Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.91 KB, 4 trang )
Giải Nobel về điện từ sinh học
Giải Nobel về điện từ sinh
học
Bởi:
ĐH Bách Khoa Y Sinh K50
Môn học điện từ sinh học được phản ánh mạnh mẽ trong công trình của rất nhiều tác giả
đoạt giải Nobel. Có 16 giải Nobel được trao cho các đóng góp đối với môn học điện từ
sinh học và các môn học liên quan gần khác. Trong những giải thưởng đó, 12 giải cho
sinh lý học hoặc y tế, 4 cho hóa học. Mặc dù không trực tiếp nhắc đến khái niệm điện
từ sinh học, nó cũng có liên quan rất gần. Bởi vì một vài cá nhân có thẻ chia sẻ một
giải thưởng, số lượng người đạt giải Nobel là 28. Số lượng lớn của những người đạt giải
Nobel chỉ ra rằng điện từ sinh học được công nhận là môn học rất quan trọng. Những
người đạt giải Nobel về điện từ sinh học được kể ra ở bảng 1.6.
Có lẽ nên thêm vào bảng tên của Gabriel Jonas Lippman và Dennis Gabor, mặc dù họ
không nhận được giải Nobel cho công trình của họ trong môn điện từ sinh học.
Gabriel nhận giải Nobel về vật lý năm 1908 cho bản sao chụp ảnh màu của ông. Nhưng
ông cũng là nhà phát minh ra tĩnh điện kế mao dẫn (Lippman, 1873). Tĩnh điện kế mao
dẫn là một thiết bị đo nhạy hơn điện kế phiếm định và là một đóng góp quan trọng cho
kỹ thuật bởi vì nó có thể ghi lại hiện tượng điện sinh học. Dennis Gabor nhận được giải
Nobel về vật lý năm 1971 cho phát minh về phép chụp ảnh giao thoa lade. Ông cũng
là tác giả chính của định lí Gabor-Nelson được sử dụng để xác định lưỡng cực tương
đương của nguồn khối bằng cách đo điện thế bề mặt của vật dẫn khối (Gabor và Nelson,
1954). Cũng chú ý rằng Georg von Békésy nhận được giải Nobel cho phát hiện của ông
về cơ chế vật lý của kích thích bên trong ốc tai. Phát hiện của ông, tuy nhiên, có đóng
góp đáng kể tới việc phân tích mối quan hệ giữa hiện tượng phức tạp cơ và điện trong
cơ quan thụ cảm trong việc chuyển âm thanh thành xung thần kinh. Vì vậy tên của von
Békésyđược thêm vào trong danh sách.
1/4