Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Vận dụng lý luận hình thái kỉnh tế xã hội vào quá trình đổi mới ở tỉnh tiền giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (700.19 KB, 96 trang )

NHẬN
XÉT CỦA
PHẢN BIỆN
TRƯỜNG
ĐẠIGIÁO
HỌC VIÊN
CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
—oOo—

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

VẠNDỤNG LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH
TỂ - XÃ HỘI VÀO QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI
Ở TỈNH TIỀN GIANG
NGHÀNH: sư PHẠM GIÁO DỤC CÔNG DÂN
Mã nghành: 52140204

NHẶN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN

Cần Thơ 2009


LỜI CẢM ƠN
Qua gần 4 năm học tập và rèn luyện tại trường Đại học cần Thơ, tôi đã có
những
kiến thức bổ ích để thực hiện luận văn tốt nghiệp của mình.
Đê hoàn thành luận văn này, tôi chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình và
chu
đáo của thầy Đinh Ngọc Quyên, các thầy cô của khoa Khoa Học Chính Trị; thầy cô
khoa Sư Phạm và tập thể lóp sư phạm Giáo dục công dân khóa 32 đã giúp đỡ, động


viên
tôi hoàn thành luận văn này. Đồng thời tôi cũng xin cám ơn Sở lao động thương
binh



xã hội Tiền Giang; ủy ban nhân dân tỉnh; Phòng kế hoạch tài chính - Sở công
thương,


MỤC LỤC

Trang

PHẦN MỞ ĐẦU..................................................................... 1
1............................................................................................... Tính cấp thiết
của việc nghiên cứu đề tài....................................................... 1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài....................................... 2
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu........................ 3
5. Kết cấu của luận văn.......................................................... 3
Chương I: Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội
của chủ nghĩa Mác - Lênin...................................................... 4
1.1

Khái niệm và kết cấu hình thái kinh tế - xã hội...........

1.1.1.........................................................................................

4

Khái

niệm

hình thái kinh tế - xã hội.......................................................... 4
1.1.2 Những yếu tố hình thành và qui luật vận động,
phát triển của hình thái kinh tế - xã hội................................... 8
1.1.2.1 Lực lượng sản xuất.................................................... 8
1.1.2.2...................................................................................... Quan hệ sản
xuất.......................................................................................... 12
1.1.2.3 Kiến trúc thượng tầng................................................ 15
1.1.2.4 Qui luật vận động và phát triển của hình thái
kinh tế-xã hội............................................................... 16
1.2 Sự phát ữiển của các hình thái kinh tế - xã hội là
một quá trình lịch sử - tự nhiên................................................ 20
1.3 Ý nghĩa và giá trị bền vững của học thuyết
Mác - Lênin về hình thái kinh tế - xã hội................................ 24
Chươngll: Vận dụng học thuyết hình thái
kinh tế - xã hội vào quá trình đổi mới của tỉnh........................ 35
1............................................................................................... Đặc điểm về
kinh tế - xã hội ở tỉnh Tiền Giang............................................ 35
2. Sự vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội
vào quá trình đổi mới ở Tiền Giang......................................... 45


nhằm tạo ra lực lượng sản xuất hiện đại................................ 53
2.3 Kết hợp giữa đổi mới kinh tế với đổi mới hệ
thống chính trị trên địa bàn tỉnh Tiền Giang.......................... 62
3. Những thành tựu và hạn chế trong việc vận dung
lý luận hình thái kinh tế - xã hội............................................ 78

3.1 Những thành tựu................................................................ 76
3.2 Những hạn chế.................................................................. 89
KẾT LUẬN.......................................................................................... 94
TÀI LỆU THAM KHẢO..................................................................... 97


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Phát kiến vĩ đại của C.Mác về triết học trong lĩnh vực xã hội là chủ
nghĩa duy vật lịch sử mà nền tảng là học thuyết hình thái kinh tế - xã hội. Từ
khi học thuyết hình thái kinh tế - xã hội ra đời, nhận thức xã hội được dựa trên
một nền tảng thế giới quan mới - thế giới quan duy vật biện chứng và thế giới
quan duy vật lịch sử. Nó không những khắc phục được các quan niệm duy tâm,
siêu hình giải thích xã hội ở phương diện tư tưởng, ý chí, nguyện vọng của con
người mà còn có khả năng nhìn vào chiều sâu lịch sử quá khứ, đồng thời cũng
có cơ sở dự báo cho một xã hội tương lai.
Tuy nhiên sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Xã hội chủ nghĩa
Đông Âu, hệ thống Xã hội chủ nghĩa trên thế giới lâm vào thoái trào thì các
trào lưu phê phán, xuyên tạc, bác bỏ Chủ nghĩa Mác - Lênin, trong đó họ tập
trung vào học thuyết hình thái kinh tế - xã hội. Trước những sự kiện này, các
nước Xã hội chủ nghĩa còn lại có sự hoang mang, dao động. Có những ý kiến
tỏ ra không còn tin tưởng vào sự đúng đắn của học thuyết, đề xuất xây dựng xã
hội phi mácxít thay cho Chủ nghĩa xã hội mácxít và cho rằng làm Cách mạng
Xã hội chủ nghĩa là sai lầm.
Đen nay, Việt Nam ta vẫn vững bước đi lên con đường Xã hội Chủ
nghĩa, có những chuyển biến mới, những thành tựu mà Việt Nam đã và đang
phấn đấu đạt được đã góp phần chứng minh sự đúng đắn và giá trị bền vững
của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội.
Góp phần vào quá trình đó, Tiền Giang cũng đang từng bước hòa mình
vào quá trình đi lên của đất nước, hòa mình vào nền kinh tế thị trường thế giới

nhưng vẫn giữ vững định hướng Xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình đó, Tiền
Giang cũng gặp không ít khó khăn, có những vấn đề nảy sinh và đòi hỏi sự vận
dụng sáng tạo, nhạy bén để Tiền Giang cùng cả nước vững bước trên con
đường Xã hội chủ nghĩa dưới ánh sáng của Chủ nghĩa Mác - Lênin mà đặc biệt
là học thuyết hình thái kinh tế - xã hội.


Đe thấy được sự đúng đắn của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội đến
nay vẫn còn giữ nguyên giá trị, được chứng minh qua sự phát triển và đổi mới
của cả nước nói chung và tỉnh Tiền Giang nói riêng, đấu tranh với những sai
lầm về quan điểm, đồng thời bảo vệ những giá trị chân chính của Chủ nghĩa
Mác - Lênin nói chung và học thuyết hình thái kinh tế - xã hội nói riêng là một
yêu cầu chính trị của mỗi chúng ta trước sự biến động ngày càng lớn của thế
giới, đặc biệt là đối với những người làm công tác giảng dạy, nghiên cứu Chủ
nghĩa Mác - Lênin, trong đó có sinh viên chuyên ngành Giáo dục công dân.
Trên cơ sở nhận thức được tầm quan trọng đó, tác giả chọn đề tài “Vận
dụng lý luận hình thái kỉnh tế - xã hội vào quá trình đổi mới ở tỉnh Tiền
Giang” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cho mình.
2. Đổi tượng và phạm vỉ nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu trực tiếp những nội dung cơ bản của học thuyết
hình thái kinh tế - xã hội của Chủ nghĩa Mác - Lênin, từ đó khẳng định giá trị
khoa học và ý nghĩa bền vững của học thuyết này. Trên cơ sở đó, luận văn tập
trung phân tích,làm rỏ sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo của Đảng bộ Tiền
Giang trong việc vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội vào quá trình đổi
mới.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Mục đích của đề tài
Luận văn phân tích làm rỏ nội dung cơ bản về lí luận hình thái kinh tế xã hội của Chủ nghĩa Mác - Lênin, trên cơ sở khẳng định giá trị bền vững của
học thuyết này. Từ những nội dung cơ bản đó, tác giả tập trung phân tích sự
vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội vào quá trình đổi mới kinh tế - xã

hội của tỉnh Tiền Giang.

Nhiệm vụ của đề tài


- Phân tích được khái niệm kết cấu hình thái kinh tế - xã hội. Từ đó
khắng định đến nay học thuyết này vẫn mang ý nghĩa to lớn và giá trị bền
vững.
- Phân tích sự vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội của Chủ nghĩa
Mác - Lênin vào quá trình đổi mới ở tỉnh Tiền Giang.
- Đánh giá đúng những thành tựu và hạn chế của sự vận dụng lý luận
hình thái kinh tế - xã hội vào quá trình đổi mới ở Tiền Giang.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản được thể hiện trong
các văn kiện của các kỳ Đại hội, những báo cáo kết quả của ủy ban nhân dân
tỉnh Tiền Giang, Cục thống kê, Bộ kế hoạch, sở Công thương tỉnh Tiền
Giang...
Đe thực hiện đề tài này tác giả đã sử dụng tổng hợp phương pháp luận
của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Chủ nghĩa
Mác - Lênin, đặc biệt là sử dụng phương pháp: logic và lịch sử, phân tích và
tổng họp, gắn lý luận với thực tiễn để thực hiện nhiệm vụ đề tài đặt ra.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận, các danh mục và tài liệu tham khảo, luận văn
chia làm 2 chương, 7 tiết.


1.2.1 Khái niệm hình thái kinh tế - xã hội
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là nội dung cơ bản của chủ nghĩa
duy vật lịch sử và cũng là nội dung cơ bản của toàn bộ chủ nghĩa Mác. Học

thuyết đã vạch ra những qui luật cơ bản của vận động xã hội, vạch ra phương
pháp duy nhất khoa học để giải thích lịch sử.
C.Mác không dừng lại ở lí luận trừu tượng về xã hội và quan hệ sản
xuất nói chung mà đã đi sâu nghiên cứu một hình thái kinh tế - xã hội cụ thể là
xã hội tư bản với những quan hệ sản xuất phức tạp. V.I.Lênin khẳng định:
“Với sự ra đời của bộ tư bản, C.Mác đã thực hiện một kiểu mẫu về sự phân
tích khoa học theo phương pháp duy vật, một hình thái xã hội và là một hình
thái xã hội phức tạp nhất - một kiểu mẫu đã được mọi người công nhận và
không ai vượt nổi” [(23) tr. 167]
C.Mác chỉ ra rằng, quan hệ sản xuất phù hợp với một trình độ nhất định
của lực lượng sản xuất là tiêu chuẩn quan trọng nhất, chỉ rỏ tính chất các kiểu
xã hội khác nhau. Quan hệ sản xuất cũng là cái cơ bản quyết định tất cả quan
hệ khác của xã hội “Trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội ông đã
làm nổi bật riêng lĩnh vực kinh tế, bằng cách là trong tất cả mọi quan hệ xã hội
ông đã làm nổi bật riêng những quan hệ sản xuất, coi là những quan hệ cơ bản,
ban đầu và quyết định tất cả mọi quan hệ khác” [(23) tr.159]
Từ cách tiếp cận nói trên C.Mác đi vào nghiên cứu cơ cấu bên trong của
xã hội để tìm qui luật vận động của xã hội theo hướng thế gói quan duy vật
bằng việc từng bước hình thành quan niệm về hình thái kinh tế - xã hội
Trong tác phẩm triết học đầu tiên “hệ tư tưởng Đức” năm 1845, C.Mác
mới bước đầu đề cập đến các yếu tố cơ bản cấu thành xã hội là lực lượng sản
xuất, quan hệ giao tiếp (quan hệ sản xuất), kiến trúc thượng tầng và cho rằng
các yếu tố nói trên tạo nên “trạng thái xã hội”, đó là tư tưởng bước đầu về hình
thái kinh tế xã hội. Ở đây, C.Mác chưa thấy được hết mối quan hệ biện chứng
giữa các yếu tố hợp thành và tính qui luật.
Năm 1846 trong thư gởi ArenCôp, C.Mác đề cập đến xã hội, ông nêu
rõ: xã hội dưới bất kì dưới hình thức nào - nó là sản phẩm của sự tác động lẫn


nhau giữa người YỚi người “hình thức” của xã hội là do lực lượng sản xuất

quyết định.
Năm 1847, với tác phẩm “sự khốn cùng của triết học” C.Mác nói cụ thể
hơn vai trò của lực lượng sản xuất đối với một xã hội . Ở đây mối quan hệ
giữa lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và chế độ xã hội được phân tích rõ
hơn.
Cuối năm 1847, trong tác phẩm “lao động làm thuê và tư bản” tư tưởng
của C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội đã chín muồi hơn. Trong quan niệm
của ông lúc này xã hội là một kết cấu nhất định.
Trong năm 1859, C.Mác đã trình bày sáng tỏ cấu trúc của hình thái kinh
tế - xã hội và cơ chế vận động của nó trong tác phẩm “góp phần phê phán khoa
học kinh tế chính trị”, ở đây ông làm nổi bậc lên mối quan hệ và sự tác động
qua lại của các yếu tố cấu thành xã hội.
Năm 1867, “bộ tư bản” ra đời quan niệm hình thái kinh tế - xã hội được
trình bày rõ rằng cả về khái niệm và nội dung với luận điểm nổi tiếng, coi sự
phát triển của những hình thái xã hội trong lịch sử là một quá trình lịch sử - tự
nhiên. Tư tưởng hình thái kinh tế - xã hội cũng được thể hiện trong tác phẩm
này.
Ke thừa những thành tựu của các nhà tưởng trước và khắc phục những
khuyết điểm của chủ nghĩa duy vật cũ trong việc xem xét xã hội, C.Mác và
Enghen đã xây dựng một triết học mới với thế giới quan duy vật nhất quán cả
trong việc nhận thức đời sống xã hội. Quan điểm duy vật lịch sử là một hệ
thống triết học khoa học, về vai trò quyết định tồn tại xã hội với ý thức xã hội,
về những qui luật chung nhất, những động lực phát triển xã hội với tính cách là
một chỉnh thể, vạch ra tiêu chuẩn khách quan để đánh giá các sự kiện trong
mối quan hệ chằng chịt, phức tạp của đời sống xã hội, làm rỏ cái gì là xuất
phát, cái gì là cơ sở, còn cái gì là phát sinh. Với việc phát hiện qui luật phát
triển của xã hội, Mác tạo nên cuộc Cách mạng trong lĩnh vực triết học về xã


Triết học của Mác cũng lấy con người làm tiền đề như các nhà tư tưởng

nhân văn khác, nhưng không phải là con người biệt lập, cố định trừu tượng mà
là con người hiện thực - con người làm ra lịch sử của mình trong hoàn cảnh
nhất định mà trước hết, là làm ra của cải vật chất. Để có thể tồn tại được con
người cần phải sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt vật chất. Đen lượt mình quá
trình sản xuất và kết quả đạt được lại làm nảy sinh những nhu cầu mới, dẫn
đến sự phát triển không ngừng của nền sản xuất xã hội. Trong quá trình không
ngừng biến đổi đó, những lực lượng sản xuất do thế hệ trước tạo ra lại trở
thành tiền đề cho hoạt động sản xuất mới của thế hệ sau, làm thành một sự liên
hệ giữa các thế hệ con người, hình thành lịch sử của nhân loại. Do đó xã hội
không phải là tổng số cá thể người mà là một cộng đồng người với những quan
hệ của họ tạo thành một xã hội cụ thể nhất định. Trong tiến trình lịch sử các
quan hệ xã hội này ngày càng trở nên phong phú và không ngừng biến đổi.
Nghiên cứu hình thái kinh tế của một xã hôi cụ thể, Mác bắt đầu đi sâu
phân tích các quan hệ giữa người với người trong đời sống hàng ngày và các
quan hệ xã hội về vật chất mà trước hết là những quan hệ sản xuất là những
quan hệ cơ bản qui định những quan hệ khác. Lênin viết: “Mác đã xây dựng tư
tưởng cơ bản đó bằng cách nào? Bằng cách là trong các lĩnh vực khác nhau của
đời sống xã hội ông đã làm nổi bậc riêng những lãnh vực về kinh tế, bằng cách
là trong tất cả mọi quan hê xã hội ông làm nổi bậc riêng những quan hệ sản
xuất, coi đó là những quan hệ cơ bản ban đầu và quyết định tất cả mọi quan hệ
khác” [(23) tr 159]
Theo Mác, các quan hệ xã hội mà trước hết là quan hệ sản xuẩt là cơ sở
hình thành xã hội và các qui luật xã hội. Không có các quan hệ sản xuất thì
không có xã hội và các qui luật xã hội. Mỗi xã hội đều có những kiểu quan hệ
sản xuất riêng của nó, nằm trong một phương thức sản xuất nhất định, tiêu biểu
cho chế độ kinh tế của xã hội đó. Tổng họp những quan hệ sản xuất cấu thành
mà người ta gọi là những quan hệ xã hội, cái gọi là xã hội mà là một xã hội ở
một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, một xã hội có tính độc đáo riêng
biệt, xã hội cổ đại, xã hội phong kiến, xã hội tư bản, đều là những thể tổng họp



các quan hê sản xuất theo loại đó mà mỗi thể tổng hợp ấy, đồng thời lại tiêu
biểu cho mỗi giai đoạn phát triển đặc thù trong lịch sử nhân loại. Theo Mác,
quan hệ sản xuất chính là những quan hệ vật chất, là hình thức xã hội của mọi
quá trình sản xuất, do đó nó qui định mọi cấu trúc xã hội.
Tuy quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan và quan trọng nhất để
phân biệt sự khác nhau giữa các hình thái kinh tế - xã hội, song hình thái kinh
tế- xã hội không chỉ có quan hệ sản xuất mà còn có các quan hệ khác. Mác cho
rằng quan hệ sản xuất là “bộ xương”, ngoài ra còn có những quan điểm về
chính trị, pháp lí,đạo đức, triết học...cùng những thể chế tương ứng được hình
thành trên cơ sở của những quan hệ sản xuất ấy. Những quan hệ sản xuất này
hợp thành cơ sở hạ tầng của xã hội, trên cơ sở ấy xuất hiện một kiến trúc
thượng tầng tương ứng với nó.. Quan hệ sản xuất lại gắn bó mật thiết với lực
lượng sản xuất, hai mặt này tạo thành một thể thống nhất hữu cơ của phương
thức sản xuất. Phương thức sản xuất là nền tảng vật chất của hình thái kinh tế xã hội.
Vậy, hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của Chủ nghĩa duy vật
lịch sử, dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu
quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định
của lực lượng sản xuất và một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng
trên những quan hệ sản xuất ấy.
Tóm lại: Với sự ra đời của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, chủ
nghĩa duy vật lịch sử đã vạch ra thực chất sự tồn tại và phát triển của các xã
hội trong kết cấu khách quan của chúng. Đó là các hệ thống bao gồm những
yếu tố và các mối liên hệ được hình thành và vận động tuân theo những qui
luật vốn có của chúng.
Học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội vẫn là quan niệm duy nhất
khoa học và Cách mạng để phân tích lịch sử và nhận thức các vấn đề xã hội.
1.1.2 Những yếu tố hình thành và qui luật vận động, phát triển của
hình thái kỉnh tế - xã hội.



Bằng sự kế thừa có chọn lọc những thành quả về triết học xã hội của các
bậc tiền bối, bằng những công trình nghiên cứu tỉ mỉ về quá trình lịch sử loài
người nhất là lịch sử xã hội tư bản C.Mác đã xây dựng nên một học thuyết về
kinh tế - xã hội bao gồm những quan điểm cơ bản sau:
1.1.2.1 Lực lượng sản xuất
Anghen viết: “Mác là người đầu tiên đã phát hiện ra qui luật phát triển
của lịch sử loài người, nghĩa là tìm ra cái sự thật giản đơn...là trước hết con
người cần phải ăn, uống, ở và mặc trước khi có thể lo đến chuyện làm chính
trị, khoa học, nghệ thuật và tôn giáo [(5) tr. 178]
Con người phải sản xuất ra của cải vật chất, đó là yếu tố khách quan của
sự sinh tồn xã hội, xã hội không thể thỏa mãn nhu cầu của mình bằng những
cái có sẵng trong tự nhiên, để duy trì và ngày càng nâng cao đời sống của
mình, con người cần phải tiến hành sản xuất của cải vật chất, nếu không có sản
xuất thì xã hội sẽ diệt vong. Vì thế, sản xuất vật chất là điều kiện cơ bản của
mọi xã hội, là một hành động lịch sử mà hiện nay cũng như hàng ngàn năm
trước đây người ta phải tiến hành từng ngày, từng giờ cốt để duy trì cuộc sống
của con người.
Sản xuất vật chất không những là cơ sở của sự sinh tồn xã hội mà còn là
cơ sở hình thành nên tất cả hình thức quan hệ xã hội khác.
Trong hệ thống các khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất là các khái niệm mà Mác và Enghen gọi là “quan
hệ song trùng” của bản thân sự sản xuất xã hội, quan hệ của con người với tự
nhiên và quan hệ của con người với nhau [(5) tr. 269]. Lực lượng sản xuất biểu
hiện mối quan hệ giữa nguời với giới tự nhiên, trình độ của lực lượng sản xuất
thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của loài người. Đó là kết quả của năng
lực thực tiễn trong quá trình tác động vào tự nhiên, tạo ra của cải vật chất bảo
đảm cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
Lực lượng sản xuất bao gồm:
Tư liệu sản xuất do xã hội tạo ra, trước hết là công cụ lao động.



Người lao động với những kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao
động; biết sử dụng tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất.
Tư liệu sản xuất bao gồm đối tương lao động và tư liệu lao động.
Trong tư liệu lao động có công cụ lao động và những tư liệu khác cần thiết cho
sự vận chuyển, bảo quản sản phẩm.
Từ tổng thể các quan hệ xã hội đó, quan điểm duy vật về lịch sử “quy”
các quan hệ tư tưởng về các quan hệ vật chất, từ các quan hệ vật chất rút ra
quan hệ về sản xuất, đó là những quan hệ cơ bản đầu tiên và qui định các quan
hệ xã hội khác.
Những quan hệ sản xuất hình thành một cách tất yếu, độc lập với ý chí
con người, thích ứng trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất và sự
biến đổi của quan hệ sản xuất là do lực lượng sản xuất qui định.
Phép biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất vạch ra
qui luật khách quan của sự phát triển xã hội như một quá trình lịch sử tự nhiên:
‘Trong sự sản xuất ra đời sống xã hội của mình, con người ta có những quan
hệ nhất định, tất yếu, không tùy thuộc vào ý muốn của họ - tức những quan hệ
sản xuất, những quan hệ này phù hợp với những trình độ phát triển nhất định
của lực lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy
hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức cơ sở hiện thực, trên đó xây dựng lên
một kiến trúc thượng tầng pháp lí và chính trị, và tương ứng với cơ sở thực tại
đó thì có những hình thái ý thức xã hội nhất định. Phương thức sản xuất đời
sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt của xã hội, chính trị và tinh
thần nói chung. Không phải ý thức con người quyết định sự tồn tại của họ, trái
lại chính sự tồn tại của họ quyết định ý thức của họ. Tới một giai đoạn phát
triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất sẽ mâu thuẫn với
những quan hệ sản xuất hiện có, hay - đây chỉ là biểu hiện pháp lý của quan hệ
sản xuất đó - mâu thuẫn với những quan hệ sở hữu trong đó. Từ trước đến nay
các quan hệ sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của

lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành xiềng xích của lực lượng sản


xuất. Khi đó bắt đầu thời đại của một cuộc Cách mạng xã hội.” [(5) tr. 637;
638)]
Cùng với con người - người lao động, công cụ lao động cũng là một
thành tố cơ bản của lực lượng sản xuất. Công cụ lao động, theo Enghen là “ khí
quan của bộ óc con người”, là “sức mạnh của tri thức đã được vật thể hóa”, có
tác dụng “nối dài bàn tay” và nhân lên sức mạnh trí tuệ con người. Bởi vậy,
khi công cụ lao động đã đạt tới trình độ được tin học hóa, tự động hóa thì vai
trò của “khí quan vật chất” trở nên hết sức kì diệu.
Cùng với người lao động thì công cụ lao động cũng là yếu tố cơ bản của
lực lượng sản xuất, đóng vai trò quyết định trong tư liệu sản xuất, công cụ lao
động là yếu tố động nhất, Cách mạng nhất trong lực lượng sản xuất. Trình độ
phát triển của công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của
con người, là tiêu chuẩn phân biệt các thời đại kinh tế trong lịch sử. C.Mác
viết: “những thời đại kinh tế khác nhau không phải chỗ chúng sản xuất ra cái gì
mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động
nào”.[(11). tr.269].
Giữa các yếu tố của lực lượng sản xuất, theo c. Mác, có sự tác động
biện chứng trong đó nổi bật là vai trò của con người với tư cách là chủ thể của
quá trình sản xuất.
Trong tác phẩm “sự khốn cùng của triết học” C.Mác đã nêu lên một tư
tưởng quan trọng về vai trò của lực lượng sản xuất đối với việc thay đổi các
quan hệ xã hội. C.Mác viết: “những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với
những lực lượng sản xuất. Do có được những lực lượng sản xuất mới, loài
người thay đổi phương thức sản xuất của mình, và do thay đổi phương thức sản
xuất, cách kiếm sống của mình loài người thay đổi tất cả quan hệ xã hội của
mình. Cái cối xay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng
hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản” [(7) tr.187]

Trải qua các cuộc Cách mạng khoa học, cùng với sự phát triển của sản
xuất, khoa học ngày càng có vai trò quan trọng trong sản xuất. Khoa học đã
phát triển đến mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn


trong sản xuất và trong cuộc sống. C.Mác dự kiến rằng khoa học trở thành “lực
luợng sản xuất trực tiếp”, trở thành “lực luợng sản xuất độc lập”. Tu tưởng ấy
của Mác có tác dụng định hướng tích cực đối với cả hoạt động sản xuất và hoạt
động khoa học.
Lực lượng sản xuất là yếu tố khách quan, năng động nhất, khi lực
lượng sản xuất mà trước hết là tư liệu sản xuất thay đổi và phát triển thì quan
hệ sản xuất cũng tất yếu phải thay đổi và phát triển theo. Trong tác phẩm “lao
động làm thuê và tư bản” C.Mác khẳng định: “khi những tư liệu sản xuất vật
chất, những lực lượng sản xuất mà thay đổi và phát triển thì những quan hệ sản
xuất, trong đó những cá nhân sản xuất tức là những quan hệ sản xuất xã hội
cũng thay đổi, biến đổi theo” [(8) tr. 553].
Tóm lại: lực lượng sản xuất là yếu tố khách quan, là cái cấu thành nền
tảng vật chất kỹ thuật của một hình thái kinh tế - xã hội. Sự hình thành và phát
triển của một hình thái kinh tế - xã hội xét đến cùng là do lực lượng sản xuất
quyết định.
Vậy lực lượng sản xuất là biểu hiện mối quan hệ giữa người vói giói
tự nhiên trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất.
Lực lượng sản xuất bao gồm: Người lao động với kĩ năng lao động của
họ và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Trong quá trình sản xuất,
sức lao động của con người và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động
kết hợp với nhau tạo thành lực lượng sản xuất.
1.1.2.2 Quan hệ sản xuất
Yeu tố thứ hai của hình thái kinh tế - xã hội là quan hệ sản xuất. Quan
hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất
và tái sản xuất xã hội).

Cũng như lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất thuộc lãnh vực đời sống
vật chất của xã hội. Tính vật chất của quan hệ sản xuất được biểu hiện ở chỗ
chúng tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người.


Quan hệ sản xuất là quan hệ kinh tế cơ bản của một hình thái kinh tế xã hội. Mỗi kiểu quan hệ sản xuất tiêu biểu cho bản chất của một hình thái
kinh tế - xã hội nhất định. Quan hệ sản xuất bao gồm những mặt cơ bản sau:
Quan

hệ

sở

hữu

Quan

hệ

quản



về



phân

liệu


sản

xuất

công

lao

động

Quan hệ phân phối sản phẩm lao động.
Ba mặt nói trên có mối quan hệ hữu cơ với nhau, không tách rời nhau,
trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất có ý nghĩa quyết định đối với
những quan hệ khác. Bản chất của bất kỳ quan hệ sản xuất nào cũng điều phụ
thuộc vào vấn đề những tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội được giải quyết
như thế nào.
Có hai hình thức cơ bản sở hữu về tư liệu sản xuất: sở hữu tư nhân và sở
hữu xã hội. Những hình thức sở hữu đó là những quan hệ kinh tế hiện thực
giữa người với người trong xã hội. C.Mác viết: “toàn bộ hững quan hệ sản xuất
hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là các cơ sở hiện thực, trên đó dựng
lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã
hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó” [ (13). tr.15 ]
Nghiên cứu hình thái kinh tế - xã hội của một xã hội cụ thể Mác bắt đầu
việc đi sâu phân tích các quan hệ giữa người với người trong đời sống hàng
ngày và coi các quan hệ xã hội về mặt vật chất trước hết là những quan hệ sản
xuất là những quan hệ cơ bản qui định những quan hệ khác. Lênin viết: “Mác
đã xây dựng những quan hệ tư tưởng cơ bản đó bằng cách nào? Bằng cách là
trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, ông đã làm nổi bậc riêng
lĩnh vực kinh tế, bằng cách là trong tất cả mọi quan hệ xã hội ông đã làm nổi

bậc riêng những quan hệ sản xuất, coi đó là những quan hệ cơ bản ban đầu và
quyết định tất cả mọi quan hệ khác”. [(23). tr. 159]
Theo Mác, các quan hệ xã hội mà trước hết là quan hệ sản xuất là cơ sở
hình thành xã hội với các qui luật xã hội. Không có các quan hệ sản xuất thì
không có xã hội và các qui luât xã hội. Mỗi xã hội điều có kiểu quan hệ sản
xuất riêng của nó nằm trong một phương thức sản xuất nhất định, tiêu biểu cho


chế độ kinh tế của xã hội đó. Cũng theo Mác, tổng hợp những quan hệ sản xuất
cấu thành cái mà nguời ta gọi là những quan hệ xã hội, cái gọi là xã hội mà lại
là một xã hội ở một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, một xã hội có tính
chất độc đáo riêng biệt, xã hội cổ đại, xã hội phong kiến, xã hội tư bản, điều là
những thể tổng hợp các quan hệ sản xuất theo loại đó mà mỗi thể tổng hợp ấy,
đồng thời lại tiêu biểu cho một giai đoạn phát triển đặc thù trong lịch sử nhân
loại. Quan hệ sản xuất chính là những quan hệ vật chất, là hình thức xã hội của
mọi quá trình sản xuất, do đó nó qui định tất cả mọi cấu trúc xã hội.
Tính tất yếu của quan hệ sản xuất trước hết được qui định bởi quan hệ
sở hữu đối vói tư liệu sản xuất biểu hiện thành chế độ sở hữu, là đặc trưng cơ
bản của phương thức sản xuất. Trong hệ thống quan hệ sản xuất của mỗi nền
kinh tế xã hội, xác định quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất luôn luôn có vai trò
quyết định đối với tất cả các quan hệ xã hội khác. Quan hệ sở hữu là quan hệ
xuất phát, quan hệ cơ bản, quan hệ trung tâm của các quan hệ sản xuất. Chính
quan hệ sở hữu, quan hệ giữa các tập đoàn người trong việc chiếm hữu tư liệu
sản xuất đã qui định địa vị trong từng tập đoàn trong hệ thống sản xuất xã hội.
Đen lượt mình địa vị của từng tập đoàn trong hệ thống sản xuất lại qui định
cách thức mà các tập đoàn trao đổi họat động cho nhau, qui định cách thức mà
các tập đoàn tổ chức quản lí quá trình sản xuất. C.Mác viết: “Những quan hệ
sản xuất mới, cao hơn không bao giờ xuất hiện khi những điều kiện tồn tại vật
chất của những quan hệ đó chưa chín muồi trong lòng bản thân xã hội cũ. Nếu
lực lượng sản xuất phát triển liên tục và có tính Cách mạng thì quan hệ sản

xuất mang tính ổn định, tương đối trong bản chất xã hội của nó và phát triển
theo xu hướng phủ định lẫn nhau. Vì vậy xã hội sau có thể không kế thừa được
quan hệ sản xuất của xã hội trước. Chính vì thế mà C.Mác khẳng định: “Tổng
hợp lại thì những quan hệ sản xuất hợp thành cái mà người ta gọi là những
quan hệ xã hội, là xã hội mà hơn nữa họp thành một xã hội ở vào giai đoạn
phát triển lịch sử nhất định, một xã hội có tính chất độc đáo riêng biệt. Xã hội
cổ đại, xã hội phong kiến, xã hội tư bản đều là những tổng thể những quan hệ


sản xuất. Như vậy, mỗi tổng thể đó đồng thời lại là đại biểu cho một giai đoạn
phát triển đặc thù trong lịch sử nhân loại”. [(8). tr 553]
Với quan niệm đó C.Mác đã lấy quan hệ sản xuất với tư cách một tổng
thể làm tiêu chuẩn để trực tiếp phân biệt những hình thái khác nhau của xã hội.
Tóm lại: các quan hệ sản xuất ở mỗi giai đoạn lịch sử đều tồn tại trong
một phương thức sản xuất nhất định. Hệ thống quan hệ sản xuất thống trị trong
mỗi hình thái kinh tế - xã hộiquyết định tính chất và bộ mặt của hình thái kinh
tế - xã hội ấy. Vì vậy; khi nghiên cứu, xem xét tính chất của một hình thái kinh
tế - xã hội thì không thể chỉ nhìn ở trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
mà còn phải xét đến tính chất của các quan hệ sản xuất.
1.1.2.3 Kiến trúc thượng tầng
Kiến trúc thượng tầng bao gồm:
Thứ nhất: Những tư tưởng xã hội (chính trị, pháp luật, triết học, đạo
đức, tôn giáo, nghệ thuật...)
Thứ hai: Những tổ chức và thiết chế khác nhau (Nhà nước, chính đảng,
giáo hội, các đoàn thể...)
Như vậy, kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những tư tưởng xã hội, những
thiết chế tương ứng và những quan hệ nội tại hình thành trên một cơ sở hạ tầng
nhất định. Mỗi yếu tố kiến trúc thượng tầng có đặc điểm riêng, có qui luật phát
triển riêng nhưng không tồn tại tách rời nhau mà hên hệ tác động qua lại lẫn
nhau và đều nảy sinh trên cơ sở hạ tầng, phản ánh cơ sở hạ tầng. Song, không

phải tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng đều liên hệ như nhau đối với
cơ sở hạ tầng của nó. Trái lại, một số bộ phận như các tổ chức chính trị, pháp
luật có liên hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng, còn các yếu tố khác như triết học,
nghệ thuật, tôn giáo thì ở xa cơ sở hạ tầng và chỉ liên hệ gián tiếp với nó.
Kiến trúc thượng tầng của xã hội có đối kháng giai cấp bao gồm hệ tư
tưởng và thể chế của giai cấp thống trị, tàn dư của các quan điểm của các xã
hội trước để lại, quan điểm và tổ chức mới của giai cấp ra đời, quan điểm và tư
tưởng của các tổ chức, tầng lóp trung gian. Tính chất hệ tư tưởng của giai cấp


thống trị quyết định tính chất cơ bản của kiến trúc thượng tầng trong một hình
thái xã hội nhất định.
Trong một xã hội có đối kháng giai cấp, cơ sở hạ tầng tồn tại những
quan hệ đối kháng thì kiến trúc thượng tầng cũng mang tính đối kháng, phản
ánh những đối kháng của cơ sở hạ tầng biểu hiện ở sự xung đột về quan điểm
tư tưởng của những giai cấp đối kháng.
Bộ phận có quyền lực cao nhất của kiến trúc thượng tầng, của xã hội có
đối kháng giai cấp là Nhà nước, công cụ cho giai cấp thống trị tiêu biểu, cho
chế độ chế độ xã hội về mặt chính trị, pháp lí. Chính nhờ có Nhà nước mà tư
tưởng của giai cấp thống trị mới thống trị được toàn bộ đời sống xã hội. Nhà
nước không chỉ dựa trên hệ tư tưởng mà còn những hình thức nhất định của
việc kiểm soát xã hội, sử dụng bạo lực, bao gồm những yếu tố vật chất, quân
đội, cảnh sát, tòa án, nhà tù...để tăng cường sức mạnh kinh tế của giai cấp
thống trị, củng cố vững chắc địa vị của quan hệ sản xuất thống trị. Enghen viết:
“bạo lực (nghĩa là quyền lực Nhà nước) cũng là một lực lượng kinh tế”. [(4). ư
604].
Các bộ phận khác của kiến trúc thượng tầng như triết học, đạo đức, tôn
giáo, nghệ thuật .. .cũng đều tác động mạnh mẽ đến cơ sở hạ tầng bằng những
hình thức khác nhau, song thường những tác động đó phải thông qua Nhà
nước, pháp luật và các thể chế tương ứng thì mới phát huy được hiệu lực đối

với cơ sở hạ tầng cũng như đối với toàn xã hội.
Trong bản thân kiến trúc thượng tầng cũng xảy ra quá trình biến đổi,
phát triển có tính chất độc lập, tương đối. Quá trình đó càng phù họp với cơ sở
hạ tầng thì sự tác động của nó đối vớ cơ sở hạ tầng càng hiệu quả.
Tóm lại: mỗi hình thái kinh tế - xã hội được hình thành từ nhiều yếu tố,
nhiều mối quan hệ, những yếu tố cơ bản như: quan hệ sản xuất, lực lượng sản
xuất, kiến trúc thượng tầng họp lại thành một hình thái kinh tế - xã hội đã hình
thành nên những mối quan hệ có tính qui luật như mối quan hệ biện chứng
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng. Ngoài những yếu tố cơ bản của hình thái kinh tế - xã hội còn có


những quan hệ khác như: quan hệ dân tộc, giai cấp, gia đình và những quan hệ
xã hội khác. Các yếu tố, các mối quan hệ này luôn có mối quan hệ và tác động
lẫn nhau tạo thành động lực nội tại của sự phát triển xã hội, thúc đẩy tiến bộ xã
hội.
1.1.2.4

Qui luật vận động và phát triển của hình thái kinh tế - xã hội

Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản
xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau mà tác động biện chứng lẫn nhau, hình
thành qui luật xã hội phổ biến của toàn bộ lịch sử loài người. Qui luật về sự
phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Quy luật này vạch rõ tính chất phụ thuộc khách quan của quan hệ sản xuất vào
sự phát triển của lực lượng sản xuất, đến lượt mình quan hệ sản xuất tác động
trở lại đối với lực lượng sản xuất.
Tính chất của lực lượng sản xuất chính là tính chất của tư liệu sản
xuất và của lao động, nó thể hiện tính chất của tư liệu sản xuất là sử dụng
công cụ thủ công và tính chất của lao động là lao động riêng lẻ, lực lượng sản

xuất có tính chất cá nhân. Khi máy móc ra đời đòi hỏi phải có nhiều người mới
sử dụng được, lúc ấy lực lượng sản xuất mang tính xã hội hóa.
Qui luật quan hệ sản xuất phù họp với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất giúp chúng ta làm sáng tỏ động lực thật chân chính làm cho xã
hội vận động và phát triển là do mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất.
Khuynh hướng của sản xuất xã hội là không ngừng biến đổi theo
chiều tiến bộ. Sự biến đổi đó bắt đầu từ sự biến đổi và phát triển của lực lượng
sản xuất mà trước hết là công cụ lao động. Trình độ của lực lượng sản xuất là
trình độ phát triển của công cụ lao động, của kỹ thuật, kinh nghiệm, kỹ năng
lao động của người lao động, qui mô sản xuất, trình độ phân công lao động xã
hội...Trình độ sản xuất càng cao thì sự phân công lao động càng tỉ mỉ. Trình
độ phát triển của phân công lao động thể hiện rỏ ràng nhất trình độ lực lượng
sản xuất. Khi lực lượng sản xuất đạt tới trình độ cơ khí, hiện đại, phân công lao
động xã hội phát triển thì lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa.


Tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất luôn luôn đòi
hỏi, một quan hệ sản xuất phù họp. Sự không phù hợp của quan hệ sản xuất
với lực lượng sản xuất đưa đến xung đột xã hội gay gắt.
Mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất luôn
được tái tạo trong sự lặp đi lặp lại có tính qui luật của quá trình sản xuất vật
chất. Qui luật quan hệ sản xuất phù họp với tính chất và trình độ của lực lượng
sản xuất là qui luật xã hội. Nó được thực hiện thông qua hoạt động của con
người có ý thức.
Vì vậy việc phát hiện và giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất phụ thuộc vào nhân tố chủ quan của con người. Con người
phát hiện những yếu tố không phù họp, giải quyết mâu thuẫn, đem lai sự phù
hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất. Nhưng rồi quan hệ sản
xuất mới này cũng sẽ trở thành không phù họp với lực lượng sản xuất và được

phát triển ở trình độ mới. Cứ như thế, sự phù họp biện chứng giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất được biểu hiện ra là phù hợp - không phù hợp phù họp -.......
Khi phù hợp cũng như lúc không phù họp với lực lượng sản xuất, quan
hệ sản xuất bao giờ cũng thể hiện tính độc lập tương đối với lực lượng sản
xuất. Quan hệ sản xuất tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất, qui định
mục đích xã hội của lực lượng sản xuất, khuynh hướng phát triển của quan hệ
lợi ích, từ đó hình thành một hệ thống những yếu tố hoặc kiềm hãm, hoặc thúc
đẩy của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất tương đối. Với sự phát
triển tất yếu, khách quan của lực lượng sản xuất thì quan hệ sản xuất lỗi thời
cuối cùng sẽ bị thay thế bằng một kiểu quan hệ sản xuất mới phù họp với trình
độ phát triển mới của lực lượng sản xuất.
Tuy lực lượng sản xuất là cái quyết định và quan hệ sản xuất là cái bị
quyết định nhưng quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương đối và tác động
trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất qui định mục
đích sản xuất, đến tổ chức phân công lao động xã hội, tác động đến thái độ của
con người trong lao động sản xuất, đến phát triển và ứng dụng khoa học và


công nghệ và do đó tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất. Nhưng do tính
năng động của lực lượng sản xuất mâu thuẫn với tính ổn định tương đối của
quan hệ sản xuất nên quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp với lực lương sản xuất
trở nên không phù họp và trở thành “ xiềng xích” kiềm hãm sự phát triển của
lực lượng sản xuất ( không phù hợp), tạo thành mâu thuẫn giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất. C.Mác viết: “ tới một giai đoạn phát triển nào đó của
chúng, các lực lượng sản xuất vật chất mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất
hiện có..., trong đó, từ trước đế nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ
chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở
thành xiềng xích của các lực lượng sản xuất, khi đó bắt đầu thời đại của một
cuộc Cách mạng xã hội”. [ (9). tr 15 ]
Khi quan hệ sản xuất mới ra đời thì cũng đồng thời hình thành cơ cấu

kinh tế mới, một guồng máy sản xuất mới cùng với các quan hệ xã hội mới,
trong đó quan hệ sản xuất là cái cơ bản quyết định tất cả mọi quan hệ xã hội
khác. Trên đó hình thành kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và tương
ứng với cơ sở thực tại đó thì có những hình thái ý thức nhất định. Mác coi quan
hệ sản xuất cũng như cơ cấu kinh tế thuộc hạ tầng cơ sở, là cơ sở hình thành
Nhà nước, luật pháp, những thể chế tương ứng, hình thành ý thức, tư tưởng...
như vậy, đến đây đã có một chế độ xã hội mới, tức là hình thái kinh tế - xã hội
được thay đổi.
Trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội, sự tác động trở lại của quan hệ sản
xuất đối với lực lượng sản xuất bao giờ cũng thông qua các qui luật kinh tế, xã
hội khác, đặc biệt là các qui luật kinh tế cơ bản.
Qui luật quan hệ sản xuất phù họp với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất là qui luật phổ biến, tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử
nhân loại. Sự thay thế, đi lên của lịch sử xã hội loài người từ chế độ công xã
nguyên thủy đến chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế đô tư bản chủ
nghĩa và xã hội Cộng sản tương lai là do tác động của hệ thống các qui luật xã
hội. Trong đó qui luật quan hệ sản xuất phù họp với tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất là qui luật cơ bản nhất.


Việc xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay thế nó bằng quan hệ sản xuất mới
cũng có nghĩa là sự diệt vong của một phuơng thức lỗi thời và sự ra đời của
một phương thức sản xuất mới. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, mâu thuẫn
giữa lực lượng sản xuất mới và quan hệ sản xuất lỗi thời là cơ sở khách quan
của các cuộc đấu tranh giai cấp,, đồng thời cũng là tiền đề tất yếu cuả các cuộc
Cách mạng xã hội.
Qui luật về sự phù họp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất là qui luật cơ bản của phát triển xã hội loài người. Sự
tác động của nó trong lịch sử làm cho xã hội chuyển từ hình thái kinh tế - xã
hội thấp lên hình thái kinh tế - xã hội khác cao hơn. Đó chính là qui luật vận

động và phát triển của hình thái kinh tế - xã hội.
1.2 Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình
lịch sử - tự nhiên
Xã hội phát triển trải qua nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, ứng với mỗi giai
đoạn phát triển là một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Các hình thái kinh tế
- xã hội vận động, phát triển do các qui luật khách quan. Đó là quá trình tự
nhiên của sự phát triển. Mác viết: “ Tôi coi sự phát triển của các hình thái kinh
tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên”. [(ll).tr.21] Điều này được
V.I.Lênin giải thích “ chỉ có đem qui những quan hệ xã hội vào những quan hệ
sản xuất và đem qui những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực lượng
sản xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát
triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên”.
[(23).tr.l63]
Quá trình tự nhiên của sự phát triển lịch sử được chia thành những bậc
thang lịch sử khác nhau ứng với một trình độ kinh tế kĩ thuật nhất định, trong
từng phương thức sản xuất nhất định.
Loài người đã trải qua 5 hình thái kinh tế - xã hội theo trật tự từ thấp
đến cao. Đó là quá trình tự nhiên của sự phát triển lịch sử, thể hiện tính liên tục
lịch sử. Tuy nhiên, đối với mỗi nước cụ thể, do điều kiện khách quan và chủ
quan riêng, một nước nào đó, một dân tộc nào đó có thể “bỏ qua” những giai


đoạn phát triển lịch sử nhất định. Sự khác nhau đó, về trật tự phát triển vẫn là “
quá trình lịch sử tụ nhiên”. Lênin viết: “ tính qui luật chung của sự phát triển
trong lịch sử toàn thế giới đã không loại trừ mà ngược lại còn bao hàm một số
giai đoạn phát triển mang những đặc điểm hoặc về hình thức hoặc về trật tự
của sự phát triển đó”. [(24). tr 431]
C.Mác coi lịch sử là hoạt động của con người theo đuổi mục đích của
bản thân mình, nhưng đó không thể là hoạt động tùy tiện mà là hoạt động dù
có ý thức hoặc vô thức cũng đều do qui luật khách quan chi phối. Mỗi hình

thái kinh tế - xã hội được coi như một cơ thể xã hội phát triển theo những qui
luật vốn có của nó, một cơ thể xã hội riêng biệt có những qui luật riêng về sự
ra đời của nó, về hoạt động của nó và bước chuyển của nó lên hình thức cao
hơn, tức là biến thành một cơ thể xã hội khác tiến bộ hơn.
Theo Mác, sự thay thế một hình thái kinh tế xã hội này bằng một hình
thái kinh tế xã hội khác thường được thực hiện thông qua Cách mạng xã hội.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đi đến kết luận: hình thái kinh tế
- xã hội nhất định sẽ được thay thế bằng hình thái kinh tế Cộng sản chủ nghĩa
và sự thay thế này cũng là quá trình lịch sử tự nhiên.
Trong thời đại ngày nay, lực lượng sản xuất đã Quốc tế hóa, tạo ra
những thời cơ, vận hội cho một dân tộc lạc hậu kinh tế - kỹ thuật có thể “ bỏ
qua” những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định để tiến lên một hình thái kinh
tế - xã hội cao hơn. Sự bỏ qua dưới hình thức “rút ngắn” đó vẫn là một quá
trình lịch sử tự nhiên.
Đối với toàn nhân loại thì con đường lịch sử tự nhiên để đi lên Chủ
nghĩa xã hội là con đường phát triển tuần tự qua tất cả các giai đoạn của các
hình thái kinh tế - xã hội đã có. Do coi Chủ nghĩa tư bản thế kỉ XIX đang đạt
tới đỉnh cao của sự phát trển của nó nên C.Mác hy vọng từ các nước Tây Âu sẽ
đồng loạt ra đời các nước xã hội chủ nghĩa. Vận dụng học thuyết Mác về hình
thái kinh tế - xã hội nghiên cứu Chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai đoạn chủ
nghĩa đế quốc.


Lênin phát hiện: “ sự phát triển không đồng đều về kinh tế và chính trị
là qui luật tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản”. [(25). tr 447]. Do đó “Chủ nghĩa xã
hội có thể thắng trước hết là trong một số ít nước tư bản hoặc thậm chí chỉ
trong một nước tư bản chủ nghĩa tách riêng ra mà nói”. Sự ra đời của Chủ
nghĩa xã hội là một tiến trình lịch sử tự - nhiên.
Vạch ra con đường tổng quát của sự phát triển lịch sử đều đó không có
nghĩa là đã giải thích rỏ ràng sự phát triển xã hội trong mỗi thời điểm của quá

trình lịch sử, Lịch sử cụ thể vô cùng phong phú, có hàng loạt những yếu tố làm
cho quá trình lịch sử đa dạng và thường xuyên biến đổi, không thể xem xét
lịch sử như con đường thẳng.
Xã hội loài người phát triển trãi qua những hình thái kinh tế - xã hội
khác nhau. Trên cơ sở phát hiện ra các qui luật vận động, phát triển khách quan
của xã hội, C.Mác kết luận: “Sự phát triển của những hình thái kinh tế xã hội là
một quá trình lịch sử - tự nhiên”. Khẳng định sự phát triển của những hình thái
kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên là khẳng định các hình thái
kinh tế - xã hội vận động, phát triển theo qui luật khách quan chứ không phải
theo ý muốn chủ quan của con người. V.I.Lênin viết: “ C.Mác coi sự vận động
của xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên, chịu sự chi phối của những qui
luật, không những không phụ thuộc vào ý chí, ý thức và ý định của con người,
mà trái lại còn quyết định ý chí, ý thức và ý định của con người”. [ (23). Tr.
200]
Sự vận động, phát triển của các hình thái kinh tế xã hội vừa bị chi phối
bởi các qui luật phổ biến, vừa bị chi phối bởi các qui luật riêng, đặc thù các qui
luật vận động, phát triển, phổ biến của xã hội là qui luật về sự phù họp của
quan hệ sản xuất phù với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, qui luật về
mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng và các qui
luật khác. Chính sự tác động của các qui luật khách quan đó mà các hình thái
kinh tế - xã hội vận động, phát triển từ thấp đến cao. Nguồn gốc sâu xa của sự
vận động, phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là ở sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định làm thay


×