Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

skkn nâng cao chất lượng giáo dục và hướng học sinh tìm đên môn ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.3 KB, 10 trang )

GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC
VÀ HƯỚNG HỌC SINH TÌM ĐẾN MÔN NGỮ VĂN
A. LỜI MỞ ĐẦU
I / Lí do chọn đề tài:
Cùng với sự tác động của cơ chế thị trường trong thời kì mở cửa với những
ảnh hưởng phức tạp của xã hội, do thực tế giáo dục trong nhà trường từ những năm
trước vẫn còn không ít giáo viên , các bậc cha mẹ học sinh coi nặng môn học này mà
xem nhẹ môn học kia; thậm chí có cả bản thân giáo viên- người trực tiếp dạy văn, vẫn
chưa thiết tha đến bộ môn này nên chưa có giải pháp tích cực để hướng học sinh tìm
đến môn ngữ văn, vì thế còn nhiều học sinh xem nhẹ bộ môn này. Trong khi đó, môn
ngữ văn là một môn học có vị trí đặc biệt trong việc góp phần hình thành nhân cách
con người và thực hiện mục tiêu chung của nhà trường .
Chúng ta đang đứng trước thời đại của sự bùng nổ về công nghệ thông tin,
năng lực tư duy của học sinh càng hiện đại hơn ,tâm lí của học sinh ngày nay cũng
đồng hành với sự phát triển ấy, đòi hỏi người làm công tác giáo dục phải có hướng đi
đúng đắn cho học sinh; Đặc biệt người thầy dạy văn cũng phải có cái đổi mới về
phương pháp dạy để giúp các em học tốt bộ môn mình.Trong thời gian qua, tôi đã
cùng nhà trường phối hợp tổ chức nhiều hoạt động với mục đích nâng cao chất lượng
giáo dục .Song đó, tôi cũng đã thực hiện nhiều giải pháp tích cực trong quá trình dạy,
hầu hướng cho học sinh ham thích học bộ môn ngữ văn.
Nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển giáo dục và góp phần thúc đẩy quá trình đào tạo
nguồn nhân lực cho đất nước, thì vấn đề đặt ra cho những người làm công tác giáo dục
là phải“Nâng cao chất lượng giáo dục”. Với những lí do trên nên tôi quyết định chọn
đề tài “Nâng cao chất lượng giáo dục và hướng học sinh tìm đên môn ngữ văn”.
II/ Mục tiêu và phương pháp nghiên cứu đề tài:
1 Mục tiêu: - Góp phần cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp
giáo dục, bồi dưỡng nhân tài cho sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
- Thực hiện tốt quan điểm đổi mới toàn diện và phát triển nhanh giáo dục đào tạo.
2. Phương pháp nghiên cứu:
+ Khảo sát thực tế
+ Tham khảo tài liệu


+ Điều tra
+ Pháp vấn
III/Giới hạn của đề tài:
Thực hiện trong đơn vị trường THCS TT Mỹ Thọ
IV/ Kế hoạch thực hiện:
Bắt đầu từ năm học 2011- 2012 .
- Tháng 9/2011 đăng kí đề tài.


- Tìm tài liệu để nghiên cứu.
- Tháng 10 bắt đầu thực hiện.
- Đến tháng 03/2012 hoàn chỉnh đề tài.
B. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận:
Nhận thức tầm quan trọng của đổi mới phương pháp dạy học đối với việc nâng cao
chất lượng và hiệu quả đào tạo lớp công dân Việt Nam trong xã hội hiện đại . Thực
hiện chủ trương đổi mới phương pháp giảng dạy của ngành ,trường THCS TT Mỹ Thọ
đã thực hiện chủ trương cải tiến phương pháp dạy học ở tất cả các môn học.
Trước đây người ta ít than phiền về “sản phẩm” giáo dục do số lượng ít nhưng hiện
nay việc phát triển ào ạt về qui mô các loại hình giáo dục và đào tạo thì vấn đề chất
lượng giáo dục được mọi người có tâm huyết về giáo dục đặt ra để xem xét sự yếu
kém của nó. Là giáo viên dạy Văn,tôi cũng xin mạnh dạn đưa ra những suy nghĩ và
hiểu biết của mình về cách thức nâng cao chất lượng giáo dục và đặc biệt hướng học
sinh tìm đến môn ngữ văn .
Như chúng ta đã biết, môn Ngữ văn có vị trí đặc biệt, góp phần hình thành nhân
cách con người; đồng thời nó còn là môn nghệ thuật ngôn từ, nó đem đến tâm hồn
người đọc những rung động, những ngỡ ngàng, những tình cảm, cùng với thái độ yêu
ghét và lời phê phán…từ mỗi tác phẩm. Từ đó, ta thấy rõ hơn những gì mà tác giả
muốn gửi gấm vào người đọc , làm người đọc có suy nghĩ thêm về cuộc sống của
mình và sẽ có ý thức trước vấn đề đặt ra.Vì thế, con đường đến với văn học là con

đường tình cảm.Người thầy cần phải hướng cho học sinh tìm đến con đường tình cảm
ấy, tức là hướng học sinh đến với văn học.
2. Cơ sở thực tiễn:
Trường THCS TT Mỹ Thọ là một trường nằm ven Quốc lộ 30, gần khu vực
chợ,gia đình học sinh thuộc đủ dạng thành phần: là nông dân , lao động làm thuê ,
buôn bán nhỏ , tạm trú do địa bàn có nhiều nhà trọ và nhiều khu dân cư mới .
Tỉ lệ Hs yếu môn văn của các năm trước còn thấp.Nhiều em chưa nhận ra sứ
mệnh cao cả của bộ môn văn nên còn thờ ơ, vô tình chưa thiết tha học văn, dù biết đây
là bộ môn thi tuyển vào lớp 10.
- Nhu cầu về kinh tế , mưu sinh được quan tâm nhiều hơn nhu cầu học tập “
Lo cái ăn trước rồi đến cái học”. Bên cạnh tệ nạn xã hội, những thói quen xấu vẫn tồn
tại khá phổ biến và những bất cập khác.
- Một số PHHS chưa nắm rõ quan điểm giáo dục hiện nay, thái độ hợp tác giáo
dục HS chưa rõ ràng, chưa thống nhất với nhà trường. Giáo dục HS ở một bộ phận gia
đình mang tính áp đặt, ít để HS thể hiện quan điểm của mình, sử dụng mệnh lệnh, roi
vọt, …và thiếu làm gương tốt cho HS noi theo.Đặc biệt phụ huynh chưa chú ý đến
những bộ môn của xã hội.


-Việc quan tâm chăm sóc con em của một bộ phận phụ huynh học sinh chưa
đáp ứng với nhu cầu giáo dục ngày càng cao hiện nay.
- Điều kiện về cơ sở vật chất còn nhiều khó khăn, các loại phòng thực
hành,phòng thí nghiệm còn thiếu.
Từ những thực trạng nêu trên tôi đã mạnh dạn đưa ra một một số giải pháp phù
hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đơn vị theo hướng đi của riêng mình nhằm giúp đơn
vị giảm bớt yếu kém về chất lượng chuyên môn, đặc biệt với bộ môn văn.
III/ Thực trạng và những mâu thuẫn:
a. Thuận lợi:
- Được sự quan tâm tối đa của các cấp lãnh đạo từ Bộ GD, Sở GD, Phòng GD,
BGH nhà trường và chính quyền địa phương trong việc nâng cao chất lượng giáo dục.

- Nhà trường thường xuyên chú ý đến việc mở những chuyên đề “Nâng cao chất
lượng GD” đối với mỗi môn học.Trong chuyên đề , BGH để giáo viên mạnh dạn góp
ý nhiều giải pháp và có đưa ra hướng giải quyết tích cực cho mục tiêu chung.
- Nhà trường luôn triển khai đầy đủ các văn bản chỉ đạo của cấp trên về“Nâng
cao chất lượng GD” và tạo điều kiện để giáo viên được tham gia các chuyên đề của
các đơn vị khác tổ chức.
b. Khó khăn:
- Về phía đội ngũ Giáo viên: Hiện nay vẫn còn một số chưa nhận thức đầy đủ
về phương pháp “Lấy học sinh làm trung tâm; chưa có hướng làm cho học sinh ham
thích học môn ngữ văn; chưa tích cực trong đổi mới phương dạy.
- Về phía học sinh: Nhiều em chưa quen với cách học chủ động, tích cực, vào
lớp chỉ trông chờ vào lời giảng của giáo viên hoặc chỉ được ghi bài vào vở là đủ.
- Về phía phụ huynh: Còn nhiều bậc cha mẹ thiếu quam tâm, nhắc nhở, kiểm tra
việc học của con mình; chỉ giao khoán việc học cho nhà trường, thầy cô là đủ.
IV// Giải pháp thực hiện và kết quả:
1. Giải pháp:
1.1- Muốn nâng cao chất lượng giáo dục cần:
a -Bồi dưỡng về công tác nhận thức cho đội ngũ :
Nhận thức của đội ngũ ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục. Mọi suy nghĩ đều
dẫn dắt hành động của chúng ta, do đó nếu nhận thức đúng thì việc làm đúng là điều
tất nhiên.
Chất lượng chuyên môn phụ thuộc rất lớn vào tập thể sư phạm, yếu tố con người
đóng vai trò quyết định mà các văn kiện của Đảng & nhà nước đã nêu rõ trong chỉ thị
40/CT/TW ngày 15/06/2004 của Ban bí thư TW Đảng về việc xây dựng, nâng cao
chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục. Người thầy cần giỏi về
chuyên môn đồng thời lại phải tốt về nhân cách mới thực hiện hoàn hảo nhiệm vụ của
mình, thực sự là những “ Kĩ sư tâm hồn”.


Theo tôi,bản thân người quản lí không nên hài lòng về những gì đạt được ,mà

phải luôn đặt ra những yêu cầu cao hơn cho CB-GV-CNV. Luôn tìm cách tác động
vào đội ngũ như đưa ra nhiều đợt thi đua ( chú ý phần chuyên môn phải đặt cao hơn
;Thay đổi hình thức thi đua : kết hợp xét thi đua theo tổ khối với các phong trào chung
của nhà trường ).
Trong cách quản lí đối với đội ngũ tri thức cũng lưu ý : Góp ý xây dựng cho mọi
người hơn là ghi nhận những sai sót họ đã làm. Và đặc biệt hạn chế nêu những khuyết
điểm cá nhân không đáng ra tập thể sư phạm, điều đó dễ gây sự xúc phạm, bất mãn và
họ cảm thấy thiếu sự tôn trọng.
Tóm lại ngoài công tác giáo dục về nhận thức chính trị tư tưởng, truyền thống dân
tộc phải biết khơi dậy ở mỗi con người lòng tự trọng , ước muốn phát triển và xác
định hướng đi phù hợp.
b-Tăng cường về điều kiện cơ sở vật chất phục vụ dạy và học :
Trường lớp , thư viện thiết bị dạy học trong nhà trường rất quan trọng trong
hoạt động dạy học, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục ở nhiều mặt cho cả thầy và
trò. Chẳng hạn trường lớp không đúng qui cách,các phòng chức năng thiếu, hàng rào
trường chưa có để quản lí HS…Do đó một trong những yếu tố đóng vai trò quyết
định nâng cao chất lượng dạy và học là trang thiết bị CSVC để phục vụ công tác dạy
học. Quá trình dạy học luôn gắn liền với việc sử dụng thành thạo các phương tiện dạy
học. Một thầy giáo giỏi phải biết tổ chức cho học sinh một môi trường hoạt động để
trong đó có sự tương tác giữa các tri thức sẵn có và phương tiện học tập thì mới phát
sinh tri thức cho người học.
c - Bồi dưỡng về công tác chuyên môn :
Bố trí nhận sự trong các nhóm chuyên môn phải có trẻ có già & có người có kinh
nghiệm lẫn thiếu kinh nhiệm xen kẻ, phân công đội ngũ phù hợp sở trường và năng
lực của mỗi người. Ví dụ : ưu tiên lớp cuối cấp và đầu cấp học bố trí giáo viên có
năng lực và điều kiện về thời gian để dạy lớp này.Việc bố trí GV cũng cần phải lưu ý
phân công số tiết cho đồng đều , không để người thừa , kẻ thiếu , dẫn đến tình trạng so
bì.
Đặt ra những yêu cầu đối với Giáo viên và Học sinh : Giáo viên phải thay đổi cách
dạy cũ, học sinh phải có kỉ luật thì mới dạy tốt & học tốt “ thầy ra thầy- trò ra trò”,

khuyến khích giáo viên chủ động, sáng tạo,tổ chức hướng dẫn học sinh học tập bằng
cách tự phát hiện khả năng của mình tự tin và có niềm vui trong học tập.Cụ thể:
* Đối với thầy :
Soạn kế hoạch lên lớp , xác định trọng tâm kiến thức , kĩ năng bài học và các hình
thức tổ chức hoạt động trong tiết dạy .
Chuẩn bị hệ thống câu hỏi: những nội dung khó , mục đích giải quyết ở lớp, ở nhà
chú ý phát triển kiến thức bồi dưỡng học sinh giỏi, khá, năng khiếu bộ môn. Dự kiến
những sai lầm của học sinh (nếu có ) và cách khắc phục .
Khai thác nội dung giáo dục tư tưởng tình cảm thẩm mĩ , ….


Để tổ chức tốt một tiết dạy phải tùy nội dung và mục đích cụ thể của bài dạy để xác
nhận cách tổ chức học tập cho học sinh làm thế nào để có kết quả cao nhất.
Ví dụ : Nếu mục đích của bài dạy chủ yếu để rèn luyện kỉ năng hoặc kiểm tra kiến
thức đã học thì coi trọng cách học cá nhân của học sinh.. Nếu đối tượng nhận thức quá
mới mẽ với học sinh cần vai trò chủ đạo của giáo viên trong việc thông báo, giải thích
thì nên tổ chức cho các em học tập theo lớp.Còn đối với những bài có đối tượng nhận
thức mà bản thân học sinh ít nhiều có kinh nghiệm hoặc chứa đựng các hiểu biết khác
nhau, dễ phân hóa thành các nhóm ý kiến để tranh luận, bàn cải… chúng ta tổ chức
cho học sinh học nhóm để kích thích họat động từng cá nhân. Nhờ việc thảo luận
trong nhóm nhỏ, kiến thức các em sẽ lướt phần chủ quan, phiến diện làm tăng thêm
tính khách quan khoa học . Việc học tập theo nhóm càng chứng tỏ quan điểm “ học
thầy không tày học bạn ” qua việc trao đổi, hợp tác với bạn mà trí thức trở nên sâu
sắc, bền vững , dễ nhớ và nhớ nhanh hơn. Khi mỗi nhóm trình bày xong để khắc sâu
kiến thức , GV bao giờ cũng phải kết luận ngắn gọn ý kiến nào đúng, sai , vì sao và
đưa ra bài học. Chú ý tuyên dương, khen thưởng, động viên, các em kịp thời.
Cần chọn phương pháp đặc trưng của bộ môn : Vận dụng và phối hợp các phương
pháp truyền thống với phương pháp “ Lấy HS làm trung tâm”
* Đối với học sinh:
Học sinh phải có kỉ luật tốt, lễ phép, phải có đầy đủ SGK,chuẩn bị tốt bài học ở nhà

, biết đưa ra những suy nghĩ nhận xét của mình thảo luận , trao đổi cùng các bạn, tập
trả lời câu hỏi theo SGK, tự đặt câu hỏi sau khi đã đọc trước bài.
GV khuyến khích các em tham gia các hoạt động phong trào mang tính giáo dục
cộng đồng và tham gia các hoạt động về nguồn, ngoại khoá ; vừa giúp thầy trò thư
giản và tạo sự gần gũi, đoàn kết trong học sinh.
d- Tranh thủ sự ủng hộ của các tổ chức đoàn thể , ngành và địa phương chăm
lo cho sự nghiệp giáo dục :
BGH cùng BCH công đoàn vận động CĐV thực hiện tốt dân chủ hóa trường
học. Tích cực chăm lo các ngày Nhà giáo Việt Nam, tết cổ truyền, sinh nhật GV, hỗ
trợ đời sống khối văn phòng, tham quan cuối năm, tổ chức khen thưởng 1/6 cho con
CB.GV-CNV học,giỏi…….
đ -Phối hợp với Ban đại diện CMHS trong việc giáo dục HS:
- Ban đại diện cha mẹ học sinh là tổ chức quần chúng của các gia đình học sinh.
Đây là tổ chức có quan hệ mật thiết với nhà trường, có tiềm năng lớn trong việc giáo
dục HS vì 2/3 thời gian HS ở với gia đình. Là cầu nối các gia đình học sinh lại với
nhau để thống nhất mục tiêu giáo dục.
- Việc Ban đại diện CMHS hoạt động tích cực trong nhà trường cũng góp phần
nâng chất lượng giáo dục trong nhà trường. Nhà trường luôn xây dựng mối quan hệ
gần gũi với mỗi gia đình học sinh , do đó công tác tuyên truyền thông tin và thu thập
thông tin khá hiệu quả, giúp nhà trường liên kết với mỗi gia đình học sinh tốt hơn.


- GV phải luôn tâm niệm : “ Làm sao cho mỗi phụ huynh luôn có tinh thần hợp tác
giáo dục học sinh hơn là chỉ trích, phản bác chúng ta”.
e – Thực hiện tốt công tác xây dựng qui chế dân chủ cơ sở :
Phối hợp tổ chức HN CB-GV–CNV đầu năm. Đây là hình thức phát huy dân
chủ và tích cực của Công đoàn viên vào tất cả các mặt hoạt động trong nhà trường.
* Đối với hiệu trưởng:
Đảm bảo thực hiện tốt công khai : Kế hoạch hoạt động ; Vấn đề tiếp nhận học sinh;
Các khoản thu chi từ các nguồn ngân sách; Đánh giá & xếp loại thi đua khen thưởng.

* Đối với công đoàn :
Đảm bảo thực hiện tốt công khai : Kế hoạch hoạt động; Các khoản thu chi;
Đánh giá & xếp loại thi đua khen thưởng.
Kinh nghiệm cho thấy ở bất kì một đơn vị có tổ chức công đoàn, nếu công đoàn
lủng củng, mất đoàn kết nội bộ thì hiệu quả công việc của đơn vị đó rất thấp.
Do đó Công đoàn và nhà trường phải phối hợp ,thống nhất cao trong công việc;
đồng thời tạo bầu không khí cởi mở, thẳng thắn. Muốn tạo nên bầu không khí tích cực
người quản lí chú ý đến :
+ Thống nhất các kế hoạch và các biện pháp – Phân công hợp tình, hợp năng lực –
Đãi ngộ công bằng – Giải quyết tốt các dư luận – Gương mẫu và phát huy đúng mức
vai trò các tổ chức đoàn thể.
+Cần chú ý hoàn thiện phong cách lãnh đạo, vì nó ảnh hưởng rất lớn đến bầu không
khí tập thể. Mỗi phong cách lãnh đạo điều có ưu , nhược điểm riêng của nó. Nếu như
mặt trái của nguyên tắc là máy móc, rập khuôn cứng nhắc thì mặt trái của độc đoán là
áp đặt, thiếu bình đẳng; còn mặt trái của tự do là tùy tiện và mặt trái cuả dân chủ là dễ
bị lôi kéo, lạm dụng.
Bầu không khi vui vẻ, thoải mái sẽ làm cho tinh thần mọi người hăng hái hơn
trong công tác.Từ đó hiệu quả sẽ cao hơn. Nếu bầu không khí tốt thì mọi người sẽ
làm việc tốt, tiếp xúc với nhau vui vẻ, có sự hiểu biết lẫn nhau và tất cả mọi người đều
có ý thức tự giác làm việc cao. Ngược lại, nếu bầu không khí tập thể tiêu cực có thể
dẫn đến xung đột sẽ làm suy giảm sức lao động của tập thể, thái độ làm việc của mọi
người sẽ dè dặt cầm chừng, đặc biệt giáo viên xin chuyển đi nơi khác nhiều và thiếu
tinh thần sáng tạo, năng động để hoàn thành công việc.
Theo nghiên cứu của các nhà khoa học quản lí , bầu không khí tích cực sẽ làm
tăng năng suất lao động 20% và ngược lại làm giảm 20% năng suất lao động do thiếu
tinh thần hợp tác, tự giác và chỉ lo đối phó lẫn nhau.
Vì vậy muốn nâng cao chất lượng giáo dục, người lãnh đạo phải nắm các dấu hiệu
sau để xem xét tích chất của bầu không khí tập thể của đơn vị mình phụ trách :
Sự hài lòng – Sự tôn trọng hiểu biết lẫn nhau- Tâm trạng tập thể, cá nhân – Năng
suất lao động- Ý thức tổ chức kỉ luật- Tinh thần đoàn kết .

Tóm lại truyền thống lãnh đạo tập thể hiện nay tiếp tục được phát huy theo
nguyên tắc “ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”.


Trên đây là những điều mà tôi cho là cần thiết để nâng cao chất lượng giáo dục
trong nhà trường. Tuy nhiên chất lượng giáo dục chung của nhà trường, cách lãnh đạo
của người quản lí ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của từng môn dạy, đến tâm lí của
mỗi người thầy.Trong thời gian qua, Trường THCS TT Mỹ Thọ luôn rất chú ý đến
việc nâng cao chất lượng giáo dục. Đặc biệt lãnh đạo nhà trường đã dồn hết tâm huyết
của mình vào công tác giáo dục, đã hướng cho giáo viên những giải pháp trong quá
trình dạy học có kết quả.Từ đó,mỗi giáo viên luôn có ý thức tìm cho mình phương
pháp dạy tốt để học sinh dễ dàng nắm vững kiến thức. Riêng tôi, là một giáo viên dạy
bộ môn Ngữ văn, dù chỉ dạy những lớp với học sinh ở trình độ trung bình yếu; một
lớp chỉ một vài học sinh loại khá, nhưng tôi đã cố gắng hướng học sinh ham thích học
môn ngữ văn với mục đích chung là góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà
trường.
1.2-Muốn hướng học sinh tìm đến bộ môn văn , trước hết:
- Người giáo viên phải thực sự có đam mê với bộ môn văn, thực sự yêu nghề,
yêu học sinh; phải luôn có trăn trở tìm ra giải pháp tích cực trong hứơng đi của học
sinh, để học sinh tự tìm tòi, khai thác thêm nhiều kiến thức mới lạ. Vì vậy trước khi
lên lớp, người giáo viên phải soạn bài, xem bài thật kỹ, có tham khảo thêm nhiều tài
liệu liên quan để trong quá trình giảng bài giáo viên đưa thêm dẫn chứng mới lạ; Từ
đó tạo sự ham thích trong lòng học sinh đối với bộ môn văn( tránh gò ép hoặc sáo
rổng trong khi giảng bài).
- Hướng học sinh cách tìm đến với một bài văn, bài thơ: Phải đọc trước từ 2-3 lần
để nắm được nội dung- nghệ thuật trong bài.
* Đối với tác phẩm thơ yêu cầu học sinh đọc diễn cảm để bước đầu cảm nhận
được cái hay, cái đẹp trong bài thơ, nghệ thuật sử dụng từ ngữ trong bài.Vào lớp giáo
viên đọc diễn cảm và hướng dẫn các em đọc. Sau đó cho học sinh trình bày từng nội
dung theo sự chuẩn bị sẵn ở nhà; giáo viên cho thảo luận góp ý và cuối cùng chốt lại

vấn đề.Cần tuyên dương khen thưởng những học sinh tiến bộ hoặc có giọng đọc tốt để
khích lệ tinh thần ham học của các em.
* Đối với tác phẩm truyện: hướng học sinh đọc ít nhất 02 lần ở nhà; sau đó tóm
tắt ngắn gọn nội dung, tìm cấu trúc văn bản như: phương thức biểu đạt; trình tự vấn
đề, nhân vật chính….
- Người giáo viên phải biết hướng học sinh cách cảm thụ một bài văn, bài thơ một
cách chủ động, có sáng tạo.Nghĩa là, phải hướng dẫn các em phương pháp phân tích,
bình giảng theo cách riêng của mình. Trong giờ lên lớp, cho học sinh thảo luận, tranh
luận vấn đề theo nhóm. Giáo viên chỉ theo dõi và gợi mở, bổ sung thêm kiến thức cho
học sinh. Từ cách làm như vậy, học sinh sẽ nhanh chóng hiểu bài và hiểu rất sâu vấn
đề; đồng thời qua đó , các em tự khẳng định được mình về kiến thức, được chia sẻ ý
kiến với bạn bè, các em cảm thấy vui hơn, thân thiện hơn.
- Đồ dùng dạy học đóng vai trò rất quan trong trong quá trình hướng học sinh
khám phá môn văn, giải quyết nhanh việc truyền thụ kiến thức, làm lớp học sinh


động, tích cực. Hiện nay đồ dùng dạy học còn nhiều hạn chế, giáo viên phải tự làm ,
tự tìm tòi như: tranh ảnh của tác giả, những đồ dùng vừa học vừa chơi, bảng phụ…
Đối với lớp dạy ứng dụng CNTT, giáo viên có thể khai thác từ trên mạng, trình
chiếu một cách nhanh chóng. Nhưng những lớp học bình thường thì giáo viên phải
khéo léo trong việc sử dụng tranh ảnh tự làm ( tranh phải đẹp, rõ, chữ viết trong
bảng phụ phải được nắn nót). Vì vậy, giáo viên cần khai thác triệt để đồ dùng sẵn có.
Chú ý nhiều đến nghệ thuật trình bày bảng khi dạy.
Cần lưu ý: Việc sử dụng thiết bị dạy học không được tùy tiện. Nghĩa là phải đúng
lúc, đúng chỗ.
- Để tạo sự lôi cuốn và học sinh ham thích tìm hiểu một tác phẩm văn học, mỗi
người giáo viên có nghệ thuật riêng như: cách vào bài,cách đọc tác phẩm, giọng điệu,
ngữ điệu, cách xử lí tình huống, cách đặt câu hỏi hoặc lời nói ,cử chỉ, lời tán thưởng
đúng lúc.
-Người giáo viên phải thường xuyên cập nhật kiến thức mới đưa vào bài dạy,đặc

biệt những nội dung có tính thời sự nóng bỏng để bài dạy thêm phong phú.Chú ý đến
đối tượng học sinh khi ra câu hỏi; Tạo bầu không khí nhẹ nhàng, thoải mái, không để
học sinh sợ giáo viên, mà phải làm cho học sinh thương yêu tôn trong mình. Giáo viên
không cho học sinh ra ngoài khi học sinh vi phạm; vì làm như thế học sinh sẽ không
được học tiết đó, sẽ không nắm kiến thức, và đến tiết sau các em lại vi phạm vì làm
bài sai hoặc không làm bài. Cứ thế dần các em sẽ chán và bỏ học.Thay vào đó, giáo
viên tìm hiểu nguyên nhân, có khuyên nhủ, nhắc nhở với những lời thân mật có thể
làm học sinh có ý thức hơn trong học tập.
V. Hiệu quả áp dụng:
Từ việc phối hợp với nhà trường “ Nâng cao chất lượng giáo dục” và việc bản
thân chủ động tìm hướng đi cho học sinh ham thích học bộ môn ngữ văn. Tính từ đầu
năm học đến nay 02 lớp văn mà tôi dạy đạt kết quả như sau:
Lớp
9A1
9A2

Sỉ số
37/16
nữ
36/15
nữ

Giỏi (%)
Đầu Đến
năm
nay
13.5
00%
%
16.7

00%
%

Khá (%)
Đầu Đến
năm
nay
13.5 37.8
%
%
13.9 36.1
%
%

TB (%)
Đầu Đến
năm
nay
67.6 40.5
%
%
66.6 36.1
%
%

Yếu (%)
Đầu
Đến
năm
nay

18.9
8.1
%
%
19.4 11.1
%
%

Như đã trình bày ở trên, đây là 02 lớp học với trình độ học sinh ở dạng yếu
nhiều,không có học sinh loại giỏi, nên bản thân dù đã áp dụng giải pháp mới những
vẫn còn số ít học sinh mắc phải loại này. Bản thân cố gắng đem hết khả năng để
hướng học sinh tìm đến bộ môn văn, từ nay đến cuối năm học sẽ hạn chế tối đa số học
sinh loại yếu và nâng cao số học sinh loại khá giỏi.


C. KẾT LUẬN
I/ Ý nghĩa của đề tài đối với công tác:
Nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện nói chung và bộ môn
ngữ văn nói riêng. Hướng học sinh ham thích học bộ môn văn.
II/ Khả năng áp dụng:
Với đề tài này sẽ áp dụng cho tất cả học sinh ở các khối lớp với trình độ học lực
từ yếu kém đến loại giỏi.
III/ Bài học kinh nghiệm, hướng phát triển:
- Giáo dục nhận thức về chính trị tư tưởng cho đội ngũ phải đặt lên hàng đầu và
không thể thiếu được trong một tổ chức.
- Trong công tác dạy và học hiện nay, ai cũng thấy cần phải có sự đổi mới để nâng
cao hơn nữa hiệu quả của việc học, của sự nghiệp đào tạo trước những đòi hỏi bức xúc
của sự phát triển xã hội.Tuy nhiên ta không thể đổi mới về phương pháp, SGK, cách
đánh giá một cách vội vã, mà phải tiến hành từng bước , dần dần thoát ra những ràng
buộc còn chưa hợp lí trong hòan cảnh mới. Chú ý đến điều kiện CSVC phục vụ cho

công tác giảng dạy.
- Luôn tìm tòi đổi mới các hình thức tổ chức trong qúa trình tổ chức hoạt động sư
phạm nhằm tăng hưng phấn cho học sinh, tránh sự nhàm chán.
- Giáo viên vận dụng hài hòa các phương pháp thì kết quả học tập của học sinh sẽ
nâng cao. Giáo viên tự làm đồ dùng dạy học, sưu tầm tài liệu phục vụ bộ môn. Tự
động viên khuyến khích, đặt ra yêu cầu mới và sáng tạo không ngừng.
*Hướng phát triển:
Hướng tới bản thân sẽ tích cực tìm ra nhiều giải pháp trong việc nâng cao chất
lượng giáo dục và cùng đồng nghiệp trong tổ mạnh dạn tổ chức những câu lạc bộ “Em
yêu văn học”và sẽ tiếp tục thực hiện đề tài này, tuy nhiên sẽ có điều chỉnh sao cho phù
hợp và có sức thuyết phục hơn.
Rất mong được sự góp ý xây dựng của đồng nghiệp và các cấp quản lý.
Xin chân thành cảm ơn.
Thị trấn Mỹ Thọ, ngày 08 tháng 3 năm 2012
Người viết đề tài

Cao Thị Thu Loan


Xác nhận của HĐ xét duyệt SKKN cấp trường.
………………………………………………………….
………………….……………………………………….
………………….……………………………………….
…………………..……………………………………….
…………………..……………………………………….
………………… ……………………………………….
………………….………………………………………..
Xác nhận của HĐ xét duyệt SKKN cấp PGD&ĐT
……………………………………………………………….
………………………………………………………………..

……………………………………………………………….
……………………………………………………………….
……………………………………………………………….
………………………………………………………………..
……………………………………………………………….

* Để hoàn chỉnh đề tài này, tôi đã tham khảo những tài liệu sau :
1. Chỉ thị 40/CT/TW ngày 15/06/2004 của Ban bí thư TW Đảng
về việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và
cán bộ quản lí giáo dục.
2. Báo giáo dục thời đại.
3. Một số ý trong “ văn kiện ĐH Đảng toàn quốc” ( phần bàn về
công tác GD)
4. Một số ý kiến trong các bài báo nhân dân.
5. Một số ý trong các chuyên đề “nâng chất GD” ở đơn vị tổ
chức



×