Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Một số biện pháp quản lý giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật ở các trường mầm non huyện như thanh, tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (574.31 KB, 90 trang )

21
Bộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
Bộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

MỘT SÓ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ GIÁO DỤC HOÀ NHẬP
MỘT SÓ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ GIÁO DỤC HOÀ NHẬP

LUẬN VĂN THẠC sĩ KHOA HỌC GIÁO DỤC

NGHẸ AN, 2013
NGHẸ AN, 2013


43
LỜI
CẢM
ƠNTẮT TRONG LUẬN VĂN
DANH MỤC KÝ HIỆU CÁC
CHỮ
VIÉT

Trước hết cho phép tôi bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo PGS.TS.
Hà Vãn Hùng người hưởng dẫn trực tiếp của tôi. Thầy không chỉ đã chỉ bảo tận
tình cho tôi trong quả trình làm luận văn mà còn là người đầu tiên truyền cho
tôi tình yêu đổi với lĩnh vực giáo dục dặc biệt và luôn dìu dắt tôi trên con đường
nghề nghiệp.

Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo Khoa GD và Khoa SĐH,
trường Đại học ỉ rinh những người dã dạy chủng tôi về lý luận quản lý giáo dục.


Những học phần được học thực sự rất bo ích cho tôi không chỉ trong quá trình
làm luận vãn mà còn giúp tôi rất nhiều trong cuộc sổng.

Tôi xin trân trọng cảm ơn cán bộ Phòng GD&ĐT, các thầy, cô giáo các
trường Mầm non dạy hòa nhập trẻ khuyết tật của huyện Như Thanh, tỉnh Thanh
Hóa đã cung cấp cho tôi những thông tin rất cần thiết, giúp tôi hoàn thành luận
văn này.

Cho phép tôi gửi lời cảm ơn trân trọng tới toàn thế các quỷ thầy cô
trường Đại học Vinh và các bạn bè, đồng nghiệp đã động viên, tạo mọi điều


5

MỤC LỤC
TRANG
1

Mở đầu

CHƯƠNG 1: Cơ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ GIÁO DỤC HOÀ NHẬP
TRẺ 5
KHUYẾT TẬT Ở CÁC TRƯỜNG MẦM NON
1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cúu vấn đề

5
Trên thế giới

1.1.1.


5
Ở Việt nam

1.1.2.

8
1.2. Các khái niệm cơ bản

11
Trẻ khuyết tật

1.2.1.

11
1.2.2.

GD hòa nhập, GD hòa nhập trẻ khuyết tật
13

1.2.3.

QLGD hòa nhập trẻ khuyết tật
16

1.2.4.

Biện pháp, biện pháp QLGD hòa nhập trẻ khuyết tật
16

1.3. Một số vấn đề lý luận về quản lý GD hoà nhập trẻ KT


S

1.3.1.

ự cần thiết của QLGD hòa nhập trẻ khuyết tật
1.3.2.

17

17

Một số đặc điểm trẻ khuyết tật
18

1.3.3.

Nội dung QLGDHN trẻ KT


6
Thực trạng về các biện pháp quản lý giáo dục hoà nhập

2.2.2.

trẻ khuyết 37
tật của các trường MN dạy hoà nhập ở Như Thanh
CHƯƠNG 3: MỘT SÓ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ GIÁO DỤC
HOÀ NHẬP TRẺ 63
KHUYẾT TẬT Ở CÁC TRƯỜNG MẦM NON HUYỆN NHƯ

THANH

3.1. Các nguyên tắc đề xuất biện pháp

63

3.2. Một số biện pháp quản lý giáo dục hoà nhập trẻ khuyết

64

tật ở các trường mầm non huyện Nhu Thanh, tỉnh Thanh Hóa
Thực hiện có hiệu quả công tác can thiệp sớm trẻ KT

3.2.1.

64
Xây dựng và thực hiện tốt kế hoạch giáo dục cá nhân

3.2.2.

71
3.2.3.

Thường xuyên chú trọng đến sự phối họp các lực lượng giáo dục
75
Tổ chức tốt các hoạt động chuyên môn và hỗ trợ GDHN

3.2.4.

của các 83

chuyên gia tại các trường MN
3.3. Mối quan hê giữa các biện pháp

90

3.4. Thăm dò mức độ cần thiết và tính khảthi củacác biện pháp

91

Ket luận chương 3
PHẦN KÉT LUẬN VÀ KI ÉN NGHỊ
1. Kết luận

95
96
96


7
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:

Chưa bao giờ người ta lại nói nhiều đến yếu tố con người và vai trò của
giáo
dục như hiện nay. Người ta cũng cho rằng giáo dục là chiếc chìa khoá vàng tiến
vào tương lai, một nước nghèo cũng có thể phát triển được miễn là nó đầu tư đầy
đủ vào vốn con người. Mà đầu tư vào vốn con người tức là đầu tư vào văn hoá,
giáo dục. Ông Tony Blair, thủ tướng Anh khi được đề nghị nói ba từ quan trọng
nhất hiện nay thì ông đã trả lời: "Education, Education and Education" (Giáo

dục,
giáo dục và giáo dục). Qua đó có thê thấy được vai trò vô cùng quan trọng của
giáo
dục, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay, với xu thế toàn cầu hoá, khi cuộc cách
mạng khoa học công nghệ làm chuyến biến nền kinh tế, làm xuất hiện bộ phận
kinh
tế tri thức. Hiểu rõ vai trò đó của giáo dục, Đảng ta cũng nêu rõ “Muốn tiến hành
công nghiệp hoá, hiện đại hoá thắng lợi phải phát triển mạnh giáo dục - đào tạo,
phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền
vững'’
[10].


8
Tuy nhiên, giáo dục trẻ khuyết tật là công việc hết sức khó khăn và vất vả

vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để nhiều trẻ khuyết tật được đi học và được
hưởng nền giáo dục có chất lượng?

Giáo dục hoà nhập cho trẻ khuyết tật vào các trường bình thường đang là
một xu hướng mới trên thế giới và đang được triẻn khai ở một số nước có hệ
thống
giáo dục đặc biệt phát triển. Hơn thập kỷ qua, mô hình giáo dục hoà nhập ở Việt
Nam đã được thực hiện. Theo số liệu báo cáo của các địa phương: Trong năm
qua,
đã có hơn 100 trẻ khuyết tật được học hoà nhập với trẻ bình thường. Tại một số
địa
phương đã huy động trên 83% trẻ khuyết tật ở độ tuối lớp 1 học hoà nhập theo
chương trình và sách giáo khoa mói. Bên cạnh những thành công nhất định của
giáo dục hoà nhập, chúng ta còn phải đối mặt với nhiều khó khăn: Đó là số

lượng
trẻ khuyết tật được đi học còn ở mức hạn chế, chất lượng giáo dục hoà nhập còn
chưa cao, chưa đáp ímg được mong muốn của trẻ và gia đình trẻ...Có nhiều
nguyên
nhân dẫn đến tình trạng này, trong đó một nguyên nhân đó là việc quản lý giáo
dục
hoà nhập còn nhiều bất cập, còn thiếu kinh nghiệm và mới về quy trình. Đặc
biệt,
quản lý giáo dục hoà nhập trẻ KT là một chuyên ngành hẹp lại càng ít được chú
ý,
quan tâm.


9

nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp quản lý giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật

các trường Mầm non huyện Như Thanh, tỉnh Thanh Hóa”
Với đề tài này, chúng tôi hy vọng sẽ góp phần nhỏ bé vào việc xác định và
cải thiện các biện pháp quản lý tốt hơn trong GDHN trẻ KT ở các trirờng mầm
non.

2. Mục đích nghiên cứu:

Đề xuất một số biện pháp quản lý giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật ở các
trirờng mầm non huyện Nhu Thanh, tỉnh Thanh Hóa.

3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu:

3.1. Khách thể nghiên cứu: Công tác giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật ở


các
truờng Mầm non.

3.2. Đối tượng nghiên cứu: Một số biện pháp quản lý giáo dục hòa nhập

trẻ
khuyết tật ở các truừng Mầm non huyện Nhu Thanh, tỉnh Thanh Hóa.


10
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thục tiễn: Điều tra, thu thập số

liệu,
đánh giá thực trạng quản lý giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật ở các trường Mầm
non
trên địa bàn.

7.3. Nhóm phương pháp thống kê toán học: Phân tích, xử lý số liệu

điều
tra bằng các phương pháp thống kê toán học.

8. Đóng góp đề tài:

8.1. Hệ thống được cơ sở lý luận về quản lý GDHN trẻ khuyết tật ở các

trường Mầm non nói chung và huyện Như Thanh nói riêng.

8.2. Đánh giá được thực trạng quản lý giáo dục trẻ khuyết tật trong các


trường Mầm non ở huyện Như Thanh, tỉnh Thanh Hóa.


11
CHƯƠNGI

Cơ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ GIÁO DỤC HOÀ NHẬP TRẺ
KHUYÉT
TẬT Ở CÁC TRƯỜNG MẦM NON

1.1.

Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề

1.1.1.

Trên thế giới:

Trước đây, vào thời xa xưa trong lịch sử, dù chưa có những căn cứ và
chuẩn
đoán khoa học như ngày nay nhimg vẫn luôn có trẻ khuyết tật. Việc nghiên cứu
điều trị và cung cấp dịch vụ giáo dục cho trẻ này như thế nào theo lịch sử các
nước
châu Âu và Mỹ đã thể hiện rõ quan điểm của các nước thuộc châu đó về trẻ
khuyết
tật. Dưới đây trình bày tóm tắt bức tranh toàn cảnh theo thời gian về giáo dục trẻ
KT, quá trình phát triển của các phưong pháp điều trị cũng như các dịch vụ nhằm
đáp ứng nhu cầu của người KT:


- Thời tiền sử: Những điều bất thường về hành vi và thể chất con người

được
coi là thần linh gây ra, quyền lực bí ân của thần linh có thể mang lại sự che chở

cứu chữa, dẫn đến phép phù thuỷ và pháp thuật đục lỗ trên xương sọ người.


12
Satan gây ra. Vì vậy, việc chữa trị và nuôi dưỡng trẻ khuyết tật gần như không có
một tiến bộ nào.

- Sau thời kỳ bị giam hãm trong bóng tối của nhà thờ, Thời kỳ' ánh sáng


cách mạng (1650-1800) là thời kỳ bùng nổ những tư tưởng mới tiến bộ hơn và
nhân đạo hơn. Locke (1832-1704) đã phân biệt được giữa người điên và người
mất
trí: người điên đặt những tư tưởng sai cạnh nhau và lập luận dựa trên những tư
tưởng sai đó, còn người mất trí thì có rất ít hoặc không hề có sự hên kết suy nghĩ
nào. Philippe Pinel (1745-1826), một bác sĩ xuất sắc ở Paris, được coi là người
đã
“phá bỏ xiềng xích” khi ông lãnh đạo bệnh viện tâm thần Bicetre năm 1793 và
sau
đó là bệnh viện Salpetriere trong 3 năm. Phương pháp của ông là chăm sóc nhân
đạo, không lạm dụng thân thê và xiềng xích, điều trị nhẹ nhàng theo một lịch
trình
thường xuyên và hệ thống, cung cấp sách giải trí, âm nhạc và việc làm trong các
lĩnh vực nông nghiệp. Trong tác phẩm “Một luận thuyết về sự mất trí”, Pinel đã
phân thành 5 loại bệnh: tình trạng u sầu hoặc mê sảng, điên nhưng không mê

sảng,
điên có mê sảng, tâm thần phân liệt hoặc tình trạng mất cơ chế suy nghĩ, tình
trạng
mất trí hay sự biến mất của các vùng trí tuệ và các cảm giác. Sau đó, Jean Mare
Gaspard Itard (1774-1836) bằng sự thực hành chăm sóc một “cậu bé hoang dã
vùng Aveyron” đã tạo ra một phương pháp có ảnh hưởng lớn tới thực hành ngày
nay: đó là ý tưởng vận dụng các mục tiêu, chiến lược hướng dẫn, giảng dạy vào
việc phát triển những nhu cầu và điểm mạnh của tìmg trẻ.


13
hoạt động trí tuệ và hoạt động xã hội. Sau Rousseau, ông là người khẳng định
rằng
trẻ em cần được khuyến khích khám phá thế giới của chúng cho dù việc đó có
đưa
đến nguy cơ làm hỏng một cái gì đó, như một cái thìa, đĩa, v.v. Năm 1848, ông
sang Mỹ và được bầu làm chủ tịch đầu tiên của Hiệp hội các nhà quản lý y tế của
các trung tâm cho ngưòi KT và CPTTT Mỹ-tiền thân của Hiệp hội CPTTT Hoa
Kỳ
(AAMR) ngày nay. Các nhà tiên phong này đã tạo nên một phong trào thành lập
các trường, trung tâm điều trị và giáo dục cho người KT sâu rộng ở Mỹ và các
nước ở Châu Au.

- Thế kỷ XX: Đây là thời kỳ có nhiều tiến bộ trong các ngành khoa học
nghiên cứu về trẻ KT và người ta xác định được rằng có nhiều nguyên nhân gây
ra
KT cũng như có nhiều mức độ KT. Năm 1934, Cơ quan giáo dục Hoa Kì đã tổ
chức hội thảo về giáo dục trẻ khuyết tật. Báo cáo tổng kết đã khăng định việc
giáo
dục đặc biệt nên dựa vào việc giáo dục từng trẻ trên cơ sở những khả năng, hạn

chế
và sở thích của trẻ, hướng trẻ tham gia vào một số công việc của xã hội, chú ý
đầy
đủ tới những mối quan tâm lớn nhất của trẻ. Điều đó đã giúp XH nhìn nhận lại
về
việc giáo dục chuyên biệt trẻ khuyết tật trong các trung tâm chuyên biệt.

Đen những năm 70, khái niệm bình thường hoá ra đời. Biêu hiện của ý


14
nhiều điều luật đã ra đòi quy định việc can thiệp sớm cho trẻ như Luật công
99^157
ra đời năm 1986 tại Mỹ. Đạo luật này kêu gọi có: “một chương trình hoàn chỉnh,
chặt chẽ, đa ngành, đa chuyên môn trên các tiểu bang cho các dịch vụ can thiệp
sớm đối với tất cả trẻ sơ sinh bị khuyết tật và gia đình chúng”. Mặc dù đạo luật
này
không đòi hỏi những dịch vụ phổ cập cho mọi trẻ dưới 6 tuổi, nhưng nó khuyến
khích các tiểu bang phục vụ trẻ từ 3 đến 6 tuổi và hình thành một chương trình tự
nguyện về việc cung cấp dịch vụ cho trẻ dưới 3 tuổi.[18].

Đến năm 1990, giáo dục đặc biệt đã bộc lộ những điếm yếu của nó. Phong
trào nhân quyền cũng là một nguyên nhân nữa làm dấy lên phong trào và xu
hướng
mới đó là giáo dục hoà nhập. Tất cả trẻ em khuyết tật phải được cung cấp một
nền
giáo dục hợp lí dựa trên chương trình giáo dục theo cá nhân trong một môi
trường
ít hạn chế nhất. Việc quản lý giáo dục hoà nhập theo hướng trên đã được bắt đầu


ngày càng hoàn thiện.

1.1.2.

Ở Việt nam:

Giáo dục đặc biệt cho trẻ khuyết tật ở Việt Nam bắt đầu từ thế kỷ XIX.
Ngôi
trường đầu tiên dành cho trẻ khuyết tật ở Việt Nam là trường dạy trẻ điếc ở


15
Năm 1974, nữ tu sĩ Nguyễn Thị Định, người đã theo học khoá đào tạo đầu
tiên về dạy trẻ KT ở Paris, mở lóp đầu tiên cho trẻ KT ở Sài Gòn. Năm 1976,
trường dạy trẻ điếc Thuận An có quyết định chính thức trực thuộc sự quản lý của
Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, với chức năng nuôi dạy văn hoá, dạy nghề
cho trẻ khiếm thính, đồng thời đào tạo và bồi dưỡng giáo viên dạy các trẻ này.
Trường thường xuyên có trên 200 học sinh theo học. Năm 1995, theo Nghị định
26CP/CP là chuyển các trường dạy trẻ khuyết tật sang Bộ Giáo dục và Đào tạo
quản lý vì vậy các trường dạy trẻ khuyết tật trên toàn quốc đặt dưới sự quản lý
của
Bộ GD&ĐT.

Năm 1978, trường dạy trẻ điếc Xã Đàn - Hà Nội ra đòi. Tiếp theo là hàng
loạt các trường dạy trẻ điếc ở các tỉnh được thành lập do quyết định của chính
quyền địa phương như trường dạy trẻ điếc Hải Phòng, huyện Phù Tiên (Hải
Himg),
Đông Himg (Thái Bình), Ba Thá (Hà Sơn Bình), v.v.

Vào những năm 80, 90, nhiều quận trong thành phố Hồ Chí Minh

(TPHCM)
đã thành lập các trung tâm nghiên cứu và các trường dạy trẻ khuyết tật như
khiếm
thính, khiếm thị và CPTTT. Các trường dạy trẻ khiếm thính có tên chung là "Hy
Vọng" như ở các quận Bình Thạnh (1986), IV (1989), VIII (1989), VI (1995).
Trường khuyết tật Ánh Minh (1999), trung tâm nghiên cứu giáo dục trẻ khuyết
tật
TPHCM (1989). Ở miền Bắc có nhiều cơ sở nghiên cứu và dạy trẻ khuyết tật


16
nhiều cán bộ nâng cao kiến thức và mở rộng hiểu biết về trẻ khuyết tật giúp
chúng
ta có thêm hướng mới nhằm đem lại một cuộc sống tốt đẹp hơn cho trẻ khuyết
tật.

Năm 1986, Phòng giáo dục trẻ điếc thuộc Trung tâm tật học - Viện Khoa
học Giáo dục đã tiến hành thực nghiệm 10 trẻ điếc ở độ tuổi 4-5, vào học hoà
nhập
với trẻ bình thường trong các lớp mầm non thuộc trường Mầm non A Hà Nội.
Kết
quả cho thấy tính ưu việt của loại hình giáo dục hoà nhập.

Theo tác giả Trịnh Đức Duy, giáo dục cho trẻ KT nên theo hai mô hình là
chuyên biệt và hoà nhập. Chuyên biệt là hình thức tố chức thành trường riêng
biệt
cho trẻ KT, có nội dung, chương trình riêng. Hoà nhập là hình thức đưa trẻ
khuyết
tật vào học chung với trẻ bình thường, trong hoà nhập có bán hoà nhập: tổ chức
cho

khuyết tật học ở lớp riêng trong trường phố thông (hình thức lớp học chuyên biệt
trong trường bình thường-giáo dục hội nhập). [21]

Tháng 5 năm 1995, Trung tâm giáo dục trẻ khuyết tật Viện Khoa học Giáo
dục đã triển khai chương trình giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật ở 33 tỉnh thành


17
Từ tháng 10 năm 1997 đến tháng 4 năm 2001, Trung tâm ĐT&PT GDĐB
họp tác với ưỷ ban II Hà Lan đã thực hiện các khoá đào tạo giáo viên, chuyên gia
dạy trẻ KT. Các chuyên gia của trung tâm và với sự hỗ trợ về chuyên môn của
các
chuyên gia nuớc ngoài, Trung tâm đã xây dụng thành công chuông trình đào tạo
cử
nhân GDĐB trình Bộ GD&ĐT. Trên cơ sở đó, Bộ đã ra quyết định số 2592
QĐ/BGD&ĐT-ĐH cho phép trường ĐHSPHN đào tạo nhóm ngành Sư phạm
Đặc
biệt trinh độ cử nhân với mã số 32.00. Đây là một mốc quan trọng thúc đẩy sự
phát
triển lĩnh vực GDĐB nói chung và giáo dục cho trẻ KT nói riêng.

Năm học 1998-2001, Vụ Giáo dục Mầm non đã chỉ đạo xây dụng thí điếm
mô hình can thiệp sớm và giáo dục hoà nhập cho trẻ khuyết tật mầm non tại 3
nơi:
Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội; huyện Bình Lục, tỉnh Nam Hà; và huyện Cam Lộ,
Quảng Trị.

Từ năm 1998 đến nay, dưới sự chỉ đạo của Sở Giáo dục Đào tạo TPHCM,
Trung tâm nghiên cứu giáo dục trẻ khuyết tật TPHCM đã thực hiện chương trình
can thiệp sớm cho trẻ CPTTT.


Năm 1999-2003, Trung tâm Đào tạo và Phát triển GDĐB đã thực hiện dự
án


18
bẩm sinh hay không bẩm sinh trong những khả năng về thế chất hay tâm thần
của

họ.

Quy tắc tiêu chuẩn của LHQ về bình đắng hoá các cơ hội cho người tàn
tật
(the United Nations Standard Rules on the Equalization of Opportunities for
Persons with Disabilities: Thuật ngữ "tàn tật" tóm tắt một số lớn các loại hạn chế
về
chức năng xuất hiện trong bất kỳ một cộng đồng dân cư ở bất kỳ một quốc gia
nào
trên thế giới. Con người có thể bị tàn tật do khuyết tật về thể chất, trí tuệ hoặc
giác
quan, các tình trạng bệnh lý hay bệnh tâm thần. Các tình trạng khuyết tật, điều
kiện
hoặc bệnh lý như vậy có thể là vĩnh viễn hoặc tạm thời.

Công ước của LHQ về quyền trẻ em (the United Nations Convention on
the
Rights of the Child) đã đồng ý xác định trẻ em "là người dưới 18 tuổi". Trong
công
việc thống kê, khảo sát và điều tra về người tàn tật, định nghĩa về người tàn tật
nói

chung thường được áp dụng chung cho cả trẻ em tàn tật. [23]


19
1.2.1.2.

Việt Nam:

Pháp lệnh về người tàn tật (Điều 1): Người tàn tật không phân biệt nguồn
gốc gây ra tàn tật là người khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc
chức
năng biểu hiện dưới những dạng tật khác nhau làm suy giảm khả năng hoạt động,
khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp nhiều khó khăn. [17].

Trẻ bị khuyết tật là những trẻ từ 0-18 tuổi, không kê những nguyên nhân
của
KT, thiếu một hoặc hơn các bộ phận hoặc chức năng cơ thể khiến giảm khả năng
hành động và gây khó khăn trong công việc, cuộc sống và học tập.

Định nghĩa này đã được sử dụng trong Khảo sát khuyết tật trẻ em Việt
Nam
1998 (CDS, 1998, trang 18) [4].

Tàn tật (ở mức độ cơ quan): Mất hoặc dị thường về cấu trúc cơ thể hoặc
chức năng về tâm lý và thể chất, giống như mất tay, chân hoặc mất thị giác. Điều
này có thế gây ra do bệnh tật, tai nạn, bẩm sinh, hoặc các chất độc từ môi trường.
Tàn tật đề cập đến sự tổn hại, yếu hoặc rối loạn khả năng chức năng tâm lý/sinh
lý.



20
và hoà nhập trong lĩnh vực giáo dục cho trẻ khuyết tật. Thuật ngữ "hội nhập" có
nghĩa là cho các trẻ có nhu cầu đặc biệt được học tập tại những trường học bình
thường. Thuật ngữ "hoà nhập" mang nghĩa rộng hơn và không chỉ bó hẹp trong
phạm vi trẻ khuyết tật mà còn bao gồm tất cả các trẻ gặp một trở ngại bất kỳ
trong
học tập. Nó mang ý nghĩa triết học rộng hơn trong quá trình chấp nhận tính đa
dạng
và cách thức mà loài người xử thế với các trẻ thuộc các nhóm khác nhau và các
nhu
cầu của chúng trong hệ thống trường học chính quy, dạy trẻ cách hiểu và chấp
nhận
sự khác biệt. Nếu hội nhập có nghĩa là giải thể các trường học và đưa trẻ có
khuyết
tật nặng và hoạt động của chúng vào xã hội rộng rãi, thỉ giáo dục hoà nhập phải
cần
được hiểu là một chiến lược không chỉ nhằm đưa trẻ khuyết tật vào các nhà
trường
bình thường. Đứa trẻ được hội nhập hàm ý là nó đã tìmg bị tách biệt. Giáo dục
hoà
nhập có nghĩa là đón nhận mọi trẻ em, không có sự phân biệt, vào các nhà
trường
bình thường. Bằng cách thay đổi thái độ như vậy đối với giáo dục, những khác
biệt
giữa mọi con người có thể được nhìn nhận dưới một góc độ tích cực. [5]

Cốt lõi của việc hoà nhập trẻ KT vào trong các lớp học phổ thông là cung
cấp những hỗ trợ cần thiết và họp lý. Chúng bao gồm những hỗ trợ cá nhân, hỗ
trợ
tự nhiên (cha mẹ, bạn bè); những hỗ trợ mang tính chuyên môn và kĩ thuật. Việc



21
HS được hưởng một chưưng trình giáo dục, điều này vừa thể hiện sự bình đẳng
trong giáo dục, vừa thể hiện sự tôn trọng; điều chỉnh chương trình, đối mới
phương
pháp dạy học và thay đối quan điểm, cách đánh giá là vấn đề cốt lõi giúp GDHN
đạt hiệu quả cao nhất; điều chỉnh chương trình việc làm tất yếu của GDHN;
GDHN
không đánh đồng mọi trẻ em như nhau; dạy học một cách sáng tạo, tích cực và
hợp
tác, đó là mục tiêu của dạy học hòa nhập; dạy học hòa nhập sẽ tạo cho trẻ kiến
thức
chung, tống thể, cân đối. Muốn thế, phương pháp dạy học phải có hiệu quả và
đáp
ứng được các nhu cầu khác nhau của HS; muốn dạy học có hiệu quả, kế hoạch
bài
giảng phải cụ thế, chú trọng áp dụng phương pháp học hợp tác... [5] [18]

1.2.2.2.

Giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật

Giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật là phương thức giáo dục trong đó trẻ
khuyết
tật cùng học với trẻ em bình thường trong trường ngay tại nơi trẻ sinh sống. Giáo
dục hòa nhập là "hỗ trợ mọi học sinh, trong đó có trẻ khuyết tật, cơ hội bình
đẳng
tiếp nhận dịch vụ giáo dục với những hỗ trợ cần thiết trong lớp học phù họp tại
trường nơi trẻ sinh sống nhằm chuẩn bị trở thành những thành viên đầy đủ của


hội". Hòa nhập không có nghĩa là "xếp chỗ" cho trẻ khuyết tật trong trường lớp

không phải tất cả mọi trẻ đều đạt trình độ hoàn toàn như nhau trong mục tiêu


22
thực trạng giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật ở Việt Nam vẫn còn những hạn chế.
Cộng đồng chưa nhận thức đầy đủ về vai trò và trách nhiệm của xã hội trong
việc
giáo dục trẻ khuyết tật và về khả năng phát triến của trẻ khuyết tật khi được giáo
dục, trong đó có cả cha mẹ, cán bộ giáo dục và giáo viên của các trường. Cơ sở
vật
chất cho giáo dục trẻ khuyết tật còn kém về chất lượng và thiếu về số lượng,
chủng
loại. Các cơ sở giáo dục trẻ khuyết tật chưa có những trang thiết bị tối thiếu cần
thiết để dạy trẻ khuyết tật như sách giáo khoa và đồ dùng dạy học đặc thù cho
từng
loại trẻ khuyết tật. [5] [17]

1.2.3.

QLGD hòa nhập trẻ khuyết tật

Nhằm giúp mọi trẻ, trong đó kê cả trẻ bình thường và trẻ khuyết tật được
phát triển toàn diện về thế chất, tình cảm, trí tuệ, thâm mỹ, hình thành những yếu
tố
đầu tiên của nhân cách. Tạo ra được môi trường sống, học tập hoà nhập tốt nhất.

Tiếp nhận trẻ vào học kể cả trẻ khuyết tật và trẻ bình thường trên địa bàn

dân
cư nơi sinh sống của trẻ mà trường chịu trách nhiệm quản lý giáo dục.

Tố chức các hoạt động, chăm sóc giáo dục trẻ trong một môi trường giáo


23
Tạo cơ hội cho các trẻ em khuyết tật có điều kiện được học tập, vui chơi, hòa
nhập
với bạn bè cùng trang lứa. [5]

1.3.

Một số vấn đề lý luận về quản lý GD hoà nhập trẻ KT

1.3.1.

Sự cần thiết của QLGD hòa nhập trẻ khuyết tật

Trẻ em khuyết tật chịu nhiều thiệt thòi khi phải đối mặt với sự phân biệt,
đối
xử ngay trơng gia đình, xã hội và cộng đồng. Vì vậy, giáo dục hòa nhập được coi

xu hướng chung của phần lớn các nước trên thế giới và trong đó có Việt Nam.
Theo Phó Giám đốc Dự án hỗ trợ đối mới quản lý giáo dục Nguyễn Thị Thái,
trong
điều hành các hoạt động trường học, giáo dục trẻ khuyết tật hòa nhập là con
đường
chủ yếu đế thực hiện những quyền cơ bản của mọi trẻ em, nhất là quyền được
giáo

dục. Trẻ khuyết tật được hưởng quyền học tập bình đắng như những học sinh
khác
và cùng học với trẻ em bình thường trong trường phổ thông ngay tại nơi trẻ sinh
sống - đây cũng là cơ hội để mọi trẻ em khuyết tật được tiếp cận giáo dục một
cách
bình đẳng và có chất lượng. Để có một cuộc sống hòa nhập với trẻ em khuyết tật
thì
gia đình, nhà trường phải tạo mọi điều kiện để các em được cắp sách đến trường,
được học tập, hoạt động, tham gia các phong trào như mọi trẻ em khác ở trong
nhà


24
64 tỉnh, thành phố và bước đầu đi vào hoạt động. Mạng lưới các cơ sở đào tạo,
bồi
dưỡng cán bộ quản lý, giáo viên cho giáo dục trẻ khuyết tật được hình thành và
đang phát triển. Các chương trình giáo dục trẻ khuyết tật được xây dựng và triển
khai thực hiện. Phương thức giáo dục hòa nhập phù họp hoàn cảnh nước ta đang
ngày càng được áp dụng rộng rãi. số trẻ khuyết tật đi học ngày càng tăng. Công
tác
giáo dục trẻ khuyết tật cũng có nhiều chuyển biến tích cực. Năm học 2009 2010,
số trẻ khuyết tật độ tuổi mầm non học hòa nhập là 15.349, đạt tỷ lệ 62,8% tổng
số
trẻ khuyết tật trong độ tuổi. Có 290 nghìn học sinh tiểu học, THCS khuyết tật
học
hòa nhập tại các cơ sở giáo dục phổ thông: 7.583 học sinh khuyết tật học tại 106

sở giáo dục chuyên biệt. Đặc biệt, để cụ thể hóa những mục tiêu cũng như tạo
điều
kiện cho trẻ khuyết tật, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Thông tư số

39/2009/TT-BGDĐT ngày 29-12-2009 về quy định giáo dục hòa nhập trẻ em có
hoàn cảnh khó khăn góp phần gỡ 'nút thắt', thúc đẩy giáo dục hòa nhập cho trẻ
em
có hoàn cảnh khó khăn đến trường [4] [5]

1.3.2.

Một số đặc điểm trẻ khuyết tật [5] [17]

* Trẻ khiếm thính:


25
Cau mày hoặc nhướn người lên phía trước khi nghe ngưừi khác nói.
Thường
nhìn sát mặt người nói.

Phản ứng chậm sau khi nghe giới thiệu, chỉ dẫn và nhìn sang người khác

Đưa ra câu trả lời không thích hợp với câu hỏi.

Bỏ sót một số âm khi nói và thay vào một số âm khác, phát âm sai một số
từ.

Phát triển ngôn ngữ chậm, sử dụng ngôn ngữ sai ngữ pháp so với lứa tuổi.

Thường khó xác định được hướng âm thanh phát ra.

Có xu hướng tự tách biệt ra khỏi hoạt động chung.



26
Dấu hiệu thể chất: Mắt đỏ, mí mắt có vảy cứng trên lông mi, simg mí mắt,
con ngươi không cùng kích cỡ, mắt có mi cụp, mắt không nhìn thẳng.

Thường xuyên dụi mắt hoặc phải dụi mắt khi nhìn tập trung

Những biểu hiện bất thường trên khuôn mặt, nheo mắt, chớp mắt, nhíu
mày
liên tục hoặc nhăn mặt khi đọc hoặc làm việc khác .

Không có khả năng tìm và nhặt các vật nhỏ.

Nhạy cảm với ánh sáng hoặc khó chịu với ánh sánh. Gặp khó khăn khi
đọc
sách, biểu lộ khó khăn ở trên mức bình thường khi đọc hoặc làm việc gì, phải
ghé
sát sách hoặc vật thế vào tận mắt. Tuy nhiên lại làm tốt khi sử dụng ngôn ngữ lời
nói hay khi thực hiện các nhiệm vụ được giao bằng lời.

Có thể gặp khó khăn với việc làm bài viết. Ví dụ có thể viết lệch dòng
hoặc
viết không đúng khoảng cách.


27
Tỏ ra có khó khăn để hiểu được những gì giáo viên nói so với các bạn
cùng
lứa.


Chơi đùa

Không tỏ ra thích các trò chơi vẫy chào khi lên một.

Không thích chơi với các đồ dùng đơn giản vào lúc hai tuổi.

Không tham gia vui chơi cùng các bạn khi lên bốn.

Không chơi đùa như những trẻ khác cùng lứa tuổi.

Đi lại

Không tự ngồi được một mình khi 10 tháng tuổi.


×