Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Công nghệ IPTV triển khai dịch vụ VOD

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.41 MB, 67 trang )

Công nghệ IPTV và triển khai dịch vụ VOD
Phần 1: Công nghệ IPTV
I. Tổng quan về công nghệ IPTV
1. Công nghệ mạng băng rộng.
1.1. Đặc điểm:
Các mạng máy tính của khách hàng được kết nối qua CPE (Customer
Customer Premise – thiết bị đầu cuối khách hàng) bao gồm (Modem
ADSL/SHDSL…,router).
Mạng băng rộng cung cấp cho khách hàng khả năng kết nối mạng máy tính
vào mạng băng rộng với tốc độ tối thiểu là 64Kbps (Tối đa tuỳ theo dịch vụ có thể
lên đến vài chục Mbps): với hai kiểu tốc độ trên một dịch vụ:
- tốc độ chiều đi (upload) và chiều về bằng nhau (dowload) là SHDSL
- tốc độ chiều đi (upload) và chiều về khác nhau (dowload) là xDSL
(ADSL,ADSL2+,…)
Tuy nhiên,tốc độ cổng cung cấp dịch vụ thực tế phụ thuộc vào các thiết bị
đầu cuối của khách hàng và chất lượng đường truyền của đường dây thuê bao
xDSL được xác định trong quá trình khảo sát lắp đặt.
1.2. Lợi ích:
-

Kết nối đơn giản với chi phí thấp: Do dịch vụ băng rộng lắp đặt kết hợp trên
đường dây điện thoại.

-

Mềm dẻo, linh hoạt: Có thể vừa sử dụng dịch vụ điện thoại vừa truy cập
Internet (Nếu khách hàng có nhu cầu), vừa kết nối mạng riêng vưa kết nối
Internet.

-


Kênh thuê riêng: Cung cấp cho khách hàng các kênh thuê riêng có độ tin cậy
cao.

-

Nhiều giải pháp mạng: dịch vụ mạng băng rộng thích hợp nhất cho các cơ
quan, doanh nghiệp có nhu cầu kết nối mạng thông tin hiện đại, hoàn hảo, tiết
kiệm.

Nguyễn Anh Tuấn

1


Khách hàng đăng ký sử dụng các dịch vụ của mạng băng rộng đồng thời
được cung cấp dịch vụ truy nhập Internet trên đường dây thuê bao điện thoại có
sẵn. Tuy nhiên tốc độ cổng cung cấp dịch vụ được cài đặt cho truy nhập dịch vụ
Internet phụ thuộc vào tốc độ lớn nhất mà đường dây thuê bao điện thoại thực tế
có thể cung cấp và tốc độ của cổng mạng băng rộng được cung cấp cho khách
hàng.
2. Công nghệ ADSL:
2.1. ADSL là gì:
Đường dây thuê bao số bất đối xứng (Asymmetric Digital Subscriber LineADSL) là đường dây thuê bao sử dụng kỹ thuật truyền tốc độ số tốc độ cao không
đối xứng kết nối từ nhà cung cấp dịch vụ tới modem của thuê bao.
ADSL vừa là sự thay thế công nghệ vừa là sự thay thế thiết bị Modem tốc
độ 64Kpbs cũ bằng thiết bị Modem ADSL mới giúp truy nhập Internet với tốc độ
cao hơn.
Các thuật ngữ trong tên gọi ADSL được giải thích như sau :
-


Asymmetric – không đối xứng :
Bất đối xứng có nghĩa là tốc độ truyền không giống nhau giữa chiều đi

(upload) và về (dowload). Đặc điểm về tốc độ của chiều đi (từ thuê bao tới mạng)
và về (từ mạng tới thuê bao) không giống nhau phù hợp cho việc sử dụng dịch vụ
Internet hoặc các dịch vụ băng rộng đa phương tiện khác chỉ bằng phương thức
nhấn chuột (Tương ứng với sự tương tác giữa khách hàng và mạng là lưu lượng
nhỏ thông tin mà thuê bao gửi đến mạng và có thể nhận được một lưu lượng lớn
dữ liệu truyền về từ mạng về khách hàng.
-

Digital – số :
Các Modem ADSL làm việc với các tín hiệu số (0 và 1) và là phương tiện

trung gian để chuyển thông tin số hoá giữa các thiết bị khách hàng trong một mạng

Nguyễn Anh Tuấn

2


nội bộ và từ máy tính PC lên mạng Internet. Ở khía cạnh này thì Modem ADSL
không khác gì các Modem thông thường chỉ khác ở chỗ tốc độ của nó cao hơn.
-

Subscriber Line – đường dây thuê bao :
Dịch vụ ADSL được cung cấp trên đường dây thuê bao điện thoại bình thường
nối từ khách hàng tới tổng đài nội hạt. Dịch vụ ADSL cho phép thực hiện
đồng thời cuộc gọi điện thoại và truy cập vào mạng Internet thông qua thiết bị
gọi là bộ chia (splitters) có chức năng phân chia dữ liệu thoại và dữ liệu

Internet trên đường dây.

2.2. Ưu điểm :
Hiện tại ở Việt Nam, ADSL đang có lợi thế phát triển hơn so với các dịch
vụ truy nhập băng rộng sử dụng công nghệ khác. Sự phát triển này một phần là
dựa trên đặc tính của công nghệ ADSL là phát triển trên nền cơ sở hạ tầng của
mạng điện thoại truyền thống đã thực sự lớn mạnh. Ngược lại, các công nghệ khác
cần xây dựng mới cơ sở hạ tầng nên sẽ cần nhiều thời gian và vốn đầu tư hơn.
Để thấy rõ ưu điểm của ADSL thì chúng ta có một bảng so sánh sau:
Dịch vụ PSTN, ISDN

Dịch vụ ADSL

PSTN và ISDN là các công nghệ quay

ADSL là công nghệ truy cập kết nối

số.
PSTN và ISDN cho phép cúngung ta

trực tiếp, liên tục.

sử dụng Fax, dữ liệu, thoại, dữ liệu

ADSL chỉ trao đổi thông tin dữ liệu tới

tới Internet, dữ liệu tới các thiết bị

Internet và nối mạng cục bộ.


khác.
PSTN, ISDN cho phép chúng ta tuỳ

ADSL kết nối chúng ta tới một nhà

chọn nhà cung cấp dịch vụ Internet

cung cấp dịch vụ Internet (ISP) định

(ISP) nào mà ta muốn kết nối.
PSTN, ISDN chạy ở tốc độ cơ sở

trước.
ADSL có thể tải dữ liệu về với tốc dộ

64Kpbs hoặc 128 Kpbs.

lên đến 8Mpbs.

PSTN, ISDN ngắt truy nhập Internet

ADSL cho phép sử dụng đồng thời

khi chúng ta thực hiện cuộc gọi

Internet và gọi điện thoại.

Nguyễn Anh Tuấn

3



Kết nối Internet qua đường PSTN và

ADSL do không phải quay số truy nhập

ISDN bằng phương thức quay số có

nên không phải trả cước điện thoại nội

tính cước nội hạt.

hạt.

Mặc dù Modem ADSL luôn ở chế độ kết nối thường trực, nhưng có thể cần
phải thực hiện lệnh kết nối Internet trên máy PC.
Đối với dịch vụ ADSL chúng ta lưu ý các đặc điểm sau :
Các dịch vụ trên nền thoại trước đây (Fax và thoại) vẫn có thể được thực
hiện trên nền dịch vụ ADSL tới Internet.
Trên thực tế, tốc độ download tiêu biểu đối với dịch vụ ADSL gia đình
thường cung cấp là 512Kpbs (Gói tốc độ thấp nhất).
Có thể thức hiện tính cước theo lưu lượng dữ liệu (gửi/nhận) với giá cước
thấp: Dùng bao nhiêu trả bấy nhiêu.
Khi dịch vụ ADSL dùng để kết nối Internet cho một mạng nội bộ nào đó thì
số người dùng được chia sẽ để sử dụng chung là không giới hạn.
* Ưu điểm của ADSL :
-

Về tốc độ:
Băng thông rộng của dịch vụ ADSL được đánh giá bằng tốc độ trao đổi dữ liệu


cao của nó. Tốc độ này phù hợp với nhiều dịch vụ ứng dụng có yêu cầu băng
thông rộng như hội nghị truyền hình, truyền hình theo yêu cầu, đào tạo từ xa...
-

Về kết nối :
Đối với ADSL do không phải quay số nên người sử dụng luôn ở trạng thái kết

nối (Tức là luôn sẵn sàng – always on) không có tín hiệu bận khi kết nối, không
thời gian chờ. Đặc tính này sẽ phục vụ cho những ứng dụng có dữ liệu liên tục như

Nguyễn Anh Tuấn

4


IP Multicast, các dịch vụ giáo dục trực tuyến, các dịch vụ dữ liệu kinh tế trực
tuyến, chăm sóc sức khoẻ trực tuyến...
- Dễ sử dụng :
Khách hàng có thể sử dụng dịch vụ ngay sau khi nhà cung cấp dịch vụ hoàn
thành công việc lắp đặt.
- Độ tin cậy cao :
Công nghệ ADSL được xây dựng và phát triển trên nền cơ sở hạ tầng của
mạng điện thoại truyền thống, là một trong những cơ sở hạ tầng có độ tin cậy cao
nhất.
- Tính bảo mật cao :
Đối với các công nghệ khác sử dụng trên nền tản mạng hữu tuyến và vô
tuyến, dùng các phương tiện truyền dẫn như dây cáp, cáp quang và sóng vô tuyến
thì nhiều người sử dụng dùng chung một phương thức truyền dẫn vật lý. Còn đối
với dịch vụ ADSL được cung cấp trên một dường dây điện thoại riêng theo

phương thức điểm nối điểm giữa tổng đài của nhà cung cấp và người dùng nên
tính bảo mật của ADSL là rất lớn, ít có hiện tượng nhiễu xuyên kênh, mất tín hiệu
khi truyền.
2.2. Ứng dụng :
Dịch vụ ADSL được kết nối cung cấp từ tổng đài điện thoại của nhà cung
cấp đến khách hàng trên chính đường dây điện thoại của khách hàng. Tuy nhiên
dịch vụ Internet không phải cung cấp từ tổng đài điện thoại mà từ mạng Internet
của nhà cung cấp dịch vụ Internet.
Mặc dù chúng ta cho rằng ADSL được sử dụng để truyền dữ liệu thông qua
các giao thức Internet, nhưng trên thực tế việc truyền dữ liệu này như thế nào là do
các giao thức kết nối Internet quyết định chứ không phải do đặc tính kỹ thuật của
ADSL.
Hiện nay, nhà cung cấp và khách hàng sử dụng ADSL cho truy nhập
Internet tốc độ cao nhiều hơn là để kết nối mạng nội bộ.

Nguyễn Anh Tuấn

5


ADSL là một công nghệ đang rất được ưa chuộng cho những ai thường
xuyên kết nối Internet - một công nghệ cho phép truy nhập Internet tốc độ cao và
kết nối truyền dữ liệu trong mạng nội bộ qua đường dây điện thoại.
ADSL là một trong những kết nối Internet phổ biến cung cấp băng thông
lớn cho việc truyền tải dữ liệu hay còn gọi là mạng băng rộng (Broadband
Internet). Internet tốc độ cao so với kết nối bằng Modem quay số truyền thống là
một cuộc cách mạng lớn về tốc độ với tốc độ kết nối gấp hàng trăm lần Modem
quay số.
ADSL - một ứng dụng của Broadband Internet - sẽ giúp khách hàng thực sự
thưởng thức thế giới kỹ thuật số trên mạng toàn cầu.

Tính bất đối xứng của ADSL được giải thích như sau : Công nghệ ADSL
sử dụng phần lớn kênh truyền cho việc truyền dữ liệu xuống (Download) và chỉ
dành một phần cho việc truyền dữ liệu lên (Upload). Trên lý thuyết tốc độ truyền
xuống của ADSL có thể đạt tới 8Mbps còn truyền lên là 640Kbps. Nếu so sánh
với tốc độ truy nhập Internet qua Modem quay số thông thường (Dialup), tốc độ
truyền xuống của ADSL cao gấp khoảng 142 lần, còn nếu so sánh với công nghệ
ISDN thì cao gấp khoảng 62 lần.
Đường dây cáp điện thoại có băng thông lên đến 100Mhz, trong đó phần
dành cho tín hiệu thoại chỉ chiếm khoảng 4Khz và phần dư của đường dây vẫn
chưa dùng đến.
Công nghệ ADSL đã tận dụng phần băng thông dư thừa này để truyền dữ
liệu. Điều đó có nghĩa là chúng ta vừa có thể truy cập Internet vừa có thể gọi điện
thoại hoặc gửi Fax trên cùng một đường dây điện thoại. Dữ liệu Internet được
truyền độc lập với dữ liệu thoại và Fax nên chất lượng thoại không thay đổi mà tốc
dộ dữ liệu Internet lại rất cao. Đây là điểm nổi bật nhất của công nghệ ADSL so
với công nghệ kết nối Internet qua Modem quay số thông thường.
Với thế mạnh về tốc độ truyền dữ liệu cao và khả năng kết nối Internet liên
tục của mình, ADSL rất thích hợp cho dịch vụ hội thảo qua mạng, xem phim, nghe
nhạc, chơi game trực tuyến, Video theo yêu cầu...
Nguyễn Anh Tuấn

6


Để sử dụng dịch vụ ADSL khách hàng cần trang bị một Modem ADSL.
Modem ADSL khác với Modem quay số thông thường ở chỗ có khả năng ghép,
tách tín hiệu thoại và dữ liệu nhờ bộ chia trên cùng môt đường dây thoại. Sau khi
đăng ký với nhà cung cấp dịch vụ, đường thuê bao của khách hàng sẽ được nối với
thiết bị ghép kênh truy nhập DSLAM đặt tại tổng đài.
Mỗi DSLAM có thể có từ 24, 36, 48, 96 cổng… tương ứng với số lượng

thuê bao mà nó có thể đảm nhiệm. Tuy nhiên cần lưu ý là: tốc độ kết nối Internet
ADSL sẽ phụ thuộc rất nhiều từ khoảng cách từ thuê bao đến nơi đặt DSLAM.
Với khoảng cách 3.5km tốc độ chiều về có thể đạt tới 8Mbps và tốc độ chiều đi là
640Kpbs. Khi khoảng cách lớn hơn thì tốc độ sẽ giảm đi và nếu lớn hơn khoảng
cách 5km thì tốc độ của ADSL sẽ giảm đi rất nhiều so với giá trị danh định ban
đầu của dịch vụ, thậm chí không thể sử dụng.
3. IPTV là gì:
Dịch vụ truyền hình sử dụng giao thức Internet (Internet Protocol
Television – IPTV) là quá trình kỹ thuật phân phối tín hiệu truyền hình và các dịch
vụ hình ảnh (video) và tiếng nói (audio) khác qua mạng dữ liệu băng rộng sử dụng
các giao thức hỗ trợ Internet. Nói nói cách khác IPTV - công nghệ truyền hình sử
dụng giao thức Internet - là một công nghệ truyền dẫn cho phép truyền tải các tín
hiệu video, audio trên nền hệ thống mạng IP.
Nguyên tắc chung của truyền dẫn tín hiệu truyền hình qua giao thức
Internet là tín hiệu truyền hình (âm thanh và hình ảnh) được số hóa, nén (để giảm
tốc độ đường truyền) và đóng thành các gói dữ liệu tương thích với các giao thức
Internet. Một hệ thống phần mềm tương tác (quản lý trao đổi thông tin hai chiều)
sẽ thực hiện truyền các gói dữ liệu này đến người xem qua mạng IP.
Khi người xem gửi thông tin yêu cầu thì các gói dữ liệu được chuyển tới
thiết bị đầu cuối của người xem đã được kết nối vào mạng IP như bộ STB, máy
tính. Sau đó các gói dữ liệu này được biến đổi thành tín hiệu hình ảnh và âm thanh
để hiển thị lên màn hình. Công nghệ truyền dẫn IPTV có ưu điểm đáng chú ý là

Nguyễn Anh Tuấn

7


phạm vi cung cấp dịch vụ rộng lớn, khả năng triển khai nhanh kết hợp với triển
khai dịch vụ truyền hình tương tác và truyền hình theo yêu cầu rất linh động.


-

IPTV có hai đặc điểm cơ bản là :
Dựa trên nền công nghệ IP và có cấu trúc nội dung được định trước trên

menu để người dùng lựa chọn.
-

Dịch vụ IPTV có thể nâng cao chất lượng và tiện ích nhờ đặc điểm tương

tác giữa nhà cung cấp và người sử dụng.
-

IPTV co nhiều ưu thế là rất dễ sử dụng, hiển thị trên tivi rõ nét hơn màn

hình máy vi tính, nhà cung cấp dễ quản lý khách hàng.
-

Bên cạnh đó với dịch vụ người dùng xem dịch vụ trực tuyến còn có thể lựa

chọn xem phim, gọi điện thoại IP thấy hình, nghe nhạc, tra cứu thông tin trên
mạng qua màn hình ti vi hay máy tính.
Ta thấy khả năng của IPTV gần như vô hạn và nó hứa hẹn mang đến những
dịch vụ nội dung kỹ thuật số chất lượng cao. Kỹ thuật này thích hợp cho các dịch
vụ như Video theo yêu cầu (VoD), hội thảo, truyền hình tương tác/trực tiếp, games
online, học từ xa, tin nhắn nhanh qua Tivi.
Sức hấp dẫn chính của IPTV là nó áp dụng công nghệ tương tác giữa khách
hàng và nhà cung cấp dịch vụ. Với IPTV vị trí khách hàng đã thay đổi, không còn
là quan hệ một chiều giữa người xem và nhà cung cấp, IPTV cho phép khách hàng

và hệ thống cung cấp dịch vụ truyền hình có khả năng tương tác kiểu DVD thông
qua kênh dịch vụ. Đặc tính tương tác kiểu DVD này thông qua khả năng lưu trữ
không giới hạn các danh mục kênh yêu thích, hàng ngàn giờ chương trình truyền
hình, phim. Tất cả nội dung đồ sộ này nằm gọn dưới ngón tay lựa chọn của khách
hàng.
IPTV còn cho phép các nhà cung cấp định hướng việc cung cấp chương
trình của mình đến những đối tượng khách hàng nhỏ hơn, hẹp hơn, hoặc “địa
phương” hơn. Các nhà cung cấp cũng có thể gửi các chương trình có độ phân giải
cao thẳng tới người xem mà không cần có đầu thu tín hiệu đặc biệt nào khác.

Nguyễn Anh Tuấn

8


Nhưng có lẽ hấp dẫn nhất, dù nhiều người cho là không quan trọng đó là những
nội dung truyền hình trực tiếp.
Hiện nay, nhiều hãng truyền thông lớn đã quyết định đầu tư cho IPTV vì
tiềm năng lợi nhuận của dịch vụ này sẽ rất lớn trong tương lai. Hơn nữa IPTV sử
dụng các giao thức mạng tiêu chuẩn trên nền các mạng công cộng nên các nhà đầu
tư không mất nhiều chi phí để lắp đặt mạng và khách hàng cũng không phải bỏ
nhiều tiền để mua các thiết bị dùng để kết nối với mạng.
Chỉ cần một thiết bị STB kết nối với Internet băng rộng thì tín hiệu truyền
hình sẽ được cung cấp đến với khách hàng theo từng chuỗi kênh, hiệu quả hơn khi
ta dùng các phương thức truyền dẫn khác (cáp đồng trục) để truyền tín hiệu. Mặc
dù, cáp đồng trục có ưu điểm là rẻ tiền, nhẹ, mềm và dễ kéo dây, nhưng tín hiệu
truyền hình truyền qua cáp đồng trục không đảm bảo được tính bảo mật và có thể
bị nhiễu.
Nói một cách tổng quát thì truyền hình qua giao thức IP là công nghệ
truyền hình thế hệ mới cho phép cung cấp dịch vụ truyền hình kỹ thuật số trên nền

mạng băng thông rộng ADSL với giao thức IP.
4. Mô hình chung của hệ thống IPTV:

Nguyễn Anh Tuấn

9


Hình1 : Mô hình chung của hệ thống IPTV
-

Mạng truy nhập :
Mạng truy nhập là một thành phần hạ tầng của mạng IP băng rộng dùng để

truyền dịch vụ từ nhà cung cấp dịch vụ IPTV đến khách hàng. Mạng truy nhập sẽ
tận dụng phần hạ tầng mạng xDSL có sẵn. Để cung cấp dịch vụ với chất lượng tốt
và tiêu thụ ít băng thông trong điều kiện có nhiều truy nhập đến hệ thống đồng
thời, mạng truy nhập băng rộng (B-RAS/MSS và DSLAM), mạng truy nhập cần
phải được hỗ trợ phương thức truyền dẫn multicast. Đối với DSLAM, ngoài hỗ trợ
multicast, DSLAM còn cần hỗ trợ giao thức quản lý nhóm IP (Internet Group
Managemant Protocol - IGMP) phiên bản 2. Ngoài ra, B-RAS/MSS và DSLAM
cũng cần hỗ trợ các giao diện Ethernet chuẩn (Fast Ethernet-FE, GE). Mạng truy
nhập cũng phải có khả năng hỗ trợ và quản lý chất lượng dịch vụ (QoS) từ đầu
cuối đến đầu cuối. Việc này đảm bảo được băng thông cần thiết và độ ưu tiên cho
các kênh truyền hình quảng bá cũng như các phiên Video theo yêu cầu chất lượng
(phải đạt được độ mất gói và jitter tối thiểu). Băng thông xDSL do các DSLAM
cung cấp đến khách hàng phải có khả năng đạt mức băng thông tối thiểu cho một
kênh truyền hình là 4-5 Mbps.
-


Hệ thống cung cấp nội dung :
Hệ thống cung cấp nội dung thực hiện việc thu, nhận và xử lý các dữ liệu

chương trình từ các nguồn khác nhau như vệ tinh, truyền hình mặt đất và các
nguồn khác để hình thành nguồn nội dung của hệ thống Video Headend.
Bên cạnh đó ngoài việc thu, điều chế và giải mã nội dung hình ảnh và âm thanh
từ các nguồn khác nhau, hệ thống cung cấp nội dung còn sử dụng các thiết bị mã
hóa (encoder) để chuyển đổi nội dung này thành các luồng IP multicast ở khuôn
dạng mã hóa mong muốn. Với các nội dung chương trình quảng bá tại phía khách
hàng yêu cầu phải có thiết bị đầu cuối phù hợp. Thiết bị đầu cuối này có khả năng
mã hoá một chuỗi các hình ảnh theo thời gian thực bằng kỹ thuật nén dùng
MPEG-4 Part 10 hoặc H.264. Hình ảnh mã hoá có thể lấy từ vệ tinh, truyền hình
Nguyễn Anh Tuấn

10


cáp, hệ thống truyền hình mặt đất, máy chủ video, tape playout, v.v... Sau khi mã
hoá, các chuỗi tín hiệu truyền hình MPEG với nhiều định định dạng (ASI, SPTS)
sẽ được đóng gói bằng cách sử dụng kỹ thuật tạo dòng IP (IP Streamer). Sau đó
dòng tín hiệu truyền hình IP này sẽ truyền trên mạng Internet bằng cách sử dụng
giao thức UDP/IP.
Như vậy đầu vào của hệ thống Video Headend là các chương trình truyền hình
quảng bá, các kênh truyền hình mua bản quyền thu từ vệ tinh, các kênh truyền
hình cáp, các phim từ các nguồn khác như tự sản xuất, từ các thiết bị VCD/DVD
player, v.v...
- Hệ thống Middleware (hệ thống quản lý trung gian) :
Hệ thống quản lý trung gian cung cấp khả năng quản lý thuê bao, nội dung,
hoạt động điều hành cùng với các chức năng quản lý EPG, STB và các dịch vụ
khác trong tương lai. Đồng thời vẫn duy trì tính mở cho việc tích hợp các dịch vụ

trong tương lai. Middleware là một giao diện của hệ thống cung cấp dịch vụ IPTV
với người sử dụng, giúp xác định danh tính của người dùng, hiển thị một danh
sách các dịch vụ mà thuê bao đó có thể sử dụng và trợ giúp lựa chọn dịch vụ này
sau khi danh tính của người dùng được xác định. Middleware thực hiện giao tiếp
trực tiếp với các thành phần được hệ thống hỗ trợ (quản lý mạng tính cước,..), đảm
bảo cho hoạt động của tất cả dịch vụ nhưng không giới hạn bất kỳ hoạt động riêng
rẽ nào trong hệ thống. Bên cạnh đó Middleware hỗ trợ API cho phép mở rộng các
chức năng mới và truyền dữ liệu giữa các hệ thống.
- Hệ thống phân phối nội dung:
Bao gồm các cụm máy chủ VoD và hệ thống quản lý VoD tương ứng, cho
phép lưu trữ các nội dung đã được mã hóa và thiết lập các chính sách phân phối
nội dung một cách mềm dẻo. Hệ thống này cũng cho phép nhà khai thác mở rộng
một cách kinh tế, phù hợp với số lượng các yêu cầu dịch vụ của các thuê bao. Máy
chủ VoD sẽ lưu nội dung thực và cung cấp cho thuê bao có yêu cầu sau khi nó
nhận được sự xác thực danh tính thuê bao từ Middleware. Hệ thống phân phối nội
dung cho phép các thuê bao đăng ký và xem những bộ phim chất lượng cao và các
Nguyễn Anh Tuấn

11


chương trình theo yêu cầu (chương trình này được lưu trên máy chủ VoD và cung
cấp theo yêu cầu). Hệ thống này cũng cung cấp những chức năng điều khiển tương
tự hư máy ghi hình cá nhân (Video Cassette Recorder – VCR) như tua tới, tua lui,
dừng.fast-forward, pause, và rewind.
- Hệ thống quản lý bản quyền số (Digital Right Management - DRM) :
DRM giúp nhà cung cấp bảo vệ những quyền trên hệ thống nội dung truyền
hình của mình, như trộn các tín hiệu truyền hình hay mã hóa nội dung VoD…, khi
những nội dung này được truyền đi trên mạng Internet công cộng và thiết lập các
tính năng an ninh khác tại STB ở phía thuê bao. DRM còn được sử dụng để bảo

mật các khóa giải mã của các thuê bao. Những nội dung truyền hình được lưu trên
những máy chủ nội dung sẽ được mã hóa trước khi cung cấp bằng hệ thống DRM
và đảm bảo sự bảo mật những nội dung này trong quá trình phân bố tới Set-top
Box (STB). Hệ thống còn có khả năng hỗ trợ chức năng mã hoá trong các Video
Headend tương ứng và cung cấp khoá mật mã cho các Video Headend này. Hệ
thống DRM chứa khoá mật mã cho phần nội dung của một cơ sở dữ liệu nào đó
được phân phối cơ sở dữ liệu này tới STB. Hệ thống DRM cũng sẽ hỗ trợ thêm
vào phần nội dung các chức năng thủ thuật trong khi xem (tua nhanh, tua lại,
v.v...). Hệ thống DRM sẽ dựa trên các khái niệm của hệ thống cơ sở hạ tầng khoá
công cộng (Public Key Infrastructure - PKI). PKI dùng các thẻ kỹ thuật số X.509
để xác nhận mỗi thành tố trong hệ thống DRM đồng thời để mã hoá an toàn dữ
liệu có dùng các khoá chung/riêng.
Hệ thống quản lý mạng và tính cước: Hệ thống này quản lý và tính cước
dịch vụ truy cập của thuê bao IPTV.
Set-top Box (STB): Thiết bị đầu cuối phía khách hàng, cho phép thu, giải
mã và hiển thị nội dung trên màn hình TV. STB cần hỗ trợ các chuẩn MPEG4/H.264. Ngoài ra, STB cũng có thể hỗ trợ HDTV, có khả năng kết nối với các
thiết bị lưu trữ bên ngoài, video phone, truy nhập web (Walled garden), v.v... STB
cung cấp các ứng dụng truyền thông và giải trí. STB sẽ hỗ trợ kết nối giữa thiết bị
tivi và mạng điện thoại, cũng như Internet và thư viện ảnh ảo của nhà cung cấp
Nguyễn Anh Tuấn

12


dịch vụ. Nó có thể giải mã những chuỗi dữ liệu và hình ảnh đến dựa vào địa chỉ
IP, đồng thời thể hiện các hình ảnh này trên TV. STB sẽ hỗ trợ chuẩn
H.264/MPEG-4 Part 10 và phần mềm client Middleware của nó sẽ được dựa trên
một cấu trúc thick client, điều đó có nghĩa là ứng dụng và dữ liệu thể hiện sẽ lưu
trên STB.
II. Các thành phần của hệ thống IPTV

1. Node dịch vụ.
Khối chức năng này nằm ẩn trong khối chức năng của IP. Nó nhận luồng
video dưới các định dạng khác nhau. Sau đó các luồng video này được định dạng
lại và được đóng gói trước khi được truyền trên mạng IP với chất lượng dịch vụ
tương ứng với chất lượng mạng của khu vực đó. Việc này giúp cho quá trình cung
cấp tín hiệu tới khách hàng được dễ dàng hơn.
Về mặt quản lý dịch vụ, Node dịch vụ sẽ tương tác với các thiết bị đầu cuối
của khách hàng (CPE) để quản lý quyền truy nhập và các phiên giao dịch của
khách hàng. Ngoài ra Node dịch vụ còn trao đổi thông tin với phần phân phối khác
của dịch vụ IPTV.
2. Mạng phân phối.
Để nội dung được cung cấp tới người xem đầy đủ và đạt yêu cầu thì ta cần
chú ý tới khả năng phân phối, dung lượng và chất lượng dịch vụ của mạng phân
phối. Đồng thời nó cũng có khả năng khác nữa chẳng hạn như quá trình phân phát
đa điểm, rất cần thiết cho quá trình phân phối dữ liệu IPTV thời gian thực với chất
lượng cao từ các Node dịch vụ tới các thiết bị đầu cuối khách hàng.
Các thành phần trong mạng trục chính, mạng phân phối và mạng truy nhập
bao gồm: Mạng phân phối bằng cáp quang và rất nhiều bộ ghép kênh truy nhập
đường dây thuê bao số (DSLAM). Các bộ ghép kênh này đặt tại tổng đài trung tâm
(Central Office – CO) hoặc các điểm phân phối từ xa.
3. Mạng truy nhập khách hàng.

Nguyễn Anh Tuấn

13


Trong mạng truy nhập khách hàng (Có thể hỗ trợ thêm công nghệ đường
dây thuê bao số tốc độ cao như ADSL2+…) thì khách hàng được cung cấp một
mạch vòng thông qua đường dây điện thoại tới thẳng nhà khách hàng.

Ngoài ra còn một số cách khác nữa ví dụ như cáp quang truyền dẫn tín hiệu
tới tận nhà, cách này được coi là phương thức truyền dẫn tối ưu (Cáp quang có
băng thông rất rộng và có khả năng truyền dẫn hai hướng đi và về đối xứng đảm
bảo được yêu cầu truyền hình ảnh động với chất lượng cao).
Bên cạnh đó, nhà cung cấp có thể sử dụng có thể kết hợp thêm hệ thống
mạng cáp quang tới FTTC, FTTB, FTTH và kỹ thuật DSL để truyền tín hiệu tới
nhà thuê bao.
4. HeadEnd trung tâm.
4.1. Hệ thống HeadEnd trung tâm.
Hệ thống HeadEnd trung tâm có nhiệm vụ thu, điều chế, giải mã nội dung
hình ảnh, âm thanh từ các nguồn khác nhau và sử dụng các thiết bị mã hóa
(Encoder) để chuyển đổi nội dung này thành các luồng IP Multicast ở khuôn dạng
mong muốn.
Yêu cầu khi phát nội dung quảng bá phải có thiết bị đầu cuối. Thiết bị đầu
cuối này có khả năng mã hóa 1 chuỗi các hình ảnh theo thời gian thực bằng kỹ
thuật nén dung lượng MPEG-4 hoặc MPEG-2. Hình ảnh mã hóa được lấy từ vệ
tinh, truyền hình cáp, hệ thống truyền hình mặt đất…
Sau khi mã hóa các chuỗi tín hiệu MPEG-x sẽ được đóng gói bằng cách sử
dụng giao thức IP và được truyền tải bằng cách sử dụng giao thức gói dữ liệu
người dùng UDP (User Datagram Protocol). UDP là một giao thức cốt lõi của giao
thức TCP/IP. Khi dùng UDP thì chương trình trên mạng máy tính có thể gởi
những dữ liệu ngắn được gọi là Datagram tới máy khác, tuy nhiên độ tin cậy
không cao dữ liệu có thể đến không đúng thứ tự hoặc bị mất mà không có thông
báo.

Nguyễn Anh Tuấn

14



HeadEnd trung tâm là một trong những thành phần cốt lõi trong lớp cấu
trúc dịch vụ IPTV, nó có chức năng là phân phối tín hiệu tới các headend chuyển
tiếp để phân phối tín hiệu tới các thiết bị đầu cuối của khách hàng.
4.2. Chức năng cơ bản của hệ thống HeadEnd trung tâm.
Mã hóa mật nội dung: Mã hóa các chương trình thu được từ vệ tinh hoặc
truyền hình vô tuyến mặt đất.
Lưu trữ dữ liệu: Lưu trữ và chèn thêm các nội dung bổ sung như VoD và
chương trình quảng cáo.
Chuẩn bị nội dung: Nội dung chương trình phải đầy đủ và đảm bảo chất
lượng trước khi được phát đi tới khách hàng.
Phân phối nội dung: Nội dung được phân phối thông qua mạng IPTV.
Hệ thống Headend trung tâm hỗ trợ các tính năng sau để thực hiện các chức
năng trên.
Mã hóa Video : Dùng để nén tín hiệu Video dưới dạng tiêu chuẩn. Đó là
chuẩn nén được thực hiện khi luồng dữ liệu vào được phân tích và loại bỏ bớt
những phần dữ liệu không cần thiết. Có thể hiểu thuật ngữ nén là thu gọn dữ liệu
truyền và lưu trữ.
Chuyển đổi tốc độ video : Các luồng video được thu từ nhiều luồng khác
nhau như vệ tinh hoặc từ truyền hình vô tuyến mặt đất sẽ được gép kênh với nhau.
Tại phía thu sau đó sẽ được tách kênh và được chuyển đổi thành từng luồng video
riêng biệt. Quá trình chuyển đổi tốc độ video sẽ tạo ra các luồng video với các
định dạng tốc độ bit khác nhau, sau đó biến đổi chúng thành dạng tốc độ bit
không đổi giúp ổn định quá trình phân phối tín hiệu qua mạng.
Chuyển đổi định dạng mã hóa : Thực hiện chuyển đổi dạng tín hiệu video
này thành dạng tín hiệu video khác. Việc chuyển đổi này giúp cho quá trình phân
phối tín hiệu trên mạng IPTV có hiệu quả hơn và để hỗ trợ cho việc chuyển đổi thì
các khung nén khác nhau phải được sử dụng trong hệ thống HeadEnd.
Đóng gói Video : Các nhà cung cấp dịch vụ nhận nội dung từ nhiều nguồn
khác nhau vì thế mà việc định dạng lại nội dung theo các gói là rất cần thiết để


Nguyễn Anh Tuấn

15


giúp cho quá trình phân phát nội dung đạt hiệu quả cao về tốc độ và chất lượng.
Với mạng IPTV mới xây dựng thì cơ chế đóng gói này chính là việc gói các khung
Video MPEG-x vào giao thức gói tin người sử dụng (UDP) để phát trên mạng IP,
còn đối với mạng kế thừa từ trước, đó là việc gói vào các tế bào ATM (Chế độ
truyền tải không đồng bộ).
Ngoài các chức năng trên HeadEnd trung tâm còn thực hiện các chức năng
khác như chèn quảng cáo. HeadEnd chứa các thiết bị có độ tin cậy cao và đáp ứng
được các yêu cầu của môi trường. Tính mềm dẻo, tính linh hoạt và khả năng nâng
cấp được sẽ rất khác nhau đối với từng loại sản phẩm và từng nhà cung cấp.
Vì các tính năng của HeadEnd được thực hiện ở rất nhiều vị trí khác nhau
trong phạm vi mạng IPTV nên yêu cầu của hệ thống sẽ phụ thuộc vào rất nhiều
tham số chẳng hạn như các bộ mã hóa, các giao diện cần sử dụng…
5. IPTV Middeware server – máy chủ điều hành.
Middeware là hệ thống điều khiển, quản lý khách hàng và quản lý cung cấp
dịch vụ IPTV.Hay nói cách khác là hệ thống cung cấp khả năng quản lý thuê bao,
nội dung và các thông tin của hệ thống hoàn chỉnh cùng với các chức năng quản lý
EPG (Các chỉ dẫn lập trình điện tử) và STB.
Middeware duy trì tính mở cho hệ thống tích hợp các dịch vụ trong tương
lai. Middeware là một giao diện của hệ thống cung cấp dịch vụ IPTV với người
dùng, xác định danh tính của người dùng, quy định một danh sách các dịch vụ mà
người dùng đó có thể sử dụng và trợ giúp lựa chọn dịch vụ này cho khách hàng
sau khi đã xác thực danh tính cho người dùng.
Middeware không giới hạn bất kì hoạt động riêng lẻ nào ở trong hệ thống,
nó sẽ giao tiếp trực tiếp với mỗi thành phần được hệ thống hỗ trợ.
Middeware đảm bảo các hoạt động bên trong của dịch vụ truyền hình một

cách hoàn hảo vì thế nó có thể coi là bộ não phía sau của hệ thống IPTV.
Middeware thực hiện 4 chức năng sau:
• Định nghĩa các dịch vụ, các gói dịch vụ và giá cả của dịch vụ đó.

Nguyễn Anh Tuấn

16


• Đảm bảo các giao diện với hệ thống bên ngoài chẳng hạn như STB.
• Trao đổi thông tin với VoD Server. Trong một vài trường hợp, nó giao
tiếp với các thành phần mạng bên dưới.
• Quản trị các phiên giao dịch nhỏ (Quản trị khách hàng truy nhập vào
các kênh truyền hình theo từng thời điểm, quản trị tài nguyên…).

6. Set-Top-Box (STB).

Hình: Set-Top-Box
STB là thiết bị đầu cuối phía khách hàng cho phép thu, giải mã và hiển thị
nội dung trên màn hình tivi.
STB hỗ trợ các chuẩn MPEG-4/H.264, các kênh truyền hình có độ phân
giải cao, hỗ trợ kết nối giữa thiết bị tivi và mạng điện thoại. Ngoài ra STB còn hỗ
trợ thêm phần mềm quản lý khách hàng của nó dựa trên cấu trúc phần mềm thân
thiện.
* Chức năng của STB :

Nguyễn Anh Tuấn

17



Nối tiếp vào mạng băng thông rộng, thu phát và xử lý số liệu IP và luồng
Video
Tiến hành giải mã dòng Video MPEG-2, MPEG-4…đảm bảo video VoD
hiển thị lên màn hình tivi các số liệu hình ảnh.
Phối hợp với bàn phím đảm bảo thực hiện ngôn ngữ đánh dấu siêu văn bản
sử dụng trên mạng, tiến hành gửi nhận Email. Hộp STB đảm nhiệm các nhiệm vụ
trên chủ yếu dựa vào bộ vi xử lý.
* Có 3 thành phần chủ yếu trong một thiết bị STB là : Giao diện mạng,
bộ nhớ đệm, bộ giải mã.
Giao diện mạng : cho phép khách hàng có thể giao tiếp để nhận dữ liệu từ
máy chủ mạng IPTV, cung cấp cơ chế phiên dịch lệnh nhận được từ người sử
dụng thành các tín hiệu thích hợp cho truyền dẫn trên mạng.
Bộ nhớ đệm : Do hiện tượng trượt, trễ trên mạng nên khoảng thời gian đến
của dòng video là không xác định và chính xác.
Để đảm bảo việc phát các kênh được liên tục theo thời gian thì Server đảm
bảo dữ liệu phải có mặt tại phía khách hàng trước thời điểm sớm nhất dự đoán sẽ
đến bằng cách tính trễ lớn nhất trên mạng.
Để đảm bảo đồng bộ, nó cần xử lý làm trễ bằng các lệnh Jump trong bộ
nhớ đệm. Nếu dung lượng bộ nhớ đệm đủ lớn và các mức làm trễ mà bộ nhớ đệm
đủ lớn thì phía khách hàng có thể thực hiện lệnh Jump Forward và Jump
Backward mà không cần yêu cầu phải nhận được dữ liệu trực tiếp từ Server.
Cũng tương tự với các lệnh Fast Forward và Fast Rewind, bộ nhớ đệm sẽ
đáp ứng yêu cầu lệnh nhanh hơn nếu dữ liệu đã thực sự lưu trữ trong bộ nhớ của
STB.
Bộ giải mã : Để tiết kiệm không gian lưu trữ, dung lượng đĩa và băng
thông mạng, các phim ảnh thường được mã hóa trước khi lưu trữ. Vì vậy phía
khách hàng cần có bộ giải mã để giải mã dòng tín hiệu đến, trước khi cung cấp cho
phần hiển thị.


Nguyễn Anh Tuấn

18


Việc lưu trữ dữ liệu trước khi cung cấp cho phần hiển thị được thực hiện
trong bộ nhớ đệm cho phép tránh được việc giải mã thời gian thực, tức là dữ liệu
cần hiển thị phải được thực hiện giải mã trước khi cung cấp cho quá trình hiển thị.
Nhờ đó có thể sử dụng phần cứng và thuật toán giải mã ít phức tạp hơn, kéo
theo sẽ giảm được chi phí cho bộ STB.
7. Thiết bị đầu cuối khách hàng.
Thiết bị đầu cuối khách hàng được đặt tại nhà khách hàng thông thường là
một bộ STB, một PC hoặc các thiết bị mạng khác trong gia đình.
IPTV Client là một khối chức năng dùng để chuyển lưu lượng IPTV tới
thiết bị đầu cuối khách hàng như STB với mục đích xử lý tín hiệu. IPTV Client
thiết lập kết nối, QoS với Node dịch vụ, giải mã luồng video, thay đổi kênh, kiểm
soát hiển thị và kết nối tới các ứng dụng người sử dụng như các kênh truyền hình
có độ phân giải cao (HDTV).

III. Các giao thức và phần mềm.
1. Thành phần mạng truyền dẫn.
Yêu cầu mạng phải đáp ứng được các tính năng sau:
• Băng thông rộng : Đó là hệ thống truyền dữ liệu mà tại đó nhiều thiết bị
truyền dẫn sử dụng chung một đường truyền.
• Dung lượng hướng về (Download) lớn hơn rất nhiều so với hướng đi
(Upload).
2. Các giao thức được sử dụng.
Thông thường, nội dung Video sẽ được mã hóa dưới dạng luồng tín hiệu
MPEG-2 qua chế độ phát quảng bá đa điểm IP. Đây là phương pháp thông tin
được gửi tới rất nhiều máy tính trong cùng một thời điểm. Một chuẩn mới được ra

đời thay thế cho chuẩn MPEG-2, đó là định dạng H.264 (Hay là MPEG-4 AVC).
Đây là chuẩn dẫn đầu trong công nghệ nén hình ảnh cho phép cung cấp hình ảnh
Nguyễn Anh Tuấn

19


tốt nhất, kích thước file nhỏ nhất, hỗ trợ DVD và truyền tốc độ cao so với các
chuẩn trước.
Trong một hệ thống IPTV tiêu chuẩn, các giao thức lớp dưới được sử dụng
cho IPTV là giao thức quản lý nhóm Internet (IGMP) và giao thức luồng tín hiệu
thời gian thực (RTSV).
H.264 giảm một nữa băng tần yêu cầu khi phát video kĩ thuật số chất lượng
cao (DVD) tới khách hàng và làm giảm băng tần truyền dẫn tín hiệu truyền hình
số tiêu chuẩn xuống còn 700Kbps.
Hệ thống mã hóa H.264 sẽ chuyển các tín hiệu Video nguyên thủy thu được
từ các nhà cung cấp nội dung thành luồng tín hiệu Video H.264. Các luồng tín
hiệu này có thể được đóng gói (Capture). Đây là một hình thức ngắt ngoài và được
lưu trữ trên các Video server tại trung tâm thu phát tín hiệu (HeadEnd) hoặc gửi
tới một Video Server tại tổng đài trung tâm (CO) để phục vụ các dịch vụ video
theo yêu cầu. Dữ liệu video lúc đó có thể xem như là một chương trình trực tiếp
trên mạng. Các thiết bị chuyển mạch và các thiết bị mạng tiêu chuẩn sẽ định tuyến
các luồng video này, gói chúng trong giao thức truyền tải trên mạng tiêu chuẩn.
Một phần đặc biệt của H.264 đó là lớp mạng trừu tượng (Network
Abstraction Layer-NAL) cho phép gói luồng tín hiệu được truyền tải dễ dàng qua
mạng TCP/IP.
Khi dữ liệu Video tới phía thu, nó sẽ được định tuyến tới khách hàng qua
modem DSL và qua mạng nội bộ của khách hàng. Một bộ STB sẽ giải mã luồng
dữ liệu và hiển thị chúng trên màn hình TV hoặc monitor trong một máy tính PC.
3. Một số phần mềm.

3.1. Windows Media Player

Nguyễn Anh Tuấn

20


Windows Media là sản phẩm để phục vụ việc truyền thông đa phương tiện
trên mạng Internet. Windows Media khá phổ biến và nay đã có phiên bản mới nhất
là Windows Media 11.
Cũng giống như Real, Windows Media tập trung vào việc phát
Audio/Video qua mạng Internet với sự hỗ trợ của 2 giao thức MMS và HTTP với
định dạng là dạng file nén của Microsoft cho cả hình ảnh (đuôi .WMV- Windows
Media Video) hoặc chỉ âm thanh (.WMA- Windows Media Audio).
Windows Media cung cấp một bộ công cụ đóng gói hoàn chỉnh có tên là
Windows Media Techonologies (WMT) bao gồm :
Windows Media Tool dùng để kiến tạo dữ liệu các dòng Streaming.
Windows Media Services đóng vai trò là máy chủ cung cấp dòng Video để
cung cấp dữ liệu.
Windows Media Player là công cụ hiển thị dữ liệu.
Windows Media Right Manager sử dụng để bảo vệ chống sao chép dưc
liệu.
Windows Media Server hỗ trợ công nghệ dòng dữ liệu thông minh
“Intelligent Streaming” cho phép truyền tải dữ liệu dựa trên độ rộng băng thông
Internet giữa người dùng và Server. Khi chất lượng đường truyền bị suy giảm thì
Nguyễn Anh Tuấn

21



Video Server sẽ tự động giảm chất lượng dữ liệu, giảm tỉ lệ nén, loại bỏ một số
khung hình để việc hiển thị không bị ngắt đoạn.
3.2. Real Player

RealPlayer (hay RealVideo hoặc Real) được phát triển bởi RealNetworks.
RealPlayer sử dụng công nghệ nén Real G2, hỗ trợ cả hai giao thức bao gồm giao
thức truyền tải nội dung thời gian thực (RTSP) và giao thức truyền siêu văn
bản (HTTP), rất thích hợp trong việc truyền phát các Audio/Video hoặc khuôn
dạng Media.
3.3. Quick Time Player

Nguyễn Anh Tuấn

22


QuickTime là một phần mềm Multimedia dùng để xem phim, nghe nhạc
giống như Windows Media Player (WMP) của Microsoft. Nó là một ứng dụng có
thể chạy trên nhiều hệ thống và là chuẩn chính thức sớm nhất cho nền tảng phần
mềm về Multimedia.
QuickTime sử dụng giao thức truyền tải nội dung thời gian thực (RTSP), có
thể hoạt động trên nhiều hệ thống từ UNIX đến NT và hoàn toàn miễn phí.
QuickTime hỗ trợ khá nhiều định dạng, từ các định dạng về hình ảnh như JPEG và
các định dạng Video số như định dạng MPEG-1. Quick là một công cụ rất mạnh
để truyền tải Multimedia, chỉnh sửa và nén dữ liệu.

4. Một số dịch vụ được cung cấp bởi IPTV
Dịch vụ truyền hình: các nội dung truyền hình được quảng bá theo lịch
trình thời gian cố định như truyền hình truyền thống. Sự lựa chọn các gói kênh
theo yêu cầu của khách hàng có thể bao gồm các kênh truyền hình công cộng

(public), các kênh truyền hình trả tiền (pay TV), các kênh truyền hình được ưa
thích, các kênh về mua sắm, các kênh về thời trang, v.v...
Dịch vụ Video on Demand (VoD): việc phát các nội dung truyền hình được
lựa chọn bắt đầu khi người sử dụng lựa chọn nội dung đó. Thông thường, nội dung
là các bộ phim hay các phim đã được ghi lại từ một thư viện. Dịch vụ này có thể
được sử dụng trong một thời gian giới hạn. Các chức năng thường giống như chức

Nguyễn Anh Tuấn

23


năng của máy ghi hình (VCR) hay đầu DVD (DVD player): phát hình (play), dừng
hình (pause), tua hình (fast forward), v.v...
Máy ghi hình các nhân (Personal Video Recorder, PVR): PVR là một thiết
bị điện tử dân dụng cho phép ghi lại các nội dung quảng bá để xem lại ở một thời
điểm sau đó.
Máy ghi hình cá nhân qua mạng (Network PVR, NPVR): đây là phiên bản
sử dụng trên mạng của PVR. Nó có thể được xem như là một VCR ảo với việc lưu
trữ và các chức năng khác cung cấp từ mạng. Nội dung truyền hình quảng bá có
thể được ghi và xem lại sau đó.
Hướng dẫn chương trình điện tử (Electronic Program Guide, EPG): một
hướng dẫn để cung cấp cho người sử dụng các thông tin về các chương trình IPTV
đang và sắp phát. Có thể nói một EPG là phương thức để người sử dụng tìm kiếm
các nội dung của nhà cung cấp.
Các dịch vụ thông tin: các dịch vụ thông tin có thể bao gồm tin tức thời sự,
tin thể thao, dự báo thời tiết, thông tin về các chuyến bay, các sự kiện trong khu
vực/địa phương, v.v...
Truyền hình tương tác: “kênh phụ” (back-channel) IP không chỉ cung cấp khả
năng lấy thông tin mà còn cho phép tương tác với các show truyền hình hoặc khởi

tạo các ứng dụng liên kết đến các chương trình đang chạy. Các ví dụ điển hình của
truyền hình tương tác là tham dự vào các trò chơi truyền hình, bình chọn qua
truyền hình, phản hồi của người xem truyền hình, các chương trình thương mại,
v.v...
Các ứng dụng tương tác: sự tương tác không chỉ được liên kết đến một
chương trình truyền hình truyền thống. Đấu giá, mua sắm, dịch vụ ngân hàng là
các ứng dụng truyền hình được sử dụng rộng rãi, tạo ra sự hội tụ của thiết bị và sự
phát triển các giao diện người sử dụng mới. Truyền hình khiến cho việc sử dụng
các ứng dụng tương tác (giống như việc sử dụng Internet) trở thành một trong
những thành phần chiếm ưu thế của IPTV/VoD tương lai. Đây cũng là một yếu tố

Nguyễn Anh Tuấn

24


khác biệt chủ yếu nhất so với truyền hình quảng bá truyền thống vốn không có
một “kênh phụ” nào (có chăng là một đường điện thoại).
Các ứng dụng băng rộng: các ứng dụng dùng cho người tiêu dùng và doanh
nghiệp cũng có thể được thực hiện thông qua hạ tầng IPTV/VoD như hội nghị
truyền hình, đào tạo từ xa, giám sát an ninh, v.v...
Pay-per-View (PPV): là hình thức trả tiền để xem một phần chương trình
truyền hình, ví dụ: trả tiền để xem một sự kiện thể thao hay trả tiền để nghe một
bản nhạc. Hệ thống cung cấp một kênh phim truyền hình theo hình thức PPV cho
các thuê bao.
Trò chơi theo yêu cầu (Games on Demand): dịch vụ này sẽ cung cấp nhiều loại
game tùy chọn đến thuê bao từ một danh sách có sẵn. IPTV yêu cầu game đơn
giản dựa trên HTML.
Âm nhạc theo yêu cầu (Muics on Demand): các thuê bao có thể xem những
clip ca nhạc theo yêu cầu, giống như dịch vụ VoD.

Truyền hình của hôm trước (TV of Yesterday, TVoY): dịch vụ này cho
phép thuê bao xem phim truyền hình đã được phát những ngày trước.
Karaoke theo yêu cầu (Karaoke on Demand): các thuê bao có thể chọn và
xem các bài Karaoke qua Set-top Box (STB) trên TV. Từ list các bài karaoke đã
được giới thiệu, thuê bao có thể mua một hoặc nhiều bài hát cùng lúc. Dịch vụ sẽ
được triển khai trong tương lai.

IV. Yêu cầu về kỹ thuật
1. Mạng ngoại vi.
Trong dự án xây dựng cấu trúc mạng MAN – E, hệ thống DSLAM được
phân bố tương đối đồng đều tại các khu dân cư với khoảng cách từ thuê bao đến
DSLAM lớn nhất là 4km.

Nguyễn Anh Tuấn

25


×