Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN một số BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC THIẾU sót, SAI lầm TRONG GIẢI các bài TOÁN về CHUYỂN ĐỘNG đều CHO học SINH lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.33 KB, 21 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài: MỘT SỐ BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC THIẾU SÓT, SAI LẦM
TRONG GIẢI CÁC BÀI TOÁN VỀ CHUYỂN ĐỘNG ĐỀU CHO HỌC SINH
LỚP 5.

- Họ và tên: Đỗ Thị Bích
- Đơn vị công tác: Trường TH Phú Mỹ 2.
1. Sự cần thiết, mục đích của việc thực hiện sáng kiến:
1.1/Xuất phát từ vai trò môn Toán ở bậc Tiểu học:
Như chúng ta đã biết môn Toán là một trong những môn học có vị trí đặc biệt
quan trọng ở bậc Tiểu học. Môn Toán cung cấp những kiến thức cơ bản về số, phép
tính, giải toán và khái niệm cơ bản về hình học.
Các kiến thức kỹ năng của môn Toán ở tiểu học có nhiều ứng dụng trong đời
sống trong sinh hoạt và lao động của học sinh. Đó cũng là công cụ rất cần thiết để
học sinh học các môn học khác.
Môn Toán giúp học sinh nhận biết được mối liên hệ về thế giới xung quanh.
Ngoài ra môn Toán còn góp phần rất lớn trong việc rèn luyện phương pháp suy
nghỉ, phương pháp suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề có căn cứ có khoa học
và chính xác… Môn Toán có nhiều tác dụng trong việc rèn luyện trí thông minh, tư
duy độc lập và sáng tạo của học sinh.
1.2/Xuất phát về vai trò của phần kiến thức các loại bài toán chuyển động
đều:
Trong quá trình trực tiếp giảng dạy trên lớp, chính vì thấy được vai trò của môn
Toán nên khi truyền thụ kiến thức cho học sinh tôi luôn có ý thức tìm hiểu xem học
sinh của mình còn yếu về phần kiến thức nào để có biện pháp giúp đỡ học sinh
khắc phục.
1


Qua nhiều năm học được phân công dạy lớp 5. Tôi nhận thấy đa số học sinh còn
yếu và lúng túng khi giải các bài toán về chuyển động đều. Mản kiến thức ở các bài


toán về chuyển động đều đóng một vai trò rất quan trọng, nó là một phần của mản
kiến thức về giải toán. Từ việc giải các bài toán có lời văn giúp học sinh bước đầu
nắm được khái niệm đơn giản về quãng đường, vận tốc, thời gian và công thức
tính. Tuy nhiên muốn học tốt dạng toán này học sinh phải biết kết hợp, nắm chắc
được các kiến thức đã học như: phép đo đại lượng(số đo thời gian, số đo độ
dài ),các bài toán tỉ lệ thuận, tỉ lệ nghịch và nắm được mối quan hệ giữa ba công
thức tính vận tốc - quãng đường - thời gian, học sinh còn phải vận dụng về toán tìm
thành phần chưa biết. Hơn nữa nội dung và kiến thức ở các bài toán về chuyển
động đều bước đầu cho học sinh làm quen một phần kiến thức của môn vật lý của
các lớp trên.
1.3/Xuất phát từ nghiên cứu thực tiễn những vấn đề có liên quan đến đề tài:
Sau khi tìm hiểu nguyên nhân mà học sinh gặp khó khăn khi học đến phần kiến
thức này tôi nhận thấy có một số nguyên nhân sau:
- Khi dạy về phần kiến thức này giáo viên chưa khéo léo dẫn dắt học sinh củng
cố lại kiến thức đã học để vào bài mới, nhằm làm giảm bớt sự bở ngỡ lúng túng khi
học sinh bắt đầu làm quen với dạng toán này.
- Trong quá trình giảng dạy giáo viên còn xem nhẹ đến sự chủ động, sáng tạo của
học sinh. Đôi khi vì thiếu kiên trì giáo viên đã vội vàn đưa ngay công thức tính.
Chính vì vậy dẫn đến học sinh lười suy nghĩ, làm việc theo quán tính, làm việc theo
sự áp đặt sắp xếp của giáo viên.
- Học sinh vận dụng công thức tính vận tốc, quãng đường, thời gian một cách
máy móc cho nên khi gặp những bài toán phức tạp hơn như bài toán về hai động tử
cùng chiều đổi ngược chiều, động tử trên bộ, dưới thủy…hay những số đo đại
lượng cần chuyển đổi, học sinh chưa linh hoạt và gặp nhiều khó khăn dẫn đến kết
quả chưa cao.
Từ những lý do thực tế đã nêu trên nhằm hỗ trợ một phần làm giảm bớt những
khó khăn, lúng túng và sự nhằm lẩn học sinh thường mắc phải, khi học đến các bài
2



toán về chuyển động đều, đồng thời giúp học sinh phát huy được tính tích cực và
sáng tạo trong học toán để đạt được kết quả cao, cho nên tôi đã tìm hiểu và chọn
sáng kiến kinh nghiệm“Một số biện pháp khắc phục thiếu sót, sai lầm trong
giải các bài toán về chuyển động đều cho học sinh lớp 5”. Để góp phần thành
công trong mỗi tiết dạy, giúp học sinh có hứng thú khi học các dạng bài toán này.
2. Phạm vi triển khai thực hiện :
- Năm học: 2010 -2011 đã thực hiện thí điểm tại lớp 5A trường Tiểu học Phú Mỹ
2.
- Năm học: 2011 - 2012 triển khai đồng loạt trong toàn giáo viên khối 5 trường
Tiểu học Phú Mỹ 2.
3. Mô tả sáng kiến :
3.1/ Mục tiêu dạy học các bài toán chuyển động đều.
Giáo dục chuyển động đều là bộ phận của giáo dục toán học. Do đó chuyển động
có nhiệm vụ góp phần vào việc thực hiện nhiệm vụ và mục tiêu chung của môn
toán nói chung ở cấp học này, theo đặc điểm và khả năng giáo dục của mình,đồng
thời tính toán đến đặc điểm phát triển tâm lý của lứa tuổi học sinh. Nhiệm vụ đó là
trang bị cho học sinh một hệ thống kiến thức toán về chuyển động và kỹ năng cơ
bản cần cho việc học tập tiếp tục và đi vào cuộc sống lao động thông qua việc làm
trên bước đầu phát triển năng lực trừu tượng hóa, khái quát hóa, phân tích tổng
hợp, từng bước hình thành và rèn luyện phương pháp và tác phong rèn luyện khoa
học phát triển phù hợp với tâm sinh lý của từng lứa tuổi, các khả năng suy luận.
Việc thực hiện các nhiệm vụ trên phải nhằm vào các mục tiêu cụ thể sau:
*Kiến thức mở đầu:
- Về chuyển động đều.
Có những hiểu biết ban đầu đúng đắn về một vài loại toán chuyển động đều
thường gặp và có khả năng nhận dạng như: chuyển động ngược chiều gặp nhau,
cùng chiều đổi nhau, ngược chiều xa nhau, động tử có chiều dài đáng kể, chuyển
động theo vòng tròn, chuyển động xuôi dòng, ngược dòng tìm vận tốc trung bình
chạy đi chạy lại nhiều lần.
3



- Về đại lượng.
Việc hình thành khái niệm “Đại lượng” không thể đặt ra đối với tiểu học là quá
trừu tượng.Ở tiểu học cần thông qua thực hành và vận dụng các phép tính số học
đối với các đại lượng ấy như: quãng đường,vận tốc, thời gian…biết ước lượng các
số đo đơn giản và biểu diễn các số đo bằng các đơn vị khác.
- Kỹ năng tính toán và giải toán chuyển động.
Nắm chắt và vận dụng thành thạo các thuật toán để khi thực hiện ít sai lầm.
Thực hiện tương đối tính toán trên các đơn vị đo đại lượng(bao gồm các việc
chuyển đổi đơn vị đo khi tính toán).
Nắm được và thực hiện thành thạo quy trình giải toán chuyển động.Từng bước
hướng dẫn và gây hứng thú cho học sinh giải toán bằng nhiều cách khác nhau.
- Yêu cầu phát triển tư duy bồi dưỡng phương pháp phân tích suy luận và thực
hành, rèn luyện nền nếp, phong cách học tập toán chuyển động.
Việc thực hiện mục tiêu này không nằm bên cạnh các mục tiêu trên, hỗ trợ việc
thực hiện các mục tiêu trên có hệ quả. Cũng cần thấy rằng việc rèn luyện nền nếp
phong cách học tập chủ yếu liên quan tới khả năng của giáo viên cần có những biện
pháp hợp lý từng bước trên cơ sở nắm vững nội dung và yêu cầu cụ thể của từng
lớp, được cụ hể hóa trong chương trình sách giáo khoa và các sách hướng dẫn
giảng dạy.
3.2/ Nội dung dạy học giải các bài toán về chuyển động đều.
Khi giảng dạy tôi hướng dẫn cho học sinh nắm được nội dung của các dạng bài
toán về chuyển động đều .
a/ Các đơn vị đo lường: Thời gian, độ dài, bảng đo đơn vị thời gian, đo độ dài.
b/ Các đơn vị về chuyển động đều:
Tìm thời gian chuyển động biết độ dài và vận tốc chuyển động.
Tìm vận tốc chuyển động biết độ dài và thời gian chuyển động.
Tìm quãng đường đi được, khi biết vận tốc và thời gian chuyển động.
c/ Các bài toán hợp về chuyển động .

Chuyển động ngược chiều gặp nhau.
4


Chuyển động cùng chiều đối nhau.
Chuyển động xuôi dòng ngược dòng.
Tìm vận tốc trung bình.
Để phát huy khả năng tư duy, óc sáng tạo, tìm tòi của học sinh, đặc biệt là
những học sinh giỏi có năng khiếu học toán ngoài những kiến thức cơ bản về các
bài toán chuyển động đều đã được nêu trên, Khi giảng dạy tôi còn mở rộng kiến
thức nhằm đáp ứng khả năng của học sinh một các phù hợp như đưa thêm một số
dạng toán sau:
Chuyển động ngược chiều rồi xa nhau.
Chuyển động theo đường vòng.
Chạy đi, chạy lại nhiều lần.
Ngoài việc giúp học sinh nắm vững nội dung của từng dạng bài tôi cần khắc sâu
kiến thức bằng cách cho học sinh vận dụng các công thức khi giải bài một các linh
hoạt.
+ Các đơn vị đo lường.
Các đơn vị đo độ dài và quan hệ giữa các đơn vị đo.
Các đơn vị đo thời gian và quan hệ giữa các đơn vị đo.
+ Các bài toán đơn về chuyển động đều.
* Khi học mản kiến thức này học sinh cần nắm:
Muốn tìm vận tốc ta lấy quãng đường chia cho thời gian:
V=S:T
Muốn tìm quãng đường ta lấy vận tốc nhân với thời gian:
S=VxT
Muốn tìm thời gian ta lấy quãng đường chia cho vận tốc:
T=S:V
Về mối quan hệ giữa các đại lượng vận tốc, quãng đường, thời gian.

- Khi đi cùng vận tốc thì quãng đường tỷ lệ thuận với thời gian.
- Khi đi cùng với thời gian thì quãng đường tỷ lệ thuận với vận tốc.
- Khi đi cùng quãng đường thì thời gian tỷ lệ nghịch với vận tốc.
5


+ Các bài toán hợp về chuyển động.
Hai động tử chuyển động ngược chiều trên cùng một quãng đường và khởi hành
cùng một lúc để gặp nhau thì:
Quãng đường
Thời gian gặp nhau =
Tổng vận tốc
Quãng đường =Vận tốc x Thời gian
Quãng đường
Tổng vận tốc =
Thời gian gặp nhau
Hai động tử chuyển động trên cùng chiều cùng một quãng đường và khởi hành
cùng một lúc để đuổi kịp nhau thì:
Khoảng cách lúc đầu
Thời gian đuổi kịp =
Hiệu vận tốc
Khoảng cách lúc đầu = Thời gian đuổi kịp x Hiệu vận tốc.
Khoảng cách lúc đầu
Hiệu vận tốc =
Thời gian đuổi kịp
Hai động tử khởi hành cùng một lúc từ một địa điểm chạy ngược chiều để rời xa
nhau thì:
Khoảng cách = Tổng vận tốc x Thời gian rời xa nhau.
Khoảng cách
Thời gian =

Tổng vận tốc
Khoảng cách
Tổng vận tốc =
Thời gian
6


Vận tốc xuôi dòng ngược dòng:
- Vận tốc đi xuôi dòng bằng vận tốc thực cộng vận tốc dòng nước.
- Vận tốc đi ngược dòng bằng vận tốc thực trừ vận tốc dòng chảy.
Khi giảng dạy tôi còn phân tích từng nội dung các bài toán cho học sinh nắm
cũng như:
* Kiến thức về đo đại lượng (độ dài, thời gian ) học sinh đã học ở lớp dưới và các
tiết học trước của chương trình toán 5. Tuy nhiên độ dài và thời gian chuyển động
có liên quan chặt chẽ đến vận tốc chuyển động của vật trong chuyển động đều.
Vì vậy khi dạy các bài toán chuyển động đều, nếu thấy học sinh còn lúng túng về
các chuyển đổi các phép đo về các đại lượng. Cần giúp học sinh nắm lại bản hệ
thống đơn vị đo, xem lại mối quan hệ các đơn vị kế cận, thực hiện các phép tính
trên số tự nhiên và số đo đại lượng. Khi chuyển đổi nhớ phải thực hiện các phép
tính, sử dụng bản hệ thống đơn vị đo và khi chuyển đổi đơn vị đo ta có thể viết
thêm hoặc xóa bỏ số 0, dịch dấu phẩy sang trái hoặc sang phải 1,2,3 chữ số.
Ví dụ:
Đổi số đo có tên đơn vị này sang số đo có tên đơn vị khác.
12000 m = 12 km
1 giờ = 60 phút
Đổi số đo là số tự nhiên sang số đo là số thập phân khác về đơn vị.
4 giờ 30 phút = 4,5 giờ.
* Các bài toán đơn về chuyển động đều:
+ Tìm vận tốc.
Xác định vận tốc và thời gian chuyển động của vật.

Lấy chuyển động chia cho thời gian tương ứng.
Ví dụ: Một ô tô đi được quãng đường dài 170 km trong 4 giờ. Hỏi trung bình mỗi
giờ ô tô đi được bao nhiêu ki-lô-mét ?
Giải
Trung bình mỗi giờ ô tô đi được là:
170 : 4 = 42,5 (km )
7


Đáp số : 42,5 km
+ Tìm quãng đường.
Xác định vận tốc và thời gian chuyển động của vật.
Lấy vận tốc nhân thời gian chuyển động của vật.
Ví dụ: Một người đi xe đạp với vận tốc 12 km/giờ trong 2 giờ 30 phút. Tính
quãng đường người đó đã đi được ?
Giải
2 giờ 30 phút = 2,5 giờ
Quãng đường người đó đã đi được là:
12 x 2,5 = 30 (km )
Đáp số: 30 km
+ Tìm thời gian.
Xác định chuyển động và vận tốc chuyển động của vật.
Lấy quãng đường đó chia cho vận tốc.
Ví dụ: Một ô tô đi được quãng đường 170 km với vận tốc 42,5 km/giờ.Tính thời
gian ô tô đi quãng đường đó.
Giải
Thời gian ô tô đó là:
170 : 42,5 = 4 (giờ )
Đáp số: 4 giờ
* Các bài toán hợp về chuyển động đều.

+ Hai động tử chuyển động ngược chiều trên cùng và khởi hành cùng một lúc để
gặp nhau.
Cần tính khoảng cách giữa hai vật ở cùng một thời điểm(thường là thời điểm
của vật khởi hành sau).
Tính xem mỗi đơn vị thời gian khoảng cách đó ngắn lại bao nhiêu(chính là tổng
vận tốc).
Tính thời gian mà hai vật phải đi để gặp nhau .
8


Ví dụ: Hai người đi xe đạp cùng một lúc từ hai xã A và B cách nhau 21 km đi
ngược chiều nhau để gặp nhau.Vận tốc của người đi xe đạp từ xã A là 3 km/giờ,
của người đi xe đạp từ xã B là 4 km/giờ. Hỏi sau mấy giờ hai người đó gặp nhau.
Giáo viên phải gợi ý cho học sinh: Đây là toán chuyển động “ngược chiều’’có
thể vẽ hình minh họa chuyển động đó:
Gặp nhau
3km/giờ
A

4km/giờ
C

B

- Cứ sau một giờ hai người gần nhau được.
3 + 4 = 7 km
(đó cũng là tổng của hai vận tốc )
Để gặp nhau cả hai người phải cùng đi được 21km và phải mất thời gian là:
21 : 7 = 3 giờ
Hướng dẫn học sinh nhận xét: Trong chuyển động ngược chiều muốn tìm thời

gian để gặp nhau ta lấy quãng đường chia cho tổng vận tốc.
+ Hai động tử chuyển động cùng chiều trên cùng một quãng đường và khởi
hành cùng một lúc để đuổi kịp nhau.
Tính khoảng cách giữa hai vật ở cùng một thời điểm(thường là thời điểm vật đi
sau khởi hành).
Tính xem mỗi đơn vị thời gian khoảng cách đó rút ngắn được bao nhiêu(chính là
hiệu vận tốc).
Tính thời gian của vật đi sau,cần đi để đuổi kịp vật đi trước.
Ví dụ: Một người đi xe đạp từ B đến C với vận tốc 12km/giờ, cùng lúc đó một
người đi xe máy từ A đến B là 48km với vận tốc 36km/giờ và đuổi theo xe đạp.
Hỏi kể từ lúc bắt đầu đi, sau mấy giờ xe máy đuổi kịp xe đạp ?
Giáo viên phải gợi ý cho học sinh: Có thể minh họa chuyển động theo hình vẽ
sau:
48km
9


A.36km/giờ

B.12km/giờ

C.gặp nhau

Sau mỗi giờ xe máy gần xe đạp( hiệu hai vận tốc).
36 – 12 = 24 (km)
Để đuổi kịp xe đạp thì xe máy cần phải có thời gian là:
48 : 12 =2 (giờ )
Hướng dẫn học sinh nhận xét: ( với T là thời gian để đuổi kịp)
AC = 36 x T
BC = 12 x T

AB = ((36 – 12 ) x T
Hay 48 km = 24 km/giờ x T
Suy ra: T = 48 : 24 = 2 giờ
Trong chuyển động cùng chiều muốn tìm thời gian đi gặp nhau ta lấy quãng
đường chia cho hiệu hai vận tốc.
+ Chuyển động xuôi dòng,ngược dòng.
Xác định vận tốc thực (Vt ) của vật và vận tốc của dòng chảy (Vd)
Vận tốc xuôi dọng Vx = Vt + Vd
Vận tốc ngược dòng Vn = Vt – Vd
Ví dụ: Một tàu thủy khi đi xuôi dòng có vận tốc 26,5km/giờ, khi đi ngược dòng
có vận tốc 16,5km/giờ. Tính vận tốc của dòng sông và vận tốc thực của tàu thủy.
Gợi ý: Khi xuôi dòng có vận tốc 26,5km/giờ là tổng của vận tốc thực của tàu và
vận tốc dòng sông.
Khi ngược dòng có vận tốc 16,5 km/giờ là hiệu của vận tốc thực của tàu và
vận tốc của dòng sông.
Bài toán này có dạng tìm hai số (vận tốc của dòng sông và vận tốc thực của tàu
)khi biết tổng và hiệu của chúng.
Giải
Vận tốc của dòng sông là:
( 26,5 – 16,5) : 2 = 5(km/giờ)
10


Vận tốc thực của tàu thủy là:
26,5 – 5 = 21,5 (km/giờ)
Hoặc có thể tính vận tốc thực tàu thủy:
16,5 + 5 =21,5 (km/giờ )
Đáp số: 5km/giờ
21,5km/giờ
Qua hệ thống phần kiến thức để giải các bài toán chuyển động đều cho thấy: Tuy

số lượng tiết dành riêng cho phần kiến thức này không nhiều nhưng nó có sự liên
quan phần lớn kiến thức đã học, đồi hỏi học sinh phải nắm chắc và vận dụng linh
hoạt kiến thức cũ vào bài mới. Chính vì vậy phần kiến thức này rất quan trọng, nó
góp phần đưa học sinh hoàn thành một cách hoàn hảo chương trình toán tiểu học.
3.3/Phương pháp dạy học các bài toán chuyển động.
Để tiết dạy đạt được kết quả tốt thì việc lựa chọn và sử dụng phương pháp cũng
là một vấn đề quan trọng của mỗi giáo viên. Khi dạy các bài toán về chuyển động
đều tôi sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp trực quan
- Phương pháp thực hành luyện tập
- Phương pháp gợi mở-vấn đáp
- Phương pháp giảng giải minh họa
Khi dạy các bài toán về chuyển động đều cần kết hợp một số phương pháp cho
phù hợp. Không có phương pháp dạy học nào là “vạn năng” là tuyệt đối đúng, phù
hợp với mọi khâu của tiết dạy toán .Tuy nhiên để giúp học sinh nắm được một số
công thức tính và quan hệ giữa vận tốc, quãng đường và thời gian, có khả năng
nhận dạng từng loại bài toán đồng thời không lẫn lộn giữa các đơn vị chúng ta tổ
chức các hoạt động trong tiết dạy sao cho phù hợp nối kết được kiến thức cũ với
kiến thức mới, để đạt được đều đó tôi đã kết hợp nhịp nhàng các phương pháp các
hoạt động trong tiết dạy. Trong đó phương pháp gợi mở-vấn đáp là sử dụng suốt
trong quá trình hình thành kiến thức mới trên cơ sở kiến thức đã học, điều quan
trọng ở đây khi sử dụng phương pháp gợi mở-vấn đáp là tôi không đưa ra những
11


kiến thức hoàn chỉnh mà sử dụng một hệ thống các câu hỏi để hướng dẫn học sinh
suy nghĩ và lần lượt trả lời từng câu hỏi từng bước tiến dần đến kết luận cần thiết,
giúp học sinh tự tìm ra kiến thức mới. Sử dụng phương pháp này gây hứng thú và
khả năng học tập của học sinh, rèn cho học sinh cách suy nghĩ cách diễn đạt bằng
lời, làm cho kết quả vững chắc.

Như vậy rõ ràng phương pháp gợi mở-vấn đáp có một tác dụng rất lớn đối với
việc dạy và học các bài toán chuyển động đều. Sử dụng phương pháp này như thế
nào mới đem lại hiệu quả cao đều này khuyến tôi suy nghĩ rất nhiều và khi giảng
dạy tôi thực hiện một số yêu cầu sau:
+ Xây dựng một hệ thống câu hỏi phù hợp với đối tượng học sinh trong lớp.
+ Mỗi câu hỏi phải có nội dung chính xác phù hợp với mục tiêu yêu cầu của bài
học. Câu hỏi phải rõ ràng không mập mờ khó hiểu hoặc hiểu theo nhiều cách.
+ Cùng một nội dung có thể đặt câu hỏi với những hình thức khác nhau để học
sinh nắm vững kiến thức và linh hoạt trong suy nghĩ.
+ Câu hỏi ngắn gọn gợi ra vấn đề để học sinh suy nghĩ giải quyết vấn đề. Nên
hạn chế những câu hỏi mà học sinh có thể trả lời không hoặc có.
+ Khi dạy học tập trung cả lớp nêu câu hỏi để tất cả học sinh cùng suy nghĩ sau
đó gọi học sinh trả lời. Khi học sinh trả lời tôi cùng học sinh khác theo dõi rồi nhận
xét, bổ sung.
+ Phải sử dụng đúng lúc đúng mức độ phương pháp. Trong một số trường hợp
nên khuyến khích học sinh tự đặt câu hỏi để học sinh khác trả lời.
Phương pháp dạy học đã được xem là cách thức tổ chức giúp học sinh chiếm lĩnh
tri thức, rèn luyện kỹ năng của giáo viên trong quá trình dạy học. Vậy khi sử dụng
phương pháp “gợi mở-vấn đáp” giáo viên phải là người tổ chức hoạt động học tập
của học sinh thông qua vấn đáp, học sinh là người vấn đáp, giáo viên là người trọng
tài, chuyển dần vai trò chủ động cho học sinh bằng cách tổ chức cho học sinh tham
gia đặt câu hỏi trong giờ học.
Lâu nay do thói quen “thầy hỏi” “trò đáp” nên học sinh rất ít khi dám đặt câu hỏi
nhờ giải thích những điều chưa hiểu trong giờ học.Trong thực tế nhiều bài do
12


khuôn khổ sách giáo khoa, một số chi tiết không thể nói kết như trí tò mò, lòng
ham muốn hiểu biết thôi thúc các em muốn hỏi mà ít có cơ hội.
Nếu tạo được cơ hội cho học sinh tham gia nêu các câu hỏi, việc dạy sẽ có tác

dụng rèn luyện phương pháp học tập, vừa bồi dưỡng ý thức chủ động mạnh dạn
trong cuộc sống độc lập sau này.
Để tổ chức cho học sinh tham gia nêu câu hỏi loại gì ? Phần nào của bài ? Nhất
thiết phải có sự định hướng của giáo viên. Câu hỏi định hướng rõ ràng phù hợp
trình độ học sinh sẽ gợi dẫn các em đặt được câu hỏi đúng trọng tâm. Dĩ nhiên
trong quá trình tổ chức luôn cần những câu hỏi gợi ý nhỏ để học sinh tiếp tục bổ
sung các câu hỏi đủ các khía cạnh nội dung cần tìm hiểu.
Khi giảng dạy tôi phân loại câu hỏi theo yêu cầu bài dạy. Khi đó tôi uốn nắn học
sinh diễn đạt câu hỏi của học sinh thêm, bớt hay thay đổi từ ngữ cho ngắn gọn,
sáng nghĩa. Tổ chức cho học sinh thảo luận,giải quyết các câu hỏi theo yêu cầu bài
học.Phân thành hai cách sau:
+ Học sinh nêu câu hỏi tôi phân loại bổ sung,điều chỉnh và tổ chức thảo luận
giải quyết từng câu.
+ Định hướng cho học sinh nêu cả hệ thống câu hỏi rồi mới tiến hành việc tiếp
theo. Kỹ thuật chi tiết của việc tổ chức giải đáp câu hỏi được thực hiện như cách
thực hành trong kỹ thuật lên lớp từng phân môn.
Trên đây là cách sử dụng phương pháp có hiệu quả của tôi trong truyền thụ kiến
thức cho học sinh phần các bài toán về chuyển động đều.
3.4/ Các bước giải bài toán về chuyển động đều.
* Nhìn chung các bài toán về chuyển động đều đa phần là bài toán có lời văn.
Điều chủ yếu của việc dạy học giải toán là giúp học sinh tự tìm hiểu được mối quan
hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm trong điều kiện của bài toán mà thiết lập được
các phép tính số học tương ứng, phù hợp. Để tiến hành được điều đó phải cho học
sinh nắm được các bước sau :
Ví dụ: Để giải một bài toán có lời văn về chuyển động thẳng đều học sinh cần
nắm được các bước chung để thực hiện giải toán .
13


Bước 1: Đọc thật kỉ đề toán xác định đâu là cái đã cho, đâu là cái phải tìm.

Trừ những bài toán quá phức tạp thì nói chung chúng ta phải tập cho học sinh
thói quen tự tìm hiểu đề toán. Hết sức tránh tình trạng học sinh vừa đọc xong đề đã
bắt tay vào giải ngay, ở đây cần lưu ý mấy điểm sau:
+ Mỗi đề toán gồm hai bộ phận. Bộ phận thứ nhất là những điều đã cho, bộ
phận thứ hai là cái phải tìm. Muốn giải được bất cứ bài toán nào học sinh cũng phải
xác định cho đúng hai bộ phận ấy.
+ Chúng ta cần hướng sự tập trung suy nghĩ của học sinh vào những từ quan
trọng của đề toán, từ nào chưa hiểu hết ý nghĩa thì phải tìm hiểu ý nghĩa của nó.
+ Học sinh cần phân biệt rõ những gì thuộc về bản chất của đề toán, những gì
không thuộc về bản chất của đề toán. Để hướng sự chú ý của mình vào những chỗ
cần thiết.
Bước 2: Tóm tắt đề toán
Những bài toán về chuyển động ta nên hướng dẫn học sinh dùng sơ đồ đoạn
thẳng để thiết lập mối quan hệ với những cái đã cho và cái phải tìm.
* Lưu ý học sinh: Khi tóm tắt đề toán cần gạt đi tất cả những gì là thứ yếu, lặt
vặt trong đề toán và hướng dẫn sự tập trung suy nghĩ của mình vào những điểm
chính của đề toán.
Bước 3: Phân tích bài toán để tìm cách giải.
Ở đây cần suy nghĩ xem: Muốn trả lời câu hỏi của đề toán thì cần biết những
gì, cần phải làm những phép tính gì? Trong những điều ấy cái gì đã biết? Cái gì
chưa biết? Muốn tìm cái chưa biết ấy thì lại phải biết những gì? Phải làm tính
gì?...Cứ như thế ta dần tới những gì đã cho trong đề toán.
Từ những suy nghĩ trên học sinh sẽ tìm ra con đường tính toán (hoặc suy luận )
đi từ những điều đã cho có thể tới đáp số của bài toán.
Bước 4: Giải bài toán và thử lại các kết quả.
Dựa vào kết quả phân tích bài toán ở bước 3 xuất phát từ những điều đã cho
trong đề toán, ta lần lượt thực hiện các phép tính để tìm ra đáp số. Cần chú ý thử lại
sau khi làm xong từng phép tính, cũng như thử lại đáp số xem có phù hợp với đề
14



toán không. Cũng cần soát lại các câu lời giải cho các phép tính xem đã đủ ý và gọn
chưa.
Bước 5: Khai thác bài toán(bước này dành cho học sinh khá giỏi) sau khi giải bài
toán xong cần suy nghĩ xem.
- Còn có thể giải bài toán bằng cách khác không?
- Từ bài toán này có thể rút ra nhận xét gì, kinh nghiệm gì?
- Từ bài toán này có thể đặt ra các bài toán như thế nào? Giải chúng ra sao?
* Vận dụng 5 bước tính trên vào hướng dẫn học sinh giải bài toán sau:
Một ca nô đi từ A lúc 6 giờ 20 phút và đến B lúc 11 giờ 20 phút. Biết rằng hai
bến cách nhau 120 km.Tính vận tốc của ca nô .
Bước 1: Đọc kỹ đề toán để xác định cái đã cho và cái phải tìm ở đây bài toán cho
hai điều.
- Ca nô đi từ A lúc 6 gời 20 phút và đến B lúc 11 gời 20 phút.
- Bến A cách bến B 120 km.
Bài toán hỏi vận tốc của nô?
Ở đây ta cần chú ý điều kiện thứ nhất: Ca nô đi từ A lúc 6 gời 20 phút và đến B
lúc 11 giờ 20 phút có nghĩa là: Thời gian ca nô đi là chưa biết. Hai thời điểm(lúc
xuất phát và đến đích) có liên quan chặt chẽ để tìm thời gian của ca nô đi 120 km.
Bước 2: Tóm tắt đề toán.
Ta có thể vẽ hình như
120 km
A
6 giờ 20 phút

B
11 giờ 20 phút

Hình trên để mô tả nội dung của bài toán.
Bước 3: Phân tích bài toán để tìm ra cách giải.

- Bài toán hỏi gì? (Vận tốc của ca nô)
15


- Muốn biết vận tốc của ca nô,ta làm thế nào? Lấy quãng đường của ca nô
từ A đến B chia cho thời gian đi quãng đường đó).
- Quãng đường của ca nô đi từ A đến B biết chưa? (Biết rồi )
- Thời gian ca nô đi từ A đến B biết chưa? ( Chưa biết )
- Muốn tìm thời gian ca nô đi từ A đến B ta làm thế nào? (Lấy thời gian
điểm xuất phát trừ thời gian điểm về đích ).
Bước 4: Dựa vào bước 3, ta đi ngược từ (5) lên (1) để thực hiện các phép tính và
viết lời giải.
Giải
Thời gian ca nô đi từ A đến B là:
11 giờ 20 phút – 6 giờ 20 phút = 5 (giờ)
Vận tốc của ca nô là:
120 : 5 = 24 (km/giờ )
Đáp số: 24 km/giờ.
Khi làm xong mỗi phép tínhta có thể thử lại xem đã đúng chưa? ( Muốn thử lại
ta lấy 11 giờ 20 phút – 6 giờ 20 phút = 5 giờ, ta tính 5 giờ + 6 giờ 20 phút xem có
bằng 11 giờ 20 phút không. Lấy 120 : 5 =24 ta tính 24 x 5 xem có phải bằng 120
không hoặc tính 120 : 24 xem có bằng 5 không ).
Bước 5: Khai thác bài toán (dành cho học sinh khá, giỏi )
Hướng dẫn học sinh suy nghĩa:
* Có thể giải theo cách khác không?
- Áp dụng công thức V = S : T
- Ta có thể gộp hai bước của bài toán trên thành bài toán giải bằng 1
bước( bằng cách kết hợp các phép tính) nhờ vào công thức: V = S : (tb - tb )
Vậy ta có cách giải như sau ngắn gọn hơn.
Giải

Vận tốc của ca nô là:
120 : (11gigiờ 20 phút – 6 giờ 20 ) = 24 (km/giờ)
Đáp số: 24 km/giờ
16


* Ta có thể rút ra kinh nghiệm về bài toán.
- Bài toán này là bài toán hợp giải bằng hai phép tính.
- Mỗi phép tính sử dụng kiến thức cũ “trừ số đo thời gian”.
- Mỗi phép tính vận dụng công thức tính này có liên quan đến kiến thức.
V= S :T bước này có liên quan đến kiến thức“ bước tính rút về đơn vị” là bước
tính tìm vận tốc của ca nô.
Để dạy các bài toán về chuyển động đều như tôi nói ở phần trước giáo viên cần
kết hợp một số phương pháp cho phù hợp. Trong đó phương pháp gợi mở -vấn đáp
là sử dụng suốt trong quá trình hình thành kiến thức mới trên cơ sở kiến thức đã
học điều quan trọng ở đây ngoài việc lựa chọn phương pháp phù hợp cho từng nội
dung bài dạy, Khi dạy tôi còn tóm tắt một số bài về cách dạy các bài toán về
chuyển động thông qua tiết dạy nhằm khắc sâu kiến thức cho học sinh.


Dạy về“vận tốc” Trong khi dạy nội dung này tôi dùng câu hỏi rõ ràng dễ
hiểu để giúp học sinh rút ra cách tính vận tốc.

Ví dụ : Một tàu thủy khi đi xuôi dòng có vận tốc 26,5 km/giờ, khi đi ngược dòng
có vận tốc 16,5 km/giờ. Tính vận tốc của dòng sông và vận tốc thực của tàu thủy.
- Sau khi học sinh giải các bài toán như vậy tôi nhấn mạnh cho học sinh thấy ở
bước tính “trung bình trong một đơn vị thời gian thì động tử đi được một đoạn
đường dài bao nhiêu ?”(đó là bước tính rút về đơn vị mà các em đã học ở các lớp
dưới ). Đây là vấn đề quan trọng nhất để học sinh nắm chắc kiến thức và có thể tự
rút ra cách tính và công thức tính vận tốc.


V=S:T

- Lưu ý cho học sinh cách độc và ghi kí hiệu .
+ Kilômét trên giờ viết tắt là km/giờ( tức là quãng đường của động tử đi được
tính bằng mét trong 1 đơn vị thời gian là phút). Không cho học sinh đọc là kilômét
giờ và không viết là km giờ.
+ Mét trên phút viết tắc là m/phút. Đọc là mét trên phút (tức là quãng đường của
động tử đi được tính bằng mét trong một đơn vị thời gian là phút).
Với những bài toán mà thời gian là hai đơn vị đo tôi hướng dẫn học sinh phải
đổi về thành phần một đơn vị đo rồi mới tính vận tốc được theo công thức.
17


1
Ví dụ: Đổi 2 giờ 20 phút = 2

giờ
3

Sau khi giảng xong mỗi bài toán tôi đều cho học sinh nhắc lại cách giải để khắc
sâu cách tính vận tốc.


Dạy về“quãng đường ” Khi dạy bài này tôi cho học sinh nắm được tính

quãng đường (lấy vận tốc nhân thời gian). Trên cơ sở học sinh đã hiểu được khái
niệm bước đầu và cách tính vận tốc, sẽ hình thành kiến thức mới tính quãng đường.
Với bài này cũng tiến hành cho học sinh giải theo quy trình giải bài toán có lời văn.
Khi hướng dẫn học sinh tìm cách giải cần liên hệ đến bài “vận tốc” và nhấn mạnh

cho học sinh thấy bài toán về “vận tốc” và bài toán về “quãng đường” là hai bài toán
ngược nhau.
Ở bài“vận tốc” người ta cho quãng đường và thời gian bắt tìm vận tốc, ta đã
dùng phép chia để giải. V = S : T
Ở bài “quãng đường” người ta cho vận tốc và thời gian bắt tìm quãng đường, ta
phải dùng phép tính nhân để giải. S = V x T
-Lưu ý cho học sinh: Thời gian cũng gồm hai đơn vị muốn tính được các em phải
chuyển đổi về một đơn vị.
1
Ví dụ: 2 giờ 20 phút =2

giờ
2

- Sau khi tìm hiểu và giải xong từng bài toán cần nhấn mạnh cho học sinh ở
bước tính (có liên quan đến kiến thức cũ các em đã học ở lớp dưới “gấp một số lên
nhiều lần” trong đó vận tốc là số cần gấp mà thời gian là số lần gấp, quãng đường
là tích).
- Trên cơ sở học sinh biết cách tính bài toán và liên hệ kiến thức đã học tôi cho
các em tự nói cách tính và rút ra công thức tính quãng đường.
18


- Để khắc sâu cách tính và công thức tính quãng đường sau mỗi bài toán cho học
sinh nói lại cách làm nếu gặp trường hợp phải chuyển đổi các đơn vị có trong đại
lượng .
 Dạy về “thời gian” qua bài học học sinh nắm được cách tính thời gian(lấy
quãng đường chia cho vận tốc) T = S : V. Trên nền tảng học sinh đã biết cách
tính vận tốc ở các tiết trước ở bài này phải sử dụng phương pháp gợi mở-vấn đáp
để đặt ra vấn đề yêu cầu học sinh giải quyết và tự tìm ra kiến thức mới.

- Học sinh đã nắm được kí hiệu của vận tốc(v), quãng đường(s), thời gian(t).Yêu
cầu học sinh dựa vào bảng số liệu tự đặt ra đề toán.
Ví dụ :
S
170 km
V
42,5 km/giờ
T
?
- Sau khi học sinh tự đặt đề toán dựa trên số liệu có sẵn thì tôi gợi ý học sinh như
sau:
+ Nếu biết V và T ta có thể tìm S theo công thức nào? ( S= V x T ).Vậy nếu biết
S và V thì ta có thể tính T như thế nào? (T = S/V ).
+ Yêu cầu học sinh tự giải vì muốn tìm thừa số chưa biết ta lấy tích chia cho
thừa số đã biết .
+ Cho học sinh cách tính thời gian dựa vào công thức đã tự rút ra T= S : V ở
trên.
Trên đây là một quy trình giải một bài toán có lời văn, các bài toán về chuyển
động đều, phải chú ý dẫn dắt học sinh giải toán theo quy trình trên nhằm làm giảm
bớt lúng túng cho học sinh khi học toán này đồng thời cũng là dẫn dắt học sinh từ
cái đơn giản đến cái phức tạp có trong đề toán sau cho phù hợp với đặc điểm tư duy
của học sinh .
3.5/ Một số lưu ý đối với việc dạy học các bài toán chuyển động đều.
a.Việc nghiên cứu kỹ chương trình sách giáo khoa toán 5 là việc làm cần thiết
đối với mỗi giáo viên.
19


- Để giảng dạy tốt toán 5 nói chung và phần kiến thức về các bài toán chuyển
động đều nói riêng, giáo viên phải có cái nhìn tổng quát nghiên cứu chương trình

để thấy được giữa các mạch kiến thức có liên quan chặt chẽ với nhau.Từ đó giáo
viên mới có sự kết hợp một cách hài hòa từ bài cũ sang bài mới,làm cho học sinh
hiểu và nắm được kiến thức trên nền tảng vững chắc. Nhờ đó mới phát huy được
tính linh hoạt, chủ động, sáng tạo của học sinh.
b.Giáo viên nên phát huy hết hiệu quả của từng phương pháp.
- Khi dạy các bài toán về chuyển động đều thì phương pháp gợi mở-vấn đáp có
vai trò quan trọng nên hệ thống câu hỏi phải rõ ràng, có sức thu hút sự tập trung
chú ý của học sinh và đảm bảo được hệ thống chặt chẽ.
- Ngoài ra giáo viên cũng cần phối hợp linh hoạt các phương pháp và tổ chức các
hoạt động trong cùng tiết dạy để mọi học sinh trong lớp đều tích cực làm việc.
- Giáo viên cần nhắc nhở học sinh tích cực học tập để các em tự nâng cao kiến
thức về toán chuyển động đều cho bản thân.
4. Kết quả, hiệu quả mang lại:
Qua thời gian áp dụng tôi thấy đa số học sinh khối 5 đều tiếp thu bài tốt, vận
dụng kiến thức trong quá trình làm bài một các chắc chắn. Các em tự giác hứng thú
học tập và mạnh dạn phát biểu ý kiến xây dựng bài .Kết quả đạt được của môn toán
nâng lên rõ rệt, học sinh giỏi tăng lên, học sinh yếu giảm dần.
* Kết quả đạt được của lớp 5A trong năm học 2010 - 2011 như sau:
TSHS

XL Giỏi
XL Khá
XL Trung bình
XL Yếu
SL
TL
SL
TL
SL
TL

SL
TL
29
11 37,93 10 34,48
7
24,13
1
3,44
* Kết quả đạt được của toàn 5A trong năm học 2010 - 2011 như sau:
TSHS

XL Giỏi
XL Khá
XL Trung bình
SL
TL
SL
TL
SL
TL
79
25 31,64 31 39,24
21
26,58
5. Đánh giá về phạm vi ảnh hưởng của sáng kiến:

XL Yếu
SL
TL
2

2,53

Mục đích của sáng kiến này nhằm hổ trợ cho giáo viên và học sinh trong quá
trình dạy và học các bài toán về chuyển động đều, việc áp dụng các phương dạy
học, đặc biệt là phương pháp gợi mở-vấn đáp.
20


Sáng kiến này chỉ nghiên cứu một số biện pháp khắc phục thiếu sót sai lầm
trong giải các bài toán về chuyển động đều cho học sinh lớp 5.
6. Kiến nghị, đề xuất:
- Bộ GD&ĐT cung cấp thêm tài liệu và thiết bị các môn học nói chung về môn
Toán nói riêng, để giúp cho giáo viên có tư liệu tham khảo nhằm nâng cao chất
lượng giảng dạy.
- Phòng GD&ĐT có kế hoạch tổ chức nhiều chuyên đề về đổi mới phương pháp
dạy học nhằm trang bị cho giáo viên những kỹ năng về dạy học nói chung và dạy
học toán nói riêng.
Tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên được đi học nâng cao chuyên môn nghiệp
vụ.
- Đối với giáo viên luôn nhắc nhở các em tích cực trong học tập để tự nâng cao
kiến thức về toán chuyển động đều cho bản thân.
Trên đây là một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả khi dạy các bài toán về
chuyển động đều cho học sinh lớp 5 đã được áp dụng có hiệu quả tại đơn vị trường
Tiểu học Phú Mỹ 2 và được tập thể sư phạm nhà trường đánh giá cao. Tôi rất mong
được các cấp quản lý giáo dục và các bạn đồng nghiệp đóng góp ý kiến cho sáng
kiến kinh nghiệm của tôi được hoàn thiện hơn nữa.
Tôi chân thành cảm ơn !
Ý kiến xác nhận
của Thủ trưởng đơn vị.


Phú Tân, ngày 25 tháng 04 năm 2013.
Người viết sáng kiến

Đỗ Thị Bích

21



×