
mãi, ghi nhớ, học tập và phát huy những điều tốt đẹp, có thể ở một nhân vật
lịch sử hoặc một vấn đề nào đó của lịch sử.Trong lịch sử thời kì trung đại nói
riêng và lịch sử của dân tộc nói chung, chúng ta biết rằng có rất nhiều cuộc
cải cách lớn của những nhân tài Việt Nam đã dám đứng ra cầm quyền, lãnh
đạo và tổ chức tiến hành. Tuỳ vào tình hình của mỗi giai đoạn lịch sử nhưng
nói chung mỗi khi đất nước có nhu cầu canh tân để phát triển thì đồng thời
xuất hiện những tư tưởng cải cách lớn. Tiêu biểu của thời trung đại có cuộc
cải cách của Khúc Hạo(907), của Hồ Quý Ly (cuối thế kỷ XIV- đầu thế kỷ
XV), của Lê Thánh Tông( cuối thế kỷ XV), của Quang Trung – Nguyễn Huệ (
cuối thế kỷ XVIII ), cuộc cải cách hành chính của Minh Mạng( nửa đầu thế
kỷ XIX). Như vậy, nghiên cứu về đề tài cải cách này chúng ta sẽ hiểu biết
được đầy đủ hơn, sâu sắc hơn về lịch sử Việt Nam thời Trung đại.

1


A. Các Cuộc Cải Cách.
I. Cải Cách Hành Chính Nhà Họ Khúc.


1. Hoàn cảnh lịch sử.
Cải cách hành chính là một xu hướng bình thiên hạ, phát triển đất nước,
tập trung quyền lực một cách thống nhất vào trong tay Vua, của xã hội phong
kiến Việt Nam thời trước. Trong đó phải nhắc đến cuộc cải cách hành chính
đầu tiên của thời đại phong kiến, đó chính là cuộc cải cách của nhà họ Khúc.
Sau hơn một thiên nhiên kỷ đấu tranh chống ngoại xâm, đến cuối thế
kỷ IX đầu thế kỷ X, lực lượng đất nước ta cả về chính trị, quân sự, kinh tế,
văn hóa…đều phát triển và vững mạnh hơn trước, bên cạnh đó quân ngoại
xâm ngày càng suy yếu hơn. Nhân lúc đó Khúc Thừa Dụ đã đứng lên nắm
quyền tự chủ dân tộc và sau này là Khúc Hạo, Khúc Thừa Mỹ lên nắm quyền
thực hiện công cuộc đổi mới, cải cách đất nước. Trong lịch sử thì công cuộc
cải cách, đổi mới của Khúc Hạo được các nhà lịch sử đánh giá cao, toàn diện
và sâu sắc. Cuộc cải cách của nhà họ Khúc bao gồm các nội dung sau:
2. Nội dung cải cách.
2.1 Cải cách về cơ cấu hành chính:
Họ Khúc nắm được khâu trọng yếu là cải cách cơ cấu hành chính do bọn
xâm lược, dựng lên theo phương thức “nắm từ trên xuống, từ tiết độ sứ đến
quân lệnh”… mục đích là để đàn áp, bóc lột. Nay họ Khúc thay cơ cấu hành
chính “nắm từ dưới lên” nắm từ cơ sở cấp “xã” và trên thì thay chế độ “quận,
huyện, hương” của nhà Đường bằng cơ chế mới , bộ máy chính quyền họ
Khúc bao gồm: “Lộ-Phủ-Châu-Giáp-Xã”.
Giao châu trước kia chia thành Quận, huyện. Dưới huyện là hương và xã.
Hương có Đại hương (từ 160 đến 540 hộ) tiểu hương (từ 70 đến 150 hộ).
Xã có đại Xã (40-60 hộ), tiểu Xã (10-30 hộ) nhưng bọn thống trị
trước chưa bao giờ với tay được đến xã và không đặt ra các chức xã quan. Họ
Khúc đã đặt ra các chức “Chánh lệnh trưởng” và “Tá lệnh trưởng” tức các xã
quan để trông coi các xã.
2



Trên các Xã là các Hương (có 159 Hương) thì Khúc Hạo đã đổi Hương
thành Giáp đặt thêm 150 Giáp. Tổng số thành 314 Giáp. Mỗi Giáp có gồm
khoảng gần 10 xã, lại định ra hộ tịch, lập hộ khẩu, kê rõ họ tên, quê quán
nhằm nắm vững dân số và thông hiểu dân tình. Điều mà đô hộ nhà Đường
không thể nào làm được (biện pháp này cho đến nay chúng ta vẫn còn thực
hiện). Chính quyền họ Khúc đã ý thức được việc quản lý đến chính quyền cơ
sở.
2.2 Kinh tế:
Thời thuộc Đường ngoài việc cống nạp rất nhiều người Việt, còn chịu tô
thuế và lao dịch nặng nề. Nhằm thay đổi điều đó, Khúc Hạo chủ trương sửa
lại chế độ tô thuế. Ông thực hiện chính sách “bình quân thuế ruộng”. Khúc
Hạo chủ trương bỏ thuế đinh, người thu thuế là phó Tri giáp, theo mô hình
cống nạp liên danh của phương thức sản xuất Châu Á thời cổ trung đại, khắc
phục sự phiền hà sách nhiễu của các quan cũng như việc thu thuế nhiếu tầng,
nhiều loại, tránh được cả thất thu ngân sách.
Một chính sách khác mà Khúc Hạo áp dụng là “tha lực dịch” nhằm bớt đi
lao động khổ sai cho người dân cuối thời thuộc Đường.
2.3 Văn hóa – Xã hội:
Chính sách về Văn hóa xã hội được ghi vắn tắt là “khoan, giảm, an, lạc”:
Khoan là “khoan sức cho dân dễ hiểu, dễ thấm, dễ thực hành”. An là đem lại
cuộc sống bình yên cho cính quyền, nắm sát dân cho đến tận xã giúp giữ vững
trật tự trị an… Lạc là hệ quả cuối cùng của các biện pháp trên, nhờ thực hiện
cải cách trên mà nhân dân đều được yên vui bớt được hờn giận, oán sâu .
2.4 Đối ngoại:
Năm 911 Lưu Nghiêm lập ra nhà nước Nam Hán nhận thấy nguy
cơ từ phía họ Lưu, Khúc Hạo sai con là Khúc Thừa Mỹ làm “khuyến hiếu sứ”
sang Quảng Châu bề ngoài để “kết mối hòa hiếu” song bề cốt là xem xét tình
hình hư thực của địch. Do hành động ngoại giao mềm dẻo của Khúc Hạo mà
quân Nam Hán không gây hốn loạn với tỉnh Hải Quân. Sau này do Khúc
3



Thừa Mỹ thất sách, cả trong chính sách đối nội cũng như đối ngoại, nên tỉnh
Hải Quân nên mới bị Nam Hán xâm chiếm.
3. Nhận xét:
Công cuộc cải cách hành chính của nhà họ Khúc đã đạt được những kết
quả nhất định. Đất nước ổn định, phát triển trên nhiều lĩnh vực của xã hội và
mang lại cuộc sống mới tốt đẹp hơn cho nhân dân.
3.1 Thành công về đối nội:
Họ Khúc được đánh giá là nhà cải cách hành chính tiên phong đầu tiên ở
Việt Nam. So với thời “Cao Biền” số đơn vị hành chính thời Khúc Hạo được
tăng nên gấp đôi. Như vậy, về chiều rộng chính quyền trung ương đã vươn tới
nhiều nơi hơn trên địa bàn cai trị. Việc đưa nhân khẩu vào quản lý chặt chẽ
hơn tại các đơn vị hành chính, tạo điều kiện tăng cường nhân lực cho các hoạt
động kinh tế, quân sự của chính quyền.
Vào thế kỷ X trong khi các Hào trưởng địa phương ít người có xu hướng
độc lập cát cứ với chính quyền trung ương (nguy cơ các triều đại Ngô, Đinh
sau đó cũng vậy) Khúc Hạo đã khéo léo dựa vào họ để củng cố chính quyền
cơ sở. Như vậy cuộc cải cách của họ Khúc tạo cơ sở kinh tế, xã hội vững chắc
cho nền độc lập, tự chủ của người Việt sau này.
3.2 Thành công về đối ngoại:
Hoàn cảnh lịch sử khi Khúc Hạo cầm quyền có khó khăn hơn nhiều so với
các triều đại sau này, vì Việt Nam vừa thoát khỏi sự ràng buộc của Trung
Quốc và trên danh nghĩa chưa được là “chư hầu” của Trung Quốc mà vẫn
đang là một “Quận” (đơn vị hành chính lúc đó), một bộ phận cấu thành của
Trung Quốc. Hiểu rõ thời cuộc, tự biết thế lực của mình Khúc Hạo đã sáng
suốt không xưng đế hay xưng vương để gây sự chú ý của phương Bắc, dù khi
đó tại các vùng lãnh thổ liền kề trở lên trên phương Bắc những người cai quản
các phiên trấn lũ lượt xưng đế hiệu hoặc vương hiệu. Tuy nhiên, đời sau vẫn
nhìn nhận hành động của ông không kém gì các vị đế vương của Việt Nam.

Ông là người có công lao nổi bật nhất trong ba đời họ Khúc xây dựng nền tự
4


chủ. Chính việc “im hơi lặng tiếng” của Ông lúc đó giúp Ông có thời gian
củng cố chính quyền, nuôi dưỡng sức dân, tạo cơ sở cho những người đi tiếp
đưa lịch sử Việt Nam thăng tiến về thế và lực. Công cuộc cải cách hành chính
của Khúc Hạo được các nhà sử học nhận định là đã mở ra một thời kì phát
triển mới của xã hội Việt Nam, mà các triều đại sau đó sẽ hoàn thành.
3.3 Hạn chế:
Nhưng bên cạnh đó công cuộc cải cách hành chính của nhà họ Khúc cũng
mắc phải một số sai lầm và hạn chế.
Sau khi Khúc Hạo mất, Khúc Thừa Mỹ lên nắm quyền hành thay cha. Sự
thất bại trong các chính sách đối nội cũng như đối ngoại nên tỉnh “Hải Quân”
mới bị Nam Hán xâm chiếm
Tổ chức bộ máy quản lý nhà ớc chưa hợp lý, chưa phù hợp thực tế với đời
sống nhân dân lúc bấy giời, bộ máy cồng kềnh, quan lại bắt đầu suy thoái, ăn
chơi sa đọa.
Dưới thời Khúc Hạo đời sống nhân dân được ấm no, nhưng dưới thời
Khúc Thừa Mỹ thì đời sống nhân dân lâm vào tình trạng nghèo khổ...
Chính sách ngoại giao chưa hợp lý, chưa phù hợp đặc biệt là với nhà Nam
Hán.
II. Công cuộc cải cách hành chính triều Lý:
1. Hoàn cảnh lịch sử:
Sau khi Lê Long Đĩnh chết,chấm dứt triều đại nhà tiền Lê,triều thần suy
tôn Lý Công Uẩn lên ngôi vua lập lên triều đại nhà Lý tồn tại 216 năm với 9
vị vua. Đây là một triều đại quan trọng,lập ra một thời kỳ mới đặt nền móng
vững chắc và toàn diện cho sự phát triển dân tộc. Lý Công Uẩn lấy niên hiêu
là Thuận Thiên, đặt tên nước là Đại Cồ Việt,đóng đô tại Hoa Lư (Ninh Binh).
Năm 1010 Lý Thái Tổ rời đô về Thăng Long (Hà Nội).


5


2. Nội dung cải cách:
2.1 Cải cách hành chính:
Tập trung xây dựng nền hành chính thống nhất từ trung ương đến địa
phương.Vua là ngươi có quyền cao nhất về :kinh té, văn hóa ,chính trị-xã
hội.Vua nắm cả 3 quyền :lập pháp, hành pháp,tư pháp. Đường lối cai trị:
Nhân trị
2.1.1 Bộ máy nhà nước ở trung ương:

vua

Tể tướng

Các quan đại
thần (tam thái,
tam thiếu)

Chuyên môn
(thương thư, thị
lang)

Cơ quan
chuyên trách)

Giúp việc cho Vua có các quan đại thần gồm 6 viên quan văn. Tam thái: Thái
sư, Thái phó, Thái Bảo. Tam thiếu: Thiếu Sư, Thiếu Phó. Thiếu Bảo.
Có 3 quan võ: Thái Úy, Thiếu Úy, bình chương sự.

Các bộ chuyên môn : hàn lâm viện,quốc sử giám, đền, chùa,..là những
cơ quan trực thuộc Vua. Đứng trên đội ngũ quan lại trong triều là Tể Tướng
giúp vua diều hành

6


2.1.2 Tổ chức hành chính địa phương:
Triều đình trung
ương

Trấn, trại (xã)

24 lộ, phủ (tri phủ,
tri phán)

Châu, trại (miền
núi)

Huyện (huyện
lệnh)

Hương (hương
trưởng),giai(nhai,
kinh đô),
sách,động (miền
núi)


thôn


2.1.3 Cải cách chế độ quan lại:
Hoàng tử được phong tước chỉ huy quân đội hoặc được cử đi trấn
trị ở các Lộ- Phủ. Đặt ra 9 bậc phẩm đối với quan lại từ nhất phẩm đến cửu
phẩm.
Trong việc tuyển dụng quan lại : Tuyển dụng trong hàng tộc,tuyển
dụng con của quan lại,thực hiên việc mua quan.

7


2.2 Chính sách đối ngoại:
Đối với Trung Quốc : giữ hòa hảo,nhận sắc phong.nhà Tống giao
cho Lý Công Uẩn là Giao Chỉ Quân Vương và Nam Bình Vương. Triều Lý
chú trọng bang giao với các nước Chiêm Thành và Chân Lạp.
2.3 Cải cách về kinh tế:
Thực hiện chính sách sở hữu nhà nước với ruộng đất và sở hữu tư
nhân với ruộng đất.Thực hiện chính sách khoan nới sức dân (xóa thuế cho dân
trong 3 năm bỏ đi những thứ vô lý). Thực hiện chính sách tiết kiệm không tổ
chúc yến tiệc linh đình trong ngày lễ. Khuyến khích nhân dân khai khẩn đất
hoang. Chủ trương phát triển thủ công nghiệp( như gốm ,dệt….). Kinh tế tiền
tệ đã len lỏi trong quan hệ xã hội,nhà nước ban hành tiền mới.
2.4 Cải cách văn hóa - giáo dục:
Nhà lý đã có nhiều chính sách mới nhằm phát triển văn hóa - giáo
dục như: Năm 1070 xây dựng Văn Miếu, năm 1076 mở Quốc Tử Giám, năm
1075 mở khoa thi đầu tiên…
Đối với các dân tộc thiểu sổ miền núi: Sử dụng quan hệ hôn nhân
để lôi kéo các Châu Mục,Tù trưởng có thế lực(gả công chúa).
2.5 Về quân đội:
Đặt phiên hiệu, quy định nghĩa vụ quân dịch

3. Nhận xét.
3.1 Ưu điểm:
Cuộc cải cách của Lý Thái Tổ lá cuộc cải cách mang tính tất yếu
thuận theo yêu cầu của lịch sử.Đó là sự thay đổi trước nguy cơ khủng hoảng
các vương triều của nước ta.
Công cuộc cải cách , xây dựng đất nước trên quy mô lớn,xây dựng
nền hành chính nhà nước phong kiến tập quyền,đặt nền tảng vững chắc cho sự
phát triển của dân tộc.Thi hành nhiều chính sách đẻ phát triển trên các lĩnh
vực:Kinh tế, chính trị, văn hóa,quân sự…Đặc biệt nhà Lý chăm lo việc học
hành,thi cử nhằm đào tạo tuyển chọn nhân tài.
8


3.2 Nhược điểm:
Chế độ quan lại thiếu tập trung , chưa thống nhất , ở miền núi chính
sách quản lí còn lỏng lẻo.
Về kinh tế :Số tiền do các nhà vua thời Lý đúc khong đáp ứng đủ
nhu cầu giao lưu hàng hóa.Tiền đồng của nhà Đường-Tống của Trung Quốc
chiếm tỉ lệ lớn và tiền cũ thời Bắc thuộc còn lại vẫn được lưu thong trên thị
trường.
Giáo dục:Việc tuyển cử chưa thật chặt chẽ,có tiền vẫn mua được
quan.Đến thời Lý Nhân Tông(1072-1127) mới tổ chức có quy củ.
III. Cải cách của Nhà Trần.
1. Hoàn cảnh lịch sử nà Trần thành lập:
Năm 1225, Lý Huệ Tông nhường ngôi cho con gái là Lý Chiêu Hoàng (mới
lên 7 tuổi). Khi thế lực nhà Lý suy yếu hẳn, Trần Thủ Độ bố trí cho cháu
mình là Trần Cảnh (8 tuổi) vào cung vui chơi cùng Lý Chiêu Hoàng. Đầu
năm 1226, Trần Thủ Độ tổ chức một cuộc đảo chính cung đình, tuyên bố Lý
Chiêu Hoàng lấy Trần Cảnh và nhường ngôi cho chồng. Từ đây, nhà Lý hoàn
toàn sụp đổ, nhà Trần được thành lập (nhà Trần tồn tại đến năm 1400)

Để đảm bảo vững chắc vị trí và khả năng nắm quyền trong tay vua, tránh
những vụ tranh ngôi trong nội bộ Hoàng tộc và cũng để cho vua trẻ điều khiển
chính quyền vững vàng, nhà Trần áp dụng chế độ Thái Thượng Hoàng. Vua
cha chỉ làm việc trong một số năm rồi truyền ngôi cho con còn bản thân lui về
Tức Mặc (nay thuộc Nam Định) gữ tư cách cố vấn. Chế độ này thực hiện
trong suốt triều Trần.
Sự liên kết dòng họ nắm quyền như một nguyên tắc được các vua Trần cố
gắng thực hiện. Hầu như các chức vụ quan trọng trong triều và các địa
phương , Lộ ,Phủ đều do Tôn thất nắm giữ.
Sau khi lên ngôi, để xây dựng đất nước Đại Việt, Trần Thái Tông đã thực
hiện các chính sách cải cách trên các lĩnh vực và mang lại những kết quả nhất
định
9


2. Nội dung cải cách.
2.1 Nhà Trần xây dựng bộ máy theo xu hướng quan liêu
2.1.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính triều đình trung ương:
• Trung khu
Nền hành chính của Đại Việt thời Trần ở cấp trung ương có bộ phận trung
khu đứng đầu. Chức cao nhất ở trung khu là các chức quan hàng tướng quốc
và tam thái: thái sư, thái phó, thái bảo. Phần lớn suốt thời gian nhà Trần cầm
quyền, các chức quan cao hàng tam thái do các thân vương nắm giữ. Tiếp đến
là các chức quan hàng tam thiếu: thiếu sư, thiếu phó, thiếu bảo. Sau đó đến
tam tư: tư đồ, tư mã, tư không.
Giúp việc cho các quan đứng đầu trung khu là các ban hành khiển và khu mật
viện. Hành khiển lại chia làm tả hành khiển đóng ở Thăng Long và hữu hành
khiển đóng ở hành cung Tức Mặc (quê của họ Trần, thuộc thành phố Nam
Định ngày nay). Ban hành khiển sau được đổi tên thành môn hạ sảnh. Đứng
đầu ban hành khiển là chức Nhập nội hành khiển đồng trung thư môn hạ sảnh

bình chương sự. Ban đầu, người của hành khiển chỉ gồm hoạn quan. Việc chia
trung khu gồm Tể tướng, quan chức ở Khu mật viện, Hành khiển môn hạ sảnh
tách khỏi và đứng trên cơ quan chức năng. Đây là bước phát triển trong kết
cấu và cơ chế bộ máy nhà nước thời Trần.
• Các cơ quan chức năng
Thời Trần, có 6 thượng thư sảnh tương đương với lục bộ, quản lý các công
việc hành chính, tổ chức, ngoại giao, tín ngưỡng, tài chính ngân sách, quân
sự, ty pháp. Đứng đầu thượng thư sảnh là chức thượng thư hành khiển và
thương thư hữu bật. Dưới các chức này là chức thị lang, lang trung. Các
thượng thư sảnh luôn được củng cố, càng về sau càng dùng nhiều nhân sỹ nho
giáo.
Bên cạnh 6 thượng thư sảnh là hàn lâm viện phụ trách các công việc văn
phòng của triều đình. Người của hàn lâm viện gọi là học sĩ với nhiều cấp
(chức) khác nhau.
10


Các ban, ngành khác là Ngự sử đài, Đăng văn kiểm sát viện là các cơ quan
thanh tra, giám sát. Có Quốc sử viện phụ trách công việc biên soạn quốc sử
mà người đầu tiên phụ trách Quốc sử viện là Lê Văn Hưu. Có Quốc tử viện là
nơi giáo dục các vương tử nhà Trần. Có Thái y viện chăm sóc sức khỏe cho
hoàng tộc.
2.1.2.Cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính ở Địa phương:
Ở các địa phương, nhà Trần tổ chức chính quyền 3 cấp: Phủ lộ, huyện
Châu, Hương xã
2.2 Về quân đội:
Năm 1239 hạ chiếu tuyển trai tráng làm binh lính chia ra làm ba bậc
Thường, Trung, Hạ. Và năm 1241 lại tuyển những người có sức mạnh am
hiểu võ nghệ dùng làm thượng đô túc hệ… thực hiện chính sách ngụ binh ư
nông. Nhà Trần xây dựng quân đội theo phương châm binh lính cốt tinh nhuệ

không cốt nhiều việc luyện tập và đào tạo rõ quan được chú trọng
Như vậy đây là chính sách sáng suốt của Trần Thái Tông đảm bảo cho
quân dội vững mạnh không chỉ trong chến đấu, mà đảm bảo được quá trình
sản xuất đảm bảo cuộc sống của đất nước

2.3 Chính sách quan lại.
Chế độ quan lại ở tời Trần có lương bổng, Trần Thái Tông quy định
lương cho quan văn võ các triều đình đến các địa phương kể cả quan giữ làng
miếu.
Nhà trần định lệ khảo công xét thành tích quan lại để thăng thưởng, cứ
15 năm xét tuyển 1 lần,10 năm thăng tước 1 cấp và 15 năm thăng chức 1 bậc,
chức quan nào khuyết thì chánh kiêm chức người phó.
2..3.1 Phương thức tuyển chọn quan lại
Bộ máy hành chính thời Trần được xây dựng chủ yếu trên 2 cơ sở xã hội
là quý tộc họ Trần và các sĩ phu. Phương thức tuyển chọn quan lại là nhiệm
11


tử, người nắm chính quyền được bổ nhiệm theo họ hàng. Đồng thời nhà Trần
lựa chọn quan lại theo chế độ khoa cử, qua công lao, thủ sĩ và mua bán bằng
tiền
Nhận xét: so với thời Lý các chính sách quan lại của nhà Trần có sự phát
triển hơn: các quan văn võ được hưởng lương bổng, việc tuyển chọn quan lại
không chỉ là qua các khoa cử, công lao mà còn thực hiện phương pháp là
nhiệm tử đây là phương thức quan trọng được thực hiện một cách quy củ hơn.
2.4 Về Kinh tế
2.4.1 Nông nghiệp:
chú trọng công cuộc trị thuỷ và chính sách bảo vệ phục hồi sản xuất nông
nghiệp
Công cuộc xây dựng thuỷ nông được nhà Trần chú ý, đắp đê ngăn lũ, xây

dựng các công trình thuỷ lợi phục vụ cho sản xuất nông nghệp
Thủ công nghiệp có 2 hình thức là xưởng thủ công nhà nước và xưởng thủ
công tư nhân loại hình nghành thủ công hết sức phong phú như: gốm, dệt…
mạng lưới thương nghiệp được mở rộng ra thành thị được phát triển mạnh
trong thời Trần.
Đường biển thời Trần cũng góp phần tích cực thúc đẩy phát triển thương
nghiệp: so với các triều đại trước thì nhà Trần ngoài chính sách quản lí nông
nghiệp thì ở tropng thời kì này nhà Trần còn trú trọng phát triển thủ công
nghiệp và thương nghiệp đây là bước phát triển mới của nhà Trần và cho thấy
tầm nhìn chiến lược của Trần Thánh Tông trong công cuộc xây dựng Đại
Việt.
2.4.2 Về tiền tệ
Là phương tiện lưu thông hàng hoá việc đúc tiền do quan trường đảm
nhiệm mỗi qua tiền bằng mười tiền mỗi tiền là bảy mươi dồng như vậy mỗi
quan tiền là 700 đồng.
Đây là một bước đột phá trong quá trình phát triển đất nước, lần đầu tiên
tiền được đưa vào quá trình lưu thông hành hoá, nhưng tiền ra đời trong điều
12


kiện này không phù hợp, điều đó không những dẫn đến tình trạng lạm phát về
tài chính mà còn ảnh hưởng đến các lĩnh vực khác của nhà Trần
2.5 Chính sách văn hoá
Các trung tâm kinh tế như đô thánh Thăng Long và cũng là trung tâm
chính chị của Đại Việt.
3. Nhận xét:
3.1 Ưu điểm.
Như vậy cơ chế đổi mới quản lí của nhà Trần đã xậy dựng một nhà nước
phát triển ổn định về kinh tế,tuy nông nghiệp vẫ là mặt trận hàng đầu nhưng
thủ công nghiệp và thương nghiệp bắt đầu có sự phát triển mạnh mẽ mang lại

thời kì ổn định cho đất nước
3.2 Nhược điểm.
Một số chính sách tuy táo bạo như chính sách về tiền tệ… nhưng không
phù hợp với thời đại dẫn đến sự hủng hoảng về kinh tế.
Các chính sách của ông tuy mạng lại tích cực nhưng không hợp với lòng
dân vì vậy nên các cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra dẫn đến sự suy thoái của
triều đình.

IV. Cuộc cải cách của nhà Hồ.
1. Hoàn cảnh dẫn đến cuộc cải cách của Hồ Quý Ly:
Cuối thế kỉ thứ XIV xã hội Đại Việt lâm vào tình trạng khủng hoảng
sâu sắc và toàn diện: chính quyền suy yếu bọn nịnh thần chuyên quyền, dòng
họ thống trị sa đọa, nông nghiệp giảm sút nghiêm trọng, dẫn đến dân nghèo
nô tì nổi dậy hay chống đối hay bỏ trốn. Trong lúc đó cuộc tấn công đánh phá
của Champa liên tục diễn ra, dù cuối cùng đã bị đẩy lùi hẳn tuy nhiên đã làm
cho cuộc sống nhân dân ngày càng khổ cực, triều chính thêm rối ren, tài chính
kiệt quệ, đã vậy Đại Việt đứng trước nguy cơ xâm lược ngày càng đến gần
của quân Minh. Đó là tiền đề dẫn đến cuộc cải cách của Hồ Quý Ly.
13


Hồ Quý Ly xác lập nhà Hồ: Sau khi vua Trần dời đô từ Thăng
Long vào Thanh Hóa và giết hàng loạt quần thần trung thành với nhà Trần,
tháng 2 năm canh thìn, 1400, Hồ Quý Ly truất ngôi cháu ngoại là Trần Phế
Đế, tự lên làm vua, lấy quốc hiệu là Đại Ngu lập nên nhà Hồ.
2. Nội dung cải cách của Hồ Quý Ly:
Cùng với quá trình đi lên con đường chính trị, Hồ Quý Ly đã từng
bước thực hiện những cải cách hành chính trên một số lĩnh vực:
2.1 Về tổ chức hành chính.
Từ năm 1375 Hồ Quý Ly đã đề nghị chọn các quân viên. Người nào

có tài năng luyện tập võ nghệ, thông hiểu thao lược thì không cứ là tôn thất
đều cho làm tướng coi quân.
Năm 1397 hồ quý ly đã đổi một số lộ xa thành Trấn và nâng một
số Châu lên thành Lộ. Ở các Lộ thì thồng nhất việc chỉ huy quân sự và hành
chính trong tay quan chức gọi là Đô hộ. Đô thống tổng quản do các quan Đại
thần nắm , đồng thời quy định cơ chế làm việc “ Lộ coi Phủ, Phủ coi Châu,
Châu coi huyện. Phàm những việc hộ tịch, tiền thóc, kiện tụng đều làm gộp sổ
của Lộ, đến cuối năm báo lên Sảnh để làm bằng mà kiểm xét”. Khu vực
quanh thành Thăng Long được đổi tên là Đông đô lộ do Đô hộ cai quản. sau
đó Hồ Quý Ly cho dời đô vào An Tôn (Vĩnh Lộc – Thanh Hoá) và xây dựng
kinh đô mới ở An Tôn.
Hồ Quý Ly cũng quy định cách thức mũ và phẩm phục các quan
văn, võ: “ nhất phẩm áo màu tía, nhị phẩm áo mầu đâị hồng, tam phẩm áo
màu hoa đào, Tứ phẩm áo màu lục, ngũ phẩm trở xuống áo màu xanh
biếc”(Ngô Sĩ Thì, Việt sử tiêu án, trang 307).
2.2 Về tài chính.
Cải cách nổi bật nhất là việc ban hành tiền giấy thu hồi tiền đồng,
một biện phá mới lần đầu tiên tiến hành ở Đại Việt. Năm 1396 Hồ Quý Ly
cho lưu hành tiền giấy được gọi là “thông bảo hội sao” gồm 7 loại: 10đồng,
30 đồng, 1 tiền, 2 tiền, 3 tiền, 5 tiền., đều có in hình khác nhau: giấy 10 đồng
14


vẽ rau tảo, giấy 30 đồng có in hình sóng nước, giấy 1 tiền vẽ mây, giấy 2 tiền
vẽ con rùa, giấy 3 tiền vẽ con lân, giấy 5 tiền vẽ con phượng”.
Nhà nước quy định ai làm tiền giả phải tội chết, ai dung tiền đòng bị
bắt cũng phải tội như tiền giả (xem: tài chính Việt Nam qua các thời kì lịch
sử, nhà xuất bản tài chính, Hà Nội- 2001, trang 300”
Nguyên nhân có thể do yêu cầu phát triển của kinh tế Đại Việt mà
Hồ Quý Ly đã cảm nhận được. Tuy nhiên tiền giấy ra đời không những chưa

cần thiết mà còn gây phiền hà cho dân chúng (người giàu, thương nhân không
muốn thi hành vì không tin ở giá trị đồng tiền. Nông dân ít tiền khó mua được
hàng hóa. Người có thể tích lũy được tiền tệ thì lo lắng, không yên tâm...).
Việc đề ra những biện pháp cưỡng ép nghiêm ngặt như trên đã phản ánh sự
mất lòng dân.
2.3 Về kinh tế.
2.3.1 Chính sách hạn điền.
Năm 1397 Hồ Quý Ly ban hành chính sách hạn điền. Để thực hiện
chính sách hạn điền,Hồ Quý Ly chủ trương cho các quý tộc hàng Đại vương
và trưởng Công chúa sở hữu ruộng đất không hạn định, còn thứ dân bao gồm
cả địa chủ nhỏ, vừa lẫn các hộ nông dân sở hữu ruộng đất tư nhưng không
vượt quá mức quy định của nhà nước. Có thể nói, chính sách này đã góp
phần hạn chế quyền chiếm hữu ruộng đất của địa chủ quý tộc, quan lại nhà
Trần, thu hồi số lớn ruộng đất tư nhân, bổ sung vào đất công do nhà nước
quản lý, tạo cho quốc gia một tiềm lực kinh tế để phát triển nông nghiệp.
2.3.2 Về chính sách thuế.
Năm 1420 nhà Hồ định lại thuế đinh và thuế ruộng. Thuế đinh chỉ
đành vào người có ruộng được chia, người không có ruộng trẻ mồ côi, đàn bà
goá phụ không phải nộp. Thuế đánh theo luỹ tiến: người có 5 sào ruộng nộp 5
tiền, người có trên 2 mẫu 6 sào nộp 3 quan. Thuế ruộng tư: 5 thang/ mẫu. Đất
bãi thu: 3 quan đến 5 quan / mẫu.
15


2.4 Tư tưởng đổi mới xã hội.
Một chính sách có tầm quan trọng lớn là hạn chế nô tì. Năm 1401
nhà Hồ quy định các quan lại, quý tộc theo phẩm cấp chỉ được nuôi 1 số nô
tì, nông nô nhất định số thừa là xung công. Mục tiêu cũng là đánh vào cả thế
và lực của phong kiến quý tộc nhưng cũng là cải cách nửa vời. Bởi vì đáng lẽ
“hạn nô” để giải phóng sức sản xuất xã hội thì đây lại “đưa nô sung công” và

“sung vào quân địch” củng cố chế độ phong kiến quan liêu.
Cùng năm đó nhà Hồ cho các lộ làm lại sổ hộ tịch, biên hết tên
những người 2 tuổi trở lên. Những dân phiêu tán đều bị loại ra khỏi sổ. Dân
kinh thành trú ngụ ở các phiên trấn đều phải trở về quê quán.
Năm 1405 nạn đói xảy ra.nhà hồ lệnh cho các quan địa phương đi
khám xết nhà giàu có thừa thóc bắt phải bán cho dân theo đói thời giá.
2.5 Về văn hoá giáo dục.
Năm 1392 Hồ cho soạn sách “Minh đạo” phê phán khổng tử, chê
trách các nhà Tống nho đề cao chu công.
Cùng với việc đề cao chữ Nôm, tư tưởng cải cách văn hóa của Hồ
Quý Ly còn được thể hiện ở một số lĩnh vực hoạt động khác như chấn hưng lễ
nhạc; sửa đổi nghi thức lễ tân; cải cách phẩm phục triều nghi; khôi phục, lập
lại các nghi lễ truyền thống và quy định việc tế tự mang tính văn hóa, nhằm
kích thích ý thức dân tộc trong cộng đồng.
Năm 1396 Hồ Quý Ly bắt tất cả các sư chưa đến 50 tuổi phải hoàn
tục và tổ chức thi về giáo lí nhà phật ,ai thông hiểu mới được ở lại làm sư.
2.6 Về xây dựng lực lượng quân sự.
Năm 1401 lập sổ hộ tịch để bổ sung quân ngũ. Đóng thuyền đinh
sắt để chiến đấu, chấn chỉnh lại tổ chức quân đội, bổ thêm hương quân. Trong
chiến đấu, áp dụng thuật “làm vườn không nhà trống". Xây dựng thêm thành
trì mới, cấu trúc lại các thành trì cũ.Các nhà xưởng đóng thuyền và sản xất vũ
khí dược thành lập. Và đặc biệt là phát minh có tầm quan trọng trong quân sự

16


đó là việc Hồ Nguyên Trừng đã chế tạo ra nhiều súng có sức công phá lớn,
đặc biệt là việc chế tạo ra súng thần cơ.
3. Nhận xét:
Như vậy, cuộc khủng hoảng xã hội ở nửa sau thế kỉ XIV đã phản

ánh tình trạng suy thoái của nhà Trần cũng như tính chất lỗi thời của cấu trúc
nhà nước đương thời. Nhân vật Hồ Quý Ly đã ra đời và nổi bật lên trong bối
cảnh đó. Từng bước tiến lên nắm mọi quyền hành, Hồ Quý Ly đã mong muốn
cứu vãn tình thế đặc biệt khó khăn và phức tạp đó và ông đã kiên quyết thực
hiện cuộc cải cách. Có thể thấy, đó là một cuộc cải cách toàn diện, từ chính trị
đến kinh tế - tài chính, văn hóa giáo dục, xã hội. Thông qua các cải cách kinh
tế - xã hội, chính trị, Hồ Quý Ly dự định xóa bỏ đặc quyền và thế lực của tầng
lớp quý tộc Trần, xây dựng một nhà nước quan liêu không đẳng cấp, quyền
lực tập trung, để trực tiếp giải quyết những khó khăn trong nước và chống lại
các thế lực xâm lược từ bên ngoài. Tuy nhiên, cuộc cải cách có chỗ quá mạnh
so với thời đó (như chính sách hạn điền), có chỗ chưa thật triệt để ( như chính
sách hạn nô nhưng gia nô, nô tì không được giải phóng). Chính sách tiền tệ
nhằm thu lại và hạn chế việc sử dụng đồng trong chi dùng hàng ngày, tập
trung nguyên vật liệu phục vụ quốc phòng - một nhu cầu bức thiết. Nhưng,
lưu hành tiền giấy là một vấn đề hoàn toàn mới mẻ đối với nước ta đương
thời, không đáp ứng đúng thực tiễn phát triển còn hạn chế của kinh tế hàng
hóa cuối thế kỉ XIV. Cải cách văn hóa, giáo dục có ý nghĩa tiến bộ đầy đủ
hơn. Trong tình thế bị thúc bách về nhiều mặt, một số việc làm của Hồ Quý
Ly đã gây thêm mâu thuẫn trong nội bộ, ảnh hưởng sâu sắc đến ý thức đoàn
kết thống nhất của nhân dân khi xảy ra nạn ngoại xâm. Chính Hồ Nguyên
Trừng đã nói lên điều đó khi phát biểu ''Tôi không sợ đánh giặc mà chỉ sợ
lòng dân không theo" và Hồ Quý Ly đã thừa nhận khi thưởng cho Hồ Nguyên
Trừng

cái

hộp

trầu


bằng

vàng.

Tuy nhiên thì Hồ Quý Ly vẫn là nhà cải cách lớn đầu tiên trong lịch sử

17


nước ta và cuộc cải cách của ông đã khiến người đời sau, các nhà nghiên cứu
suy nghĩ, đánh giá.
V. Cuộc cải cách của nhà Lê Sơ
1. Hoàn cảnh lịch sử
Trong những cuộc cải cách hành chính của các triều đại phong
kiến, thì cuộc cải cách tiêu biểu với quy mô lớn và đưa xã hội phát triển đi lên
đó là cuộc cải cách của triều Lê Sơ. Sau khi đánh bại quân nhà Minh, Lê Lợi
chính thức lên ngôi Hoàng đế ở Đông Kinh (Thăng Long), ngày 15 tháng 4
năm Mậu Thân (29 tháng 4 năm 1428), khôi phục tên nước là Đại Việt mở
đầu triều đại Lê.
Hành chính Đại Việt thời Lê Sơ, đặc biệt là sau những cải cách của
Lê Thánh Tông, hoàn chỉnh hơn so với thời Lý và thời Trần, mang tính quan
liêu và chuyên chế cao độ. Từ thời Lê Thánh Tông, có sự sắp xếp lại bộ máy
nhằm tập trung quyền lực vào tay Hoàng đế và kiểm soát chặt chẽ cấp địa
phương. Bộ máy tổ chức thời Lê Thánh Tông là bộ máy quân chủ chuyên chế
quan liêu được tổ chức khá chặt chẽ và hoàn chỉnh.
2. Nội dung cải cách:
2.1 Cải cách hành chính giai đoạn 1428 – trước 1460:
• Chính quyền trung ương:
Bộ máy chính quyền thời Lê Thái Tổ cơ bản theo mô hình thời Trần,
nhưng hoàn thiện và phát triển hơn. Giúp việc trực tiếp cho Hoàng đế trung

khu gồm các quan Tả, Hữu Tướng Quốc, Tam Thái ( Thái sư, Thái úy, Thải
bảo ), Tam Thiếu ( Thiếu sư, Thiếu úy, Thiếu bảo ), Tam Tư (Tư mã, Tư
khấu, Tư không ), Bậc xạ, dưới Trung Khu là 2 ban văn, võ. Đứng đầu ban
văn là quan Đại hành khiển. Các bộ, ngành thuộc văn ban là Bộ lại, Bộ lễ,
Khu mật viện, Hàn lâm viện, Ngũ hình viện, Ngự sử đài, Quốc tử giám, Quốc
sử viện, Nội thị sảnh, và các cơ quan khác gọi là Quản, Cục hay Ty, đứng đầu
là quan Thượng thư. Đứng đầu ban võ là Đại tổng quản, tiếp đến là các chức
Đại đô dốc, Đô tổng quản, Tổng quản, Tổng binh, Tư mã. Ban võ gồm 6 quân
18


điện tiền và 5 quân thiết đột. Tổng số quan lại thời Hồng Đức là 5370 người,
trong đó quan lại trong triều là 2755 người.
Lục tự gồm có:
1.

Đại lý tự: cơ quan phụ trách hình án, xét xong án chuyền sang bộ

hình để tâu lên vua quyết định.
2.

Thái thường tự: cơ quan phụ trách lễ nghi, âm nhạc cung đình.

3.

Quang lộc tự: phụ trách hậu cần đồ lễ trong các buổi lễ của triều

đình.
4.


Thái bộc tự: cơ quan phụ trách xe ngựa của vua và coi sóc chuồng

ngựa cho vua.
5.

Hồng lộ tự: tổ chức việc xướng danh những người đỗ trong kì thi

đình, lo an táng đại thần qua đời và tiếp đón các ông Hoàng ngoại quốc.
6.

Thượng bảo tự: cơ quan coi việc đóng ấn vào quyển thi của các thí

sinh thi Hội.
Các cơ quan chuyên môn: Lê Thánh Tông tổ chức thêm 1 số cơ
quan chuyên môn không lệ thuộc vào 6 bộ, bao gồm:
Thông chính ty: cơ quan phụ trách chuyển đạt giấy tờ của triều
đình xuống và nhận đơn từ của nhân dân tâu lên vua. Đứng đầu là Thông
chính sứ, trật Tòng tứ phẩm.
Quốc tử giám: cơ quan giáo dục cao nhất trong cả nước. Đây là
trường đại học của triều đình có nhiệm vụ đào tạo nhân tài cho quốc gia.
Đứng đầu là Tế tửu, trật chánh tứ phẩm.
Quốc sử viện: cơ quan chép sử của triều đình. Nhà vua nói gì, làm
gì sử quan đều phải ghi chép cẩn thận và trung thực. Đứng đầu là Quốc sử
viện Tu soạn, trật chánh bát phẩm.
Khuyến nông và Hà đê xứ : 2 cơ quan coi việc nông nghiệp và
trông nom về thủy lợi.
• Chính quyền địa phương

19



Năm 1428 Lê Lợi khi lên ngôi lấy liên hiệu là Thuận Thiên (tuân theo
trời), chia đất nước thành 5 đạo: Đông, Tây, Nam, Bắc ( đều ở vùng Bắc Bộ )
và Hải tây ( từ Thanh Hóa trở vào ). Dưới đạo là Trấn, dưới trấn là Lộ, dưới
lộ là Châu và Huyện, cấp hành chính địa phương thấp nhất là Xã. Xã lại chia
trời làm đại xã, trung xã và tiểu xã tùy theo số dân.
Đứng đầu chính quyền các Đạo là chức Hành khiển (phụ trách cả quân sự
lẫn dân sự ). Đứng đầu các Trấn là các An phủ sứ, các Lộ là Tuyên phủ sứ,
các Châu, các Huyện là Tri châu hay Tri huyện, các xã là Xã quan ( từ thời Lê
Thánh Tông đổi thành Xã trưởng ). Đến năm Quang Thuận thứ 5 (1464) thời
vua Lê Thánh Tông. Đại Việt được chia thành 1 phủ và 12 đạo “ thừa tuyên
’’, năm 1490 đổi gọi phần lớn các “ thừa tuyên ” là “ xứ ” song thời Lê Uy
Mục và Lê Tương Dực đổi gọi các dơn vị cấp cao nhất là “ Trấn”. Các đơn vị
hành chính cao nhất gồm có : Phủ trung đô( phủ phụng thiên ), Thanh Hóa,
Nghệ an, Thuận hóa, Thiên trường ( Sơn nam ), Hải dương ( Nam sách ), Sơn
Tây ( Quốc oai ), Bắc Giang ( Kinh Bắc ), An Bang, Hưng Hóa, Tuyên
Quang, Thái Nguyê ( Ninh sóc ), Lạng Sơn. Từ năm 1471 mở rộng đất đai
phía nam, đặt thêm thừa tuyên Quảng Nam. Tuy địa giới có 1 số điều chỉnh
và riêng Sơn Tây không còn là địa giớ cao nhất, 1 nửa tên gọi thời kìa này
được dùng làm tên các đơn vị hành chính lơn nhất ( Tỉnh) của Việt Nam hiện
nay như : Hải Dương, Lạng Sơn, Băc Giang, Tuyên Quang, Thanh Hóa, Nghệ
An, Quảng Nam ...
Bộ máy chính quyền của mỗi đạo thừa tuyên gồm có 3 ty : Đô tổng binh
sứ ty ( phụ trách quân sự ), Thừa tuyên ty ( phụ trách các việc dân sự ), Hiến
sát ty ( phụ trách các việc thanh tra giám sát ). Các quan địa phương được ban
ngạch cao nhất là Chánh tứ phẩm, hưởng lương 48 quan mỗi năm. Tổng sứ
quan địa phương thời Hồng Đức là 2615 người.
2.1.2 Giáo dục khoa cử:
Giáo dục khoa cử thời Lê Sơ phát triển, trước hết do đường lối “ Sùng
Nho ” của các nhà Vua thời kì này, đồng thời để đáp ứng nhu cầu ngày càng

20


tăng về đào tạo nhân tài, quan liêu cho chế độ. Nho giáo chiếm vị trí độc tôn.
Các Vua thời Lê Sơ đã cho sửa sang tu bổ Văn Miếu Quốc tử giám. Đợt
trùng tu lớn nhất vào năm 1483 đời Lê Thánh Tông. Quốc Tử Giams thời Lê
Sơ đã mở rộng đối tượng tuyển sinh và học tập, nhiều con em học giỏ xuất
thân từ các gia đình bình dân cũng được tham gia học tập. Giám sinh ( Xá
sinh ) thời Lê được chia thành 3 loại ( Thượng, Trung, Hạ ) được cấp học
bổng và học phẩm.
Ở các địa phương hệ thống trường học có đến cấp phủ huyện, các lớp học
có đến cấp xã .
Thời Lê Sơ, quy chế thi cử cũng được kiện toàn. Có 2 cấp thi : thi địa
phương ( thi Hương ) và thi quốc gia ( thi Hội, thi Đình ). Học vị thi Hương
công, học vị thi Đình và Tiến sĩ với 3 cấp : Tiến sĩ cấp đệ ( Trạng Nguyên,
Bảng nhãn, Thám hoa ), Tiến sĩ xuất thân và đồng Tiến sĩ xuất thân. Các bài
thi cũng được ấn định, mỗi khoa thi gồm có 4 trường lần lượt là : kinh nghĩa,
chiếu chế biểu, thơ phú, văn sách .
Nhà nước Lê Sơ đã thi hành chính sách trọng sĩ, trong các lễ xướng danh,
ban mũ áo, thiết yến tiệc vinh quy. Mọi Tiến sĩ đều được khắc tên vào bia đá
đặt ở Văn Miếu. Nên giáo dục, khoa cử thời Lê Sơ mang tính thế tục, phổ cập
và bình đẳng, nó đã trí thức hóa tầng lớp quan liêu .
Như vậy, cơ cấu bộ máy hành chính thời Lê Sơ giai đoạn 1428- trước
1460 như sau:

21


Vua


Tể tướng, quan đại thần (văn, võ)

Khối hành
chính

Khối thanh tra
tư pháp, xét xử

Khối quân sự

Kinh đô

Đạo

Phường

Lộ

Phủ

Huyện

Châu


2.2 Cuộc cải cách của Lê Thánh Tông:
Thời Lê Sơ cuộc cải cách hành chính đưa đất nước ta phát triển lên
đến đỉnh điểm, đó chính là cuộc cải cách của Lê Thánh Tông. Ông đã cải cách
trên tất cả các lĩnh vực khác nhau một cách toàn diện và nhiều điều tiến bộ
hơn so với các cuộc cải cách trước.


22


2.2.1 Hành chính:
Nhà nước phong kiến tập quyền qua các đời từ nhà Trần chỉ có 4 bộ:
Hình, Lại, Binh, Hộ. Đời vua Lê Thái Tổ chỉ có 3 bộ: Lại, Lễ, Dân (tức Hộ
Bộ). Lê Thánh Tông tổ chức thành sáu bộ:


Lại Bộ: Trông coi việc tuyển bổ, thăng thưởng và thăng quan tước;



Lễ Bộ: Trông coi việc đặt và tiến hành các nghi lễ, tiệc yến, học hành

thi cử, đúc ấn tín, cắt giữ người coi giữ đình, chùa, miếu mạo;


Hộ Bộ: Trông coi công việc ruộng đất, tài chính, hộ khẩu, tô thuế kho

tàng, thóc tiền và lương, bổng của quan, binh;


Binh Bộ: Trông coi việc binh chính, đặt quan trấn thủ nơi biên cảnh, tổ

chức việc giữ gìn các nơi hiểm yếu và ứng phó các việc khẩn cấp;


Hình Bộ: Trông coi việc thi hành luật, lệnh, hành pháp, xét lại các việc


tù, đày, kiện cáo;


Công bộ: Trông coi việc xây dựng, sửa chữa cầu đường, cung điện

thành trì và quản đốc thợ thuyền.
Về cơ cấu chính quyền các cấp, ông đã tiến hành xóa bỏ hệ thống
tổ chức hành chính cũ thời Lê Thái Tổ từ 5 đạo đổi thành 13 đạo (thừa tuyên).
Dưới thời Lê Thánh Tông, các quan chỉ được làm việc tối đa đến tuổi 65
và ông bãi bỏ luật cha truyền con nối cho các gia đình có công - công thần.
Ông tôn trọng việc chọn quan phải là người có tài và đức.

23


2.2.2 Bộ máy hành chính nước ta từ 1460-1497
Trung ương:
Vua

Khối hành
chính

Lục bộ
Lục tự

Thanh tra tư
pháp xét xử

Lục khoa


Ngũ giám

Khối quân sự

Ngự sử đài

Ty ngự sử

24


Bộ máy hành chính địa phương:
Triều đình
trung ương
Kinh đô

Thừa ty

Phủ trung
đô

Phường

Đạo thừa
tuyên

Đô ty

Phủ


Hiến ty

Huyện

Châu

Ty ngự ngũ



2.2.3 Về chế độ quan chức:
Năm 1471, Lê Thánh Tông ra dụ “Hiệu định quan chế ” để cải tổ lại bộ
máy chính quyền trung ương, quy định dõ trách nhiệm của các quan chức và
tập trung quyền binh vào tay nhà vua. Lê Thánh Tông bãi bỏ chức Tể tướng,
trực tiếp nắm quyền hành – chế độ phong kiến tập quyền đã phát triển tới mức
cao của chế độ quân chủ chuyên chế.
Các phủ có Tri phủ đứng đầu; các huyện, châu có Tri huyện, Tri châu; ở
xã chức Xã quan được gọi là Xã trưởng. Ở miền thượng du, các bản mường
vẫn được giao cho Tù trưởng, Lang đạo cai quản như cũ. Riêng vùng biên
giới phía Bắc, nhà Lê cử thêm một số tướng giỏ ở miền suôi lên trấn trị và
biến thành “Phiên Thần”, đời đời nối nhau cai quản địa phương. Chủ trương
của Lê Thánh Tông là đảm bảo sự thống nhất trong chính quyền từ trên xuống
dưới, từ trung ương đến địa phương, “các chức lớn nhỏ cũng ràng buộc nhau,
nặng nhẹ cùng gìn giữ nhau, lẽ phải của nước không bị chuyện riêng, việc lớn
25


×