Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Các phương pháp nghiên cứu quần xã thực vật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.7 MB, 117 trang )

PGS.TS. HOÀNG CHUNG













CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
QUẦN XÃ THỰC VẬT
















NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC

2

NÓI ĐẦU
Để có thể hiểu được tốt hơn về quần xã thực vật, cấu trúc của chúng, đặc điểm
sinh thái, mối quan hệ giữa các cá thể và quần thể với nhau và với môi trường, hiện
tượng biến đổi quần xã này thành quần xã khác, cùng các biện pháp sử dụng hợp lí
hay làm tôi lên đều đòi hỏi cần có sự hiểu biết về sinh thái và sinh vật học của các
thành phần thực vật trong quầ
n xã đó.
Học phần những phương pháp nghiên cứu sinh thái của bộ môn nhằm trang bị
những phương pháp nghiên cứu về thực vật, quần xã thực vật cho sinh viên và học
viên cao học cùng những người có quan tâm đến vấn đề này. Nó bao gồm những
phương pháp nghiên cứu ngoài trời về phân loại, hình thái dạng sông thực vật, về cá
thể phát sinh, về vật hậu, hình thái và cấu trúc phần dưới đất, về cấ
u trúc quần xã và
sự biên động của nó. Cuối cùng là phân loại và vẽ bản đồ phân bố của các quần xã
thực vật... Đây là những phương pháp rất thường dùng, những phương pháp nghiên
cứu này đóng vai trò rất quan trọng trong kết quả nghiên cứu của bộ môn sinh thái
quần xã thực vật. Tuy nhiên, bất luận bộ môn nào trong quá trình phát triển nó sẽ
càng được bổ sung và hoàn thiện hơn về phương pháp, và thế chúng ta không cứ
ng
nhắc khi vận dụng nó.
Đây là những phương pháp nghiên cứu ngoài trời, những phương pháp nghiên
cứu trong phòng thí nghiệm không được trình bày trong học phần này.
Tác giả

3
Chương 1

CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
THÀNH PHẦN LOÀI THỰC VẬT

Trong nghiên cứu sinh thái thảm thực vật, nắm được thành phần loài là một nội
dung rất quan trọng. Vì vậy, trước khi nghiên cứu các nội dung thuộc sinh thái thảm
thực vật, người nghiên cứu phải tiến hành điều tra thành phần loài của nó. Tất nhiên,
yêu cầu cụ thể về điều tra thành phần loài không giống với yêu cầu của các nhà phân
loại học, đối tượng nghiên cứu ở đây là một quầ
n xã, một hệ sinh thái hay một vùng
địa lí nào đó.
Mục tiêu nghiên cứu là:
- Nắm được toàn bộ thành phần loài và nguồn gốc quần xã của nó.
- Đánh giá được độ đầy của loài trong quần xã, vai trò của từng loài trong quần
xã hay sinh cảnh đó.
- Nắm được thành phần tuổi của các quần thể trong quần xã.
- Đánh giá được giá trị tài nguyên thực vật trong sinh cảnh đó.
1.1. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU NGOÀI TỰ NHIÊN
1.1.1.
Những trang bị phục vụ cho nghiên cứu
Dụng cụ thu mẫu bao gồm cặp gỗ hay túi đựng mẫu bằng túi dứa hay polyetylen,
túi ngông, kéo, dao cắt cây, giấy báo, dây buộc, nhãn, kim chỉ, bút chì, sổ ghi chép,
cồn, băng dính, máy ảnh, camera, la bàn, thước dây, các loại dụng cụ để đo độ cao,
đường kính thân, bản đồ các loại và các trang bị cho cá nhân để đi rừng.
1.1 2. Nghiên cứu ngoài thiên nhiên
Để thu mẫu một cách đầy đủ và đại diện cho m
ột quần xã hay một vùng nghiên
cứu, chúng ta không thể đi hết các điểm trong vùng đó, vì thế phải xây dựng các tuyến
điều tra và các điểm để thu mẫu. Các tuyến và điểm đó phải bao quát dược tất cả các vi
môi trường trong vùng nghiên cứu. Nhà nghiên cứu có thể chỉ tiến hành nghiên cứu
theo tuyến điều tra hoặc vừa dùng tuyến vừa dùng điểm (ô tiêu chuẩn) tuỳ theo yêu

cầu đặt ra.
1.1.2.1..
Điều tra nghiên cứu theo tuyến
-Lập tuyến điều tra: Dựa trên cơ sở bản đồ địa hình của khu vực, nhà nghiên cứu
phải xác định các sinh cảnh chính cần giám sát, đánh giá và thu mẫu. Trên cơ sở nguồn
lực, kinh phí và mục tiêu, chúng ta xác định khu vực và lập tuyến điều tra, số tuyến
điều tra và số lần lặp lại.
- Cự li các tuyến: Khoảng gầ
n xa của các tuyến phụ thuộc vào mức độ chi tiết
của chương trình nghiên cứu. Khoảng cách giữa các tuyến có thể chọn từ 50 - 100 -
1000m.

4
-Hướng đi của tuyến: Trong điều tra, hướng tuyến phải vuông góc với đường
đồng mức chính và phải đánh dấu trên bản đồ.
- Thu thập mẫu: Tuỳ theo kiểu thảm thực vật mà yêu cầu quan sát và ghi chép có
khác nhau ; với các kiểu thảm thuộc thảo, độ rộng quan sát và ghi chép có thể là im về
hai phía đường đi. Thảm cây bụi hay rừng có thể là 2m mỗi phía. Trên dải đường đi
đó, chúng ta ph
ải ghi chép và đánh dấu các cá thể, các loài bắt gặp, thu mẫu những loài
mới phát hiện, mặc dù đang ở trạng thái sinh dưỡng (không hoa, quả).
-Nguyên tắc thu mẫu: Mỗi mẫu phải lấy đầy đủ các bộ phận gồm cành, lá và hoa
với cây gỗ, còn với cây thảo nên lấy cả cây Mỗi cây nên thu từ 3 - 10 mẫu. Có 2 cách
đánh số, từ 1 trở đi từ khi thu mẫu đầu tiên cho đến khi kết thúc cuộc đời nghiên cứ
u
hoặc đánh số theo vùng nghiên cứu.
Khi thu mẫu phải ghi chép đặc điểm dễ nhận biết ngoài thiên nhiên như đặc điểm
vỏ, kích thước cây, màu sắc hoa, quả, có hay không có nhựa mủ, mùi vị...

Hình 1. Nhãn và thông tin cần thu thập

Thu và ghi chép xong, buộc và.o cành (hay thân) cái nhãn có ghi chép đầy đủ,
cho vào cấp gỗ hay bao tải mang về nhà. Cần chú ý là khi đặt mẫu vào túi phải nhẹ
nhàng, nếu có hoa, qua có thể dùng các loại túi ngửng, giấy đựng và buộc lại.
- Cách thu mẫu cây gỗ: Với cây gỗ nhỏ có thể dùng sào với đầu móc nhọn như
câu liêm. Cũng có thể dùng kéo cắt cành cao - loại dụng cụ có cán dài và có dây để cắt
các cành trên cao hay trên vách đá, nguy hiểm khó trèo.
Nếu cây gỗ to không thể
dùng câu liêm, kéo cắt cành cao thì có thể thuê dân địa
phương thu hái. Với những cây không thật to có thể dùng một loại guốc trèo lấy mẫu.
Nếu cây gỗ cao, đường kính lớn thì phải leo trực tiếp, có dây bảo hiểm hoặc
đóng đinh lớn tạo thành các bậc để đặt chân và buộc các đoạn sào làm tay vịn.
Có thể dùng súng cao su bắn một hòn chì có kéo theo một sợi dây dài nhẹ và bền,
sao cho sợi dây vắt qua được cành cây cần thu làm mẫu. Đoạn gi
ữa của sợi có gắn lưỡi
cưa nhỏ hình vòng cung. Sau khi đưa được lưỡi cưa vào đúng cành đã chọn, điều khiển
cho lưỡi cưa đứng thẳng trên cành và ấn sâu răng vào gỗ, rồi kéo cưa. Cũng có thể
dùng súng cao su bắn lấy cành lá nhỏ, hoa, quả, các mẫu nhỏ này để kiểm tra hay giám
định tên.
- Cách thu mẫu cây thân cỏ: Thu hái mẫu cây thân cỏ thường dễ tiến hành. Tuy

5
nhiên, phải chú ý tuỳ loài cây mà thu thập các bộ phận quan trọng nhất để làm tiêu bản
và giám định tên được dễ dàng. Đối với cây thân cỏ dùng kéo cắt một đoạn cành có đủ
lá, hoa, quả. Đối với cây thân rễ có củ, có thể dùng xẻng nhỏ đào cả cây hay lấy một
phần của nó. Mẫu cần thu hái của các loài tre nứa và các lóng tre và mo thân từ đốt thứ
5 đến thứ 7 và ghi rõ đặc điểm, cách mọc c
ủa thân ngầm. Mẫu của các loài song mây
phải có cả tan mây và roi mây.
-Thu mẫu cây mọc dưới nước (thuỷ sinh): Nếu nước cạn thì lội xuống để thu trực
tiếp các mẫu cây thuỷ sinh. Dùng xẻng nhỏ đào cả thân và rễ, sau đó tỉa bớt để có thể

làm mẫu. Nếu nước sâu trù đi thuyền vớt các loài trôi nổi trên mặt nước, hoặc dùng
móc để thu các loài sống bám, sống lơ lửng...
- Thu m
ẫu các cây sống bám (bì sinh): Đối với nhóm cây sống nhờ, sống bám,
cây hoại sinh (nấm, địa y, phong lan, tầm gửi...) ta dùng dao nhỏ hay cưa cắt lấy cả
một phần cây chủ. Cây chủ đôi khi rất cần cho nghiên cứu chi tiết.
- Thu mẫu các loài cây có giá trị kinh tê: Đối với những cây có giá trị kinh tế
cao như cây làm thuốc, cây cho tinh dầu, cho nhựa mủ, gỗ quý... thì ngoài phần thu
bình thường như các loài cây khác, cần lấy bổ sung các bộ phận có công d
ụng để sau
đó có đủ nguyên liệu phân tích các thành phần lí hoá học của cây.
1.1.2.2. Điều tra nghiên cứu theo ô tiêu chuẩn
Khác với điều tra theo tuyến, điều tra theo ô tiêu chuẩn giúp cho người nghiên
cứu xác định được diện tích điều tra, ghi chép dữ liệu một cách cụ thể và chi tiết hơn.
Những nội dung cần nghiên cứu trong ô tiêu chuẩn bao gồm: Thống kê thành phần loài
và từ đó đánh giá về
độ đầy của loài trong quần xã, đánh giá vai trò từng loài trong
quần xã, đánh giá về sự sinh trưởng, phát triển và tái sinh của từng loài.
- Có 2 loại ô tiêu chuẩn: ô tiêu chuẩn tạm thời và ô tiêu chuẩn cố định. Việc lựa
chọn ô tiêu chuẩn loại nào còn tuỳ thuộc vào yêu cầu của nghiên cứu. Thông thường
với nội dung như trên thì cần làm cả 2 loại ô tiêu chuẩn.
- Phương pháp đặt ô tiêu chuẩn: Có thể chọn một trong 3 ph
ương pháp là ngẫu
nhiên, theo hệ thống xác định trước trên bản đồ và chọn điển hình trong quần xã.
-Hình dạng, kích thước và số lượng ô tiêu chuẩn: Tuỳ theo yêu cầu, nội dung
nghiên cứu và sử dụng phương pháp đặt ô mà diện tích ô có thể khác nhau, nguyên tắc
chung là diện tích ô nhỏ thì số lượng phải lớn, còn diện tích lớn thì số lượng có thể
giảm. Làm ô tiêu chuẩn tốn kém nhiều công sức nên khi dùng ô tiêu chuẩn làm
phương pháp nghiên cứu thì th
ường kết hợp làm với nhiều nội dung, nó không chỉ đáp

ứng các yêu cầu về số lượng mà cả chất lượng, về tái sinh, về cấu trúc và động thái của
quần xã...
Đối với 2 phương pháp ngẫu nhiên và hệ thống thì diện tích ô tiêu chuẩn thuộc
loại nhỏ. Với cây gỗ diện tích ô tiêu chuẩn thường là 100 - 400m
2
, cây bụi 14 - 24m
2
,
thảm cỏ là 1m
2
. với thảm dưới rừng dùng các phương pháp tương ứng của kiểu thảm,
số lượng thường là 5 ô nhỏ trong ô cây gỗ.

6
Với phương pháp làm ô tiêu chuẩn điển hình thì nguyên tắc là làm thử từ nhỏ đến
lớn dần, đến khi diện tích tăng nhưng số loài trong ô không tăng nữa thì diện tích đạt
được đầu tiên đó gọi là diện tích tiêu biểu, nó thay đổi theo kiểu thảm và theo vùng.
Sử dụng phương pháp này số ô có thể giảm, số lượng cụ thể hoàn toàn phụ thuộc
vào mức độ đồng nhất của quầ
n xã.
- Đối với nhóm thực vật ngoại tầng thường kết hợp cùng với nghiên cứu trong
các ô theo các kiểu thảm chính.
- Phương pháp thu mẫu, ghi chép trong ô tiêu chuẩn cơ bản như phần trên đã nói.
Với ô tiêu chuẩn có yêu cầu đặc biệt hơn là không chỉ ghi số loài mà cả số cá thể của
từng loài (hoặc số chồi với nhóm hoà thảo và xa thảo) phân bố của nó theo không gian
và cả thời gian (mẫu biểu đi
ều tra xem ở chương 9 mục 9.3).
1.2. CÔNG TÁC NỘI NGHIỆP
1.2.1. Xử lí mẫu vật
Sau một ngày lấy mẫu cần đeo nhãn cho mỗi mẫu (hình 1). Nhãn có thể chỉ ghi

số hiệu mẫu của tác giả còn các thông tin khác sẽ ghi vào sổ riêng hoặc ghi phiếu mô
tả gồm đầy đủ các mục như sau (Xem khung mô tả của Nguyễn Nghĩa Thìn):

PHIẾU MÔ TẢ CÂY
- Số hiệu: - Ngày thu hái: - Người thu hái:
- Nơi lấy (ghi rõ khu rừng, làng bản, xã, huyện, tỉnh):
- Tên thông thường:
- Tên khác (ghi đầy đủ các tên dân tộc):
- Tên khoa học: - Họ:
- Khu vực sinh trưởng (ghi các dạng sinh cảnh):
- Nơi mọc (sườn, đỉnh, chân đồi, núi, độ cao):
- Số lượng (nhiều, trung bình, ít)
- Các loài cây mọc cùng:
- Đặc tính sinh thái chủ yếu:
- Hình dạng tán lá:
Khi non: Khi trưởng thành:
- Cành:
Cách mọc: Hình dạng:
Lông và màu sắc lông:
Hình dáng thân (tròn, thẳng, có bánh vè...):
-Vỏ:
Độ dày: Màu sắc: Nhựa mủ:

7
-Chiều cao cây:
Cả ngọn: Dưới cành:
- Đường kính cây (ngang ngực):
Trung bình: Lớn nhất (quan sát được):
-Lá (hình dáng, màu sắc, kích thước của lá non và lá già):
-Cụm hoa:

Loại: Màu sắc: Kích thước:
- Các đặc điểm khác:
Hoa: Màu sắc (đài, tràng) Kích thước:
Quả: Màu sắc Kích thước:
Công dụng (điều tra nhân dân):
- Xử lí khô: Sau khi đã đeo nhãn, mỗi mẫu đặt gọn trong một tờ báo cỡ lớn gập 4
với kích thước 30 x 40cm, vua ngay ngắn nhưng chú ý trên mẫu phải có lá sấp, lá ngửa
để có thể quan sát dễ dung cả 2 mặt lá mà không phải lật mẫu.
Đối với hoa nên dùng các mảnh báo nhỏ để ngăn cách chúng với các hoa hay lá
bên cạnh phòng khi sấy dễ bị dính vào các bộ phận khác của cây.
Đối với quả to cần cắt thành lát theo 2 hướng: c
ắt dốc và cắt ngang thành từng lát
để thấy quả có bao nhiêu ô và các lát đó phải có nhãn riêng và mang cùng một số hiệu.
Đối với lá to thì chỉ lấy từng phần đại diện và các phần đó cũng mang cùng một
số hiệu. Sau đó xếp nhiều mẫu thành chồng, cứ 5 - 7 mẫu nên chèn một tấm nhôm
lượn sóng để thông thoáng và giữ nhiệt giúp cho mẫu chóng khô và không phải thay
giấy báo hằng ngày như trước đây, sau đó dùng đôi cặ
p ô vuông (mắt cáo) để ốp ngoài
ép chặt mẫu và bó lại. Nếu mẫu có quả to hay cành to, khi ép nhớ chèn các tờ báo
xung quanh để nâng cao mặt bằng sao cho mẫu tiếp theo nằm trên mặt phẳng. Giữa
các mẫu chèn càng nhiều báo càng tất. Cách bó xem ở hình 2. Bó mẫu đưa phơi nắng
hoặc sấy trên bếp than hay tủ sấy. Nếu không có tấm nhôm, hằng ngày phải thay giấy
báo mới để mẫu chóng khô và không bị ẩm tránh cho mẫu bị hỏng.
- Xử lí
ướt: Khi không có thời gian và điều kiện làm mẫu ngay trong ngày, chúng
ta chỉ ép mẫu tạm thời giữa hai tờ báo gập đôi, không chèn ngay, ghi đầy đủ các thông
số lên nhãn. Sau khi đã làm mẫu xong chúng ta không dùng cặp mắt cáo để ép mẫu
hay chỉ ép một thời gian ngắn sao cho chúng đủ thời gian ổn định vị trí, sau. đó bỏ cặp
và dùng giấy báo bọc ngoài, bó chặt lại rồi cho các bó mẫu đó vào túi polyetylen cỡ
lớn. Mỗi túi lớn có thể chứ

a nhiều bó mẫu, dùng cồn đủ cho thấm ướt các tờ báo và
buộc chặt lại để chuyển về nơi có điều kiện sấy khô. Cách làm đó có thể giữ cho mẫu
trong khoảng một tháng mà không cần phải sấy ngay. Mục đích là để giết các enzym
chống rụng lá.

8

- Xử lí và sấy khô: Khi mẫu được chuyển về phòng thí nghiệm việc đầu tiên cần
tiến hành là xử lí kịp thời. Trước hết dùng các tờ báo mới rồi lần lượt mang từng vật
mẫu ra, rải đều trên tờ báo nhân dân hay các tờ báo khác được gập 4 có kích thước 30
x 40cm, vuốt cho các lá phẳng ra và đảm bảo lá luôn luôn có mặt lá sấp và mặt ngửa.
Dùng các tờ báo mới khác phủ lên. Lớp phủ càng dày càng tốt để vậ
t mẫu phẳng. Cứ
sau 5 - 6 mẫu chèn thêm một tấm nhôm lượn sóng. Khoảng 15 - 20 mẫu dùng hai cặp
mắt cáo rồi buộc lại cho chặt (Hình 3). Các mẫu sau khi đã bó chặt cho ra nắng phơi
hoặc cho vào tủ sấy để sấy khô. Điều kiện không có tủ sấy chúng ta tự làm lấy một hộp
nhôm trống trên và dưới (hộp giữ nhiệt), ở giữa bên trong có một gờ và lót một lưới
thép rồi đặt bó mẫ
u lên, phía dưới dùng bếp điện hay bếp than để hun nóng (Hình 4).
Sấy liên tục khoảng một tuần thì các mẫu sẽ khô. Nếu dùng tấm nhôm lượn sóng


9
xen giữa bó mẫu thì hằng ngày không cần thay giấy báo.
Tốt nhất giữa đợt nên thay một lần báo mới. Sau khi mẫu đã khô, các mẫu được
lấy ra đặt giữa các tờ báo rồi xếp thành bó và buộc lại để chờ định tên.
1.2.2. Xác định tên khoa học
Sau khi đã sấy khô chúng ta có thể xác định tên khoa học ngay trước khi chưa
ngâm tẩm thuốc chống côn trùng và nấm hoặc có thể tiến hành việ
c ngâm tẩm xong và

xây dựng thành các bìa mẫu hoàn chỉnh sau đó mới tiến hành việc phân tích mẫu. Cách
tiến hành thứ hai thường không thích hợp bởi khi làm việc chúng ta tiếp xúc với các
chất độc hại, ít nhiều ảnh hưởng tới sức khoẻ. Ở đây chúng ta áp dụng cách thứ nhất
tức là sau khi đã sấy mẫu khô không qua giai đoạn xử lí độc với ba lí do: Điều kiện khí
hậu lạnh ít côn trùng phá hoại, phòng lưu giữ
mẫu hiện đại đảm bảo độ kín với mức độ
ẩm xâm nhập vào rất thấp và hằng năm người ta có thể cho hạ nhiệt độ xuống thấp để
tiêu diệt các côn trùng và trứng của chúng hoặc phun thuốc độc sau khoảng một tháng
đóng kín, sau đó làm sạch rồi mới sử dụng.
1.2.2.1. Các dấu hiệu hình thái
Trước khi phân tích và định loại, việc làm quen các thuật ngữ về hình thái là cầ
n
thiết. Những dấu hiệu đó được thể hiện qua chương 2.
1.2.2.2. Phân chia mẫu theo họ và chi
Trước khi phân tích các mẫu cây khô lưu ở các bảo tàng thực vật hay các phòng
mẫu cây khô (bách thảo = Herbarium) với đầy đủ tên khoa học, ta mang mẫu đã thu so
với bộ mẫu lưu để có tên sơ bộ. Nếu các mẫu hoàn toàn giống nhau thì chúng ta tạm
yên tâm với các tên đó và xếp riêng. Những mẫu còn nghi ngờ trù tiếp tục phân tích cụ
th
ể và tra tên khoa học theo khoá xác định.
Trường hợp không thể xác định được tên khoa học của loài cây có thể gửi tiêu
bản về các phòng tiêu bản sau đây nhờ các nhà phân loại thực vật có kinh nghiệm giám
định:
- Phòng Tiêu bản thực vật, Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật (đường Hoàng
Quốc Việt, quận Cầu Giấy, Hà Nội).
- Bảo tàng Thực vật, Khoa Sinh học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên (19 Lê
Thánh Tông, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội).
- Phòng Tiêu b
ản thực vật, Viện Điều tra Quy hoạch rừng (Thanh Trì - Hà Nội
- Phòng Tiêu bản thực vật, Trường Đại học Lâm nghiệp (Xuân Mai, Hà Tây).

- Phòng Tiêu bản thực vật, Viện Sinh học nhiệt đới (85 Trần Quốc Toàn, Quận 3,
TP. Hồ Chí Minh).
1.2.2.3. Phân tích mẫu
Để tra tên khoa học, đầu tiên phải tiến hành phân tích các mẫu đã thu thập. Khi
phân tích trên mẫu khô phải lấy từ hoa ra cho vào ống nghiệm cùng với ít nước vừa đủ
ngập hoa và
đun sôi để mẫu trở lại trạng thái bình thường. Hai tay với 2 kim nhọn tách

10
từ từ các bộ phận của hoa dưới kính lúp để quan sát và vẽ hình. Khi phân tích chú ý
một số nguyên tắc như sau:
- Phân tích từ tổng thể bên ngoài đến các chi tiết bên trong.
- Phân tích từ cái lớn đến cái nhỏ.
- Phân tích đi đôi với ghi chép và vẽ hình.
1.2.2.4. Vẽ hình
Vẽ hình được dành cho các nhà phân loại. Vẽ hình trước hết tự mình vừa phân
tích vừa vẽ để đảm bảo độ chân thực của nó. Lấy một tờ gi
ấy kẻ ô li để lên bàn lúp sau
đó để bản kính chồng lên (có thể dán ngay vào mặt dưới bản kính), mẫu được để lên
bản kính đó và tiến hành phân tích từng bộ phận của hoa được các ô li chỉ rõ kích
thước của chúng. Trong lúc đó lấy một tờ giấy vẽ có kẻ ô vuông tuỳ ý và từ đó điều
chỉnh vị trí của các bộ phận theo chiều của ô li trên bàn lúp và vẽ lên tờ giấy ô vuông
để vẽ chúng lên
đó, cứ mỗi ô vuông trên giấy vẽ tương ứng với ô li trên bàn lúp. Sau
khi vẽ xong đặt các đoạn chỉ rõ tỉ lệ của từng bộ phận trên bản vẽ theo sự tương ứng
giữa ô li với ô vuông tức là 1 ô li là nam thì cạnh 1 ô vuông tương ứng là 1mm.
Song song với vẽ hình chúng ta tiến hành chụp ảnh qua lúp hay quan sát và chụp
ảnh qua lúp gắn với màn hình máy tính.
1.2.2.5. Tra tên khoa học
Sau khi đã phân tích, chúng ta tiến hành tra tên khoa học dựa theo các khoá xác

định lượng phân hoặc vừ
a phân tích vừa tra khoá.
Chú ý một số nguyên tắc khi tra tên như sau:
- Hoàn toàn khách quan và trung thành với các mẫu thực, không phụ thuộc vào
các tên giám định sẵn hay tên do các tác giả xác định trước đây.
- Khi tra khoá luôn luôn đọc 2 đặc điểm đối nhau cùng một lúc để dễ dàng phân
định giữa các cặp dấu hiệu.
Xác định tên loài: Trong quá trình tiến hành xác định tên khoa học phải tuân theo
các nguyên tắc nhất định.
Các tài liệu chính dùng trong quá trình xác định tên khoa học gồm:
- Cây cỏ Việt Nam (Phạm Hoàng Hộ, 1991 - 1993, 1999 - 2000).
- Cây gỗ rừng Việt Nam (1971 - 1988).
- Vân Nam thực vật chí (Trung Văn).
- Thực vật chí đại cương Đông Dương (Lecomte, 1907 - 1952. Flore Générale de
IIndochine).
Thực vật chí Cam-pu-chia, Lào, Việt Nam (Aubréville A.et al., 1960 - 1997.
Flore du Camboge, du Laos et du Vietnam).
- Flora of China và Flora of China - Illustration (Wu Zheng-yi and P.Re van,
1994 - 2000).

11
- Cây cỏ thường thấy ở Việt Nam, 6 tập (Lê Khả Kế chủ biên, 1969 - 1975).
- Thực vật chí Việt Nam, NXB Khoa học - Kĩ thuật, Hà Nội (gồm nhiều tập,
Nguyễn Tiến Bản và tập thể).
- Khoá xác định và phân loại họ Thầu dầu Việt Nam (Nguyễn Nghĩa Thìn, 1999).
- Identification guide to Vietnamese Orchids (Orchidaceae Juss.) (Averyanov L.
V., 1991).
- Lan Việt Nam (Nguyễn Thiện Tịch, 2001).
- Tài nguyên cây gỗ Việt Nam (Trần Hợp, 2002).
Sau khi đã có tên khoa học, cần kiểm tra l

ại bằng các bản mô tả đã được giới
thiệu trong các bộ thực vật chí hay các sách chuyên khảo. Nếu mẫu đúng với bản mô
tả thì chép đầy đủ tên khoa học của cây kèm theo tên tác giả và tên họ của mẫu cây đó,
sau đó các mẫu được nhập vào phòng Mẫu cây khô (Herbarium) để xử lí tiếp theo.
- Chỉnh lí tên khoa học: Sau khi đã có tên khoa học cần chỉnh lí lại tên khoa học
theo Luật danh pháp quốc tế của Grenter et al (1994) và tên chi theo cu
ốn Vascular
Plant Families and Genera của Brummitt (1992) vì đây là cuốn sách tổng hợp khá đầy
đủ các chi trên toàn thế giới và tên loài theo bộ 3 tập Danh mục các loài thực vật Việt
Nam.
- Kiểm tra tên khoa học: Khi đã có đầy đủ tên loài, tiến hành kiểm tra lại các tên
khoa học để đảm bảo tính hệ thống, tránh sự nhầm lẫn và sai sót. Điều chỉnh họ và chi
theo hệ thống của Erummitt trong "Vascular Plant Families and Genera" (1992), điều
chỉnh tên loài theo các tài liệu "Cây cỏ Việt Nam" củ
a Phạm Hoàng Hộ (1999 - 2000),
"Tạp chí sinh học - chuyên đề thực vật" (1994 - 1995), "Danh mục các loại thực vật
Việt Nam" (2002 - 2003) và chỉnh tên tác giả theo tài liệu "Authors of Plant Names"
của Brummitt R.K & C.E. Powell (1992).
Cần kiểm tra tên khoa học vì khi xác định tên khoa học, chúng ta sử dụng các
bảng tra theo nhiều nguồn khác nhau và mỗi nguồn sử dụng các hệ thống khác nhau,
khối lượng ác ngành, lớp, bộ và họ không giống nhau, cho nên điều trước tiên cần có
tính chất nhất quán, để dễ
so sánh và đánh giá.
- Bổ sung thông tin: Việc xác định các thông tin về đa dạng sinh học của các loài
về dạng sống, về yếu tố địa lí, về công dụng và tình trạng đe doạ, bảo tồn, ngoài các tài
liệu trên, còn sử đụng các tài liệu khác như:
- 1900 cây có ích (Trần Đình Lí, 1993).
- Sách đỏ Việt Nam (1994).
- Từ điển cây thuốc Việt Nam (Võ Văn Chi, 1997)
- Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam (Đỗ Tất Lợi, 2001).

- Cây c
ỏ có ích ở Việt Nam (Võ Văn Chi - Trần Hợp, tập I - 1999), tập II - 2002.
- Tài nguyên thực vật Đông Nam Á (PROSEA).

12
- Từ điển thực vật thông dụng (Võ Văn Chi, 2003)...
- Danh mục các loài thực vật Việt Nam (2001 - 2005)
1.2.2.6. Xây dựng bảng danh mục thực vật
Lập danh mục thực vật là một trong các mục tiêu quan trọng nhất của công tác
điều tra hệ thực vật trong một vùng, một tỉnh hoặc một khu bảo tồn. Bảng danh mục
thực vật được xây dựng theo hệ thống phân loại c
ủa Brummitt (1992). Danh mục thực
vật là một bảng thống kê toàn bộ các loài thực vật đã gặp hoặc thu được tiêu bản trong
khu vực điều tra. Để phục vụ các hoạt động lưu trữ số liệu quốc gia, trao đổi thông tin
và các hoạt động nghiên cứu đa dạng sinh học, cách lập danh mục được thực hiện
thống nhất theo các mẫu hướng dẫn sau:
Bảng 1. Mẫu danh m
ục của vùng điều tra

Ghi chú:
- Cột (2): Ghi tên khoa học của các ngành, họ thực vật và xếp theo các ngành
thực vật từ thấp đến cao. Trong các ngành, xếp các họ theo thứ tự chữ cái a, b, c. Trong
các họ xếp theo các chi và loài theo thứ tự chữ cái a, b, c.
- Cột (3): Thống kê tên thông thường và tên dân tộc.
Tên thường gọi nhất để đầu tiên.
- Cột (4): Ghi các loại sinh cảnh với các kí hiệu như sau: Rừng gỗ nguyên sinh
(Rn), Rừng gỗ thứ sinh (Rt), Rừng phục h
ồi (Rp), Rừng tre nứa (Rtn), Thảm cây bụi
(Tb), Thảm cỏ (Tc), Đất nông nghiệp (Đn), Đất nương rẫy (Đr), Đất ngập mặn (WI).
- Cột (5): Dạng sống theo cách phân loại Raunkiaer (1934), hoặc Hoàng Chung

(2004).
- Cột (6): Mức độ quý hiếm ghi theo phân hạng của IUCN (2000), theo Sách đỏ
Việt Nam, Phần thực vật, NXB Khoa học và Kĩ thuật, 2005 và theo Nghị định 48 CP.
- Cột (7): Giá trị sử dụng của loài thực vật đó trên mọi phươ
ng diện (gỗ, tinh dầu,
làm thuốc...) và có thể tham khảo các tài liệu đã xuất bản hoặc điều tra kinh nghiệm sử
dụng của người dân địa phương.
- Cột (8): Các yếu tố địa lí (theo Nguyễn Nghĩa Thìn, 1999, 2004, 2005).

13
Chương 2
CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
DẠNG SỐNG THỰC VẬT

Thực vật trong quá trình sống phải thích nghi với môi trường sống, điều này nó
thể hiện ra không chỉ qua tổ hợp thành phần loài mà còn qua tổ hợp về dạng sống của
nó. Rõ ràng, hệ sinh thái là do các loài trong mối tương quan với các nhân tố sinh thái
tạo nên. Vì vậy, nghiên cứu tổ hợp dạng sống của một vùng góp phần quan trọng đánh
giá đặc điểm sinh thái vùng đó. Người đầu tiên đề cập đến khái ni
ệm dạng sống của
thực vật là Warming (1901). Từ đó đến nay đã tồn tại nhiều cây phân loại dạng sống,
nguyên tắc để mô tả và phân chia dạng sống thực vật đó là tìm những phản ứng biểu
hiện qua hình đáng bên ngoài của thực vật với môi trường sống, sự khác nhau chỉ là sử
dụng bao nhiêu dấu hiệu để làm tiêu chuẩn phân chia.
2.1. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU DẠNG S
ỐNG THỰC VẬT
Tất cả trang bị, các phương pháp điều tra, thu thập mẫu, xử lí mẫu ngoài thiên
nhiên cơ bản giống như nghiên cứu thành phần loài. Để phục vụ cho mục đích phân
loại dạng sống và đặc biệt là mức độ đi sâu mà có bổ sung cho phương pháp:
- Với cây gỗ: Cần mô tả, vẽ (hay chụp ảnh) toàn bộ cây trướng thành, theo dõi sự

biến đối qua bốn mùa, đặc bi
ệt thời kì khô, rét trong năm.
- Với cây bụi nhỏ, nửa bụi và cây thảo cần lấy cả phần dưới đất và lấy trọn vẹn
một cá thể, trên cơ sở đó mô tả, chụp ảnh, đồng thời theo dõi phản ứng của từng loài
với các trạng thái mùa.
- Đồng thời với quá trình lấy mẫu, theo dõi sự biến đổi thực vật cần mô tả đặc
điể
m môi trường sống của nó theo cả 4 mùa.
2.2. PHÂN CHIA DẠNG SỐNG
Căn cứ vào số mẫu vật thu được, những tư liệu ghi chép và mô tả ngoài thiên
nhiên, hình vẽ, ảnh chụp và cả những tư liệu về sự biến động của các điều kiện môi
trường qua các mùa trong năm, đặc biệt trên cơ sở nhu cầu của nhà nghiên cứu cần
mức độ chi tiết nào, sẽ sử dụng hệ
thống phân loại nào để xây dựng dạng sống. Từ
những yêu cầu trên, nhà nghiên cứu phải xây dựng cho mình một bảng mẫu phiếu mô
tả với hệ thống các tiêu chuẩn cần sử dụng. Sau đó tiến hành mô tả chính thức cho
từng loài rồi sắp xếp nó vào các kiểu dạng sống - bảng dạng sống.
2.3. GIỚI THIỆU TÓM TẮT MỘT SỐ DẠNG "PHÂN LOẠI DẠNG SỐNG"
- Bả
ng phân loại dạng sống hiện được nhiều người dùng hơn cả là của Ratnkiaer
(1934), sử dụng bảng này tương đối dễ làm, trong bảng phân loại này ông đã dùng vị
trí chồi so với mặt đất và đặc điểm của nó trong thời kì khó khăn nhất cho sự sinh
trưởng của thực vật làm cơ sở phân loại. Gồm các kiểu chính sau:

14
1. Chồi trên mặt đất (Phanerophytes), chồi tạo thành ở những cây này phải nằm
trên độ cao nào đó (từ 25cm trở lên), thuộc vào nhóm này gồm các cây gỗ, cây bụi.
2. Chồi mặt đất (Chamaetophytes), chồi hình thành ở độ cao không lớn so với
mặt đất (dưới 25cm). Thuộc nhóm này có cây bụi nhỏ, cây nửa bụi, những cây dạng
gối, rêu sống trên mặt đất.

3. Cây chồi nửa ẩn (Hemicryptophytes), chồi được tạo thành nằm sát mặ
t đất,
thuộc nhóm này gồm nhiều cây thảo sống lâu năm.
4. Cây chồi ẩn (Cryptophytes), chồi được hình thành nằm dưới đất, thuộc nhóm
thực vật địa sinh (cây thân hành, thân củ, thân rễ) hoặc cây mọc từ đáy ao hồ.
5. Cây một năm (Therophytes), trong mùa bất lợi nó tồn tại ở dạng hạt, thuộc
nhóm cây một năm.
Trên cơ sở 5 kiểu dạng sống trên Raunkiaer còn chia ra các nhóm, gồm tất cả 30
nhóm.
Phân chia dạng s
ống của Raunkiaer dựa trên những đặc điểm cơ bản của thực
vật, nghĩa là dựa trên đặc điểm cấu tạo, phương thức sống của thực vật, đó là. kết quả
tác động tổng hợp của các yếu tố môi trường tạo nên. Thuộc vào những đặc điểm này
có hình dạng ngoài của thực vật, đặc điểm qua đông, sinh s
ản...
Bảng phân loại dạng sống của Xêrêbriacốp (1964) mang tính chất sinh thái học
hơn của Raunkiaer. Trong bảng phân loại này, ngoài những dấu hiệu hình thái sinh
thái Xêrêbriacốp sử dụng cả những dấu hiệu như ra quả nhiều lần hay một lần trong cả
đời của cá thể, bao gồm các kiểu sau:
Ngành A: Thực vật thân gỗ sống trên đất, bì sinh
Kiểu 1. Cây gỗ
Lớp 1: Cây gỗ hình thành tán với các cành dài
Lớp phụ 1: Cây g
ỗ hình thành tán trên mặt đất
Lớp phụ 2: Cây gỗ hình thành tán, bán bí sinh (nhiệt đới)
Lớp 2: Cây gỗ dạng hoa thị, hình thành trên những chồi rút ngắn, với lá dạng hoa
thị (gặp ở nhiệt và á nhiệt đới)
Lớp 3: Cây gỗ thân mọng nước không có lá (các loại xương rồng)
Kiểu 2: Cây bụi
Kiểu 3: Cây bụi nhỏ

Ngành B: Cây bán mộc (nửa gỗ)
Kiểu 4: Cây nửa bụi hay nửa bụi nhỏ
Ngành C: Cây thảo
Kiể
u 5: Cây thuộc thảo đa trục
Lớp 1: Cây thảo đa trục, sống lâu năm nhưng thân không mọng nước
Lớp phụ 1: Hệ rễ cái phát triển

15
Lớp phụ 2: Hệ rễ chùm và thân rễ ngắn
Lớp phụ 3: Cây thảo mọc thành búi dày
Lớp phụ 4: Cây thảo có thân leo hay bò
Lớp phụ 5: Cây thảo thân củ
Lớp phụ 6: Cây thảo thân hành
Lớp phụ 7: Cây thảo, rễ có khả năng tạo chồi
Lớp 2: Cây thảo đa trục với các cành khí sinh mọng nước
Lớp phụ 1: Thân mọng nước
Lớp phụ 2: Lá mọng nước
Lớ
p 3: Cây thảo đa trục, kí sinh hay hoại sinh
Lớp 4: Cây thảo đa trục, bì sinh
Lớp 5: Cây leo thuộc thảo đa trục
Kiểu 6: Cây thảo đơn trục.
Trong bảng phân loại này không bao gồm những cây thuỷ sinh. Trong bảng phân
loại Xêrêbriacốp còn chia ra các đơn vị nhỏ hơn và gọi là nhóm, nhóm phụ, tổ và các
dạng đặc thù.
Bảng phân loại dạng sống cây thuộc thảo đã được lập ra lần đầu tiên là Can non
(1911), sau đó hàng lo
ạt bảng đã được đưa ra. Với cây thảo, đặc điểm phần dưới đất
đóng vai trò rất quan trọng trong phân chia dạng sống, nó biểu thị mức độ khắc nghiệt

khác nhau của môi trường sống, là phần sống lâu năm của cây.
Vì thế, sử dụng phần dưới đất để làm tiêu chuẩn phân chia dạng sống sẽ giúp cho
ta đánh giá đúng hơn kiểu thảm, những
đặc điểm đặc trưng của môi trường. Thí dụ:
Thân rễ dài đặc trưng cho môi trường đất thuộc loại trung bình và tốt, đất khô cằn thì
chủ yếu là nhóm mọc thành búi, cây một năm...
Bảng phân loại dạng sống của thực vật trong đồng cỏ vùng núi Bắc Việt Nam mà
chúng tôi đã làm là dựa trên nguyên tắc phân loại của Golubép (1962). Sau đây là các
kiểu dạng sống:
Những dạng sống chính của thự
c vật trong đồng cỏ Bắc Việt Nam:
1. Kiểu cây gỗ: Cây gỗ lớn hay nhỡ, hệ rễ cái phát triển.
2. Kiểu cây bụi: Cây thuộc mộc, phân cành mạnh, chiều cao tối đa 4,5m, rễ cái
phát triển.
3. Kiểu cây bụi thân bò: Thân thuộc mộc nhỏ, thấp, hệ rễ cái phát triển.
4. Kiểu cây bụi nhỏ: Thân thuộc mộc nhỏ, thấp, hệ rễ cái kém phát triển nhưng rễ
bên thường phát triển mạ
nh.
5. Kiểu cây bụi nhỏ bò: Thân thuộc mộc, mảnh và dài, rễ chính kém phát triển,
rễ bên phát triển mạnh.

16
6. Kiểu nửa bụi: Phần gốc thân khí sinh hoá gỗ và sống lâu năm, phần trên chết
hằng năm, hệ rễ cái phát triển, rễ bên phát triển mạnh.
7. Kiểu thực vật có khả năng tạo chồi mới từ rễ.
8. Nhóm kiểu cây thảo hệ rễ cái, sống lâu năm.
8.1. Kiểu cây thảo sống lâu năm hệ rễ cái.
8.2. Kiểu cây thảo sống lâu năm hệ rễ cái có thân rễ
phát triển.
9. Nhóm kiểu cây thảo hệ rễ chùm, sống lâu năm.

9.1. Kiểu cây thảo sống lâu năm hệ rê chùm.
9.2. Kiểu cây thảo thân bò, sống nhiều năm, hệ rễ chùm.
9.3. Kiểu cây thảo sống lâu năm tạo thành búi thưa.
9.4. Kiểu cây thảo sống lâu năm tạo búi dày.
9.5. Kiểu cây thảo sống lâu năm, thân rễ dài.
9.6. Kiểu cây thảo sống lâu năm có thân rễ dài mọc bò.
10. Nhóm kiểu cây thảo sống một năm.
10.1. Kiểu cây thảo sống một năm hệ rễ cái.
10.2. Kiểu c(ây thảo sống một năm hệ rễ cái, thân bò.
10.3. Kiểu cây thảo sống một năm hệ rễ chùm.
Những tiêu chuẩn được sử dụng trong bảng phân loại:
- Phần trên mặt đất: Cấu tạo thân, hình dạng và kích thước của nó, hình thức tạo
chồi.
- Phần dưới đất: Kiểu hệ rễ, kiểu thân rễ, và kích th
ước một số đặc điểm riêng
biệt.
- Chu kì sống của cá thể.














17
Chương 3
NGHIÊN CỨU SINH SẢN HŨU TÍNH
CỦA CÁC THÀNH PHẦN TRONG QUẦN XÃ

3.1. NGHIÊN CỨU SỰ NỞ HOA VÀ SỰ THỤ PHẤN CỦA THỰC VẬT
Từ những kết quả nghiên cứu của Sprengel (1793), Đác Uyn (1862, 1876, 1877)
và các tác giả khác (Hildebrand, Muller, Godron...) cho thấy hiện tượng thụ phấn chéo
ở thực vát là rất phổ biến so với sự tự thụ phấn, hình thái hoa cũng có những đặc điểm
cấu tạo thích nghi cao với các kiểu thụ phấn chéo như nhờ côn trùng, nhờ gió, nhờ
n
ước... Vì vậy, nghiên cứu về sự nở hoa và sự truyền phấn trong các dạng sinh thái -
sinh học của hoa là rất thú vị. Về mặt sinh vật học của hoa, ta hiểu đó là những đặc
điểm thích ứng khác nhau trong cấu tạo hình thái và chức năng sinh lí Về mặt sinh thái
học của sự nở hoa và sự truyền phấn (thụ phấn) của thực vật, đó là những mối quan hệ
tồn t
ại trong thiên nhiên giữa các loại hoa và môi trường, mối quan hệ này có thể có
lợi hoặc không có lợi cho sự nở hoa và sự thụ phấn. Về vấn đề này chúng ta biết là đặc
điểm sinh vật học của hoa ngày nay là kết quả thích ứng của quá khứ, vì vậy đặc điểm
sinh vật học của hoa và đặc điểm sinh thái học của sự nở hoa và thụ phấn có thể rất
thích hợp ho
ặc không.
Tài liệu nghiên cứu về đặc điểm sinh vật học của hoa cho đến nay có rất nhiều
(Khánh, 1898 - 1905, Low, 1895 ; Kirchner, 1911 ; Cammerloher, 1931 ; Ilinskii, 1948
; Poliakob, 1950 ; Baranốp, 1955 ; Kugler 1955).
Những kiến thức về sự nở hoa và sự thụ phấn của các loài là rất cần thiết cho
nghiên cứu sinh thái và địa thực vật, nó giúp cho việc tìm hiểu mối quan hệ của thực
vật trong điều kiện chúng cùng mọc với nhau, đều cùng phụ thuộc tớ
i đặc điểm sinh
vật học và điều kiện môi trường.

- Đặc điểm sinh vật học của hoa: để hiểu được, cần nghiên cứu chi tiết hình thái
học của nó trên đối tượng sống trong tự nhiên. Cần thiết phải nghiên cứu và xem xét
các trạng thái sinh vật học của hoa: hình dạng, màu sắc của hoa và phần phụ, những
biến đổi trong quá trình tồn tại của nó ; hình dáng nhị, nhuỵ
, sự phân bố, sắp xếp của
chúng trong hoa ; đặc điểm của phấn hoa, bao phấn, sự phân bố của phấn hoa và hạt
phấn, hạt phấn chín cùng lúc hay ở thời điểm khác nhau. Sự chuyển động của nhị ; cấu
tạo, vị trí, mức độ hoàn thiện của nhuỵ, các bộ phận chuyển hoá trong cấu tạo của
hoa... Hình dạng chung của hoa và các phần riêng biệt của nó. Những quan sát này cho
phép đánh giá khả năng thụ phấn của hoa của từng loài, có hay không có khả năng
truyền và nhận hạt phấn, khả năng tự thụ phấn, khả năng truyền phấn nhờ côn trùng,
gió...
- Cùng với sự nghiên cứu về hình thái của hoa, cần nghiên cứu quá trình nở của
hoa. Nó gồm chu kì nở trong ngày, trong buổi sáng, chiều, tối hay nở dần đến tàn.

18
Để theo dôi quá trình nở hoa, người ta phải dùng phương pháp đánh dấu một số
hoa hay cụm hoa. Theo dõi định kì 1/2, 1, 2 giờ/1ần. Đồng thời với nó là theo dõi về
thời tiết, khí hậu. Để theo dõi tính kéo dài của sự nở hoa còn phải theo dõi cả trong các
điều kiện thời tiết khác nhau, theo dõi các pha của bộ nhị, nhuỵ ở hoa lưỡng tính. Nếu
là cụm hoa thì theo dõi tính kéo dài của hoa nở, thứ tự nở, trình tự từng phần...

Nhịp điệu ngày đêm của sự nở hoa không chỉ liên quan đến kích thích tố bên
trong, kích thích tố này có quan hệ với biến động ngày đêm về sự hoạt động của truyền
phấn. Nhịp điệu nở hoa còn phụ thuộc vào những yếu tố bên ngoài, muốn biết được
cần có sự theo dõi riêng biệt. Nói chung nguyên nhân điều tiết chính là yếu tố nhiệt độ
và ánh sáng.
Khi theo dõi sự nở hoa c
ần tập trung chú ý hoa nở ra sao, thời gian kéo dài của
quá trình này (l giờ hay 1 ngày), đặc biệt trong điều kiện khác nhau của thời tiết, chú ý

thời gian nhị, nhuỵ nở ở những hoa lưỡng tính... Ở những hoa trong cụm hoa cần theo
dõi thời gian kéo dài của sự nở hoa trong cụm hoa, thứ tự nở trong cụm hoa và trong
một hoa, đặc biệt ở loại cụm hoa đầu trạng.
Tuyến mật của thực vật cho đến nay v
ẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ, cần xác
định số lượng tuyến mật, sự tập trung đường trong hoa ra sao. Cho đến ngày nay,
những nghiên cứu về sinh thái học của quá trình điều tiết của tuyến mật hãy còn rất ít.
Vấn đề này cần phải được nghiên cứu kĩ, đặc biệt cần nghiên cứu ảnh hưởng của các
điều kiện khí hậu và đất đai đến sự
điều tiết của tuyến mật.
Nghiên cứu sự điều tiết tuyến mật phải song song với nghiên cứu đặc tính sinh
vật học của hoa, sự thích ứng của nó với thụ phấn nhờ côn trùng. Mối quan hệ này sẽ
cho ta biết sự phụ thuộc về điều tiết mật hoa trong các giai đoạn phát triển và tuổi của
hoa, nó phụ thuộc vào từng thời
điểm trong ngày. Sự điều tiết này sẽ khác nhau ở hoa
đơn tính, lưỡng tính, ở từng bộ phận nở của nhị, nhuỵ.

19
Cũng rất cần có những nghiên cứu với loại hoa tự thụ phấn.
Nghiên cứu về thụ phấn chéo, đặc biệt nhờ gió cũng rất thú vị. Các loài cây thụ
phấn nhờ gió cũng rất khác nhau trong cấu tạo hoa, sắp xếp, số lượng, hiệu quả của hạt
phấn và các đặc điểm cấu tạo hoa... Để xác định cần có dụng cụ chuyên môn.

1. Bàn gỗ ; 2. Tấm kim loại chắn mưa:
3. Hộp gỗ ; 4. Hộp đựng:
5. Khung kim loại để đậy ;
6. Giá đỡ: 7. Tấm kính
Người ta đặt dụng cụ này ở tầm cao tương ứng của từng loài khoảng cách từ
nguồn hoa phát ra có thể là 5, 10, 25, 75, 125, 200m. Thời gian theo dõi có thể vài giờ
hay một ngày đêm tuỳ theo từng loài cây sau đó sẽ đếm số lượng hạt phấn trên diện

tích đón củ
a dụng cụ này và tính ra trên diện tích tự nhiên. Ngoài ra, còn tiến hành
nghiên cứu trong các điều kiện thời tiết khác nhau. Đồng thời xác định khả năng sống
của hạt phấn của từng loài, từ đó sẽ hiểu tốt hơn về hiệu quả thụ phấn nhờ gió.
Côn trùng đóng vai trò quan trọng nhất đối với thực vật thụ phấn nhờ động vật.
Cần làm sáng tỏ s
ố lượng loài côn trùng tham gia thụ phấn cho từng loài thực vật, liên
quan đến vấn đề này là phương pháp thu côn trùng và bảo quản côn trùng. Từ đó sẽ
biết được số lượng loài nào đến lúc nào trong ngày vào giai đoạn nào của hoa nở, thời
tiết ra sao, kéo dài bao lâu...
Nghiên cứu về sinh thái học của quá trình nở hoa và thụ phấn còn đòi hỏi nghiên
cứu các điều kiện sinh thái, địa lí và đặc điểm sinh vật học của cây, hoa, dạng s
ống,
kiểu thảm thực vật.
Khi nghiên cứu sinh thái học cần làm rõ những điều kiện có lợi và bất lợi trong
quá trình thụ phấn, kể cả trực tiếp và gián tiếp trong các điều kiện và các năm khác
nhau.
3.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU SINH SẢN HẠT THỰC VẬT THUỘC
THẢO TRONG QUẦN XÃ
3.2.1. Năng suất hạt
Trước hết cần phân biệt năng suất trung bình của thực vậ
t, năng suất trung bình

20
là số hạt trên một cá thể hay một chồi con, năng suất chung của hạt là số lượng hạt trên
đơn vị diện tích mặt đất.
Năng suất chung của hạt phụ thuộc vào số lượng cá thể tham gia sinh sản hạt trên
đơn vị diện tích, điều này biến động theo từng năm. Vì vậy, để có được con số chính
xác cần có sự theo dõi nhiều năm. Đồng thời c
ần phải theo dõi trên diện tích tính ổn

định. Trên diện tích này hằng năm phải theo dõi tất cả các cá thể có tham gia sinh sản
hạt của từng loài và xác định số lượng hạt của nó.
1. So sánh tổng thể kết quả nghiên cứu từng năm trên diện tích xác định.
2. Xác định đối tượng và chọn số cá thể để xác định năng suất trung bình hạt, cần
xác định số cá thể sinh sản hạt trên diện tích tính và trong các đ
iều kiện môi trường
đặc trưng.
Để xác định sự dao động năng suất hạt của một loài nào đó trong quần xã có thể
dùng tới 100 cá thể, vì vậy diện tích tính có thể không đồng nhất cho từng loại và loài.
Ví dụ trên diện tích lm
2
có 5 cá thể loài A có sinh sản hạt và 10 cá thể loại B có sinh
sản hạt thì diện tích tính có thể tăng lên là 10 hay 20m
2
. Nếu để xác định năng suất hạt
của tất cả các loài trong quần xã thì diện tích tính thường phải lớn, có như thế mới có
thể đạt được số lượng 100 cá thể có sinh sản hạt trên diện tích tính. Với trường hợp
như vậy những loài có số lượng cá thể lớn lại có thể dùng diện tích nhỏ (như lm
2
).
Nghiên cứu các yếu tố xác định năng suất hạt có ý nghĩa lớn về lí luận và thực
tiễn. Từ nghiên cứu này ta hiểu được năng suất hạt trong quần xã phụ thuộc vào đâu,
điều khiển nó như thế nào. Muốn làm được điều này phải tiến hành trong nhiều năm
với sự theo dõi cả các điều kiện khí hậu, các tác nhân thụ phấn. Nghiên cứu trong
nhiều qu
ần xã khác nhau, đồng thời phải có thực nghiệm.
Để làm được những yêu cầu trên cần:
1. Xác định số lượng chồi có sinh sản hạt trong một cá thể.
2. Số lượng hoa hay cụm hoa trên một chồi sinh sản hạt.
3. Số hoa cho quả.

4. Số hạt trên một quả.
Để có kết quả đúng cần nghiên cứu cả các yếu tố tác động trên từng giai đoạn cụ
thể bằng th
ực nghiệm.
3.2.2. Xác định số lượng hạt rơi trên mặt đất
Không thể cho rằng số lượng hạt được xác định như trên là rơi trên mặt đất, một
số có thể bị mất đi do người, động vật một số đã rơi rồi vẫn có thể bị mang đi bởi gió,
nước... Vì vậy xác định số lượng hạt rơi trên mặt đất hằ
ng năm cũng rất phức tạp. Để
có được con số chính xác cần phải làm các bước sau:
1. Xác định sản lượng hạt trong điều kiện không bị tác động bởi một yếu tố nào
khác: không loại trừ những tác động tự nhiên: côn trùng, chim, chuột.
2. Xác định sản lượng hạt trong các hình thức sử dụng bởi.con người:

21
- Khi sử dụng phần trên mặt đất và mức độ sử dụng.
- Cắt cỏ hằng năm: xác định vào các thời điểm cắt.
- Chăn thả: xác đinh sau từng đợt chăn thả.
3. Xác định số lượng hạt rơi trên mặt đất khi cắt.
4. Xác định số lượng hạt rơi trên mặt đất khi chăn thả.
5. Xác định số lượng hạt do nướ
c mang đi và mang đến.
3.2.3. Xác đ nít số phận của các hạt rơi trên mặt đất
Hạt đã rơi trên mặt đất sẽ có số phận khác nhau, một số sẽ mọc thành cây con,
một số bị chết do không gặp điều kiện thuận lợi, số khác bị động vật ăn hoặc lọt vào
khe sâu bị vùi lấp, số nữa bị mang đi bởi nhiều lí do... Vì vậy, c
ần xác định tỉ lệ có thể
cho cây con và cần xác định:
1. Thời gian bắt đầu nảy mầm tự nhiên và kéo dài bao lâu.
2. ảnh hưởng của độ ẩm, nhiệt độ lên quá trình nảy mầm.

3. ảnh hưởng của đặc điểm và độ sâu lớp đất lên tốc độ nay năm.
4. ảnh hưởng của cây cỏ đến sự nảy mầm hạt.
5. ảnh hưởng của hiện tượ
ng hạt qua hệ tiêu hoá động vật rơi ra ngoài và nảy
mầm ra sao.
3.2.4. Xác định khả năng sống kéo đài của hạt nằm trong đất
Đây cũng là vấn đề lí thú, hạt có thể nằm trong đất mà chưa nảy mầm, vì vậy cần
xác định độ sâu hạt đi vào, thời gian kéo dài, các nguyên nhân gây ra...
3.2.5. Số phận của cây mầm
Để xác định số lượng và thời gian xuất hiện cây mầm cần theo dõi quanh năm
trên một số diện tích tính, thường từ 10 đến 15 ngày theo dõi một lần. Đặc biệt cần xác
định số lượng và thời gian bị chết của một số cây mầm, lí do chết số lượng cây mầm
dùng để theo dõi vì thế cần nhiều, có thể tới 1000 cây/1oài
3.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU SINH SẢN HẠT CỦA CÂY GỖ VÀ QUẦN
XÃ RỪNG
Nghiên cứu về sinh sản hạt và sinh sản sinh dưỡng có ý nghĩa rất lớn trong vi
ệc
đánh giá sự tồn tại, động thái tương lai của quần xã. Sinh sản hạt của cây rừng rất khác
nhau. Sinh sản hạt ra sao, số lượng hạt và số phận hạt sẽ diễn ra như thế nào là một
vấn đề rất phức tạp, nghiên cứu nó có ý nghĩa lớn về lí luận và thực tiễn.
Xác định sản lượng hạt của cây rừng là việc làm rất khó, vì rừng thường là cây
cao, do đó khó có thể dùng tay hái quả, hạt... Hơn nữa, số lượng quả hay hạt của một
cây trong năm nào đó có thể rất lớn (hàng chục nghìn), thêm vào đó là sự chín không
đồng đều của nó, nó có thể kéo dài vài tháng.
Khi nghiên cứu sinh sản hạt cây rừng cần chú ý:
1. Cần xác định năng suất và sản lượng hạt - nghĩa là số lượng hạt.

22
2. Xác định chất lượng hạt: tỉ lệ hạt tốt, hạt bị bệnh và số hạt lép...
3. Làm sáng tỏ biến động năng suất hạt: Thời kì hạt chín, thời gian bắt đầu và kết

thúc rụng hạt hay quả, thời kì rụng nhiều nhất, sự khác nhau trong các năm và phụ
thuộc vào điều kiện tự nhiên, tính chu kì trong sinh sản hạt và sự phụ thuộc của nó vào
đ
iều kiện tự nhiên...
4. Cần làm sáng tỏ sự phụ thuộc của năng suất và chất lượng hạt vào điều kiện
địa lí, môi trường ngoài (khí hậu, đất đai), kiểu rừng và đặc điểm của quần xã (thành
phần, cấu trúc độ khép tán của cây gỗ...), sự phân bố cây gỗ, sự tác động của người,
động vật, lửa rừng...; đặc điểm của chính cây g
ỗ đó (kích thước, tuổi, dạng sống...) và
kích thước quả, hạt, vị trí của nó trên cây...
5. Cho dự báo về sản lượng hạt:
Từ nội dung và mục đích nghiên cứu sẽ có phương pháp nghiên cứu khác nhau.
Một trong những phương pháp thông dụng nhất là dùng mắt xác định (xác định cành
cụ thể) dùng cho cá thể. Một phương pháp khác xác định cho quần xã có dụng cụ xác
định.
3.3.1. Xác định mức hình thành hạt hằng năm củ
a từng cây gỗ và quần xã
rừng
Phần này bao gồm những phương pháp cho phép xác định số lượng quả và hạt có
hằng năm của từng cây trong rừng và cả quần xã. Có hai nhóm phương pháp, rất đơn
giản và độ chính xác không cao đó là đánh giá bằng mắt, nhóm phương pháp khó và
chính xác hơn là dùng dụng cụ để đếm.
+ Xác định bằng mắt số lượng quả, hạt: Phương pháp này được các tác giả

khác nhau dùng với tên khác nhau. Phương pháp vật hậu (Kapper, 1930), phương pháp
thống kê (Gu man, 1928), phương pháp tính bằng mắt (Montanop 1950).
- Phương pháp dùng mắt đứng trên mặt đất: đứng gần cây đó hay dưới tán nó. Để
chính xác hơn người ta dùng một bảng phân loại (để đánh giá một cây).
Bảng 1. Bảng đánh giá năng suất hạt
Độ nhiều năng suất hạt Đặc điểm nhân bố quả (hạt)

Thang hác Mức độ Trên cây
0 Không có Không có quả, hạt trên cây, không nhìn thấy kể cả dùng kính nhìn.
1 Rất ít Đơn độc trên từng cành bên trên hay trong tán, hay chỉ 1.
2 ít số lượng không nhiều trên khá nhiều cành, ít nhất là cành mọc phía
nam.
3 Trung bình có số lượng trung bình của quả hay hạt trên cành, mọc rải rác hay tập
trung thành cụm trên khá nhiều cành ở trên hay trong tán, đặc biệt
cành phía nam.
4 Nhiều Nhiều quả, hạt trên phần lớn các cành trên hay trong tán, ở cây có lá
thường xanh quả có ở tất cả tán, đặc biệt nhiều ở phía nam.
5 Rất nhiều Rất nhiều quả, hạt trên tất cả các cành nằm trên hay trong tán.
Những cây lá thường xanh cũng rất nhiều quả trên toàn bộ tán.

23
Khi tiến hành đếm quả, hạt trên toàn bộ cây trong ô tiêu chuẩn cần lưu ý phân
loại theo nhóm của Krapta (5 nhóm theo tình trạng sức sống của các cá thể cùng tuổi
trong loài), đồng thời phân tích hướng ánh sáng tôi và hình chiếu của tán lá, số liệu thu
được của cả ô là cơ sở tính toán về sản lượng hạt của quần xã, nó cũng là tư liệu cần
cho sự phân tích về sự khác biệt theo tuổi, theo lớp, hình dạng độ lớn tán cây..
.
+ Tiến hành đếm quả, hạt trên câu mẫu (trên cây đúng hay chặt hạ)
Khi biết được số lượng quả hay hạt trên một số dạng cây làm mẫu ta có thể xác
định năng suất trên ô tiêu chuẩn rồi trên quần xã rừng. Vấn đề ở đây là chọn cây mẫu
trên nguyên tắc nhất định. Cây phải trong ô tiêu chuẩn, theo lớp của Krapta, theo
đường kính thân hoặc theo kích thước trung bình của cây gỗ, theo mức độ ít nhiều của
quả hay hạt... Từ số liệu này tính ra cho ô tiêu chuẩn, cho quần xã.
+ Phương pháp đêm quả, hạt trên cành mẫu
Phương pháp này được Nhetrerốp đề xuất 1914, nó cho phép xác định số quả hay
hạt trong năm đó, dự đoán trong năm tới và xác định số lượng năm cũ qua vết tích để
lại trên các cành.

Người ta chọn một số cành mẫu đại diện cho cây và một số cây để đếm số
quả
hay hạt. Trước tiên, người ta dùng kéo cắt lấy một hay một số cành chiều dài từ 40 -
70cm, độ tuổi 3, 4, 5/cành (xác định tuổi bằng vết tích để lại trên cành) của 10 - 20 cây
(trong một loài). Sau khi đã xác định tuổi của cành sẽ tiến hành đếm quả.
Từ kết quả trên ta có được năng suất quả của từng loại cây và cả quần xã.
Sau này Ras (1938) thay đếm trên cành với sự tính toán tuổi của nó bằng chiề
u
dài cành, nghĩa là đếm số quả trên chiều dài cành mẫu là im. Tất cả đều đi đến tính hệ
số trung bình trên cành, cây rồi quần xã.
- Phương pháp quan sát bằng máy bay: Phương pháp này chỉ khác là dùng máy
bay bay trên tán cây, dùng mắt đánh giá. Đường bay được xác định theo bản đồ. Độ
cao bay từ 50 - 200m, diện tích điều tra khoảng 300 - 6000ha. Tốc độ bay từ 90 - 100
km/giờ.
- Phương pháp tính hay thống kê: Trên cơ sở phương pháp điều tra bằng mắt, khi
mà số li
ệu điều tra đã khá nhiều, cần có sự đánh giá giá trị tương đối của nó và cần
phải có con số cụ thể. Vì vậy, trên cơ sở các bảng thang bậc đã làm, người ta phải đưa
ra con số cụ thể tương ứng cho từng bảng thang bậc. Để cụ thể hoá con số cho các
thang bậc đòi hỏi phải chi tiết hoá cho từng loài, tuổi cá thể và con số đó c
ũng không
phải là cố định cứng mà là khoảng nào đó (xem bảng hướng dẫn 2).
Bảng 2. Môi tương quan giữa thang bậc và số lượng quả (hạt...) của một cây gỗ
trong sinh sản hạt

24

+ Xác định mức độ hình thành quả. hạt bằng cách đếm trên cây
Đây là hệ phương pháp khá chính xác nhưng rất tốn kém, phương pháp này đòi
hỏi xác định quả, hạt trên từng cây trong rừng hay từng phần của cây và trên tất cả các

cây trong ô nghiên cứu. Người ta có thể đếm trên cây đứng cũng có thể chặt một số
cây mẫu để đếm. Nếu chặt thì phải làm sớm hơn khi quả và hạt chư
a chín hẳn. Trước
khi chặt phải làm sạch bên dưới. Nếu đếm trên cây có thể đứng dưới hay trèo lên cây.
Đứng dưới đất chỉ có thể làm khi cây đó đứng tách biệt, cây không quá cao, hoặc cây
trồng nhưng có thể nhìn được từ nhiều phía, đồng thời phải có sự trợ giúp bằng dụng
cụ đo đếm.
Trèo lên cây có thể trợ giúp bằng thang, móc hay xe có cần trục, máy bay...
Để xác định sản lượng quả, hạt của m
ột khu rừng cần phải làm:
1. Đếm quả trên toàn bộ cây của một ô tiêu chuẩn.
2. Đếm trên một số cây mẫu.
3. Đếm trên một số cành mẫu của một số cây mẫu.
3.3.2. Xác định số lượng hạt rơi trên đất bằng dụng cụ xác định
Bản chất của phương pháp này là xác định số lượng (sản lượng) quả hay hạt rơi
trên đất rừng. Càng nhiều cây có quả
, hạt thì càng cho sản lượng quả, hạt cao. Nhưng
không phải tất cả chúng đều rơi trên đất rừng đó, nó có thể bị mang đi hay lưu lại trên
cây. Vì vậy, kết quả thu được không phải là toàn bộ sản lượng quả của quần xã mà chỉ
là số lượng quả hay hạt rơi trên đất của quần xã đó (nó có thể có từ nơi khác rơi vào).
- Phương pháp xác định bằng ngăn kéo
đặt dưới rừng.

25
Phương pháp này cho ta biết năng suất hạt của cả khu rừng chứ không chỉ một loài
nào. Các ngăn kéo có kích thước nhất định, được đặt theo mô hình xác định và được
theo dõi với thời gian xác định. Ngăn kéo có thể bằng gỗ hay kim loại, có thành cao từ
10 - 15cm, đáy là lưới kim loại hay sợi ngông... Để ngăn cản động vật có thể vào ăn,
mặt trên của ngăn kéo có lưới kim loại có mắt cỡ lớn
để đậy. Nếu đáy bằng gỗ thì phải

có lỗ thoát nước.
Kích thước ngăn kéo có thể là 4,5m
2
, lm
2
và 0,25m
2
, hiện nay thường dùng loại
lm
2
và 0,25m
2
. cũng có thể thay ngăn kéo đặt đất bằng phễu kim loại hay bằng gỗ.
Hình dạng có thể tròn hay vuông.

×