Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

quản lý đào tạo nghề và hoạt động liên kết giữa trường dạy nghê với cơ sở sản xuất trên địa bàn tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (560.55 KB, 89 trang )

DANH
BẢNG
MỤC
DANH
CÁC
Mực
so ĐÒ,
CHỮBẢNG
VIÉT
LỜI CẢM
BIÊU
TẮT TRONG
ƠN
TRONGLUÂN
LUẬNVĂN
VĂN

Với tất cả tình cảm của mình, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn tới Ban Giám
hiệu Trường Đại học Vinh, Khoa Sau đại học, Khoa Giáo dục cùng các Giáo sư,
phó Giáo sư, Tiến sỹ và quý thầy cô là giảng viên của Trường Đại học Vinh đã
nhiệt tình giảng dạy, quan tâm và tạo điều kiện giúp dữ tác giả trong suốt quá
trình học tập và nghiên cứu. Cảm ơn Lãnh đạo Sở Lao động - TBXH, Phòng
Quản lý đào tạo nghề, Ban Giám hiệu các trường Cao đắng nghề và trung cấp
nghề trên địa bàn tỉnh Nghệ An đã nhiệt tình giúp đỡ, cung cấp tài liệu và đóp
góp nhiều ý kiến cho việc nghiên cứu đề tài.

Đặc biệt, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Hà Văn
Hùng, người thầy trực tiếp giảng dạy và tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong quá
trình nghiên cứu đế hoàn thành luận văn này.

Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình thực hiện, song luận văn


không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được những ý kiến
đóng góp, trao đổi của quý thầy cô và các bạn đồng nghiệp đẻ luận văn được
hoàn thiện và đề tài có giá trị thực tiễn cao hơn.

Xin chân thành cảm ơn!

Vinh, tháng 9 năm 2013
Tác giả

Nguyên Thị Mỹ Luơng

Bảng 1

Mạng lưới trường CĐN, trung cấp nghề, trung tâm dạy nghề

48


Bảng 3

Bảng 5

Bảng 6

Bảng 8

Danh mục các nghề trọng diêm tỉnh Nghệ An giai đoạn

Kết quả ĐTN tỉnh Nghệ An giai đoạn 2006-2010 và năm


Số lượng LĐKT được đào tạo theo ngành nghề giai đoạn

Thực trạng về HĐ quản



của các trường nghề



tỉnh Nghệ

51

57

58

65


1
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, đế nâng cao sức cạnh tranh của
các doanh nghiệp, một trong những giải pháp có tính chất quyết định là nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực được hiểu là
nâng cao thể lực, trí lực, phẩm chất tâm lý, tác phong công nghiệp, tính kỷ luật

và chấp hành luật pháp cho đội ngũ lao động theo yêu cầu của thị trường.

Đào tạo nghề là một phần quan trọng trong hệ thống giáo dục có nhiệm vụ
đào tạo nguồn nhân lực có tay nghề kỹ thuật phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước trong từng giai đoạn và sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện
đại hoá đất nước. Vì vậy Đảng ta đã xác định "Phát triển, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu
tố quyết định phát triển nhanh, bền vững đất nước”, “Đấy mạnh đào tạo nghề
đáp ứng được nhu cầu phát triển của đất nước”. “Con người - yếu tố cơ bản để
phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”, “Liên kết đào tạo với
nghiên cứu khoa học và sản xuất nhằm nâng cao chất lượng giáo dục" [8].

Trong những năm qua, đào tạo nghề của tỉnh Nghệ Au đã nỗ lực từng bước
nâng cao chất lượng, chuyển đổi cơ cấu ngành nghề, phát triển qui mô đáp ứng
nhu cầu nguồn nhân lực kỹ thuật của Nghệ An nói riêng và cả nước nói chung.
Tuy nhiên, trước yêu cầu đổi mới hiện nay, đào tạo nghề của cả nước nói chung
và Nghệ An nói riêng đang bộc lộ những hạn chế nhất định: cơ cấu ngành nghề
chưa hợp lý, chất lượng đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu của sản xuất trong bối
cảnh hội nhập; tình trạng bất cập giữa đào tạo và sử dụng gây thất nghiệp gia
tăng, gây lãng phí cho xã hội. Bên cạnh đó, hiện nay có rất nhiều trường dạy
nghề đang thực hiện đào tạo nghề với quy mô tương đối lớn và cơ cấu ngành
nghê phong phú. Nhưng chất lượng đào tạo ở hầu hết các trường dạy nghề chưa
cao. Rất nhiều người sau khi đã tốt nghiệp các trường dạy nghề vẫn không đáp
ứng được yêu cầu công việc. Một trong những nguyên nhân quan trọng của tình


2

trạng này là do thiếu sự liên kết giữa nhà trường với cơ sở sản xuất trong đào tạo
nghề. Cung đào tạo do các trường dạy nghề đưa ra chủ yếu dựa trên khả năng

của mình mà không tính tới nhu cầu nhân lực từ các cơ sở sản xuất. Điều này
dẫn đến sự mất cân đối cung - cầu đào tạo cả về quy mô, cơ cấu và đặc biệt là
chất lượng, gây ra những lãng phí lớn trong đào tạo.

Vì vậy, đế đào tạo được đội ngũ lao động kỹ thuật có chất lượng phù hợp
với yêu cầu của sản xuất trong điều kiện khoa học kỹ thuật thay đổi nhanh
chóng hiện nay thì việc liên kết đào tạo giữa nhà trường với các cơ sở sản xuất
đang được các nhà nghiên cứu giáo dục quan tâm.

Là một cán bộ đang công tác tại Sở Lao động - Thương binh và Xã hội
tỉnh Nghệ An, với mong muốn góp phần tìm ra giải pháp phát triển nguồn nhân
lực có kỹ năng nghề nghiệp phục vụ cho các ngành kinh tế trong tỉnh, đưa Nghệ
An thoát khỏi tình trạng nghèo và cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp vào năm
2020, tác giả đã lựa chọn đề tài “Một số giải pháp quản lý hoạt động liên kết
giũa truờng dạy nghề vói cơ sở sản xuất nham nâng cao chất lượng đào tạo
nghề ở tỉnh Nghê An” làm luận văn tốt nghiệp cao học cho mình.
2. Mục đích nghiên cúu:

Đe xuất một số giải pháp quản lý hoạt động hên kết giữa trường dạy nghề
với cơ sở sản xuất nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề, đặc biệt là đào tạo
công nhân kỹ thuật ở Nghệ An, đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực kỹ thuật trong
bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
3. Khách the và đối tượng nghiên cứu:

3.1. Khách the nghiên cứu: Chất lượng đào tạo nghề, hoạt động liên kết
đào tạo công nhân kỹ thuật giữa trường dạy nghề và cơ sở sản xuất, quản lý hoạt
động liên kết giữa trường dạy nghề với cơ sở sản xuất ở Nghệ An.

3.2. Đôi tương nghiên cứu: Một số giải pháp quản lý hoạt động liên kêt
giữa trường dạy nghề và cơ sở sản xuất nhằm nâng cao chất lượng đào tạo.



3
4. Giả thiết khoa học:

Nếu đề xuất được một số giải pháp quản lý hoạt động hên kết giữa trường
dạy nghề với cơ sở sản xuất có tính khoa học và khả thi thì sẽ nâng cao được
chất lượng đào tạo nghề nói chung và đào tạo công nhân kỹ thuật nói riêng ở
Nghệ An.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu:

5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của những vấn đề cơ bản về quản lý hoạt
động liên kết đào tạo.

5.2. Phân tích, đánh giá thực trạng về đào tạo nghề, đào tạo công nhân kỹ
thuật, chất lượng đào tạo nghề, hoạt động liên kết đào tạo giữa trường dạy nghề
và cơ sở sản xuất ở Nghệ An thời gian qua.

5.3. Đề xuất một số giải pháp mang tính khả thi để quản lý hoạt động liên
kết giữa trường dạy nghề với cơ sở sản xuất nhằm nâng cao chất lượng đào tạo
nghề cho tỉnh Nghệ An thời gian tới.
6. Phạm vi nghiên cúu:

Luận văn tập trung nghiên cứu về chất lượng đào tạo nghề, hoạt động liên
kết đào tạo công nhân kỹ thuật giữa trường dạy nghề với cơ sở sản xuất ở một
số trường cao đắng nghề, trung cấp nghề và một số doanh nghiệp sản xuất ở
Nghệ An.
7. Phương pháp nghiên cứu:
7.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận:


Phân tích, tống hợp và hệ thống hóa các vấn đề lý luận có liên quan đến
đề tài nghiên cứu từ các nguồn thông tin như: các niên giám thống kê của Cục
thống kê, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Ke hoạch và Đầu tư, Quy
hoạch phát triển kinh tế xã hội tỉnh Nghệ An đến năm 2020 và số liệu các ngành
Lao động - Thương binh và Xã hội, Giáo dục và Đào tạo tỉnh Nghệ An, Cục
Thống kê, Ke hoạch và Đầu tư, các bài viết trên các tạp chí, sách báo và trên
mạng Internet,...


4
7.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:

7.2.1. Phương pháp thống kê, so sánh: Để đánh giá thực trạng đào tạo nghề,
đào tạo công nhân kỹ thuật và quản lý hoạt động hên kết giữa trường dạy nghề

với cơ sở sản xuất.

7.2.2. Phương pháp điều tra, khảo sát: Sử dụng phiếu trưng cầu ý kiến cán
bộ quản lý, Ban Giám hiệu ở các trường dạy nghề, lãnh đạo một số doanh
nghiệp sản xuất về hoạt động liên kết giữa trường dạy nghề với cơ sở sản xuất.

7.2.3. Phương pháp đàm thoại: Tiến hành trò chuyên, trao đổi trực tiếp với
một số giáo viên, cán bộ quản lý có uy tín và kinh nghiệm trong công tác quản
lý nhằm thu thập thêm thông tin cho nhiệm vụ nghiên cứu.

7.2.4. Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia: Lấy ý kiến của chuyên gia về
công tác quản lý đào tạo nghề nói chung và quản lý hoạt động liên kết giữa
trường DN với cssx nói riêng.
7.3. Phương pháp thống kê toán học: Xử lý số liệu thu được.
8. Đóng góp của đề tài:


8.1.

về

lý luận: Góp phần hệ thống hóa và làm sáng tỏ cơ sở lý luận những

vấn đề cơ bản về chất lượng đào tạo nghề và hoạt động liên kết giữa trường dạy
nghề với cơ sở sản xuất.

8.2.

về

thực tiễn: Đưa ra một hệ thống các giải pháp mang tính khả thi để


5
CHƯƠNG 1

Cơ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG LIÊN KÉT GIỮA
TRƯỜNG DẠY NGHÈ VỚI cơ SỞ SẢN XUẤT

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.

1.1.1.

Liên kết đào tạo nghề trên thế giói.

Mối quan hệ giữa trường nghề với cssx trong đào tạo nghề từ lâu đã

được nhiều nước quan tâm nghiên cứu và ứng dụng nhằm nâng cao chất lượng
đào tạo nghề cho người lao động.

Vào giữa thế kỷ XIX (1894) do sự phát triển của công nghiệp, ở Pháp
xuất hiện nhiều cuốn sách viết về sự phát triển đa dạng của nghề nghiệp.
Người ta đã ý thức được rằng hệ thống nghề trong xã hội rất đa dạng và phức
tạp, sự chuyên môn hóa được chú trọng. Do vậy, nội dung các cuốn sách
khắng định tính cấp thiết phải hướng nghiệp, trang bị cho thế hệ trẻ đi vào lao
động sản xuất, có nghề nghiệp phù họp với năng lực của mình và phù hợp với
yêu cầu của xã hội. [4]

Đối với giáo dục phổ thông, c. Mác đã chỉ ra các nhiệm vụ cơ bản: "Một
là, giáo dục trí tuệ; Hai là, giáo dục thể chất; Ba là, dạy kỹ thuật nhằm giúp
học sinh nắm được những nguyên lý cơ bản của tất cả các quy trình sản xuất,
đồng thời biết sử dụng công cụ sản xuất đơn giản nhất" [13].

Các nước phát triển trên thế giới luôn đề cao công tác đào tạo nghề nên học
sinh được định hướng nghề nghiệp rất tốt ngay khi còn học phổ thông, ơ Nhật,
Mỹ, Đức,... người ta xây dựng nên các bộ công cụ để kiểm tra giúp phân hóa năng
lực, hứng thú nghề nghiệp ở trẻ nhằm có sự định hướng nghề nghiệp đúng đắn từ
sớm. Cho nên, với họ giáo dục không chỉ phát triển trí tuệ thuần túy mà còn chủ ý
định hướng cho học sinh về nghê nghiệp phù họp vói năng lực bản thân, đồng
thời trang bị cho học sinh kỹ’ năng làm việc đê thích ứng với xã hội.




phụ thuộc rất nhiều vào sự kết họp đúng đắn giữa dạy trong trường với thực
tập sản xuất ở xí nghiệp... Neu thiếu nguyên tắc kết hợp dạy học với lao động
sản xuất thì hệ thống dạy nghề không thể đào tạo công nhân lành nghề được”


[9].

Từ năm 1969, lần đầu tiên trong lịch sử, trường đại học Cambridge với
700 năm lịch sử đã bước vào con đường "Công ty đại học"... Ngày nay, xu thế
các trường đại học liên kết với các xí nghiệp ngày càng nhiều ở Mỹ và một số
nước Châu âu, Công ty đại học đang trở thành một xu thế phát triển tất yếu,
tạo thời cơ phát triển cho trường đại học và xí nghiệp. Các công ty đại học
này có một số đặc diêm sau:

1. Dùng phương thức thị trường đế thu hút sinh viên, mời các học giả nổi
tiếng đến giảng dạy.

2. Việc giảng dạy và nghiên cứu khoa học trực tiếp hướng về sản xuất,
về quản lý kinh doanh, có thể làm gia tăng thu nhập tài chính và nhân đó
không ngừng cải thiện điều kiện xây dựng trường, nâng cao địa vị của trường.

3. Mối quan hệ giữa nhà trường với cssx ngày càng mật thiết, trường
học và xí nghiệp tương hỗ, tương lợi, bình đẳng về lợi ích trên phương tiện
dịch vụ kỹ thuật, do vậy mà tăng cường hợp tác giữa các bên.

Do những ưu điểm như vậy mà các "Công ty đại học" mọc lên như nấm,
từ nước Mỹ đến Châu âu, rồi đến toàn thế giới. "Công ty đại học" với những
hình thức khác nhau và sự ra đời của xí nghiệp hóa trường học, báo trước sự
phát triển quan trọng của sự phát triển giáo dục. [12]

Jacques Delors, Chủ tịch ủy ban Quốc tế độc lập về giáo dục cho thế kỷ
XXI của UNESCO khi phân tích "những trụ cột của giáo dục" đã viết: "Học
tri thức, học làm việc, học cách chung sống và học cách tồn tại". Theo ông,



7

được thành lập ngay trong các công ty tư nhân để đào tạo nhân lực cho chính
công ty đó và có thể đào tạo cho công ty khác theo hợp đồng. Mô hình này có
ưu điêm là chất lượng đào tạo cao, người học có năng lực thực hành tốt và có
việc làm ngay sau khi tốt nghiệp.

"Ba trong một" là quan điêm được quán triệt trong đào tạo nghề ở Trung
Quốc hiện nay: Đào tạo, sản xuất, dịch vụ. Theo đó, các trường dạy nghề phải
gắn bó chặt chẽ với các cơ sở sản xuất và dịch vụ góp phần quan trọng vào
việc nâng cao chất lượng đào tạo nghề. [9]

Nhằm đáp ímg nhu cầu nhân lực cho thị trường thương mại tự do
ASEAN năm 2003, APEC năm 2020, hệ thống đào tạo nghề ở Inđônêxia từ
năm 1993 đã được nghiên cứu và phát triển mạnh. Trong đó, kết họp đào tạo
nghề giữa nhà trường với doanh nghiệp được quan tâm đặc biệt [9]

Năm 1999, ở Thái Lan Chính phủ đã nghiên cứu và xây dựng "Hệ thống
hợp tác đào tạo nghề" (Cosperative training System) để giải quyết tình trạng
bất cập giữa đào tạo nghề và sử dụng lao động và hướng tới phát triển nhân
lực kỹ thuật trong tương lai [18].

Trong xu thế toàn cầu và hội nhập hiện nay, việc tổng kết kinh nghiệm
quản lý đào tạo nghề của các nước trên thế giới nhằm vận dụng vào thực tiễn
đào tạo nghề ở Việt Nam là thực sự cần thiết và cấp bách nhằm đào tạo nguồn
nhân lực đủ sức đương đầu với cạnh tranh và hợp tác.
1.1.2.
Những nghiên cứu ở trong nước.


Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: "Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn
thì thành thực tiễn mù quáng, lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận
suông" [11]. Tư tưởng này đã được cụ thể hóa trong nguyên lý giáo dục ở
Việt Nam trong suốt lịch sử giáo dục của nước nhà. Tại Đại hội Văn hóa toàn
quốc tháng 7 năm 1948, Tống bí thư Trường Chinh đã khẳng định: "Biêt và làm
đi đôi; lý luận và hành động phối hợp" .


8

Đảng và Nhà nước ta ngày càng quan tâm tạo điều kiện đế cho nhà trường
hợp tác với doanh nghiệp trong đào tạo nhằm phát triển nguồn nhân lực có chất
lượng cao, nhất là trong những năm gần đây đã ban hành cơ chế chính sách
thông thoáng giúp cho sự hợp tác này được thuận lợi. Điều này được cụ thể
hóa trong Luật giáo dục năm 2005, Luật dạy nghề năm 2006 và Điều lệ trường
CĐ nghề năm 2007, Điều lệ trường TC nghề năm 2007, Điều lệ trường trung
cấp chuyên nghiệp năm 2008, Quy chế mẫu của trung tâm dạy nghề năm
2007,... Mặc dù có cơ chế, chính sách thuận lợi như vậy song ở nước ta, cho đến
hiện nay có thể nói, thực trạng mối quan hệ hên kết giữa nhà trường với cssx
trong đào tạo nghề còn nhiều yếu kém và cũng có rất ít công trình nghiên cứu
về vấn đề này. Năm 1993, tác giả Trần Khánh Đức có đề tài cấp bộ "Hoàn
thiện đào tạo nghề tại xí nghiệp". Đe tài tập trung nghiên cứu các trường, lớp
dạy nghề đặt tại đơn vị sản xuất trong lĩnh vực về bưu chính viễn thông và hóa
chất. Năm 1993, tác giả Phạm Khắc Vũ với luận văn tốt nghiệp: "Cơ sở lý luận
và thực tiễn phương thức tổ chức đào tạo nghề kết hợp tại trường và cơ sở
sản xuất" [27]. Năm 2004, Trường Trung học kỹ thuật xây dựng Hà Nội có
đề tài nghiên cứu khoa học cấp thành phố: "Các giải pháp gắn đào tạo với sử
dụng lao động của hệ thống dạy nghề Hà Nội trong lĩnh vực xây dựng" [22].
Đe tài đã nêu lên "kinh nghiệm trên thế giới về gắn đào tạo với sử dụng lao động
của hệ thống dạy nghề", điển hình là hệ đào tạo kép của Đức và hình thức đào

tạo luân phiên ở Pháp, đưa ra một số mô hình tổ chức đào tạo nghề cơ bản, và
đưa ra một số giải pháp để gắn đào tạo và sử dụng (trong đó có một số ý tưởng
kết hợp đào tạo nghề tại trường và doanh nghiệp). Tuy nhiên, do hướng nghiên
cứu của đề tài không tập trung vào kết hợp đầo tạo nghề nên chưa đề cập tới các
cơ sở khoa học của kết hợp đào tạo nghề mà tập trung giải quyết các mối quan
hệ giữa nhà trường và doanh nghịêp. Trong đó, có cả quan hệ vê "liên kết đào
tạo", chưa nghiên cứu sâu, cụ thể vấn đề kết họp đào tạo nghề và các giải pháp
để kết hợp đào tạo nghề trong giai đoạn hiện nay.


9

Năm 2005 Hoàng Ngọc Trí với luận án tiến sĩ "Nghiên cứu các giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng đào tạo công nhân kỹ thuật xây dựng ở thủ đô Hà
Nội" có đề cập đến mối quan hệ giữa các trường nghề và đơn vị sản xuất. Năm
2006, Nguyễn Văn Tuấn với luận văn thạc sĩ "Một số biện pháp tăng cường
quản lý đào tạo nghề ở trường Đại học Công nghiệp Hà Nội" có đi sâu phân
tích mối quan hệ giữa quản lý và chất lượng đào tạo nghề; những nhân tố
tác động đến quản lý quá trình đào tạo nghề. Trong luận án tiến sỹ của tác giả
Trần Khắc Hoàn đã phân tích và đưa ra vấn đề "Tăng cường mối quan hệ giữa
nhà trường và các đơn vị sản xuất" là một trong những giải pháp nâng cao chất
lượng đào tạo. Song, do hướng nghiên cứu của đề tài nên tác giả chưa phân tích
các cơ sở khoa học, chỉ đề cập tới cách thức tiến hành tăng cường quan hệ của
nhà trường với các đơn vị sản xuất một cách đơn phương, chưa đề cập phương
thức kết hợp đào tạo tổng quát ở Việt Nam, chưa đưa ra các giải pháp đồng bộ

để

thực hiện kết họp đào tạo nghề tại trường và cssx (do nhiệm vụ đề tài là tập
trung giải quyết các giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo CNKT xây dựng ở

thủ đô Hà Nội, nên không đi sâu vào giải quyết lý luận và thực tiễn kết hợp đào
tạo nghề).

Một số bài báo khoa học đăng trên các tạp chí của các nhà nghiên cứu
giáo dục như tác giả Nguyễn Minh Đường, Nguyễn Viết Sự, Vũ Văn Tảo,
Nguyễn Tiến Đạt, Trần Khánh Đức, Phan Văn Kha và các nhà quản lý giáo dục
khác.

Trên đây là sự khái lược về tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước có
liên quan đến vấn đề liên kết giữa trường nghề với cssx trong đào tạo nhằm nâng
cao chất lượng đào tạo nghề. Tuy nhiên, vai trò của quản lý đối với hoạt động liên
kết giữa trường nghề với cssx trong xu thế hội nhập hiện nay vẫn còn là khoảng
trông, ít được quan tâm nghiên cứu. Vì vậy, tác giả tiêp tục đi sâu nghiên cứu
đề tài “Giải pháp quản lý hoạt động liên kết giữa trường DN với
nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề ở tỉnh Nghệ An”.

cssx


10
1.2. Một số khái niệm cơ bản.
1.2.1.
Đào tạo nghề và chất lượng đào tao nghề.
1.2.1.1.
Đào tạo nghề.

Đào tạo nghề: là quá trình phát triển có hệ thống kiến thức, kỹ năng, kỹ
xảo và thái độ nghề nghiệp cho người học. ĐTN nhằm hướng vào hoạt động
nghề nghiệp và hoạt động xã hội. Mục tiêu ĐTN là trạng thái phát triển nhân
cách được dự kiến trên cơ sở yêu cầu phát triển kinh - tế xã hội và được hiểu là

chất lượng cần đạt tới đối vói người học sau quá trình đào tạo. [14]

Đào tạo nghề bao gồm hai quá trình có quan hệ hữu cơ với nhau. Đó là:

Dạy nghề: Là quá trình giảng viên truyền bá những kiến thức về lý thuyết
và thực hành đê các học viên có được một trình độ, kỹ năng, kỹ xảo, sự khéo
léo, thành thục nhất định về nghề nghiệp [14].

Học nghề: Là quá trình tiếp thu những kiến thức về lý thuyết và thực hành
của người lao động để đạt được một trình độ nghề nghiệp nhất định [14].

ĐTN cho người lao động là giáo dục kỹ thuật sản xuất cho người lao động
để họ nắm vững nghề nghiệp, chuyên môn. Đào tạo nghề bao gồm: Đào tạo
công nhân kỹ thuật (công nhân cơ khí, điện tử, xây dựng, sửa chữa...) và phố cập
nghề cho người lao động (chủ yếu là lao động nông thôn).

Đào tạo công nhân kỹ thuật (CNKT) là một quá trình sư phạm có mục
đích, có nội dung và phương pháp, nhằm trang bị cho người học những kiến
thức, kỹ năng và thái độ cần thiết của người CNKT đê họ có cơ hội tìm được
việc làm và có năng lực hành nghề ở những vị trí lao động theo yêu cầu của sản
xuất. Ket thúc khoá đào tạo, người học được cấp bằng hoặc chứng chỉ đê có thể
hành nghề.

Với sự phát triển phong phú và đa dạng của ĐTN cũng như nhu cầu rất đa
dạng của người học và của thị trường lao động, ngày nay đang tồn tại 3 loại hình
đào tạo CNKT là đào tạo chính quy (íormal training), đào tạo không chính quy


11


(non-formal training) và đào tạo phi chính quy (informal training). Các loại hình
đào tạo này được nhìn nhận như sau:

Đào tạo chính quy là loại hình đào tạo được thực hiện vói chương trình
đào tạo được quy định, khi người học tốt nghiệp một khoá đào tạo theo một
chương trình nào đó có thể tiếp tục theo học chương trình đào tạo có trình độ
cao hơn của hệ thống giáo dục quốc dân.

Đào tạo không chính quy là loại hình đào tạo được thực hiện với các
chương trình đào tạo thiết kế theo nhu cầu của người học hoặc người sử dụng
lao động mà khi học xong chương trình này người học có thể không được thừa
nhận đế tiếp tục học trình độ cao hơn của hệ thống giáo dục quốc dân.

Đào tạo phi chính quy là hình thức đào tạo nhằm hình thành một số năng
lực cho người lao động, không theo một chương trình được quy định nào.

Với đặc diêm của đào tạo CNKT, thực hành là chủ yếu, quá trình đào tạo
có thể được thực hiện tại trường, tại cơ sở sản xuất hoặc liên kết giữa trường và
cơ sở sản xuất. Tùy thuộc vào trình độ cần đào tạo, trình độ tuyển sinh cũng như
thời gian đào tạo CNKT có khác nhau. [14]
1.2.1.2.
Chất lượng đào tạo nghề.

Chất lượng là một khái niệm tương đối trừu tượng, cùng với sự phát triển
của xã hội, khái niệm chất lượng cũng có những thay đổi đáng kể. Trước đây,
người ta coi chất lượng là một khái niệm “tĩnh” với tiêu chuẩn chất lượng được
coi là cố định và tồn tại trong một thời gian dài. Ngày nay, khái niệm chất lượng
không được gắn với một tiêu chuân cố định nào đó, mà “chất lượng là một hành
trình, không phải là một diêm dừng cuối cùng mà ta đi tới”. Đây là quan niệm
“động” về chất lượng, trong đó chất lượng được xác định bởi người sử dụng sản

phẩm - dịch vụ hay trong nền kinh tế thị trường còn gọi là khách hàng. Khách
hàng cảm thấy thoả mãn khi sử dụng sản phấm - dịch vụ có nghĩa là sản phấm dịch vụ đó có chất lượng.


12

Bên cạnh sự thay đổi về thòi gian thì từ những cách tiếp cận khác nhau
cũng dẫn đến những khái niệm khác nhau về chất lượng. Có một số khái niệm
tiêu biểu về chất lượng như: “Chất lượng là phạm trù triết học biểu thị những
thuộc tính bản chất của sự vật, chỉ rõ nó là cái gì, tính ổn định tương đối cúa sự
vật phân biệt nó với sự vật khác, chất lượng là đặc tính khách quan của sự vật.
Chất lượng biểu thị ra bên ngoài qua các thuộc tính. Nó là cái liên kết các thuộc
tính của sự vật lại làm một, gắn bó với sự vật như một tống thể bao quát toàn bộ
sự vật và không tách rời khỏi sự vật. Sự vật khi vẫn còn là bản thân nó thì không
thể mất đi chất lượng của nó. Sự thay đổi chất lượng kéo theo sự thay đổi của sự
vật. về căn bản, chất lượng của sự vật bao giờ cũng gắn với tính qui định về số
lượng của nó và không thê tồn tại ngoài tính qui định ấy. Mỗi sự vật bao giờ
cũng là sự thống nhất giữa số lượng và chất lượng” [23].

“Chất lượng là mức độ mà một tập họp các đặc trưng vốn có đáp ứng
được các yêu cầu của khách hàng và những người khác có quan tâm” [24].

Trên đây là các khái niệm chung về chất lượng mà khi xét cho từng đối
tượng cụ thê thì cần xét tới cả những điều kiện lịch sử - cụ thể của đối tượng đó.

Chất lượng giáo dục - đào tạo nói chung và đào tạo nghề nói riêng là vấn
đề cơ bản và là mục tiêu phấn đấu không ngừng của các cấp quản lý giáo dục đào tạo cũng như các cơ sở đào tạo trực tiếp. Có nhiều cách hiểu khác nhau về
chất lượng đào tạo nghề với nhúng khía cạnh khác nhau.

Quan diêm nguồn lực ở phương Tây cho rằng chất lượng ĐTN phụ thuộc

đầu vào của hệ thống đào tạo. Khi có các yếu tố đầu vào có chất lượng như: giáo
viên giỏi, cán bộ quản lý giỏi, cơ sở vật chất đầy đủ, học sinh giỏi, ... thì chất
lượng đào tạo nghề được nâng cao. Cũng có quan diêm cho rằng chất lượng
ĐTN được đánh giá bằng sản phẩm của quá trình đào tạo (đầu ra), tức là bằng
mức độ hoàn thành của học viên tốt nghiệp. Một sô quan điếm khác lại khắng
định chất lượng ĐTN được quyết định bởi các quá trình hoạt động bên trong,
đặc biệt là hệ thống thông tin và hệ thống các quyết định tối ưu.


13

Chất lượng đào tạo là kết quả cuối cùng đạt được bởi sự tác động tích cực
của các yếu tố cấu thành quả quá trình đào tạo. Có thể khái quát quan niệm này
MT

HV

PP,PT

Sơ đồ 1: Sơ đồ khát quát quan niệm chất lượng đào tạo

Trong đó:

- MT: Mục tiêu đào tạo.

- pp, PT: Phương pháp đào tạo, phương tiện phục vụ đào tạo.

- GV: Giáo viên và cán bộ quản lý đào tạo.

- HV: Học viên.


- ND: Nội dung đào tạo.


14

hàng; tập trung vào con người và mọi người đóng góp xây dựng tổ chức của
mình; có tầm nhìn dài hạn; quản lý sự thay đổi một cách có hiệu quả; có đối
mới; hữu hiệu; tổ chức tiếp thị tốt với thị trường.

Xuất phát từ những khái niệm chung về chất lượng và các quan niệm về
chất lượng ĐTN nêu trên, có thể hiểu chất lượng ĐTN với những điểm cơ bản
như sau: “Chất lượng ĐTN là kết quả tác động tích cực của tất cả các yếu tố cấu
thành hệ thống đào tạo nghề và quá trình đào tạo vận hành trong môi trường
nhất định”.
1.2.2.
Phân loại và các hình thức đào tạo nghề.
1.2.2.1.
Phân loại đào tạo nghề.

Có rất nhiều cách phân loại ĐTN, tùy theo mỗi loại tiêu thức ta có thể
phân loại ĐTN thành các loại hình khác nhau. Trong phạm vi bài này chỉ xét hai
tiêu thức phân loại như sau:

- Căn cứ vào thời gian ĐTN:

I Đào tạo ngắn hạn: Là loại hình ĐTN có thời gian đào tạo dưới một năm
chủ yếu áp dụng đối với phổ cập nghề.

Loại hình này có ưu điếm là có thế tập hợp được đông đảo lực lượng lao

động ở mọi lứa tuổi, những người không có điều kiện học tập tập trung vẫn có
thể tiếp thu được tri thức ngay tại chỗ, với sự hỗ trợ đắc lực của các cơ quan
đoàn thể, địa phương, Nhà nước về mặt giáo trình, giảng viên.

+ Đào tạo dài hạn: Là loại hình ĐTN có thời gian đào tạo từ một năm trở
lên, chủ yếu áp dụng đối với đào tạo công nhân kỹ thuật và nhân viên nghiệp vụ.
ĐTN dài hạn thường có chất lượng cao hơn các lớp đào tạo ngắn hạn.

- Căn cứ vào nghề đào tạo đối với người học:

I Đào tạo mới: Là loại hình ĐTN áp dụng cho những người chưa có nghề,


15

+ Đào tạo nâng cao: Là quá trình bồi dưỡng nâng cao kiến thức và kinh
nghiệm làm việc để người lao động có thể đảm nhận được những công việc
phức tạp hơn.
1.2.2.2.
Các hình thức đào tạo nghề.

Các hình thức đào tạo nói chung và ĐTN nói riêng nhìn chung là rất
phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, về cơ bản ĐTN hiện nay thường áp dụng một
số hình thức chính sau đây:
- ĐTN chỉnh quy:

Theo quy định của Luật dạy nghề, ĐTN chính quy được thực hiện với các
chương trình sơ cấp nghề, TCN và CĐN tại các CSDN theo các khóa học tập
trung và liên tục. Có thể hiểu ĐTN chính quy là loại hình đào tạo tập trung tại
các trung tâm dạy nghề, các trường nghề với quy mô đào tạo tương đối lớn, chủ

yếu là đào tạo các công nhân kỹ thuật có trình độ lành nghề cao.

Việc đào tạo công nhân kỹ' thuật thường chia làm hai giai đoạn: Giai đoạn
học tập cơ bản và giai đoạn học tập chuyên môn. Giai đoạn học tập cơ bản là
giai đoạn ĐTN theo diện rộng, thường chiếm từ 70% đến 80% nội dung giảng
dạy và tương đối ốn định. Còn trong giai đoạn học tập chuyên môn, người học
được trang bị những kiến thức chuyên sâu và rèn luyện những kỹ năng, kỹ' xảo
để nắm vững nghề đã chọn. Ưu điểm cơ bản của hình thức đào tạo này là: Học
sinh được học một cách có hệ thống từ đơn giản đến phức tạp, từ lý thuyết đến
thực hành, tạo điều kiện cho học sinh tiếp thu kiến thức nhanh chóng và dễ
dàng: đào tạo tương đối toàn diện.

Với hình thức đào tạo chính quy, sau khi đào tạo, học viên có thê chủ động,
độc lập giải quyết công việc, có khả năng đảm nhận các công việc tương đối phức
tạp, đòi hỏi trình độ lành nghề cao. Cùng với sự phát triển của sản xuất và tiến bộ
của khoa học kỹ thuật, hình thức đào tạo này ngày càng giữ vai trò quan trọng
trong việc đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật. Tuy nhiên, đào tạo chính quy cũng


16

có nhược điểm là: thời gian đào tạo tương đối dài đòi hỏi phải đầu tư lớn để đảm
bảo đầy đủ cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên, các cán bộ quản lý.
- ĐTN tại nơi làm việc (đào tạo trong công việc):

ĐTN tại nơi làm việc là hình thức đào tạo trực tiếp, trong đó người học sẽ
được dạy những kiến thức, kỹ năng cần thiết cho công việc thông qua thực tế thực
hiện công việc và thường là dưới sự hướng dẫn của những người lao động có
trình độ cao hơn. Hình thức đào tạo này thiên về thực hành ngay trong qúa trình
sản xuất và thường là do các doanh nghiệp (hoặc các cá nhân sản xuất) tự tổ chức.


Chương trình đào tạo áp dụng cho hình thức đào tạo tại nơi làm việc
thường chia làm ba giai đoạn: Giai đoạn đầu, người hướng dẫn vừa sản xuất vừa
hướng dẫn cho học viên; Giai đoạn hai, giao việc làm thử cho học viên sau khi họ
đã nắm được các nguyên tắc và phương pháp làm việc; Giai đoạn ba, giao việc
hoàn toàn cho học viên khi họ đã có thê tiến hành làm việc một cách độc lập.

Hình thức đào tạo tại nơi làm việc có nhiều ưu điểm như: có khả năng đào
tạo nhiều người cùng một lúc ở tất cả các phân xưởng; thời gian đào tạo ngắn;
không đòi hỏi điều kiện về trường lớp, giáo viên chuyên trách, bộ máy quản lý,
thiết bị học tập riêng nên tiết kiệm chi phí đào tạo; trong quá trình học tập, người
học còn được trực tiếp tham gia vào quá trình lao động, điều này giúp họ có thẻ
nắm chắc kỹ năng lao động. Nhược điểm cơ bản của đào tạo tại nơi làm việc là:
Việc truyền đạt và tiếp thu kiến thức không có tính hệ thống; Người dạy không
có nghiệp vụ sư phạm nên hạn chế trong quá trình hướng dẫn, việc tổ chức dạy
lý thuyết gặp nhiều khó khăn nên kết quả học tập còn hạn chế; Học viên không
chỉ học những phương pháp tiên tiến mà còn có thế bắt chước cả những thói
quen không tốt của người hướng dẫn. Vì vậy, hình thức đào tạo này chỉ phù hợp
với những công việc đòi hỏi trình độ không cao.
- Tô chức các lớp cạnh doanh nghiệp:

Đây là hình thức đào tạo theo chương trình gồm hai phần lý thuyết và
thực hành. Phần lý thuyết được giảng tập trung do các kỹ sư, cán bộ kỹ thuật


17

phụ trách. Còn phần thực hành thì được tiến hành ở các xưởng thực tập do các
kỹ sư hoặc công nhân lành nghề hướng dẫn. Hình thức đào tạo này chủ yếu áp
dụng đế đào tạo cho những nghề phức tạp, đòi hỏi có sự hiếu biết rộng về lý

thuyết và độ thành thục cao.

Ưu diêm nổi bật của các lóp cạnh doanh nghiệp là: Dạy lý thuyết tương
đối có hệ thống, đồng thời học viên lại được trực tiếp tham gia lao động ở các
phân xưởng, tạo điều kiện cho họ nắm vững nghề: Bộ máy đào tạo gọn, chi phí
đào tạo không lỏn. Tuy nhiên, hình thức đào tạo này chỉ áp dụng được ở những
doanh nghiệp tương đối lớn và chỉ đào tạo cho các doanh nghiệp cùng ngành có
tính chất giống nhau.
- Đào tạo nghề kết hợp tại trường và doanh nghiệp:

Hình thức ĐTN kết hợp tại trường và doanh nghiệp được áp dụng khá rộng
rãi trên thế giới nhưng mới chỉ xuất hiện ở Việt Nam trong những năm gần đây và
còn có nhiều cách hiểu khác nhau. Có thể hiểu “ĐTN kết hợp tại trường và doanh
nghiệp là hình thức đào tạo dựa trên hệ thống dạy và học có hai chỗ học, sự tích
hợp chức năng của hai chỗ học tạo thành chức năng chung của hệ thống”.

Đào tạo nghề kết hợp tại trường và doanh nghiệp có thể được tổ chức
dưới nhiều hình thức khác nhau tùy theo điều kiện, quan điểm ở từng vùng, lãnh
thổ và khu vực.

DN vói cssx và các múc độ liên

1.2.3.
kết.

Hoat động liên kết giũa trường

1.2.3.1.

Hoạt động liên kết giữa trường DN vói cssx.


Liên kết là sự kết hợp giữa hai hay nhiều pháp nhân kinh tế, để tạo ra một
pháp nhân mới có đủ sức mạnh tổng hợp về khả năng tài chính [2].

Liên kết đào tạo là sự hợp tác giữa các bên đế tổ chức thực hiện các chương
trình đào tạo cấp bằng tốt nghiệp trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học [2].

Liên kết đào tạo nghê là sự hợp tác, phôi hợp giữa các trường dạy nghê và
các cơ sở sản xuất để cùng nhau thực hiện những công việc nào đó của quá trình
đào tạo nhằm góp phần phát triển sự nghiệp đào tạo nhân lực cho đất nước đồng


18

thời mang lại lợi ích cho mỗi bên. Do vậy, quan hệ giữa trường dạy nghề và các
cơ sở sản xuất là quan hệ cung - cầu, quan hệ giữa đào tạo và sử dụng nhân lực.

Hoạt động liên kết giữa nhà trường và cssx trong đào tạo nghề đang được
hiểu với nhiều ý nghĩa, khía cạnh khác nhau ở những mức độ khác nhau. Trong
phạm vi luận văn này, khái niệm “liên kết” được hiểu là mối quan hệ tương tác
giữa nhà trường và cssx, họp thành một hệ thống ĐTN thống nhất và phù họp,
trong đó chức năng của hệ thống được tích hợp từ hai bộ phận tạo thành là nhà
trường và cssx nhằm nâng cao chất lượng ĐTN [2].
1.2.3.2. Các mức độ liên kết.

Trong thực tế, liên kết đào tạo giữa nhà trường và các cơ sở sản xuất có
nhiều mức độ khác nhau tuỳ thuộc và yêu cầu vào khả năng của mỗi bên. Các
mức độ có thể kể đến là:

- Liên kết toàn diện là sự tham gia của các cơ sở sản xuất với các trường

dạy nghề trong mọi lĩnh vực, mọi khâu của quá trình đào tạo. Với mức độ liên
kết này, các cơ sở sản xuất tham gia đầu tư trang thiết bị cho các trường dạy
nghề hoặc tổ chức các phân xưởng đào tạo đê trường dạy nghề và cơ sở sản xuất
cùng sử dụng, cử kỹ sư và công nhân cùng tham gia giảng dạy; tham gia với các
trường dạy nghề từ khâu hướng nghiệp chọn nghề phù hợp để học, xây dựng
mục tiêu, nội dung chương trình đào tạo, tham gia đào tạo và đánh giá kết quả
học tập của học sinh, tham gia giới thiệu việc làm cho học sinh .v.v...

- Liên kết có giới hạn là sự liên kết chỉ được thực hiện trong một số lĩnh
vực hoặc trong một số khâu của quá trình đào tạo. Mức độ liên kết này phù hợp
với những trường hợp cả hai bên đối tác chưa có nhu cầu hoặc chưa có điều kiện
đế hợp tác toàn diện. Ví dụ cơ sở sản xuất hàng năm nhận học sinh của các
trường dạy nghề vào thực tập sản xuất, thực tập tốt nghiệp...

- Liên kêt rời rạc là sự liên kết chỉ thực hiện trong một sô lĩnh vực và sự
hợp tác này cũng có thể không thực hiện được thường xuyên mà chỉ thực hiện
khi có điều kiện.


19

Như vậy, sự liên kết giữa nhà trường và các cơ sở sản xuất rất đa dạng, có
thể thực hiện dưới nhiều hình thức, mức độ khác nhau, tuỳ thuộc vào nhu cầu và
điều kiện của mỗi bên, không thê áp đặt một cách đồng loạt mặc dầu sự hợp tác
sẽ mang lại lợi ích cho cả đôi bên.
1.2.4.
Quản lý và quản lý hoạt động liên kết giữa trường dạy nghề vói cơ
sở
sản xuất.
1.2.4.1.

Quản lý.

Quản lý là một trong những loại hình lao động có hiệu quả nhất, quan trọng
nhất trong các hoạt động của con người. Quản lý đúng tức là con người đã nhận
thức đúng được quy luật, vận động theo đúng quy luật và sẽ đạt được những
thành công to lón. Trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, con người
muốn tồn tại và phát triển đều phải dựa vào nỗ lực của cá nhân, của một tố chức,
từ một nhóm nhỏ đến phạm vi rộng lớn hơn ở tầm quốc gia, quốc tế đều phải
thừa nhận và chịu một sự quản lý nào đó. [19]

Thuật ngữ quản lý trở nên phổ biến nhưng chưa có một định nghĩa thống nhất:

- Theo góc độ chính trị - xã hội: Quản lý là sự kết hợp giữa tri thức với lao
động. Sự phát triển bao gồm 3 yếu tố: Tri thức - Sức lao động - Quản lý.

- Theo góc độ hành động: Quản lý là quá trình điều khiên - chủ thể quản lý
điều khiển người dưới quyền và các đối tượng khác để đạt tới đích đặt ra.

Quản lý là sự tác động có tố chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới
đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra.

Quản lý là quá trình tác động có ý thức vào một bộ máy bằng cách vạch ra
mục tiêu cho bộ máy, tìm kiếm các biện pháp tác động vào bộ máy đê bộ máy
đạt tói mục tiêu đã xác định.

Tựu trung lại, quản lý là những hoạt động có phối hợp nhằm định hướng và
kiếm soát quá trình tiến tói mục tiêu. Bao gồm:


20


+ Kiểm soát được tiến trình của hoạt động trong quá trình tiến tói mục tiêu.
1.2.42. Quản lý hoạt động liên kết giữa trường dạy nghề vói cơ sở sản xuất.

Quản lý hoạt động liên kết giữa nhà trường với cssx là toàn bộ quá
trình xác định nhu cầu, đề ra mục tiêu, nội dung, trách nhiệm,... và được tác
động bởi các biện pháp phù hợp. Là quá trình cải tiến liên tục mọi khâu trong
chu trình hên kết theo sơ đồ dưới đây. Mỗi khâu đều cần được nghiên cứu kỹ
lưỡng và tác động hợp lý, việc thực hiện tốt khâu này sẽ là tiền đề để thực hiện
các khâu tiếp theo, ngược lại, thực hiện tốt các khâu tiếp theo sẽ là cơ sở đê
đánh giá mức độ và chất lượng của các khâu tiền đề. Giữa các khâu có mối
quan hệ ràng buộc và ảnh hưởng qua lại lẫn nhau, cần phải có thông tin chính
xác về trực trạng của các khâu đê có các biện pháp điều chỉnh, điều khiển hợp lý

cssx. Sẽ đạt được hiệu quả
cssx đều ý thức tốt việc quản lý

để tăng cường liên kết giữa hai bên nhà trường với

cao nếu nhà lãnh đạo của cả trường nghề và
mối quan hệ liên kết cần theo các chu trình bằng các cách thức hợp lý. Nghĩa
là họ phải thực hiện đúng chức năng của người lãnh đạo, của nhà quản lý [19].

Sơ đồ 2: Chu trình quản ìỷ liên kết giữa truòng nghề vói cssx


21
1.2.5.

Giải pháp và giải pháp quản lý hoạt động hên kết giữa trường dạy


nghề với cơ sở sản xuất.
1.2.5.1.

Giải pháp.

Giải pháp là: “phương pháp giải quyết một vấn đề” [23]. Nói đến giải
pháp là nói đến những cách thức tác động nhằm thay đổi chuyển biến một quá
trình, một trạng thái hoặc hệ thống,... nhằm đạt được mục đích. Giải pháp thích
hợp sẽ giúp cho vấn đề được giải quyết nhanh hơn, mang lại hiệu quả cao hơn.
1.2.5.2.

Giải pháp quản lý hoạt động liên kết giữa trường dạy nghề với cơ

sở
sản xuất.

Quan việc tìm hiểu khái niệm "quản lý" nhận thấy, quá trình quản lý luôn
tồn tại bốn thành tố cấu trúc, đó là chủ thể quản lý, đối tượng quản lý, khách
thể quản lý và mục tiêu quản lý. Dưới sự tác động tự giác của chủ thể quản lý,
các thành tố này luôn có sự tác động qua lại với nhau và nhờ đó chủ thế quản
lý thực hiện các nội dung nhiệm vụ quản lý nhằm đạt được mục tiêu quản lý.
Để đạt được mục tiêu quản lý bao giờ chủ thể quản lý cũng phải sử dụng các
công cụ, phương tiện, phương pháp, biện pháp đế tác động lên đối tượng quản
lý. Vậy giải pháp quản lý hoạt động liên kết giữa trường DN với

cssx

được


hiểu như thế nào?

Theo tác giả, Giải pháp quản lý hoạt động hên kết giữa trường dạy nghề
với cơ sở sản xuất là những điều kiện, cách thức tác động lên mối quan hệ họp
tác giữa trường dạy nghề với

cssx

trong đào tạo và các yếu tố ảnh hưởng đến quá

trình hợp tác đó để đạt được mục tiêu là tìm ra những giải pháp tốt nhất, khả thi
nhất nhằm quản lý hoạt động liên kết giữa trường DN với

cssx

trong đào tạo nhằm

nâng cao chất lượng đào tạo nghề.
1.3. Một số vấn đề cơ bản về quản lý hoạt động liên kết giữa trường dạy


22

học viên sẽ được thực hiện bởi cả hai chủ thể là nhà trường và

cssx.

Nội dung,

thời gian đào tạo mà mỗi chủ thể phải thực hiện tuỳ thuộc vào sự thoả thuận,

phân công ban đầu. Chương trình đào tạo của từng nghề, nguồn lực về tài chính,
nhân sự, cơ sở vật chất... của từng chủ thể là căn cứ đê phân chia công việc mà
nhà trường hay

cssx

phải thực hiện trong toàn khoá đào tạo. Thông thường,

việc đào tạo lý thuyết sẽ do nhà trường thực hiện còn phía

cssx

sẽ đảm nhận

việc dạy thực hành. Tuy nhiên, tuỳ theo điều kiện cụ thể của mỗi bên trong quá
trình liên kết, việc tố chức đào tạo sẽ có những biếu hiện cụ thể khác nhau hay
nói cách khác là hình thức đào tạo sẽ khác nhau.
1.3.1.2.

Liên kết về tài chính và cơ sở vật chất.

Liên kết về tài chính là phía cssx sẽ hỗ trợ trực tiếp (hoặc gián tiếp) cho
nhà trường một phần (hoặc toàn bộ) kinh phí đào tạo nghề cho học viên.

Trên thế giới hiện nay, việc

cssx

đóng góp kinh phí cho đào tạo nghề rất


phổ biến, thậm chí là bắt buộc ở một số nước nếu

cssx

muốn sử dụng lao động

đã qua đào tạo nghề. Mức độ liên kết về tài chính giữa nhà trường và cssx
trong đào tạo nghề tuỳ thuộc quy định của từng quốc gia và khả năng tài chính
cũng như nhu cầu về nhân lực của doanh nghiệp. Trên thực tế có nhiều kiểu liên
kết tài chính, tiêu biểu là các kiểu liên kết như sau:

-

cssx

tới các trường để tuyển lao động, sau khi tuyển dụng xong họ trả

lại tiền đào tạo cho Nhà nước. Căn cứ vào số lượng lao động mà
dụng, Nhà nước lại chuyển số tiền mà
hình liên kết tại Hàn Quốc).

cssx

cssx

tuyển

đã nộp vào cho nhà trường (mô

- Căn cứ nhu cầu sử dụng lao động của mình, cssx đặt hàng với nhà

trường và chi trả toàn bộ kinh phí đào tạo cho nhà trường. Người lao động sau
khi được đào tạo sẽ làm việc cho

cssx

(việc tuyển sinh có thể do nhà trường


23

-

cssx

khi sử dụng học viên đã tốt nghiệp phải nộp cho trường nghề

0,5% quỹ lương của
cssx. Trong đó, 0,2% cho trường và 0,3% cho cán bộ cssx tham gia đào tạo
hoặc cho Nhà nước một khoản thuế (thuế học nghề) bằng
nghề (mô hình đào tạo kết họp điển hình tại Pháp).

- Trường hợp các học viên đến thực tập tại cssx và làm ra sản phẩm,
doanh nghiệp sẽ trích một phần doanh thu đó trả cho nhà trường để đầu tư trở lại
cho đào tạo.

-

cssx

đầu tư thiết bị, phương tiện thực hành cho nhà trường đối với


những nghề mà cssx có nhu cầu sử dụng lao động.

cssx cho nhà trường tận dụng máy móc, thiết bị, nhà xưởng của chính
cssx đế tổ chức đào tạo thực hành (bao gồm cả thực hành cơ bản và thực tập
-

sản xuất).
1.3.1.3.

liên kết về nhân sự.

Liên kết về nhân sự bao gồm có liên kết về giáo viên giảng dạy và cán bộ
quản lý đào tạo giữa nhà trường và cssx.

Đội ngũ GV là yếu tố cơ bản có tính chất quyết định sự đảm bảo và nâng
cao chất lượng đào tạo. Thông thường, khi kết hợp về mặt giáo viên giữa nhà
trường và cssx thì sự kết họp đó được biêu hiện dưới các hình thức như sau:

- Các trường đào tạo nghề sẽ cung cấp toàn bộ đội ngũ giáo viên giảng
dạy lý thuyết và chịu trách nhiệm tố chức đào tạo các nội dung lý thuyết của
khoá học. Các

cssx

sẽ tổ chức đào tạo phần thực hành với đội ngũ giáo viên

dạy thực hành là các cán bộ

kỹ thuật của cssx.



×