Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

So sánh các hình thức thanh toán qua trung gian thanh toán trên cơ sở pháp luật hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.77 KB, 21 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Thanh toán là cầu nối giữa sản xuất – phân phối, lưu thông và tiêu dùng,
đồng thời là khâu mở đầu và kết thúc trong quá trình tái sản xuất xã hội, do đó nó
có tác động trực tiếp đến quá trình sản xuất, kinh doanh và một khía cạnh nào đó
ảnh hưởng đến nền sản xuất xã hội nói chung. Tổ chức tốt hoạt động thanh toán
luôn là một đòi hỏi của nền kinh tế.
Trên thực tế thì các quan hệ thanh toán được thực hiện dưới hai hình thức là
thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt và thanh toán qua trung gian thanh toán. Trong
đó thanh toán qua trung gian thanh toán là việc chi trả không tiến hành trực tiếp
giữa người chi trả với người thụ hưởng mà thông qua việc ủy nhiệm cho các tổ
chức trung gian như Ngân hàng, Kho bạc nhà nước… thực hiện. Trong nền kinh tế
thị trường, thanh toán qua trung gian thanh toán đang ngày càng phát triển và
hướng tới việc thay thế phần lớn thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt trong các giao
dịch thương mại.
Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng để tổ chức được hoạt động thanh toán
qua trung gian một cách có hiệu quả nhất là một vấn đề khó khăn và đòi hỏi có một
hệ thống pháp luật điều chỉnh chặt chẽ, đón trước những thay đổi không ngừng của
đời sống kinh tế - xã hội. Bởi thế, trong Báo cáo chiến lược phát triển kinh tế xã
hội 2001 – 2010 tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã xác định
nhiệm vụ trọng tâm trong phát triển kinh tế, xã hội là phải “hình thành môi trường
minh bạch, lành mạnh và bình đẳng cho hoạt động tiền tệ - ngân hàng. Ứng dụng
phổ biến công nghệ thông tin, mở rộng nhanh các hình thức thanh toán không dùng
tiền mặt và thanh toán qua ngân hàng. Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn,
cho vay, cung ứng các dịch vụ và tiện ích ngân hàng thuận lợi và thông thoáng đến
mọi doanh nghiệp và cư dân”.
Trong vài năm gần đây, Nhà nước đã có sự quan tâm nhằm hoàn thiện pháp
luật nhằm điều chỉnh ngày càng tốt hơn hoạt động nhạy cảm và mang tính nghiệp
vụ cao sau này. Chính vì vậy, trong bài tập học kì này, em đã quyết định lựa chọn
đề bài: “So sánh các hình thức thanh toán qua trung gian thanh toán trên cơ sở
pháp luật hiện hành” để tìm hiểu kĩ hơn về các hình thức này.
I. Khái quát chung về thanh toán qua trung gian thanh toán.


1. Khái niệm thanh toán qua trung gian thanh toán.
Thanh toán qua trung gian thanh toán là việc chi trả không tiến hành trực
tiếp giữa người chi trả với người thụ hưởng mà thông qua việc ủy nhiệm cho các
tổ chức trung gian thực hiện (ngân hàng, kho bạc nhà nước…).
Trong việc thanh toán qua trung gian thanh toán, tổ chức cung ứng dịch vụ
thanh toán theo yêu cầu của người chi trả thực hiện việc chi trả hộ hoặc theo yêu
cầu của người thụ hưởng thu hộ số tiền mà người thụ hưởng được hưởng, việc chi
trả hộ hoặc thu hộ tiền như vậy mang tính chất là một dịch vụ. Hoạt động dịch vụ
thanh toán của các tổ chức đóng vai trò trung gian thanh toán phân biệt với các
hoạt động ủy thác thanh toán khác bằng các dấu hiệu sau:
1


Thứ nhất, hoạt động dịch vụ thanh toán của các tổ chức đóng vai trò trung
gian thanh toán gắn với chức năng hoạt động được quy định trong giấy phép thành
lập và giấy phép hoạt động. Các trung gian thanh toán là chủ thể tham gia thường
xuyên trong quan hệ thanh toán qua trung gian thanh toán.
Thứ hai, các hình thức thực hiện dịch vụ thanh toán được pháp luật quy
định cụ thể. Ví dụ: thanh toán bằng séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu…
Thứ ba, hoạt động dịch vụ thanh toán của các tổ chức đóng vai trò trung
gian thanh toán chịu sự điều chỉnh của pháp luật ngân hàng và quản lý nhà nước
của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
2. Bản chất của thanh toán qua trung gian thanh toán.
Thanh toán qua trung gian thanh toán xuất hiện từ lâu trong lịch sử loài
người, tuy nhiên nó chỉ được phát triển và hoàn thiện trong nền kinh tế thị trường.
Ngày nay, thanh toán không dùng tiền mặt được áp dụng rộng rãi trong lĩnh vực
kinh tế – tài chính đối nội và đối ngoại.
Sự phát triển của thanh toán qua trung gian thanh toán trong thời đại hiện
nay là do yêu cầu của sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế hàng hóa. Khi nền
kinh tế hàng hóa phát triển ngày càng cao, khối lượng trao đổi hàng hóa trong nước

cũng như ngoài nước càng tăng lên thì cần có những cách thức trả tiền thuận tiện,
an toàn và tiết kiệm. Mặt khác, thanh toán không dùng tiền mặt còn gắn liền với sự
phát triển của hệ thống tài chính tín dụng, nhất là sự phát triển của hệ thống ngân
hàng. Sự tồn tại và phát triển của hệ thống này đã tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp, các cơ quan, các tổ chức xã hội và cá nhân mở tài khoản tiền gửi và áp
dụng cách trả tiền hàng hóa, dịch vụ thông qua việc trích chuyển tài khoản trong hệ
thống ngân hàng.
Thanh toán qua trung gian thanh toán là một hình thức vận động của tiền tệ,
tiền ở đây vừa là công cụ kế toán vừa là công cụ để chuyển hóa hình thức giá trị
của hàng hóa và dịch vụ. Trong nền kinh tế hàng hóa, hình thức vận động này của
tiền tệ là một bộ phận cấu thành quan trọng nhất trong tổng chu chuyển tiền tệ bởi
vì hình thức vận động này của tiền tệ có những ưu điểm hơn hẳn so với vận động
tiền mặt:
Thứ nhất, thanh toán qua trung gian thanh toán đáp ứng tốt hơn yêu cầu
chuyển hóa giá trị của hàng hóa dịch trong nền kinh tế quốc dân, nó giúp cho việc
chi trả tiền hàng trong nền kinh tế thuận tiện hơn vì việc chi trả có thể thực được ở
bất kì qui mô nào và ở bất kì cự li nào.
Thứ hai, thanh toán qua trung gian thanh toán giúp cho việc chi trả tiền
hàng và dịch vụ an toàn hơn vì nó được thực hiện dưới sự giám sát chặt chẽ của hệ
thống tín dụng dựa trên những cam kết giữa các bên tham gia thanh toán.
Thứ ba, thanh toán qua trung gian thanh toán là một hình thức vận động tiền
tệ tiết kiệm hơn vì chi phí tổ chức cho sự vận động này thấp hơn với vận động tiền
mặt.
Thứ tư, thanh toán qua trung gian thanh toán còn có tác động tích cực đối
với nền kinh tế tài chính, nó tạo điều kiện để tập trung một nguồn vốn lớn của xã
2


hội vào hệ thống tín dụng để tái đầu tư vào nền kinh tế, đồng thời phát huy vai trò
kiểm tra của nhà nước vào hoạt động kinh tế tài chính.

II. So sánh các hình thức thanh toán qua trung gian thanh toán theo quy định
của pháp luật hiện hành.
1. Khái niệm các hình thức thanh toán qua trung gian thanh toán.
Theo Điều 12 Nghị định số 64/2001/NĐ-CP ngày 20 tháng 9 năm 2001 về
hoạt động thanh toán của các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán thì các phương
tiện thanh toán bao gồm: tiền mặt, séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng
và các phương tiện thanh toán khác theo quy định của pháp luật. Theo quy định
của pháp luật hiện hành phương tiện thanh toán qua trung gian thanh toán bao
gồm:
1.1. Séc.
Séc là một tờ lệnh trả tiền của chủ tài khoản, được lập trên mẫu do ngân
hàng nhà nước quy định, yêu cầu đơn vị thanh toán trích một số tiền nhất định từ
tài khoản tiền gửi thanh toán của mình để trả cho người thụ hưởng có tên trên tờ
lệnh đó.
Ở Việt Nam, Séc cũng được đưa vào sử dụng từ lâu. Trong thời kỳ cơ chế
quản lý nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, hệ thống Ngân hàng Nhà nước là một
thể thống nhất từ trung ương đến địa phương, thì phương tiện thanh toán bằng Séc
vẫn được vận hành rất sôi động, chiếm giữ vai trò quan trọng không thể thiếu được
trong hệ thống các phương tiện thanh toán. Đối tác quan hệ thanh toán với Ngân
hàng thời kỳ này là các đơn vị kinh tế quốc doanh và tập thể, cá nhân chưa được sử
dụng Séc. Lợi ích của thanh toán bằng Séc có nhiều. Song cũng như mọi hoạt động
kinh tế khác, bao giờ cũng có mặt trái của nó. Trước những năm 90 khi Séc chỉ do
Ngân hàng Nhà nước độc quyền phát hành và là trung tâm thanh toán duy nhất trên
toàn quốc thì phương tiện thanh toán này đã được vận hành khá thuận lợi, phạm vi
sử dụng nó không bị giới hạn trong toàn quốc.
Sau khi có sự phân chia hệ thống ngân hàng từ một cấp thành hai cấp và
nhất là từ khi có NĐ30/CP ngày 9/5/1996 của Chính phủ ban hành quy chế phát
hành và sử dụng Séc, Thông tư 07/TT/NH1 ngày 27/121996 của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước hướng dẫn thực hiện NĐ30/CP về quy chế phát hành và sử dụng
séc thì tính pháp lý của phương tiện thanh toán séc đã được nâng lên một tầng cao

hơn, vai trò chủ động về quyền hạn, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong
việc phát hành và sử dụng séc được khẳng định rõ ràng hơn. Trên thực tế, sau 7
năm thực hiện NĐ30/CP và Thông tư 07/TT/NH1 thì phương tiện thanh toán séc
vẫn phát huy được ưu thế vốn có mang tính truyền thống của nó trong các phương
tiện thanh toán qua trung gian. Đặc biệt tính “gần gũi” của nó với thông lệ quốc tế
ngày càng được phát huy, ngày càng được thể hiện cụ thể, rõ ràng hơn. Tuy vậy,
cơ chế đó cũng đã bộc lộ những bất cập, làm cho hiệu quả sử dụng séc chưa phát
huy hết thế mạnh của nó trong thanh toán qua trung gian. Những hạn chế đó đã gây
ra những khó khăn đối với các đối tượng sử dụng phương tiện thanh toán này. Hạn
chế đó đã được khắc phục bằng Nghị định 159/2003/NĐ-CP và Thông tư
3


05/2004/TT-NHNN về cung ứng và sử dụng séc. Về cơ bản các quy định của Nghị
định và Thông tư này là cơ sở pháp lý tương đối đầy đủ cho việc cung ứng và sử
dụng séc. Đây là những văn bản mới ban hành và được đưa vào thực hiện trong
thực tế nên chưa thể đánh giá tính hiệu lực cũng như tác động của nó đối với hình
thức thanh toán này trong thời điểm hiện tại, tuy nhiên cũng dễ nhận ra điểm mới
và những thiếu sót.
Trước hết, trong Nghị định này xác định cụ thể Séc “là phương tiện thanh
toán do người ký phát lập dưới hình thức chứng từ theo mẫu in sẵn, lệnh cho người
thực hiện thanh toán trả không điều kiện một số tiền nhất định cho người thụ
hưởng”. Đã có sự xác nhận đây là một phương tiện thanh toán cụ thể ngay trong
chính định nghĩa của nó, tuy nhiên, về bản chất, nó vẫn không thay đổi. Nó vấn là
một giấy ghi nhận lệnh trả tiền vô điều kiện, do khách hàng của ngân hàng ký phát,
yêu cầu ngân hàng trích một số tiền nhất định từ tài khoản của mình để trả cho
người được chỉ định trên séc hoặc trả cho người cẩm séc. Vì thế, so với những quy
định trước đây nó vẫn không có sự thay đổi lớn.
1.2. Ủy nhiệm chi.
Ủy nhiệm chi là một tờ lệnh trả tiền do các đơn vị cá nhân hoặc có tài khoản

mở tại ngân hàng phát hành, yêu cầu ngân hàng trích một số tiền nhất định từ tài
khoản của mình để trả cho một người thụ hưởng nào đó.
Việc cung ứng phương tiện thanh toán ủy nhiệm chi được quy định tại khoản
3 Điều 14 QĐ226/2004, đơn giản rằng nó thực hiện theo quy định của Ngân hàng
Nhà nước về chứng từ thanh toán. Có thể thấy đây là một quy định rất chung
chung, không phân biệt rõ giữa ủy nhiệm chi so với các hình thức thanh toán khác,
bởi lẽ, chứng từ thanh toán nói chung là một trong những điều kiện để tiến hành
hoạt động thanh toán qua trung gian, bất cứ hoạt động thanh toán qua trung gian
nào cũng cần phải thực hiện bằng một loại chứng từ thanh toán nhất định. Ví dụ
thanh toán bằng séc thì séc chính là một loại chứng từ thanh toán được sử dụng và
đã có một quy định riêng về việc cung ứng và sử dụng séc, nhưng trong trường hợp
này, loại hình thanh toán này lại không có quy định cụ thể về cung ứng và sử dụng
ủy nhiệm chi, phương tiện thanh toán được sử dụng trong hình thức thanh toán đó.
Ủy nhiệm chi: Việc thanh toán bằng hình thức này phổ biến hơn thanh toán
bằng ủy nhiệm thu, việc tiến hành cũng đơn giản hơn, tuy vậy nó cũng đòi hỏi một
hệ thống thanh toán hiện đại với nghiệp vụ ngân hàng linh hoạt. Thực tế hoạt động
này ở nước ta dù đã được sử dụng nhiều song tính hiện đại của nghiệp vụ ngân
hàng vẫn còn hạn chế. Chưa thực hiện được lệnh chi điện tử, quá trình thanh toán
vẫn còn chậm, chưa kết nối mạng thanh toán giữa NHTM với khách hàng để thực
hiện hoạt động thanh toán này.
1.3. Ủy nhiệm thu.
Ủy nhiệm thu là một giấy ủy nhiệm do các đơn vị phát hành đề nghị ngân
hàng phục vụ mình thu hộ một số tiền nhất định từ một khách hàng nào đó.
Ủy nhiệm thu: đây là một hình thức phù hợp với các khoản thanh toán có thể
tính chính xác được giá trị của nó như: tiền thuê nhà, cước phí bưu điện, tiền điện,
4


tiền nước… nhưng hiện nay ở nước ta những khoản thu này đều đang được thực
hiện bằng tiền mặt do đó mà hình thức thanh toán bằng ủy nhiệm thu không được

sử dụng phổ biến.
Mặt khác, ủy nhiệm thu phải trải qua một quá trình thanh toán phức tạp, có
thể được mô tả đơn giản như sau: để thực hiện thanh toán bằng ủy nhiệm thu hai
bên mua bán phải thống nhất thỏa thuận và ghi trong hợp đồng kinh tế. Đồng thời
thông báo bằng văn bản cho ngân hàng phục vụ người thụ hưởng biết để làm căn
cứ thực hiện các ủy nhiệm thu. Sau khi hoàn tất các việc giao hàng hay cung ứng
dịch vụ, bên thụ hưởng lập giấy ủy nhiệm thu kèm theo hóa đơn, chuyển đơn nộp
cho ngân hàng phục vụ mình hoặc gửi trực tiếp đến ngân hàng phục vụ người trả
tiền để yêu cầu thu hộ tiền. Khi nhận được giấy ủy nhiệm thu trong vòng một ngày
làm việc, ngân hàng phục vụ người trả tiền trích tài khoản của người trả tiền trả
ngay cho bên thụ hưởng để hoàn tất việc thanh toán. Có thể thấy, đây là một quá
trình với những thủ tục thanh toán phức tạp, người mua khó kiểm soát được quá
trình đòi tiền của người bán.
1.4. Thư tín dụng.
Thư tín dụng là hình thức ủy nhiệm thanh toán qua ngân hàng theo đó việc
thanh toán được tiến hành từ một khoản tiền được bên mua lưu kí trước ở ngân
hàng phục vụ mình để trả tiền cho bên bán theo các chứng từ của bên bán về số
lượng hàng hóa đã giao, dịch vụ đã cung ứng và theo những điều kiện sử dụng thư
tín dụng.
Theo pháp luật Việt Nam, không có một định nghĩa rõ ràng và chính xác cho
thư tín dụng. Tuy vậy, vai trò và mục đích của thư tín dụng đã được đề cập đến
trong quy chế hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán
ban hành kèm theo QĐ266/2002/QĐ-NHNN ban hành quy chế hoạt động thanh
toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán. Theo Điều 16 quy chế này thì:
“thư tín dụng và một văn bản cam kết có điều kiện được ngân hàng mở theo yêu
cầu của người sử dụng dịch vụ thanh toán (người xin mở thư tín dụng); theo đó,
ngân hàng thực hiện yêu cầu của người sử dụng dịch vụ thanh toán để:
+Trả tiền hoặc ủy quyền cho ngân hàng khác trả tiền ngay theo lệnh của
người thụ hưởng khi nhận được bộ chứng từ xuất trình phù hợp với các điều kiện
của thư tín dụng; hoặc

+Chấp nhận sẽ trả tiền hoặc ủy quyền cho ngân hàng khác trả tiền theo lệnh
của người thụ hưởng vào một thời điểm nhất định trong tương lai khi nhận được bộ
chứng từ xuất trình phù hợp với các điều kiện thanh toán của thư tín dụng”.
Như vậy, về phạm vi, thư tín dụng được dùng để thanh toán giữa người mua
và người bán cả quan hệ thương mại trong nước và ngoài nước. Tuy nhiên, trong
các quan hệ trong nước, thư tín dụng hầu như không được sử dụng, mặc dù hình
thức thanh toán này đã bộc lộ được nhiều ưu điểm trong quan hệ thanh toán. Sở dĩ
có điều ấy cũng một phần vì các quy định của Việt Nam về thanh toán bằng thư tín
dụng cũng chưa cụ thể và hoàn thiện, giống như các quy định nói chung về thanh
toán qua trung gian.
5


Có thể nói, đây là một hình thức thanh toán có tính an toàn cao cho người
bán, song không phải không có những vấn đề phát sinh trong quan hệ thanh toán,
đó là các tranh chấp phát sinh mà cần phải được dự liệu trước khi tiến hành xây
dựng một hệ thống pháp luật với những quy định cụ thể để điều chỉnh hoạt động
không hề đơn giản này.
1.5. Thẻ ngân hàng.
Thẻ ngân hàng là phương tiện thanh toán do tổ chức cung ứng dịch vụ
thanh toán phát hành và cấp cho người sử dụng dịch vụ thanh toán để sử dụng
theo hợp đồng ký kết giữa tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán và người sử dụng
dịch vụ thanh toán.
Đây là một hình thức thanh toán mới được áp dụng ở Việt Nam và đã có tốc
độ phát triển không ngừng về mọi mặt, đặc biệt là trong khoảng gần 2 năm trở lại
đây, thị trường thẻ Việt Nam như được thổi một luồng sinh khí mới, trở nên hoạt
động rất sôi động mà mới trước đó, hệ thống thanh toán thẻ có thể nói còn quá mới
mẻ đối với người dân Việt Nam. Hàng loạt máy rút tiền tự động ATM được lắp đặt
và đi vào sử dụng. Thẻ ngân hàng đã có một bước tiến nhanh chóng trong nền kinh
tế ở nước ta. Sự phát triển như trên của thị trường thẻ không chỉ đã dừng lại ở đấy

mà sẽ còn phát triển ngày một mạnh mẽ hơn nữa bởi nó phù hợp với nhu cầu của
người dân, thuận lợi cho hoạt động thanh toán trong cuộc sống, nếu được sự quan
tâm thật sự của các cơ quan có thẩm quyền nhằm phát triển hơn nữa hình thức
thanh toán này thì nó sẽ bộc lộ ngày càng nhiều ưu điểm của mình.
Tuy nhiên, cho đến nay pháp luật vẫn chưa thật sự đã tạo ra một hành lang
pháp lý phù hợp cho sự thúc đẩy phát triển thẻ ngân hàng. Mặt khác, hoạt động
cung ứng dịch vụ thanh toán cũng đã có nhiều thay đổi, những quy định trước đây
về quy chế hoạt động của loại hình dịch vụ này ở NĐ91/CP về hoạt động thanh
toán không dùng tiền mặt đã được thay đổi bằng NĐ64/CP về quy chế hoạt động
của tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán với hướng dẫn cụ thể tại
QĐ226/2002/NHNN nhưng thẻ ngân hàng vẫn được điều chỉnh bằng một văn bản
cũ, không thích ứng với nhu cầu trong thời điểm hiện nay. Sở dĩ có nhu cầu phải
đổi mới bởi lẽ, trong chính bản thân những quy định về hoạt động phát hành sử
dụng và thanh toán thẻ ngân hàng đã bộc lộ những điểm chưa phù hợp, đòi hỏi
phải thay đổi.
2. Điểm giống nhau giữa các hình thức thanh toán qua trung gian thanh toán.
Nói chung, các hình thức thanh toán qua trung gian thanh toán đều mang
một số đặc điểm chung như sau:
+ Các tổ chức kinh tế, cơ quan đoàn thể, cá nhân được quyền lựa chọn ngân
hàng để mở tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán. Các chủ tài khoản thực
hiện việc thanh toán phải theo những qui định của thể lệ thanh toán không dùng
tiền mặt hiện hành
+ Ðể đảm bảo thực hiện thanh toán đầy đủ, kịp thời, các chủ tài khoản phải
có đủ tiền trên tài khoản. Mọi trường hợp thanh toán vượt quá số dư tài khoản tiền
gửi là phạm pháp và bị xử lý theo pháp luật
6


+ Ngân hàng có trách nhiệm thực hiện các uỷ nhiệm thanh toán của chủ tài
khoản trong phạm vi số dư tài khoản tiền gửi nhanh chóng, chính xác, an toàn,

thuận tiện. Kiểm tra khả năng thanh toán của chủ tài khoản (bên trả tiền) trước khi
thực hiện thanh toán và được quyền từ chối thanh toán nếu tài khoản không đủ
tiền, đồng thời không chịu trách nhiệm liên đới với hai bên khách hàng. Nếu do
thiếu sót trong quá trình thanh toán gây thiệt hại cho khách hàng thì ngân hàng
phải bồi thường thiệt hại, và tuỳ theo mức độ vi phạm có thể bị truy tố trước pháp
luật
+ Ngân hàng chỉ cung cấp số liệu trên tài khoản của khách hàng cho các cơ
quan ngoài ngành khi có văn bản của các cơ quan có thẩm quyền theo qui định cua
pháp luật
+ Khi thực hiện các dịch vụ thanh toán cho khách hàng, ngân hàng được
phép thu phí theo qui định của Thống đốc ngân hàng nhà nước
3. Điểm khác nhau giữa các hình thức thanh toán qua trung gian thanh toán.
3.1. Chủ thể tham gia quan hệ.
• Séc: Tham gia quan hệ thanh toán bằng séc có thể là các chủ thể sau:
- Người kí phát là người lập và kí phát hành séc
- Người bị kí phát là người có trách nhiệm thanh toán số tiền ghi trên séc
theo lệnh của người kí phát.
- Người thụ hưởng là người sở hữu séc với tư cách của một trong những
người sau đây: người được nhận thanh toán số tiền ghi trên séc theo chỉ định của
người kí phát, hoặc người nhận chuyển nhượng séc theo các hình thức chuyển
nhượng theo quy đinh của Luật công cụ chuyển nhượng, hoặc là người cầm giữ séc
mà tờ séc có ghi trả cho người cầm giữ.
- Người có liên quan là người tham gia vào quan hệ thanh toán bằng séc
bằng cách kí tên trên séc với tư cách là người kí phát, người chuyển nhượng, người
bảo chi hoặc người bảo lãnh…
- Người thu hộ là ngân hàng hay tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán khác
được phép của Ngân hàng nhà nước Việt Nam làm dịch vụ thu hộ séc.
- Trung tâm thanh toán bù trừ séc là Ngân hàng nhà nước Việt Nam hoặc tổ
chức khác được Ngân hàng nhà nước Việt Nam cấp phép để tổ chức, chủ trì việc
trao đổi, thanh toán, bù trừ séc, quyết toán các nghĩa vụ tài chính phát sinh từ việc

thanh toán bù trừ séc cho các thành viên là ngân hàng, tổ chức cung ứng dịch vụ
thanh toán được phép của Ngân hàng nhà nước Việt Nam.
Các chủ thể tham gia vào quan hệ thanh toán séc trên đây có thể chia thành
hai nhóm chính sau:
- Nhóm chủ thể thực hiện dịch vụ thanh toán là các tổ chức cung ứng séc và
tham gia vào quá trình thanh toán, thu hộ séc, với tư cách là người bị kí phát, người
thu hộ, người có liên quan;
- Các tổ chức, cá nhân sử dụng séc và liên quan đến việc sử dụng séc.
• Thanh toán bằng ủy nhiệm chi:
Chủ thể tham gia quan hệ thanh toán bằng ủy nhiệm chi bao gồm:
7


- Bên trả tiền: (người mua hàng hóa, dịch vụ; người chuyển tiền) có nghĩa vụ
lập giấy ủy nhiệm chi theo quy định của Ngân hàng, nộp vào ngân hàng, kho bạc
nhà nước phục vụ mình (nơi mở tài khoản) để trích tài khoản của mình trả cho bên
thụ hưởng. Khi lập giấy ủy nhiệm chi phải ghi rõ ràng, đầy đủ, chính xác các yếu
tố khớp đúng với nội dung giữa các liên ủy nhiệm chi và kí tên đóng dấu lên tất cả
các liên ủy nhiệm chi.
- Ngân hàng và kho bạc nhà nước phục vụ bên trả tiền có trách nhiệm kiểm
tra tính hợp lệ; hợp pháp của giấy ủy nhiệm chi, số dư tài khoản tiền gửi của khách
hàng không đủ tiền thanh toán. Phải có trách nhiệm thanh toán ngay đối với giấy
ủy nhiệm chi hợp lệ. Nếu do thiếu sót chủ quan của mình gây thiệt hại cho khách
hàng thì ngân hàng, kho bạc nhà nước phải chịu trách nhiệm bồi thường.
- Ngân hàng, kho bạc nhà nước phục vụ bên thụ hưởng khi nhận được chứng
từ thanh toán cho ngân hàng, kho bạc nhà nước phục vụ bên trả tiền chuyển đến,
sau khi kiểm tra chứng từ nếu có đủ điều kiện thanh toán phải tiến hành ghi nhận
số tiền ghi trong chứng từ thanh toán vào tài khoản bên thụ hưởng.
• Thanh toán bằng ủy nhiệm thu:
Chủ thể tham gia quan hệ thanh toán ủy nhiệm thu bao gồm:

- Bên thụ hưởng là bên bán hàng, cung ứng dịch vụ: có nghĩa vụ lập giấy ủy
nhiệm thu kèm hóa đơn, chứng từ giao hàng cung cấp dịch vụ nộp vào ngân hàng,
kho bạc nhà nước phục vụ mình hay nộp trực tiếp vào ngân hàng, kho bạc nhà
nước phục vụ bên trả tiền.
- Ngân hàng phục vụ bên thụ hưởng có nghĩa vụ: Tiếp nhận và kiểm soát
giấy ủy nhiệm thu. Sau đó ngân hàng, kho bạc nhà nước phục vụ bên thụ hưởng kí
tên đóng dấu ghi vào sổ theo dõi nhận giấy ủy nhiệm thu gửi đi
- Ngân hàng, kho bạc nhà nước phục vụ bên trả tiền: khi nhận được giấy ủy
nhiệm thu và chứng từ kèm theo về việc giao hàng hóa và cung ứng dịch vụ do
ngân hàng, kho bạc nhà nước bên thụ hưởng gửi đến hoặc do chính bên thụ hưởng
trực tiếp đến nộp. Ngân hàng, kho bạc nhà nước phục vụ bên trả tiền kiểm tra thủ
tục lập giấy ủy nhiệm thu, kiểm tra việc thỏa thuận của các bên bằng giấy ủy
nhiệm.
- Bên trả tiền là bên mua, bên nhận dịch vụ.
• Thanh toán bằng thư tín dụng
Chủ thể tham gia thanh toán bằng thư tín dụng bao gồm:
- Bên trả tiền: khi có nhu cầu thanh toán bằng thư tín dụng phải lập giấy mở
thư tín dụng ghi đầy đủ tất cả các yếu tố quy định và nộp vào ngân hàng nơi mình
mở tài khoản
- Ngân hàng phục vụ bên trả tiền: nhận mở thư tín dụng cho khách hàng,
đồng thời có trách nhiệm kiểm tra tính hợp lệ của thư tín dụng. Sauk hi đồng ý cho
mở thư tín dụng, ngân hàng phải có trách nhiệm gửi ngay thông báo về thư tín
dụng cho ngân hàng phục vụ người thụ hưởng để báo cho người thụ hưởng biết.
- Bên thụ hưởng sau khi nhận được giấy mời thư tín dụng của bên trả tiền do
ngân hàng phục vụ mình gửi đến, bên thụ hưởng phải đối chiếu với hợp đồng và
8


đơn đặt hàng đã kí. Căn cứ vào hóa đơn chứng từ giao hàng, bên thụ hưởng phải
lập bảng kê hóa đơn, chứng từ giao hàng gửi đến ngân hàng phục vụ mình để thanh

toán tiền hàng.
- Ngân hàng phục vụ bên thụ hưởng sau khi nhận được giấy mở thư tín dụng
do ngân hàng phục vụ bên trả tiền gửi đến, tiến hành kiểm tra thủ tục lập giấy mở
thư tín dụng, sau đó thông báo cho bên thụ hưởng biết để làm căn cứ giao hàng.
• Thanh toán bằng thẻ ngân hàng:
Chủ thể tham gia thanh toán bằng thẻ ngân hàng bao gồm:
- Ngân hàng phát hành thẻ là Ngân hàng bán thẻ cho chủ sở hữu thẻ và chịu
trách nhiệm thanh toán cuối cùng. Ngân hàng phát hành thẻ có các quyền và nghĩa
vụ sau:
+ Căn cứ vào giấy đề nghị phát hành thẻ của khách hàng, sau khi kiểm tra
thủ tục và các điều kiện sử dụng thẻ của khách hàng nếu đủ điều kiện Ngân hàng
phát hành trích từ tài khoản tiền gửi hoặc thu tiền mặt, ngân phiếu thanh toán lưu
ký vào tài khoản thẻ thanh toán; thực hiện việc thu tiền phí phát hành thẻ; lập thẻ
thanh toán; giao thẻ, mật mã sử dụng và hướng dẫn cho khách hàng sừ dụng thẻ
khi thanh toán; lập hồ sơ theo dõi thẻ thanh toán đã phát hành;
+ Có trách nhiệm quản lý và giữ bí mật tuyệt đối về mật mã sử dụng thẻ của
khách hàng;
+ Có trách nhiệm thanh toán ngay số tiền theo biên lai do Ngân hàng đại lý
chuyển đến, nếu thanh toàn đúng thủ tục quy định của Ngân hàng phát hành thẻ;
thông báo kịp thời việc mất thẻ cho các Ngân hàng đại lý tiếp nhận thanh toán bằng
thẻ thanh toán, hoàn trả lại cho chủ sở hữu thẻ tiền ký quỹ không sử dụng hết.
- Người sử dụng thẻ là người sở hữu thẻ có tên ghi trong thẻ được Ngân
hàng phát hành thẻ thanh toán bán thẻ để thanh toán, chi trả thay tiền mặt. Khi có
nhu cầu sử dụng thẻ thanh toán, khách hàng lập và gửi đến Ngân hàng phát hành
thẻ giấy đề nghị phát hành thẻ thanh toán. Mỗi khi thanh toán cho cơ sở tiếp nhận
(bên bán hàng) tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc trả nợ, chủ sở hữu thẻ phải xuất trình
cho cơ sở tiếp nhận thẻ để kiểm tra và làm thủ tục theo quy định. Chủ sở hữu thẻ
phải có trách nhiệm bảo quản thẻ không để bị mất mát, lợi dụng mua bán, lừa đảo,
sử dụng thẻ theo đúng mức quy định, không giao thẻ cho người khác sử dụng, khi
mất thẻ phải báo ngay cho Ngân hàng phát hành thẻ biết.

- Cơ sở tiếp nhận thanh toán bằng thẻ thanh toán là các bên bán hàng hoặc
cung cấp dịch vụ, thu nợ... Sau khi giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ theo thẻ trong
phạm vi 2 ngày làm việc phải nộp biên lai thanh toán thẻ vào Ngân hàng đại lý để
đòi tiền. Cơ sở tiếp nhận thẻ có trách nhiệm kiểm tra đúng mật mã, đúng quy định
về kỹ thuật an toàn củạ Ngân hàng phát hành thẻ và chỉ nhận thẻ theo đúng quy
định do Ngân hàng đại lý quy định.
- Ngân hàng đại lý thanh toán là các chi nhánh Ngân hàng do Ngân hàng
phát hành thẻ quy định. Ngân hàng đại lý thanh toán trả tiền cho các cơ sở tiếp
nhận thanh toán bằng thẻ thanh toán khi nhận được biên lai thanh toán, trả tiền mặt
theo yêu cầu của chủ sở hữu thẻ. Khi nhận được biên lai thanh toán do cơ sở tiếp
9


nhận thẻ lập gửi đến, sau khi kiểm tra đủ điều kiện thanh toán, ngân hàng đại lý
thanh toán thẻ có trách nhiệm thanh toán ngay cho cơ sở tiếp nhận thanh toán bằng
thẻ. Trong phạm vi một ngày làm việc kể từ khi nhận được biên lai thanh toán,
Ngân hàng đại lý phải trả tiền vào tài khoản cơ sở tiếp nhận thẻ.
Khi việc thanh toán thực hiện theo đúng quy định của Ngân hàng phát hành
thẻ, Ngân hàng đại lý là Ngân hàng phát hành thẻ theo sự thỏa thuận giữa hai bên
qua thẻ thanh toán giữa các Ngân hàng thanh toán ngay với Ngân hàng phát hành
thẻ nơi mình nhận làm đại lý.
3.2. Thủ tục thanh toán.
• Séc: là loại chứng từ thanh toán được áp dụng rộng rãi ở tất cả các nước
trên thế giới, quy định sử dụng séc đã được chuẩn hoá trên Công ước quốc tế.
* Séc chuyển khoản:
- Thủ tục thanh toán séc: Sơ đồ luân chuyển séc chuyển khoản.
+ Thanh toán giữa khách hàng mở tài khoản ở cùng một ngân hàng
Người trả tiền

Người thụ hưởng


1

2

3

4

Ngân hàng phục vụ

(1): Người trả tiền phát hành séc và giao cho người thụ hưởng.
(2): Người thụ hưởng tiếp nhận séc, sau khi kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ
của tờ séc sẽ lập 3 liên bảng kê nộp séc cùng tờ séc nộp vào ngân hàng xin thanh
toán.
(3): Ngân hàng kiểm tra tờ séc, nếu đủ điều kiện thì tiến hành trích tài khoản
tiền gửi của người trả tiền và báo Nợ cho họ.
(4): Ngân hàng ghi Có vào tài khoản của bên thụ hưởng và báo Có cho họ.
+ Thanh toán khác ngân hàng có tham gia thanh toán bù trừ trên địa bàn
Người trả tiền

4

(1): Người
séc giao cho người
thụ

Ngân hàng phục vụ người trả
tiền


1

Người thụ hưởng

2’

2

6

trả tiền phát hành
thụ hưởng.
(2):
Ngân hàng phục vụ người thụ
Người
hưởng
hưởng

3
5
10


sau khi kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của tờ séc sẽ lập 3 liên bảng kê nộp séc cùng
tờ séc nộp vào ngân hàng phục vụ mình xin thanh toán ( Người thụ hưởng cũng có
thể nộp trực tiếp bảng kê nộp séc kèm theo tờ séc vào ngân hàng phục vụ người trả
tiền để đòi tiền).
(3): Ngân hàng sẽ tiến hành kiểm tra ( Nếu lập bảng kê có gì sai sót hoặc có
các tờ séc không hợp lệ, quá thời hạn hiệu lực thanh toán thì từ chối thanh toán)
sau đó chuyển các tờ séc và bảng kê nộp séc cho ngân hàng phục vụ người trả tiền.

(4): Ngân hàng phục vụ người trả tiền sau khi kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp
của tờ séc và số dư tài khoản tiền gửi của chủ tài khoản sẽ tiến hành trích tài khoản
của người trả tiền và báo Nợ cho họ.
(5): Ngân hàng phục vụ người trả tiền dùng các liên bảng kê nộp séc lập
chứng từ thanh toán bù trừ và chuyển cho ngân hàng phục vụ người thụ hưởng để
thanh toán cho người thụ hưởng.
(6): Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng tiếp nhận các bảng kê nộp séc
(thông qua thanh toán bù trừ) sẽ ghi Có vào tài khoản cho người thụhưởng và báo
cho họ.
* Séc bảo chi:
- Thủ tục thanh toán séc bảo chi:
+ Trường hợp hai chủ thể thanh toán mở tài khoản tại cùng một chi nhánh
ngân hàng
2

Người trả tiền

5

Người thụ hưởng

1

3

4

Ngân hàng phục vụ

(1) : Người trả tiền làm thủ tục bảo chi séc ( lập hai liên giấy "Yêu cầu bảo

chi séc" kèm tờ séc đã ghi đủ các yếu tố nộp vào ngân hàng để xin bảo chi séc).
Ngân hàng đối chiếu giấy yêu cầu và tờ Séc, số dư tài khoản của người phát hành,
nếu đủ điều kiện thì tiến hành trích tiền từ tài khoản tiền gửi chuyển vào tài khoản
" Đảm bảo thanh toán Séc". Sau đó đóng dấu "Bảo chi" lên tờ séc và giao séc cho
khách hàng.
(2): Người trả tiền giao Séc cho người thụ hưởng để nhận hàng hoá, dịch vụ.
(3): Người thụ hưởng lập bảng kê nộp Séc kèm các tờ Séc nộp vào ngân
hàng xin thanh toán.
11


(4): Ngân hàng kiểm tra ký hiệu mật trên tờ séc và các yếu tố cần thiết khác,
tiến hành ghi Có vào tài khoản của người thụ hưởng và báo Có cho họ.
(5): Ngân hàng tất toán tài khoản " Đảm bảo thanh toán Séc"
+ Trường hợp hai chủ thể thanh toán mở tài khoản khác ngân hàng có tham
gia thanh toán bù trừ
Về cơ bản, quy trình luân chuyển chứng từ trong trường hợp này giống như
Séc chuyển khoản, tuy nhiên có sự khác nhau về tài khoản hạch toán.
• Ủy nhiệm chi:
* Thủ tục thanh toán ủy nhiệm chi: Sơ đồ.
+ Trường hợp hai chủ thể mở tài khoản ở hai ngân hàng khác nhau
HH, DV

Người trả tiền

1

2

Ngân hàng phục vụ người trả tiền


Người thụ hưởng

3

2’

Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng

(1): Người trả tiền lập 4 liên UNC nộp vào ngân hàng phục vụ mình để trích
tài khoản của mình trả tiền cho người thụ hưởng.
(2): Ngân hàng kiểm tra thủ tục lập UNC, số dư tài khoản tiền gửi của khách
hàng, nếu đủ điều kiện thanh toán thì tiến hành trích tài khoản tiền gửi của người
trả tiền, báo Nợ cho họ và chuyển tiền sang ngân hàng phục vụ người thụ hưởng để
thanh toán cho người thụ hưởng.
(3): Khi nhận được chứng từ thanh toán do ngân hàng phục vụ người trả tiền
chuyển đến, ngân hàng phục vụ người thụ hưởng dùng các liên UNC để ghi Có vào
tài khoản tiền gửi của người thụ hưởng và báo Có cho họ.
- Tại ngân hàng phục vụ bên thụ hưởng, khi nhận được chứng từ thanh toán
do ngân hàng phục vụ bên trả tiền chuyển đến, sau khi kiểm soát chứng từ, nếu đủ
điều kiện để thanh toán thì ghi ngày ghi sổ, số hiệu tài khoản nợ, có, ký tên chứng
từ và dùng các liên ủy nhiệm chi hoặc chứng từ do ngân hàng phục vụ bên thụ
hưởng lập để ghi có tài khoản của bên thụ hưởng và gửi giấy báo có cho bên thụ
hưởng.
• Ủy nhiệm thu:
- Quy trình thanh toán UNT ( trường hợp các chủ thể thanh toán mở tài
khoản tại 2 chi nhánh ngân hàng cùng hoặc khác hệ thống )

12



Người trả tiền

Người thụ hưởng

3

1

5

2
Ngân hàng phục vụ người trả

Ngân hàng phục vụ người thụ

4

tiền

hưởng

(1): Sau khi giao hàng hoăc cung ứng dịch vụ, người thụ hưởng lập 4 liên
UNT kèm chứng từ giao hàng nộp vào ngân hàng phục vụ mình nhờ thu hộ tiền
( Bên thụ hưởng cũng có thể nộp trực tiếp UNT vào ngân hàng phục vụ bên trả tiền
để đòi tiền ).
(2): Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng sau khi nhận được bộ chứng từ do
người thụ hưởng gửi đến sẽ tiến hành ký tên, đóng dấu ghi vào sổ theo dõi UNT và
gửi bộ chứng từ này cho ngân hàng phục vụ người trả tiền.
(3): Ngân hàng phục vụ người trả tiền sau khi nhận được bộ chứng từ sẽ

kiểm tra các yếu tố cần thiết và làm thủ tục trích tài khoản tiền gửi của bên trả tiền
và báo Nợ cho họ.
(4): Ngân hàng phục vụ người trả tiền chuyển tiền đến ngân hàng phục vụ
người thụ hưởng để thanh toán cho người thụ hưởng.
(5): Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng ghi Có vào tài khoản của người thụ
hưởng và báo Có cho họ.
• Thanh toán bằng thư tín dụng
Quy trình thanh toán bằng thư tín dụng:
4a

Người trả tiền

1

Người thụ hưởng

7

Ngân hàng mở thư tín dụng

3

2

4b

5

Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng


6

(1): Người trả tiền lập 5 liên giấy mở TTD yêu cầu ngân hàng phục vụ mình
trích tài khoản tiền gửi (hoặc vay ngân hàng ) một số tiền bằng tổng giá trị hàng
13


hoá, dịch vụ đặt mua để lưu ký vào một tài khoản riêng gọi là tài khoản " Đảm bảo
thanh toán TTD "
(2): Ngân hàng phục vụ bên trả tiền mở TTD cho người trả tiền và chuyển
ngay 2 liên TTD cho ngân hàng phục vụ người thụ hưởng để báo cho người thụ
hưởng biết.
(3): Khi nhận được 2 liên giấy mở TTD do ngân hàng phục vụ bên trả tiền
gửi đến, ngân hàng phục vụ bên thụ hưởng tiến hành kiểm tra thủ tục mở TTD
như: ký hiệu mật, chữ ký của ngân hàng mở TTD . Sau khi ghi ngày nhận, ký tên,
đóng dấu đơn vị lên các liên giấy mở TTD sẽ gửi 1 liên cho bên thụ hưởng để làm
căn cứ giao hàng ( còn một liên lưu lại và mở sổ theo dõi TTD đến).
(4a): Bên thụ hưởng phải đối chiếu với hợp đồng kinh tế hay đơn đặt hàng,
nếu đầy đủ các yếu tố cần thiết thì giao hàng và yêu cầu người nhận hàng ký vào
hoá đơn giao hàng.
(4b): Căn cứ vào hoá đơn, chứng từ giao hàng, bên thụ hưởng lập 4 liên
bảng kê hoá đơn, chứng từ giao hàng nộp vào ngân hàng phục vụ mình để xin
thanh toán.
(5): Khi nhận được bộ chứng từ do bên thụ hưởng nộp vào, ngân hàng kiểm
tra thủ tục lập bảng kê hoá đơn, chứng từ giao hàng , thời hạn hiệu lực của TTD, số
tiền bên thụ hưởng đề nghị thanh toán, sau đó, tiến hành ghi Có cho tài khoản tiền
gửi người thụ hưởng và báo Có cho họ.
(6): Căn cứ vào bảng kê hoá đơn, chứng từ giao hàng, ngân hàng bên thụ
hưởng lập giấy báo Nợ liên hàng để ghi Nợ TK Liên hàng đi và gửi cho ngân hàng
phục vụ bên trả tiền để xin thanh toán.

(7): Ngân hàng phục vụ bên trả tiền tất toán tài khoản " Đảm bảo thanh toán
TTD "
• Thẻ thanh toán:
- Quy trình thanh toán thẻ:
3

Chủ sở hữu thẻ

1b

Cơ sở tiếp nhận thẻ

2
1a

4

Ngân hàng phát hành thẻ

5

Ngân hàng đại lý thanh toán thẻ

(1a):
Khách
hàng lập và gửi đến ngân hàng phát hành thẻ giấy đề nghị phát hành thẻ thanh toán
(Nếu là thẻ ký quỹ thanh toán, khách hàng phải nộp thêm UNC trích tài khoản của
mình hoặc nộp tiền mặt để lưu ký tiền vào tài khoản thẻ thanh toán tại ngân hàng
phát hành thẻ).
(1b): Căn cứ với đề nghị phát hành thẻ của khách hàng, sau khi kiểm tra thủ

tục lập chứng từ và các điều kiện sử dụng thẻ của khách hàng, nếu thấy đủ điều
14


kiện, ngân hàng sẽ phát hành thẻ để cấp cho khách hàng và hướng dẫn khách hàng
sử dụng thẻ khi thanh toán. Ngân hàng phát hành thẻ phải quản lý và giữ bí mật
tuyệt đối mật mã sử dụng thẻ của khách hàng.
(2): Chủ sở hữu thẻ giao thẻ cho cơ sở tiếp nhận thẻ để kiểm tra, đưa thẻ vào
máy thanh toán thẻ, máy tự động ghi số tiền thanh toán và in biên lai thanh toán .
(3): Cơ sở tiếp nhận thẻ giao thẻ và một biên lai thanh toán cho chủ sở hữu
thẻ.
(4): Cơ sở tiếp nhận thanh toán thẻ lập bảng kê biên lai thanh toán và gửi
cho ngân hàng đại lý thanh toán để thanh toán.
(5): Ngân hàng đại lý thanh toán thẻ với ngân hàng phát hành thẻ qua thủ tục
thanh toán giữa các ngân hàng.
III. Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp về các hình thức thanh toán qua
trung gian thanh toán ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
1. Thực trạng.
Theo khảo sát của cơ quan chức năng cho thấy thanh toán bằng tiền mặt còn
rất phổ biến trong nền kinh tế. Tiền mặt vẫn là phương tiện thanh toán chiếm tỷ
trọng lớn trong khu vực doanh nghiệp và chiếm đại đa số trong các giao dịch thanh
toán của khu vực dân cư. Tại 750 doanh nghiệp Việt Nam ở cả 3 miền Bắc, Trung,
Nam thì các doanh nghiệp tư nhân có trên 500 công nhân có khoảng 63% số giao
dịch của họ được tiến hành qua hệ thống ngân hàng; những doanh nghiệp có ít hơn
25 công nhân thì tỷ lệ này là 47%; với doanh nghiệp nhà nước mới chỉ hơn 80%
giao dịch được thực hiện qua ngân hàng; hầu hết các doanh nghiệp cả nhà nước lẫn
tư nhân đều trả lương bằng tiền mặt. Tại các hộ kinh doanh thì 86,2% số hộ kinh
doanh vẫn chi trả hàng hoá bằng tiền mặt; 75% số hộ kinh doanh chi trả dịch vụ
bằng tiền mặt; 72% số hộ kinh doanh tư nhân nộp thuế bằng tiền mặt; số người sử
dụng dịch vụ ngân hàng chủ yếu là các doanh nghiệp lớn, lao động ở khu vực có

vốn đầu tư nước ngoài, nhân viên công sở có thu nhập cao và ổn định. Từ năm
2001 đến nay, tỷ trọng tiền mặt được sử dụng trong thanh toán so với tổng phương
tiện thanh toán năm 2001 là 23,7%; năm 2004 là 20,3%; năm 2005 là 19%; năm
2006 là 17,21%, năm 2007 là 16,36%, năm 2008 là 14,6%; tuy tỷ trọng hàng năm
đã giảm nhưng còn ở mức cao hơn so với thế giới; tỷ trọng này ở các nước tiên tiến
như Thụy Điển là 0,7%, Na Uy là 1%, còn Trung Quốc là nước phát triển trung
bình nhưng cũng chỉ ở mức là 10%.
Trong khi đó, các phương thức thanh toán qua trung gian thương mại thì
chưa thực sự thuận tiện. Theo tác giả Đặng Đức Anh trong bài “Dịch vụ tài chính –
ngân hàng Việt Nam trước ngưỡng cửa hội nhập” đăng tải trên Tạp chí Thông tin
và Dự báo kinh tế – xã hội số 11/2006, tỷ trọng giá trị thanh toán bằng các phương
tiện thanh toán (%) như sau: (xem bảng)
- Một trong các phương tiện thanh toán khá phổ biến hiện nay là thẻ thanh
toán giao dịch qua máy ATM, máy POS; tuy số lượng thẻ, máy ATM, máy POS do
các ngân hàng thương mại (NHTM) phát hành, lắp đặt ngày càng nhưng tác dụng
giảm khối lượng tiền mặt vào lưu thông còn rất khiêm tốn. Trong buổi giao lưu
15


trực tuyến do Thời báo Kinh tế Sài Gòn tổ chức ngày 8/6/2009, TS.Dương Hồng
Phương, Phó Vụ trưởng Vụ Thanh toán thuộc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho
biết, theo thống kê, khoảng 80% giao dịch qua ATM là để rút tiền mặt. Theo người
dân phản ánh, việc thanh toán tiền mua hàng, trả phí dịch vụ qua máy POS còn rất
hạn chế vì không có đủ máy quét cho nhiều loại thẻ của nhiều ngân hàng. Để trả
tiền mua hàng, khách hàng phải rút tiền mặt từ máy ATM lắp đặt tại các cửa hàng,
siêu thị. Ông Lưu Trung Thái – Phó Tổng giám đốc Ngân hàng Quân đội giải thích
điều này: hệ thống POS lắp đặt tại các cửa hàng, siêu thị của các ngân hàng hiện
nay chưa được kết nối với các hệ thống của ngân hàng khác, dẫn đến ít tiện ích cho
các thẻ ATM nội địa của các ngân hàng Việt Nam.
- Séc là một trong những phương tiện thanh toán đã có lâu đời ở các nước

phát triển, dựa trên Công ước thế giới về Séc năm 1933, các nước đều ban hành
Luật Séc, hoặc ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật Séc, để việc sử
dụng séc được nhanh chóng, thuận tiện không chỉ trong cùng địa phương và cùng
tổ chức phát hành séc, các nước đều có Trung tâm xử lý thanh toán bù trừ séc
ngoài hệ thống và khác địa phương do Ngân hàng Trung ương hoặc Hiệp hội Ngân
hàng quản lý, nhờ vậy, phương tiện thanh toán bằng séc được sử dụng phổ biến ở
nhiều nước phát triển(1). Mỹ là nước sử dụng thanh toán điện tử trong hoạt động
ngân hàng sớm nhất, thẻ thanh toán cũng ra đời đầu tiên ở Mỹ nhưng theo Ngân
hàng dự trữ Liên bang Mỹ Atlanta (trích dẫn trong Bank Technology News, tháng
1/2005) thì số lượng thanh toán điện tử đã đạt đến 44, 5 tỷ USD, so với 46,7 tỷ
USD thanh toán bằng séc; nhưng về mặt giá trị thì thanh toán điện tử chỉ đạt 27,4
ngàn tỷ USD, trong lúc thanh toán bằng séc đạt 39,3 ngàn tỷ USD(2); thanh toán
bằng séc ở Bồ Đào Nha còn chiếm tới 81% trong tổng lượng giao dịch, ở Ireland là
70%, ở Pháp là 56%, ở Anh là 51%; bình quân sử dụng séc tính theo đầu người
hàng năm ở Pháp là 80 món, ở Hà Lan là 56 món, bởi chi phí cho việc phát hành,
thanh toán séc vừa đơn giản, an toàn và tiết kiệm, vì vậy, người dân, nhất là các
nước Tây Âu đều thích sử dụng séc hơn là thẻ ATM, cụ thể thanh toán bằng thẻ ở
Luxemburg chiếm 23% với 23 món/ người/ năm, ở Pháp 15% với 21 món/
người/năm(3).
Còn ở nước ta, thanh toán bằng séc đã ra đời từ những năm 1960 nhưng đến
nay, phương tiện thanh toán này ngày càng giảm. Mặc dù thanh toán bằng séc có
nhiều thuận lợi và nhanh chóng trong giao dịch mua bán, người mua hàng ký séc
đưa cho người bán và người bán chỉ cần cầm séc và CMND ra ngân hàng là có thể
nhận được tiền hoặc chuyển vào tài khoản nhưng hiện nay, tỷ lệ thanh toán bằng
séc mới chiếm khoảng 2% trong tổng thanh toán phi tiền mặt; Ông Vũ Huy Toản –
Phó Giám đốc NHNN thành phố Hồ Chí Minh cho rằng nguyên nhân thanh toán
bằng séc bị hạn chế là do chưa có quy định bắt buộc về hạn mức phải thanh toán
bằng séc mà hiện chỉ “động viên” dùng séc và một nguyên nhân khác là sự lo ngại
của người bán hàng sợ tài khoản của người mua không còn tiền, séc giả, dễ dẫn
đến rủi ro. Việc thanh toán séc cũng gặp không ít phiền phức nếu khách mua và

khách bán không có tài khoản ở cùng một ngân hàng, buộc các NHTM phải thông
16


qua hệ thống thanh toán bù trừ của NHNN nhưng hiện tại, NHNN chưa có Trung
tâm thanh toán bù trừ séc.
2. Nguyên nhân.
Nguyên nhân là do cơ sở pháp lý còn nhiều lỗ hổng và thiếu đồng bộ: Năm
1991 sau khi Hội đồng Nhà nước ban hành hai Pháp lệnh về Ngân hàng, hệ thống
ngân hàng từ một cấp chuyển sang hệ thống ngân hàng hai cấp: các giao dịch thanh
toán trong nền kinh tế thông qua NHNN, các tổ chức tín dụng, Kho bạc Nhà nước,
để thực hiện Pháp lệnh và phù hợp với những đòi hỏi của các tổ chức, cá nhân
trong giai đoạn đổi mới, Chính phủ ban hành Nghị định số 91/CP ngày 25/11/1993
về tổ chức công tác thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) thay thế Nghị
định số 04/CP ngày 7/3/1960 về thể lệ TTKDTM và Nghị định số 15/CP ngày
31/5/1960 quy định những nguyên tắc thanh toán bằng tiền mặt. Sau đó, ngày
20/9/2001, Chính phủ ban hành Nghị định số 64/2001/NĐ-CP về hoạt động thanh
toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán thay cho Nghị định số 91/CP,
đến nay, Nghị định này vẫn còn hiệu lực thi hành; dù tên gọi hai nghị định có khác
nhau nhưng nội dung cả 2 nghị định trên đều quy định “ Các tổ chức cung ứng dịch
vụ thanh toán có nghĩa vụ đáp ứng đầy đủ, kịp thời các nhu cầu về gửi và rút tiền
mặt của người sử dụng dịch vụ thanh toán phù hợp với quy định của pháp luật”
(điều 13). Sau khi thực hiện công cuộc đổi mới kinh tế nói chung, đổi mới hoạt
động ngân hàng nói riêng thì tất cả những quy định về quản lý tiền mặt đã từng
được sử dụng trước đó đều bị loại bỏ hoặc các văn bản quy phạm pháp luật mới
ban hành nhưng không đi vào cuộc sống. Do vậy, tiền mặt đã nghiễm nhiên trở
thành một công cụ thanh toán không hạn chế về đối tượng và phạm vi sử dụng.
Đây cũng chính là nguyên nhân để tạo ra một thói quen trong dân chúng, trong các
doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế trong nền kinh tế, đó là “việc ưa thích sử dụng
tiền mặt trong thanh toán”. Có những quan điểm cho rằng trong kinh tế thị trường

thì Nhà nước không thể bắt ép các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế phải sử dụng
phương thức này hoặc phương thức khác trong thanh toán, việc sử dụng tiền mặt,
séc hay uỷ nhiệm chi… để thanh toán cho nhau. Đây là quan điểm hết sức sai lầm,
bởi dù là kinh tế thị trường nhưng vì lợi ích chung của nền kinh tế, mọi công dân,
doanh nghiệp đều phải tuân thủ pháp luật, trong đó có pháp luật về thanh toán.
Thực tế cho thấy rằng, sau khi thực hiện công cuộc đổi mới kinh tế, ngành Ngân
hàng đã có nhiều đổi mới rất quan trọng, nhưng trong lĩnh vực thanh toán thì
không những chưa được đổi mới để phát triển mà còn gần như bị buông lỏng. Do
vậy, tình trạng nền kinh tế tiền mặt ở Việt Nam đã kéo dài trong nhiều năm là do
không có một hành lang pháp lý ngay từ đầu; Nhà nước không quản lý và cũng
không kiểm soát việc thanh toán giữa các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và giữa
các tầng lớp dân cư với nhau, sự buông lỏng của Nhà nước trong quản lý tiền mặt
vô hình chung đã tạo cho kinh tế “ngầm” phát triển.
Thêm vào đó Luật Các công cụ chuyển nhượng có hiệu lực thi hành từ ngày
1/7/2006 nhưng đến nay, Chính phủ chưa ban hành Nghị định quy định thi hành,
tuy NHNN đã ban hành Quyết định số 44/2006/QĐ-NHNN ngày 5/9/2006 quy
17


định về thủ tục nhờ thu hối phiếu qua người thu hộ, đến nay trên thực tế, hối phiếu
chưa được các tổ chức kinh tế sử dụng trong giao dịch thương mại và chiết khấu tại
các NHTM, ngày 11/7/2006, Thống đốc NHNN ra Quyết định 30/2006/QĐNHNN về Quy chế cung ứng và sử dụng séc, nhưng đến nay, séc vẫn chưa được
nhiều người sử dụng, vì NHNN vẫn chưa thành lập được các trung tâm bù trừ séc,
qua đây có thể thấy Luật Các công cụ chuyển nhượng đã ban hành từ hơn 3 năm
nhưng chưa đi vào cuộc sống.
- Hành lang pháp lý trong lĩnh vực thanh toán chưa hoàn thiện, mặc dù ngày
19 tháng 11 năm 2005 vừa qua, Luật Giao dịch điện tử đã được Quốc hội thông
qua, tạo hành lang pháp lý cho các nghiệp vụ, dịch vụ ngân hàng hiện đại, tạo điều
kiện cho ngân hàng tham gia sâu rộng vào các hoạt động TMĐT, cung cấp các dịch
vụ thanh toán cho các chủ thể tham gia kinh doanh trực tuyến trên mạng trong

phạm vi toàn xã hội. Tuy nhiên, để Luật này đi vào cuộc sống không chỉ của riêng
ngành Ngân hàng mà của toàn xã hội. Hệ thống văn bản pháp lý liên quan đến lĩnh
vực thanh toán vẫn còn những điểm cần phải tiếp tục được chỉnh sửa, thay thế để
có thể phù hợp với thông lệ quốc tế và nhu cầu của người sử dụng, để cả các loại
hình tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán không phải là ngân hàng, các tổ chức
công nghệ thông tin cung ứng những sản phẩm, dịch vụ hỗ trợ cho các ngân hàng,
các tổ chức làm dịch vụ thanh toán, chẳng hạn như những công ty cung cấp giải
pháp công nghệ qua mạng Internet, các công ty kinh doanh dịch vụ thẻ, các tổ chức
chuyên làm dịch vụ thanh toán bù trừ:
Mặt khác cơ sở hạ tầng về công nghệ chưa đáp ứng được yêu cầu về thanh
toán qua trung gian thanh toán: Có một thực tế trong nhiều năm trước đây, cơ sở
vật chất của nhiều NHTM còn nhiều yếu kém do không có nhiều vốn để đầu tư
trang bị máy móc thiết bị và công nghệ nên khi thực hiện công tác thanh toán giữa
các tổ chức kinh tế thường chậm trễ, ảnh hưởng đến chu chuyển vốn của nền kinh
tế nói chung và từng doanh nghiệp, cá nhân nói riêng, vì vậy họ lựa chọn phương
thức thanh toán bằng tiền mặt. Thời gian gần đây, trước sự đòi hỏi của thị trường
và cạnh tranh trong dịch vụ ngân hàng, tình hình đầu tư và ứng dụng công nghệ
thông tin trong ngành Ngân hàng đã được cải thiện.
3. Một số giải pháp.
Để thực hiện vai trò quản lý nhà nước về hoạt động ngân hàng, trong đó có
tổ chức thanh toán, xây dựng khung pháp lý về thanh toán bằng tiền mặt và phí tiền
mặt cần đảm bảo lợi ích của nền kinh tế, lợi ích của Nhà nước và nhân dân, là cơ
sở để mọi thành viên trong xã hội tuân thủ. Vì vậy, khung pháp lý về thanh toán
không tránh khỏi có những quy định mang tính hành chính, văn bản pháp lý đó
không thể thỏa mãn ý muốn của mọi đối tượng, nhất là những phần tử xấu muốn
“đục nước béo cò” trong việc thanh toán qua ngân hàng; các đạo luật khác cùng
vậy, không thể làm vừa lòng tất cả mọi người, khi tình hình chính trị, kinh tế, xã
hội, công nghệ thay đổi sẽ có những khe hở nhất định, không tránh khỏi bị lợi dụng
để “ lách luật”, khi đó, cơ quan quản lý nhà nước lại phải sửa đổi, bổ sung cho phù
hợp. Mở rộng thanh toán trong nền kinh tế bằng công nghệ nên chỉ coi là giải pháp

18


hỗ trợ để thúc đẩy nhanh trong giao dịch thanh toán chứ không thể coi là “phao
cứu sinh” cho tình trạng thanh toán bằng tiền mặt hiện nay. Kinh nghiệm của nước
ngoài cho thấy, trong lĩnh vực thanh toán qua ngân hàng có nhiều luật khác nhau
như Luật Thanh toán bằng tiền mặt, Luật Séc, Luật Hối phiếu, Luật Phòng chống
rửa tiền… đều được xây dựng đồng bộ. Theo TS. Nguyễn Đại Lai: “Thụy Điển là
một trường hợp rất hay. Cuộc cách mạng về TTKDTM ở quốc gia này mới bắt đầu
từ 1999, vậy mà kể từ sau năm 2000, tỷ lệ tiền mặt trong tổng phương tiện thanh
toán của Thụy Điển chỉ còn 0,7%, một con số đáng khâm phục nếu biết rằng trước
1999 tỷ lệ đó là trên 17%”.
Thực tiễn ở nước ta trong giai đoạn trước đây khi bước vào xây dựng nền
kinh tế xã hội chủ nghĩa từ những năm 1960 – 1986, dù trong điều kiện công nghệ
còn rất sơ khai, chỉ có hệ máy tính đục lỗ, máy tính quay tay, và mọi khoản thanh
toán, chuyển tiền phải thông qua bưu điện, nhưng công tác thanh toán trong nền
kinh tế vận hành có hiệu quả, kể cả trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, được như
vậy là nhờ có hành lang pháp lý chặt chẽ để mọi cá nhân, tổ chức và các doanh
nghiệp chấp hành và cơ quan hành pháp thực thi hạn chế và ngăn chặn có hiệu quả.
Vì vậy, căn cứ khoản 2 điều 1 Luật NHNN hiện hành quy định: “NHNN
thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng; là ngân
hàng phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và ngân hàng làm dịch vụ
tiền tệ cho Chính phủ”, với vai trò là 3 trung tâm: trung tâm tiền tệ, trung tâm tín
dụng và trung tâm thanh toán trong nền kinh tế, NHNN cần tiếp tục hoàn chỉnh các
đề án thành phần còn lại, trước hết đề án hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt
động thanh toán của nền kinh tế, đề án TTKDTM trong khu vực doanh nghiệp;
nhóm đề án TTKDTM trong khu vực dân cư, có như vậy Đề án TTKDTM được
Chính phủ giao đạt hiệu quả như mực tiêu đề ra. Ở cấp độ cao hơn, đề nghị NHNN
trình Chính phủ có lộ trình xây dựng Luật Giao dịch bằng tiền mặt trong nền kinh
tế mà không cần nhiều nghị định như các đề án thành phần, cùng với xây dựng

Luật Séc, Luật Hối phiếu thay cho Luật Các công cụ chuyển nhượng hiện nay chưa
đi vào cuộc sống, Luật Phòng chống rửa tiền và tài trợ khủng bố thay cho Nghị
định 74/2005/NĐ-CP ngày 7/6/2005 về phòng, chống rửa tiền. Nếu thực hiện được
sẽ giúp hạn chế thanh toán bằng tiền mặt trong nền kinh tế và giảm được hoạt động
kinh tế “ngầm” đang đe dọa đến an ninh quốc gia, là mối bận tâm của các nhà quản
lý và sự lo ngại công chúng trong lĩnh vực phòng chống tham nhũng, rửa tiền, trốn
thuế và các họat động phi pháp khác; tiết kiệm được chi phí in ấn, vận chuyển, bảo
quản tiền, đảm bảo an toàn tài sản của Nhà nước và công dân; giúp cho hoạt động
ngân hàng phù hợp với thông lệ quốc tế và có điều kiện để NHTM mở chi nhánh
hoạt động ở các nước phát triển.
- Hạn mức thanh toán bằng tiền mặt:
Các quy định về hạn mức thanh toán bằng tiền mặt dù là các khoản chi thuộc
NSNN, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp dân doanh hoặc các khoản thanh
toán khác nên thống nhất một mức chung, ví dụ ở mức bằng thuế thu nhập cá nhân,
không những tạo được sự công bằng giữa cá nhân, tổ chức trong và ngoài nhà nước
19


mà có thể thúc đẩy lĩnh vực dịch vụ ngân hàng bán lẻ góp phần mở rộng thanh toán
không dùng tiền mặt.
- Giám sát, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về thanh toán bằng tiền mặt:
Đối với kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về sử dụng tiền mặt đối
với các tổ chức hưởng lương NSNN đã có Kho bạc Nhà nước quản lý nhưng đối
với các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp dân doanh là một công việc hết sức
khó khăn, phức tạp, bởi các NHTM cũng là một doanh nghiệp không phải là cơ
quan quản lý hành chính trong lĩnh vực này, vì vậy, công tác thanh tra, kiểm tra
việc chấp hành luật pháp về thanh toán của các tổ chức này nên giao cho cơ quan
thanh tra các cấp từ huyện trở lên hoặc cơ quan thanh tra thuế.

KẾT LUẬN

Trong xu thế phát triển chung của đất nước và quá trình hội nhập với thế
giới, ngành ngân hàng đóng góp một vai trò hết sức to lớn. Để đáp ứng những yêu
cầu của nền kinh tế, ngân hàng đã từng bước củng cố, cải tiến và phát triển trong
toàn bộ hệ thống.
Thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng là một dịch vụ phong phú,
đa dạng và liên tục phát triển, đáp ứng được một phần lớn yêu cầu của nền kinh tế
thị trường linh hoạt và năng động. Thanh toán không dùng tiền mặt giúp việc tập
trung và phân phối vốn được nhanh chóng, an toàn và hiệu quả, góp phần tích cực
vào việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển.Việc phát triển hệ thống thanh toán qua
ngân hàng không chỉ tạo tiền đề, nền tảng cho việc phát triển hoạt động kinh doanh
của ngân hàng mà còn giúp Nhà nước quản lý vĩ mô một cách có hiệu quả, đặc biệt
là trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

20


DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường đại học Luật Hà Nội – Giáo trình Luật Ngân hàng (NXB
Công an nhân dân – Hà Nội/2008).
2. Nguyễn Ngọc Lâm – Kinh nghiệm của bạn và giải pháp của Việt
Nam (Tạp chí Tin học ngân hàng - số 7/ 2005).
3. Văn Tạo - Thanh toán không dùng tiền mặt: Thực trạng, nguyên
nhân và giải pháp (Tạp chí Ngân hàng – số 19/2008).
4. Nghị định số 64/2001/NĐ-CP ngày 20 tháng 9 năm 2001 về hoạt
động thanh toán của các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.

21




×