Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

KẾT HỢP PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (490.02 KB, 122 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
G33
-----------------------

GG

NGUYỄN THUÝ HOA

KẾT HỢP PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC
TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY
Chuyên ngành
Mã số

: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
: 60 38 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT

Người hướng dẫn khoa học: TS TRẦN ĐÌNH THẮNG

HÀ NỘI - 2006


2

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dùng pháp luật hoặc đạo đức để cai trị đã trở thành thuật trị nước, an
dân từ ngàn xưa của các nhà nước. Dưới mỗi triều đại, tùy thuộc vào điều
kiện kinh tế, văn hóa, xã hội đặc thù của mình mà các giai cấp cầm quyền lựa


chọn một phương thức quản lý nhà nước thích hợp, hiệu quả, đó có thể là đức
trị (quản lý xã hội bằng đạo đức), là pháp trị (quản lý xã hội bằng pháp luật)
hoặc kết hợp cả hai phương thức đó.
Ở Việt Nam, trong suốt chiều dài lịch sử hàng ngàn năm của các triều
đại phong kiến, do chịu ảnh hưởng sâu sắc của các quan điểm Phật giáo, Nho
giáo nên phương thức cai trị xã hội bằng pháp luật và hoạt động xây dựng
pháp luật còn bị xem nhẹ. Chính vì vậy, đạo đức giữ vai trò to lớn trong điều
chỉnh các QHXH. Cùng với nền văn hóa lúa nước: tương thân, tương ái, đoàn
kết, nhân hòa, khoan dung, trọng nghĩa... hàng loạt QHXH đã được điều chỉnh
bằng hệ thống quy phạm đạo đức. Có thể nói, đạo đức đã len lỏi đến từng mối
QHXH, thấm đẫm trong tư tưởng đối nhân xử thế của người Phương Đông
nói chung và người Việt Nam nói riêng. Khi các QHXH ngày càng phát triển
đa dạng và phong phú thì bên cạnh việc sử dụng các chuẩn mực đạo đức để
điều chỉnh xã hội, các triều đại phong kiến đã từng bước để ý đến việc xây
dựng pháp luật nhằm thể chế hóa những chuẩn mực đạo đức làm công cụ để
điều chỉnh QHXH mang tính công quyền. Trong các triều đại phong kiến Việt
Nam, chúng ta đặc biệt ghi nhận vai trò của triều Lê (Tiền Lê) với đại biểu Lê
Thánh Tông (1442-1497) – Người đã kết hợp nhuần nhuyễn đạo đức với pháp
luật trong thuật trị nước của mình.
Bước sang thời kỳ Pháp thuộc, sự tàn bạo và hà khắc của pháp luật đô
hộ lại càng làm nhân dân có chung tâm lý xa luật, sợ luật bởi sự bóc lột và


3

khai thác kiệt quệ sức người, sức của, bởi sự bất bình đẳng giữa địa vị của
người mất nước và kẻ cướp nước. Đó là thứ pháp luật thống trị, xa rời những
giá trị nhân văn bảo vệ quyền con người và tất yếu nó bị nhân dân phản đối.
Bước ngoặt có tính lịch sử của thuật dựng nước, giữ nước, xây dựng
đất nước phồn thịnh bằng pháp luật gắn liền với công lao và sự nghiệp giải

phóng dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ở Người, đi tìm con đường giải
phóng dân tộc, cứu nước, cứu dân cũng đồng thời là quá trình nhận thức,
khẳng định vai trò, giá trị của pháp luật trong dựng nước và giữ nước. Song,
chính Người cũng là điển hình mẫu mực trong việc kết hợp nhuần nhuyễn
giữa pháp luật và đạo đức. Quản lý nhà nước bằng pháp luật, nhưng phát huy
tối đa vai trò của đạo đức trong xây dựng đời sống mới. Đạo đức công dân
giúp cho mỗi người tự giác nhận thức, tôn trọng và thực hiện pháp luật. Đạo
đức công chức góp phần ngăn chặn sự thoái hóa của người thực thi quyền lực
nhà nước. Đặc biệt, đạo đức XHCN chính là cơ sở xây dựng nhà nước XHCN
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân phù hợp với bản sắc văn hóa Việt
Nam... Tư tưởng hiến trị, pháp trị kết hợp với đạo đức của Người là yếu tố
quyết định sự ra đời và phát triển không ngừng của hệ thống pháp luật XHCN
ở Việt Nam hiện nay.
Tại Điều 2, Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001 (sau đây gọi tắt
là Hiến pháp 1992) khẳng định: "Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là
nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức"[9, tr.13].
Xây dựng NNPQ là nhấn mạnh vai trò của pháp luật. Song không nên
đề cao một chiều đến mức tuyệt đối hóa vai trò của pháp luật, coi pháp luật là
yếu tố duy nhất để điều chỉnh các QHXH, mà bỏ qua vai trò hỗ trợ của các
quy tắc xã hội khác như đạo đức, phong tục, tập quán tốt đẹp và các quy tắc


4

tôn giáo tiến bộ... Bởi vì pháp luật chỉ tập trung đáp ứng được trong điều
chỉnh những QHXH cơ bản và quan trọng liên quan tới lợi ích và vận mệnh
của toàn bộ quốc gia. Đạo đức và các quy tắc xã hội khác sẽ bổ sung và lấp
vào các khoảng trống trong các QHXH mà pháp luật chưa vươn tới được. Ở

mối quan hệ này ta thấy, trong pháp luật phải có đạo đức, thiếu đạo đức, pháp
luật xơ cứng và khó có thể thực hiện trong đời sống thực tế bằng sự tự giác,
bằng niềm tin, khó có thể đạt tới chuẩn mực của "văn hóa pháp lý". Trong đạo
đức cũng phải có pháp luật, thiếu pháp luật đạo đức mất sự định hướng để
phát triển các giá trị bên trong của mình, mất đi sự bảo hộ cho các chuẩn mực
đạo đức tồn tại và phát triển lâu bền.
Những năm gần đây, hàng loạt các văn bản pháp luật của nhà nước đã
thể hiện sự pháp luật hóa những giá trị đạo đức thành chuẩn mực pháp luật để
điều chỉnh những quan hệ phát triển không ngừng của đời sống xã hội như
Luật Hôn nhân và gia đình (2000), Luật Lao động (2002), Pháp lệnh cán bộ
công chức (2003), Luật Dân sự (2005)... Bên cạnh đó, sự thừa nhận và
khuyến khích của nhà nước đối với xây dựng hương ước mới, xây dựng bảo
tồn những phong tục tập quán có ý nghĩa trong hình thành và phát triển nhân
cách con người mới lại một lần nữa thể hiện sự nhìn nhận, đánh giá của nhà
nước về vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội. Có thể thấy giữa pháp luật
và đạo đức luôn có mối quan hệ chặt chẽ qua lại với nhau.
Chỉ thị 23-CT/TW ngày 27/3/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng
về "Đẩy mạnh nghiên cứu tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong
giai đoạn mới" là một bằng chứng hết sức sâu sắc và rõ ràng trong việc Đảng
và Nhà nước nhận định vai trò to lớn của sự kết hợp giữa pháp luật với đạo
đức khi xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân trong giai đoạn hiện nay.


5

Tuy nhiên, việc xây dựng thành một hệ thống chuẩn mực các giá trị
đạo đức mới-đạo đức cách mạng còn là công việc phức tạp và nhạy cảm trong
đời sống chính trị hiện nay. Hiệu quả của sự kết hợp pháp luật và đạo đức trên
từng lĩnh vực của đời sống xã hội cũng là rất khác nhau, nó đòi hỏi phải có sự

nghiên cứu một cách lâu dài, thống nhất cả về lý luận và thực tiễn để có thể
đưa ra một cái nhìn tổng quát và hữu hiệu, đem lại lợi ích thiết thực cho quá
trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay.
Xuất phát từ những lý do phân tích nêu trên, tác giả đã mạnh dạn chọn
đề tài: "Kết hợp pháp luật và đạo đức trong quản lý nhà nước ở Việt Nam
hiện nay" để làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Sự kết hợp giữa pháp luật và đạo đức trong QLNN là một vấn đề đang
được nhiều nhà khoa học quan tâm. Hầu hết các tác giả chủ yếu tập trung
nghiên cứu sự giống và khác nhau giữa pháp luật và đạo đức; sự tác động qua
lại giữa chúng khi điều chỉnh các QHXH hoặc nghiên cứu mối quan hệ pháp
luật và đạo đức trong quản lý xã hội nói chung. Ở góc độ này có thể kể ra một
số công trình nghiên cứu khoa học sau đây.
-Trần Hậu Thành, "Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật", Tạp chí
Giáo dục lý luận, số 5-1998, tr.36-38.
- Trần Hậu Thành và Lê Thị Hoài Thanh, "Về quan hệ giữa đạo đức và
pháp luật", Tạp chí Khoa học chính trị, số 6-2000, tr.46-49.
- Hoàng Thị Kim Quế (chủ nhiệm) "Mối quan hệ giữa pháp luật và
đạo đức trong quản lý xã hội ở nước ta hiện nay", Đề tài khoa học cấp bộ,
2002.
- Hoàng Xuân Châu, “Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong
nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam” Luận văn Thạc sĩ
Luật học Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002.


6

- Nguyễn Văn Năm, "Mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức ở Việt
Nam", Luận văn thạc sĩ Luật học Đại học Luật Hà Nội, 2003.
Nhóm công trình nghiên cứu về vai trò, về những ảnh hưởng, tác động của

đạo đức trong việc xây dựng và thực hiện pháp luật giai đoạn hiện nay bao gồm:
- Phan Văn Tỉnh, "Đạo đức truyền thống của dân tộc là môi trường
thuận lợi của việc thực hiện pháp luật", Xã hội và pháp luật, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1994.
- Nguyễn Quốc Việt, "Bảo lưu các giá trị đạo đức truyền thống dân
tộc trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay", Đề tài
nghiên cứu cấp khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002.
- Công trình nghiên cứu của GS.Vũ Khiêu và PGS. Thành Duy "Pháp
luật và đạo đức trong triết lý phát triển ở Việt Nam".
Ngoài ra có một số tác giả nghiên cứu về mối quan hệ giữa pháp luật và
đạo đức nhưng giới hạn trong phạm vi tư tưởng Hồ Chí Minh như:
- Triệu Vũ, "Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa
đức trị và pháp trị trong quản lý xã hội", Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số
11-1993, tr.17-21.
- Thành Duy "Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và mối quan hệ giữa
pháp luật và đạo đức, đạo đức và lợi ích công dân", Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật, số 3-1995,tr 4-6.
- Lê Thị Hoài Thanh "Quan điểm Hồ Chí Minh về quan hệ giữa đạo
đức và pháp luật", Tạp chí Giáo dục lý luận, số 6-2000, tr.24-26.
- Hoàng Thị Kim Quế, "Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật
và đạo đức", Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 8-2002, tr.64-70.
- Lương Hồng Quang, "Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp pháp luật và
đạo đức trong quản lý xã hội", Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện CTQG
Hồ Chí Minh, 2002.


7

Những công trình khoa học kể trên là nguồn tư liệu, là cơ sở lý luận
cho tác giả nghiên cứu, kế thừa trong việc xây dựng và phát triển công trình

khoa học của mình theo hướng kết hợp pháp luật với đạo đức với tư cách là
một phương thức quản lý nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu, kiến giải vai trò của pháp luật, của đạo
đức trong xây dựng và quản lý xã hội, từ đó đưa ra phương thức kết hợp giữa
pháp luật và đạo đức để tạo nên sức mạnh tổng hợp trong quản lý nhà nước,
đặc biệt là trong giai đoạn chúng ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN ở Việt Nam hiện nay.
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Trên cơ sở lý luận về nhà nước và pháp luật, luận văn bước đầu
nghiên cứu làm sáng tỏ sự cần thiết phải kết hợp pháp luật với đạo đức trong
quản lý nhà nước ở Việt Nam hiện nay, đồng thời đưa ra những giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả của phương thức kết hợp giữa pháp luật với đạo đức.
- Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
Một là, trên cơ sở nghiên cứu tổng quan về những vấn đề lý luận về
QLNN, về pháp luật, về đạo đức, luận văn phân tích và lý giải vai trò to lớn
của pháp luật và của đạo đức trong QLNN.
Hai là, làm rõ sự thiết yếu phải kết hợp pháp luật với đạo đức trong
điều kiện chúng ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân trong điều kiện lịch sử kinh tế - chính trị - văn hóa
đặc thù của Việt Nam.
Ba là, phải đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của sự kết
hợp khoa học - biện chứng này.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu


8

Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng ta

về lý luận nhà nước, pháp luật và lý luận về QLNN.
Các phương pháp được sử dụng trong luận văn là các phương pháp nghiên
cứu truyền thống của khoa học xã hội: phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn,
phương pháp phân tích và tổng hợp, lịch sử cụ thể, phương pháp hệ thống,
phương pháp so sánh, phương pháp xã hội học, phương pháp tâm lý xã hội...
6. Những điểm mới của luận văn
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý nhà nước, về
pháp luật, về đạo đức.
- Lý giải sự cần thiết phải kết hợp giữa pháp luật với đạo đức trong
QLNN đặc biệt là trong xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân hiện nay.
- Đánh giá một cách hệ thống, toàn diện thực trạng về sự kết hợp pháp luật
với đạo đức trong QLNN ở Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất những giải pháp nhằm đảm bảo kết hợp pháp luật với đạo đức
trong xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân ở Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương, 5 tiết.


9

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KẾT HỢP PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC
TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC, CÁC CÔNG CỤ CƠ BẢN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

1.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước
Thuật ngữ "quản lý" có nhiều nghĩa khác nhau. Theo “Từ điển tiếng

Việt”, quản lý được hiểu dưới hai khía cạnh: "1. Trông coi và gìn giữ theo
những yêu cầu nhất định"; "2. Tổ chức và điều khiển các hoạt động theo
những yêu cầu nhất định" [24, tr.772]. Còn theo sách gốc và nghĩa từ Việt
thông dụng, quản lý được hiểu là "trông nom, sửa sang, sắp đặt công việc"
[32, tr.695]. Ở Phương Tây, từ "quản lý" (management) có nguồn gốc Italia
(managiare) được rút ra từ chữ La tinh "manus" nghĩa là bàn tay [12, tr.597].
Như vậy, có thể thấy rằng, thuật ngữ quản lý có nhiều cách diễn đạt
khác nhau tùy theo góc độ tiếp cận. Tuy nhiên, quan điểm chung nhất về quản
lý do các nhà điều khiển học đưa ra thì quản lý được hiểu là "sự tác động định
hướng bất kỳ lên một hệ thống nào đó nhằm trật tự hóa nó và hướng nó phát
triển phù hợp với những quy luật nhất định" [39, tr.83]. Trong khái niệm này,
"sự tác động có định hướng" được hiểu là sự tác động có tính kế hoạch của
người quản lý vào bất kỳ một thời điểm nào đó, hướng đến đối tượng là "một
hệ thống nào đó". Hệ thống này được xác định là "tập hợp nhiều yếu tố, đơn
vị cùng loại hoặc cùng chức năng có quan hệ hoặc liên hệ với nhau chặt chẽ,
làm thành một thể thống nhất" [24, tr.418].
Trong quản lý xã hội nói chung và quản lý lao động ở quá trình sản
xuất, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ: quản lý là một
dạng hoạt động - một hiện tượng tất yếu trong xã hội loài người. Các Mác cho
rằng: "quản lý là một chức năng đặc biệt nảy sinh từ bản chất xã hội của quá
trình lao động" [18, tr.29-30] và "lao động giám sát và quản lý cần thiết ở tất


10

cả những nơi, mà hoạt động sản xuất trực tiếp có hình thức của một quá trình
phối hợp mang tính xã hội chứ không phải là lao động riêng lẻ của những
người sản xuất độc lập" [20, tr.432].
Tuy những luận điểm trên đây nói về lao động sản xuất, nhưng có thể
áp dụng đối với bất kỳ hoạt động chung nào của con người. Ăngghen khẳng

định: "Quản lý là tất yếu khi nhiều người cần hoạt động chung với nhau, khi
có sự hiệp tác của một số người" [19, tr.33-34]. Như vậy, ở đâu có sự hiệp tác
của nhiều người thì ở đó có nhu cầu cần phải quản lý, đây là nhu cầu tự phát,
nhu cầu bên trong của mọi quá trình, mọi sự vật hiện tượng.
Chức năng quản lý là chức năng của một “nhạc trưởng" thể hiện ở sự
điều hòa những hoạt động cá nhân. Cho nên theo một nghĩa nào đó quản lý
còn được coi là loại hình nghệ thuật: Nghệ thuật điều khiển người khác.
Từ khi xuất hiện nhà nước, một lực lượng nảy sinh từ xã hội, một lực
lượng tựa hồ như đứng trên xã hội có nhiệm vụ làm dịu bớt sự xung đột và
giữ cho sự xung đột đó nằm trong vòng trật tự thì phần quản lý xã hội quan
trọng nhất do Nhà nước đảm nhiệm, tức là chủ thể nhà nước đứng ra quản lý
những QHXH cơ bản nhất, bao trùm nhất của đời sống xã hội. Đó chính là
quản lý nhà nước. Cùng với chủ thể quản lý đặc biệt là nhà nước, tham gia
vào quản lý xã hội còn có một số chủ thể khác như các tổ chức xã hội, chính
đảng, giai cấp, gia đình, các tổ chức tín điều tôn giáo... Tuy nhiên, đối tượng
và phạm vi điều chỉnh nhỏ hẹp hơn nhiều. Vì thế có thể coi quản lý xã hội là
một khái niệm rất rộng bao hàm QLNN và quản lý phần công việc còn lại của
xã hội.
Theo Ăngghen, QLNN là quản lý xã hội do giai cấp nắm quyền thống
trị xã hội thực hiện thông qua nhà nước của nó. Nhà nước quản lý xã hội bằng
cách phân chia dân cư theo "địa vực", trên cơ sở thiết lập một "quyền lực
công cộng" tách rời khỏi dân cư bằng việc đặt ra pháp luật, bắt buộc mọi tổ
chức, mọi thành viên của xã hội phải thi hành. Luận điểm trên của Ăngghen


11

cho thấy rằng, để thực hiện quyền lực, để quản lý xã hội, Nhà nước phải có
một loại người đặc biệt chuyên làm nhiệm vụ quản lý. Loại chủ thể này được
tổ chức thành các cơ quan nhà nước và hình thành một bộ máy đại diện cho

quyền lực chính trị có sức mạnh cưỡng chế để duy trì địa vị của giai cấp
thống trị, buộc các giai cấp khác phải phục tùng ý chí của giai cấp thống trị.
Nội hàm của QLNN thay đổi phụ thuộc vào chế độ chính trị, trình độ
phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia qua các giai đoạn lịch sử. Ngày
nay, QLNN xét về mặt chức năng bao gồm hoạt động lập pháp của cơ quan
lập pháp, hoạt động hành chính của Chính phủ và hoạt động tư pháp của hệ
thống tư pháp. Thông qua ba hoạt động đặc thù này mà QLNN có những điểm
khác biệt so với quản lý xã hội nói chung của các loại chủ thể khác như đã kể
trên. Đó là:
- Chủ thể QLNN là các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện chức
năng lập pháp, hành pháp, tư pháp.
- Đối tượng QLNN là toàn thể nhân dân, tức toàn bộ dân cư sống và
làm việc trong phạm vi lãnh thổ quốc gia.
- Vì tính đa dạng về lợi ích, hoạt động của các nhóm người trong xã
hội, QLNN diễn ra trên tất cả các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội: chính
trị, kinh tế, văn hóa; xã hội, an ninh, quốc phòng, ngoại giao nhằm thỏa mãn
nhu cầu hợp pháp của nhân dân.
Quản lý nhà nước mang tính quyền lực nhà nước, lấy pháp luật làm
công cụ quản lý chủ yếu nhằm duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội.
Từ những điểm khác biệt đã nêu trên, có thể hiểu QLNN là một dạng
quản lý xã hội đặc biệt mang tính quyền lực nhà nước và sử dụng pháp luật
nhà nước để điều chỉnh hành vi hoạt động của con người trên tất cả các lĩnh
vực cơ bản của đời sống xã hội, do các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực
hiện, nhằm thỏa mãn nhu cầu hợp pháp của con người, duy trì sự ổn định và
phát triển của xã hội.


12

Như trên đã trình bày, đối tượng của QLNN là các QHXH đầy nhạy

cảm và biến động. Nó là các thực thể sống trong mối liên hệ đan xen, phức
hợp, mà không tồn tại độc lập, riêng biệt. Chính vì vậy, tùy thuộc vào đặc
điểm lịch sử, văn hóa, tùy thuộc vào các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội
của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ mà các chủ thể QLNN phải có sự linh
hoạt, sáng tạo trong việc vận dụng, kết hợp các phương thức quản lý khác
nhau, nhằm đạt hiệu quả tối ưu nhất. Điều này lý giải tại sao trong cùng một giai
đoạn, có quốc gia dùng pháp luật làm công cụ cơ bản để QLNN, có quốc gia lại
chủ yếu dùng đạo đức, dùng các phong tục, tập quán, tiền lệ, các tín điều tôn
giáo để điều chỉnh các QHXH. Hay trong chính một quốc gia, qua các giai đoạn
lịch sử, tùy từng thời kỳ có thể dùng pháp luật (pháp trị) hoặc đạo đức (đức trị)
hoặc kết hợp cả hai phương thức đó trong thuật dựng nước và giữ nước.
Tuy nhiên, trong hoạt động QLNN, vấn đề kết hợp các yếu tố của hoạt
động quản lý là rất phức tạp, đòi hỏi các nhà quản lý phải có năng lực cao
cùng với sự hỗ trợ của các phương tiện công nghệ hiện đại. Cũng vì thế mà
việc nghiên cứu phương thức QLNN trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam
luôn là vấn đề cần được các nhà nghiên cứu làm sáng tỏ cả về mặt lý luận và
thực tiễn. Điều này hết sức quan trọng và cần thiết, nhất là trong giai đoạn
hiện nay chúng ta đang tiến hành xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân [9, tr.13] trên nền tảng văn hóa dân tộc,
đậm tính nhân bản, nhân văn. Đây tuy không phải là vấn đề mới song cần
được lý giải một cách khoa học và biện chứng.
1.1.2. Các công cụ cơ bản quản lý nhà nước
Trải qua chiều dài của lịch sử xã hội, đã có rất nhiều công cụ quản lý
được các triều đại nhà nước sử dụng để điều chỉnh các quan hệ trong xã hội
nhằm đạt đến một trật tự mà giai cấp thống trị mong muốn. Trong rất nhiều
công cụ đó, nổi bật lên hai loại công cụ cơ bản mà nhân loại đã chấp nhận


13


chúng như những phương thức quan trọng để duy trì quyền lực, đó là pháp
luật và đạo đức hay còn gọi là pháp trị và đức trị.
1.1.2.1. Pháp luật
Để tổ chức và quản lý các mặt khác nhau của đời sống xã hội, có nhiều
công cụ, phương tiện khác nhau, trong đó pháp luật giữ một vai trò rất quan
trọng. Là một hiện tượng xã hội phức tạp, cho nên ngay từ khi mới ra đời
cũng như trong suốt quá trình tồn tại và phát triển, pháp luật luôn được quan
tâm, nghiên cứu. Tuy vậy, hiện nay khái niệm "pháp luật" vẫn chưa được
nhận thức một cách thống nhất.
Quan điểm truyền thống đang được các trường đại học, các nhà khoa
học, luật gia thừa nhận cho rằng: "Pháp luật là hệ thống những quy tắc xử sự
do Nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống
trị trong xã hội, là nhân tố điều chỉnh các QHXH" [4, tr.64].
Tuy nhiên, một số tác giả không hoàn toàn tán thành với cách hiểu trên.
Từ việc phân tách câu từ, họ cho rằng: Nếu nói pháp luật là các "quy tắc xử
sự" thì không đầy đủ, chính xác, không bao quát hết được nội hàm bên trong
của khái niệm pháp luật, bởi trong pháp luật còn nhiều quy định khác do nhà
nước ban hành mà không được coi là quy tắc xử sự - tức chúng không phải là
những khuôn mẫu, những mô hình mà luật pháp dự liệu con người phải thực
hiện nếu rơi vào trong những trường hợp đã được dự liệu trước.
Đây là cách hiểu gò bó và cứng nhắc, thiếu biện chứng khi nhìn nhận
đánh giá các sự vật hiện tượng. Thực tế là có một số không ít các quy định do
Nhà nước ban hành chỉ để quy định cách hiểu về một thuật ngữ, giải thích,
giới thiệu một khái niệm hay đưa ra những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo định
hướng để thực hiện đúng, đủ một quy tắc xử sự cụ thể. Chúng không phải là
những quy tắc xử sự, bởi chúng không đưa ra được "khuôn mẫu" xử sự, song
thiếu chúng các chủ thể không thể thực hiện pháp luật một cách đúng đắn, đầy
đủ như ý tưởng của các nhà lập pháp. Không có nó, chắc chắn việc nhận thức



14

và thực hiện những quy tắc của hành vi sẽ không có sự thống nhất. Mặt khác,
pháp luật không phải là phép cộng dồn giản đơn các quy tắc xử sự do nhà
nước ban hành, ở đây chúng ta phải lưu tâm đến từ "hệ thống" những quy tắc
xử sự. Chính những tư tưởng, những nguyên tắc hay những quy định về cách
hiểu các khái niệm, thuật ngữ đó sẽ là sợi dây liên kết các quy tắc xử sự thành
một thể thống nhất, thành một hệ thống hoàn chỉnh đồng bộ.
Bên cạnh đó, cũng sẽ không là chính xác nếu hiểu pháp luật đơn thuần
chỉ là ý chí của "giai cấp thống trị". Pháp luật do Nhà nước ban hành và đảm
bảo thực hiện, do đó tất nhiên nó phải là ý chí của giai cấp cầm quyền. Bao
giờ giai cấp này cũng thông qua nhà nước - tổ chức đại diện chính thức và
hợp pháp cho toàn xã hội để buộc các thành viên phải phục tùng ý chí của
mình. Nhà nước bằng sức mạnh cưỡng chế, bằng các biện pháp, nghiệp vụ
quản lý có thể cho phép các thành viên trong xã hội được làm gì, không được
làm gì và phải làm gì?
Tuy nhiên, với tư cách là một tổ chức quyền lực chung của toàn thể xã
hội, nhà nước còn phải đứng ra tổ chức và quản lý đời sống cộng đồng, vì sự
ổn định trật tự và phát triển của cả cộng đồng, phải duy trì, củng cố và bảo vệ
lợi ích của giai cấp thống trị. Chính vì vậy, pháp luật do nhà nước ban hành
không chỉ "thể hiện ý chí của giai cấp thống trị", mà trên cơ sở ý chí của giai
cấp thống trị, ý chí chung của cộng đồng xã hội tập trung thành ý chí nhà
nước, thông qua hoạt động xây dựng pháp luật, ý chí nhà nước được thể hiện
thành những quy định pháp luật cụ thể. Tính xã hội và tính giai cấp của pháp
luật được thể hiện hết sức rõ ràng và sâu sắc trong hệ thống pháp luật XHCN.
Trong nhà nước XHCN, quyền lợi của giai cấp cầm quyền cơ bản thống nhất
với ý chí, quyền lợi của nhân dân lao động, do vậy mà "ý chí của giai cấp
thống trị trong xã hội" là ý chí chung thống nhất của toàn xã hội.



15

Từ cách hiểu trên đây có thể thấy rằng: Pháp luật XHCN là hệ thống
các quy tắc xử sự do nhà nước XHCN ban hành, thể hiện ý chí của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động, được bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh
cưỡng chế của nhà nước trên cơ sở giáo dục thuyết phục mọi người tôn trọng
và thực hiện.
Trong QLNN, pháp luật được xác định là công cụ quan trọng hữu hiệu
để điều chỉnh các QHXH. So với các công cụ QLNN khác, pháp luật có ưu
thế hơn hẳn như: tính xác định chặt chẽ về nội dung, hình thức, trình tự thủ
tục ban hành và thực hiện, tính đảm bảo bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà
nước... Vì vậy pháp luật là phương tiện có vai trò quan trọng nhất để tổ chức
và quản lý đời sống xã hội. Pháp luật đảm bảo cho xã hội tồn tại và phát triển
trong ổn định, trật tự. Nhờ có pháp luật, các hành vi xâm hại trật tự, an toàn
xã hội được hạn chế và từng bước bị loại bỏ khỏi đời sống xã hội. Nhờ có
pháp luật, giai cấp thống trị có thể củng cố, duy trì địa vị thống trị xã hội, bảo
vệ và phát triển các lợi ích của mình, trấn áp sự phản kháng của các giai cấp,
tầng lớp khác trong xã hội. Bằng pháp luật, Nhà nước có thể quản lý các mặt
khác nhau của đời sống xã hội trên các lĩnh vực của cuộc sống. Nhờ có pháp
luật, Nhà nước có cơ sở để phát huy quyền lực của mình, kiểm tra, giám sát
các hoạt động của con người, tổ chức trong xã hội. Pháp luật là cơ sở để tổ
chức bộ máy nhà nước quy định chức năng, nhiệm vụ, hình thức và phương
pháp hoạt động của các cơ quan, nhân viên trong bộ máy nhà nước. Cũng nhờ
có pháp luật mà bộ máy nhà nước hoạt động nhịp nhàng, đồng bộ, có hiệu
lực, hiệu quả, đồng thời pháp luật cũng là công cụ để đảm bảo quyền lực nhà
nước được thực hiện với sự kiểm soát chặt chẽ. Do vậy, các hiện tượng lạm
quyền, vượt quyền, thiếu trách nhiệm... bị hạn chế và loại trừ.
Do đó có thể nói, pháp luật là phương tiện hữu hiệu để bảo vệ và bảo
đảm các quyền tự do dân chủ, lợi ích của các thành viên trong xã hội, góp



16

phần tạo ra môi trường ổn định cho việc thiết lập các mối quan hệ ngoại giao
với các quốc gia khác nhau trên thế giới.
1.1.2.2. Đạo đức
Cũng như pháp luật, đạo đức là một hiện tượng xã hội phức tạp và
đầy biến động. Triết học Mác-Lênin cho rằng: đạo đức là một hình thái ý
thức xã hội, đạo đức trước hết là những quan niệm, quan điểm, tư tưởng
của một cộng đồng người, một giai cấp, một dân tộc về chân, thiện, mỹ, về
hạnh phúc, về danh dự, về trách nhiệm và tình thương, về tính trung thực,
lòng vị tha, về lẽ sống...
Những quan niệm, quan điểm này thường tồn tại thành từng cặp đối lập
nhau: Thiện-ác, tốt-xấu, thật-giả, đúng-sai, cao-thấp, sang-hèn... Chẳng hạn,
nói dối là xấu; trung thực, thật thà là tốt; nịnh hót là hèn; thẳng thắn, cương
trực là quý; hy sinh tính mạng cho Tổ quốc là vinh; quỳ gối khom lưng trước
kẻ thù là nhục... Như vậy, đạo đức không chỉ là những quan niệm, quan điểm
về chân, thiện, mỹ... Nó là tất cả những quan niệm, quan điểm, tư tưởng về
"đạo làm người", về vai trò, trách nhiệm của mỗi người trước người khác và
trước cả cộng đồng xã hội. Nói cách khác, những quan niệm, quan điểm đạo
đức chính là những yêu cầu, đòi hỏi của cộng đồng xã hội đối với hành vi của
mỗi cá nhân trong xã hội. Con người sống trong xã hội dù ở cương vị nào,
trong điều kiện hoàn cảnh nào cũng phải ý thức được về chính bản thân mình,
ý thức được nghĩa vụ, bổn phận của mình đối với người khác và đối với xã
hội.
Trên cơ sở các quan niệm, quan điểm, tư tưởng đó, các quy tắc xử sự
của con người được hình thành. Từ quan niệm về vinh nhục người ta thấy
trong chiến tranh không được khom lưng quỳ gối trước kẻ thù, trong hòa bình
không được đói, nghèo, dốt nát. Biết hy sinh tính mạng khi Tổ quốc bị xâm
lăng thì cũng phải biết làm giàu chính đáng cho bản thân, cho Tổ quốc khi



17

hòa bình lập lại. Từ quan niệm về thiện-ác, người ta thấy nhân đạo không chỉ
là chia sẻ, cảm thông, cứu giúp người bị nạn mà còn phải ra tay trừng trị cái
ác, đẩy lùi và loại bỏ cái xấu ra khỏi đời sống xã hội...
Trên cơ sở các quy tắc xử sự, cộng đồng đánh giá về những hành vi xử
sự của các chủ thể xẩy ra trong đời sống xã hội. Do vậy, đạo đức còn bao gồm
thái độ, tình cảm, sự đánh giá của con người về hành vi của các chủ thể trong
xã hội. Một hành vi nào đó có thể được cộng đồng khen hay chê, được coi là
ưu điểm hay khuyết điểm, được đánh giá là thiện hay ác, chân hay giả, tốt hay
xấu... Sự đánh giá này được biểu hiện tập trung nhất thành dư luận xã hội.
Bên cạnh sự đánh giá từ phía cộng đồng xã hội thì chính bản thân chủ thể
cũng tự đánh giá về hành vi của mình. Lương tâm chủ thể thấy thanh thản hay
bị vò xé, cắn rứt... từ đó mà hình thành nhiều xúc cảm, tình cảm trong mỗi
người, chẳng hạn, người ta trắc ẩn, xót thương những nạn nhân của cái ác;
khinh bỉ giận dữ, công phẫn trước những kẻ gây nên tội ác; vui mừng, tự hào
khi đem lại hạnh phúc cho mọi người...
Tóm lại, có thể thấy, đạo đức là tổng thể các quan niệm, quan điểm của
một cộng đồng dân cư nhất định về chân, thiện, công bằng, danh dự... trên cơ sở
đó hình thành lên các quy tắc xử sự nhằm điều chỉnh các QHXH, chúng được
thực hiện bởi lương tâm, tình cảm cá nhân và sức mạnh của dư luận xã hội.
Là một trong những công cụ nhạy cảm, có khả năng tác động, chi phối
lên tất cả các loại QHXH, từ những mối quan hệ cơ bản như quan hệ chính trị
giữa Nhà nước với công dân, các quan hệ về an ninh quốc gia, trật tự an toàn
xã hội, quan hệ về tính mạng, sức khỏe, tài sản công dân cho đến cả những
quan hệ tư tưởng, những ngóc ngách, tình cảm của đời sống xã hội như quan
hệ tình yêu giữa nam nữ, quan hệ hàng xóm láng giềng, quan hệ anh em cọc
chèo... đạo đức luôn được các quốc gia Phương Đông coi trọng và áp dụng

trong thuật trị nước và giữ nước.


18

Đạo đức có vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách, lối
sống. Nó là những chuẩn mực để con người tự rèn luyện, tu dưỡng nhân cách.
Đạo đức là những quan điểm, quan niệm, tư tưởng về đạo lý làm người, là
"nguyên tắc sống chủ yếu của con người" [34, tr.13]. Không có đạo đức,
người ta có thể vẫn là một nhà chuyên môn giỏi, nhưng không thể là một con
người hoàn hảo. Hồ Chí Minh đã nói:
Có tài mà không có đức ví như một anh làm kinh tế tài chính
rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những không làm được gì
ích lợi cho xã hội, mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà
không có tài ví như ông Bụt không làm hại gì, nhưng cũng không
làm lợi cho loài người việc gì [22, tr 172].
Chính vì vậy đạo đức là những quy tắc đối nhân, xử thế trong cuộc
sống hàng ngày. Nhờ có đạo đức mỗi người đều tự xác định được vị trí, vai
trò của mình trong xã hội để từ đó có những hành vi, xử sự cho phù hợp với
chuẩn mực chung của xã hội, đảm bảo hài hòa lợi ích cá nhân trong mối quan
hệ với lợi ích của cộng đồng.
Đạo đức cũng có vai trò rất quan trọng trong việc củng cố và duy trì ổn
định, trật tự xã hội. Trong xã hội nguyên thủy chưa có hệ thống QPPL, ở đó
đạo đức là công cụ quan trọng bậc nhất để điều chỉnh các QHXH, giữ ổn định
trật tự xã hội. Trong xã hội có giai cấp, để điều chỉnh các QHXH, pháp luật
không phải là công cụ duy nhất, công cụ vạn năng. Ngoài pháp luật còn có
những công cụ điều chỉnh khác như đạo đức, tín điều tôn giáo, tập quán, quy
định của các tổ chức xã hội... mà trong đó đạo đức là công cụ quan trọng,
thích ứng được với việc điều chỉnh mọi loại QHXH, mọi đối tượng trong xã
hội. Đạo đức điều chỉnh hầu hết các QHXH từ đơn giản đến phức tạp, nhạy

cảm, từ hẹp đến rộng, từ biểu hiện bằng hành vi cho đến lẩn khuất bên trong
mỗi suy nghĩ tư tưởng... Đây là những QHXH mà pháp luật và các công cụ


19

khác khó có thể can thiệp, thậm chí nhiều khi pháp luật can thiệp vào còn đem
lại kết quả ngược lại với mong muốn của chủ thể tác động.
Đạo đức còn có vai trò bổ sung, thay thế cho pháp luật nhất là trong
trường hợp pháp luật chưa hoàn thiện, còn nhiều chỗ trống. Khi đó, để bảo vệ
lợi ích của nhà nước, của tổ chức hay cá nhân, nhà chức trách phải áp dụng
tương tự pháp luật bằng cách dựa vào ý thức đạo đức của mình, dựa vào
những lẽ phải ở đời mà mọi người đều công nhận.
1.2. SỰ TƯƠNG ĐỒNG, KHÁC BIỆT GIỮA PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC,
TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA VIỆC KẾT HỢP GIỮA CHÚNG TRONG
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

Về lý luận cũng như thực tiễn, pháp luật và đạo đức luôn có mối quan
hệ khăng khít, gắn bó. Trước khi nhà nước và pháp luật ra đời, xã hội được
điều chỉnh bởi các quy phạm xã hội trong đó có quy phạm đạo đức. Khi pháp
luật đã trở thành phương tiện chủ yếu để nhà nước quản lý xã hội thì đạo đức
vẫn giữ một vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh các QHXH. Điều này
được lý giải là giữa pháp luật và đạo đức có mối quan hệ hỗ trợ nhau, pháp
luật hay đạo đức đều có những điểm mạnh, điểm yếu mà khi kết hợp lại chúng
bổ sung cho nhau, điểm mạnh của pháp luật sẽ hỗ trợ cho điểm yếu của đạo đức,
ngược lại điểm mạnh của đạo đức sẽ bổ sung cho những yếu điểm của pháp luật.
Lịch sử phát triển của các nhà nước, đặc biệt là các nhà nước Phương
Đông cho thấy, chỉ với sự bảo đảm bằng quyền lực nhà nước thôi, pháp luật
khó đi vào và tồn tại vững chắc trong hiện thực của đời sống xã hội. Trước
tiên không phải là bạo lực mà chính là đạo đức và các quy phạm xã hội khác

đã giúp cho pháp luật được chấp hành nhanh chóng và triệt để. Nói cách khác,
quyền lợi của giai cấp thống trị nếu không được lồng ghép ít nhiều vào quyền
lợi của giai cấp bị trị trong các đạo luật, thì giá trị xã hội của các đạo luật ấy
thấp, hiệu lực theo thời gian của các đạo luật ấy không cao. Những nhà nước


20

chỉ thuần túy dùng pháp luật để áp đặt quyền lợi ích kỷ của giai cấp thống trị
lên xã hội đều có lịch sử ngắn ngủi, xã hội do Nhà nước đó quản lý thường
xuyên xảy ra xung đột, bạo loạn, kèm theo những cuộc đàn áp đẫm máu. Khi
giai cấp bị trị tập hợp xung quanh ngọn cờ đòi quyền sống, quyền bình đẳng,
quyền hạnh phúc ấm no... để đấu tranh, thì đó thường là một sức mạnh lớn, buộc
nhà nước phải điều chỉnh pháp luật, hoặc có khi thay đổi cả chế độ nhà nước.
Nhưng, pháp luật không chỉ dựa vào đạo đức để đi vào đời sống xã hội,
pháp luật còn là một trong những phương tiện để nhà nước đưa các quan
điểm, quan niệm đạo đức của giai cấp thống trị trở thành các quy phạm đạo
đức chính thống trong xã hội, pháp luật hóa các quy phạm đạo đức đó. Bằng
cách này, Nhà nước tạo ra cơ sở xã hội cho sự tồn tại "hợp đạo lý" của mình.
Với nội dung trên cho thấy, giữa pháp luật và đạo đức có quan hệ chặt
chẽ với nhau. Mối quan hệ này đóng vai trò quan trọng trong QLNN. Pháp
luật bắt buộc người ta hành động bằng áp lực từ bên ngoài, còn đạo đức bắt
buộc người ta hành động bằng áp lực từ nội tâm, hành vi con người sẽ đạt
hiệu quả cao và vững bền nhất nếu nó phù hợp với động cơ nội tại bên trong.
Chính vì vậy, xét trong cả quá trình lịch sử, với bất cứ kiểu nhà nước nào, kể
cả trong nhà nước chuyên chế, độc tài, sự kết hợp giữa pháp luật và đạo đức
trong QLNN đều được vận dụng ở các mức độ khác nhau.
Để lý giải một cách khoa học về việc có thể kết hợp và phải kết hợp
pháp luật đạo đức trong QLNN, chúng ta cần nghiên cứu sự tương đồng và
khác biệt giữa pháp luật và đạo đức, lấy đó làm cơ sở kết hợp chúng trong

điều kiện QLNN ở Việt Nam hiện nay.
1.2.1. Sự tương đồng giữa pháp luật và đạo đức
Thứ nhất, pháp luật và đạo đức đều là những công cụ điều chỉnh các QHXH.
Con người, trong đời sống xã hội luôn có những nhu cầu, lợi ích, mục
đích nhất định. Để thỏa mãn nhu cầu, lợi ích của mình, mỗi chủ thể có nhiều


21

phương pháp, cách thức riêng. Trong những điều kiện hoàn cảnh nhất định, có
thể có những chủ thể vì lợi ích của mình mà làm tổn hại đến lợi ích của người
khác, đến lợi ích chung của cả cộng đồng, xã hội vì thế mà trở nên mất ổn
định, trật tự xã hội sẽ bị xâm hại. Theo Tuân Tử: "Người ta sinh ra là có lòng
muốn, muốn mà không được thì không thể không tìm, tìm mà không có
chừng mực, giới hạn thì không thể không tranh. Tranh thì loạn, loạn thì khốn
cùng" [13, tr.321].
Điều chỉnh các QHXH là đưa ra cách xử sự mẫu cho các chủ thể, để họ
thực hiện theo khi ở trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định. Đó là việc
xác định cho chủ thể những quyền, nghĩa vụ khi họ tham gia vào những
QHXH cụ thể. Điều chỉnh các QHXH có nhiều công cụ, phương tiện khác
nhau, trong đó, pháp luật và đạo đức là những công cụ rất quan trọng. Để điều
chỉnh các QHXH, pháp luật và đạo đức phải tác động vào nhận thức của chủ
thể nhằm hình thành ở chủ thể một ý thức nhất định, trên cơ sở đó, các chủ
thể lựa chọn cách xử sự phù hợp. Con người là một thực thể có lý trí và có ý
chí, hoạt động của con người là hoạt động có ý thức. Vì vậy, Nhà nước và xã
hội không thể buộc một người phải thực hiện một hành vi nào đó nếu không
tác động vào ý thức của họ. Chỉ trên cơ sở có sự tác động vào ý thức, con
người mới nhận thức được trong điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, xác định mình
được làm gì, phải làm gì, làm như thế nào hay không được làm gì... Trên cơ
sở nhận thức được nhu cầu đòi hỏi của xã hội, nhận thức được một hành vi

nào đó là được khuyến khích hay bị ngăn cấm, nhận thức được hậu quả sẽ
phải gánh chịu nếu có, cân nhắc giữa cái được, cái mất khi thực hiện một
hành vi nhất định... chủ thể mới có thể kiềm chế không thực hiện những hành
vi bị ngăn cấm hay không được khuyến khích; tích cực, chủ động, tự giác
thực hiện những hành vi được cho phép, được khuyến khích hay có yêu cầu,
đòi hỏi... Như vậy, điều chỉnh các QHXH bằng pháp luật hay đạo đức, thực


22

chất là dùng chúng tác động lên nhận thức của chủ thể. Trên cơ sở lý trí và tự
do ý chí, chủ thể sẽ tự lựa chọn và thực hiện một hành vi phù hợp với yêu cầu
đòi hỏi của nhà nước hay của cộng đồng xã hội.
Điều chỉnh các QHXH, pháp luật và đạo đức đều mang tính quy phạm
phổ biến, chúng đều là những mô hình, những khuôn mẫu xử sự cụ thể cho
hành vi con người. Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự của con người do
Nhà nước ban hành, nó tác động đến tất cả các cá nhân, các tổ chức trong xã
hội, tác động đến mọi vùng lãnh thổ của đất nước. Bên cạnh đó, ở đâu có con
người, ở đó có đạo đức. Đạo đức điều chỉnh hầu hết các QHXH kể cả những
quan hệ nhạy cảm mà các phương tiện khác không thể điều chỉnh.
Điều chỉnh các QHXH, pháp luật và đạo đức có sự thống nhất cơ bản
mà trước hết sự thống nhất đó thể hiện ở mục đích điều chỉnh. Đặt ra pháp
luật và đạo đức để điều chỉnh các QHXH, nhà nước và xã hội bao giờ cũng
nhằm đạt được những mục đích nhất định. Một mặt, chúng bảo vệ và định
hướng cho sự phát triển của các QHXH phù hợp với xu thế tất yếu của cuộc
sống, mặt khác, hạn chế sự phát triển những QHXH không phù hợp với lợi
ích của giai cấp thống trị, lợi ích chung của cộng đồng, bảo đảm cho xã hội
tồn tại và phát triển trong ổn định trật tự.
Pháp luật bao giờ cũng có sự phù hợp nhất định đối với đạo đức của
giai cấp thống trị. Khi đó, cả pháp luật và đạo đức đều được xác định là vũ

khí chính trị của giai cấp thống trị, là công cụ hướng hành vi của con người
vào những khuôn khổ có lợi cho giai cấp này nhằm củng cố và bảo vệ vững
chắc địa vị thống trị của họ. Pháp luật còn phù hợp với những truyền thống tốt
đẹp, những thuần phong mỹ tục và những giá trị đạo đức của dân tộc. Trong
trường hợp đó, pháp luật và đạo đức có sự hỗ trợ, bổ sung cho nhau trong việc
giữ gìn trật tự, ổn định xã hội, giữ gìn và phát huy những truyền thống tốt
đẹp, những thuần phong mỹ tục của dân tộc. Trong một số trường hợp, pháp


23

luật cũng phản ánh ở mức độ nhất định, các quan niệm, quan điểm đạo đức
của các giai cấp và tầng lớp khác trong xã hội, bởi vì sự hình thành các quan
điểm, quan niệm đạo đức của giai cấp thống trị cũng bị ảnh hưởng không nhỏ
bởi quan niệm đạo đức của các giai cấp, tầng lớp khác.
Pháp luật và đạo đức trong Nhà nước XHCN về cơ bản có sự thống
nhất. Pháp luật được xây dựng trên nền tảng những quan niệm, quan điểm đạo
đức của nhân dân lao động, nhằm giữ gìn và phát huy những quan niệm, quan
điểm đạo đức đó. Giữa pháp luật và đạo đức trong CNXH, "các quan niệm về
công bằng, thiện ác, nhân đạo... về nguyên tắc là không có sự đối lập nào"
[26, tr.13]. Ở một góc độ nào đó, pháp luật còn được coi là những chuẩn mực
đạo đức tối thiểu cần có: pháp luật là đạo đức tối thiểu, đạo đức là pháp luật
tối đa.
Thứ hai, pháp luật và đạo đức đều thuộc phạm trù ý thức xã hội phản
ánh tồn tại xã hội.
Theo C.Mác, toàn bộ đời sống xã hội được chia thành hai lĩnh vực lớn:
lĩnh vực vật chất và lĩnh vực tinh thần, đó là tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
Pháp luật và đạo đức thuộc lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội, nói cách
khác chúng thuộc phạm trù ý thức xã hội, là những phương thức phản ánh đời
sống xã hội. Pháp luật và đạo đức đều là sản phẩm của bộ óc con người, đều

là kết quả quá trình con người nhận thức đời sống của chính mình, tuy nhiên
pháp luật và đạo đức không phải là những bản sao máy móc đời sống kinh tế xã hội. Hiện thực của đời sống tác động vào bộ óc con người, qua quá trình
đánh giá, sàng lọc, tổng kết... cuối cùng khái quát hóa thành các quan niệm,
quan điểm, quy tắc đạo đức hay pháp luật. Sự phản ánh đời sống hiện thực
bằng pháp luật và đạo đức có thể trung thực, chính xác, nhưng cũng có thể sai
lệch. Điều đó là do các yếu tố lợi ích, lý tưởng, tài năng, ý chí của chủ thể...


24

đều tham gia vào quá trình nhận thức với những mức độ khác nhau và ảnh
hưởng nhất định đến kết quả nhận thức.
Pháp luật trước tiên phản ánh các quan hệ kinh tế và đối sánh giai cấp.
Nó phản ánh những QHXH đã tồn tại một cách khách quan, phổ biến, điển
hình và tương đối ổn định. Trên cơ sở nhận thức thực trạng, xu hướng vận
động cũng như nhu cầu, đòi hỏi của cuộc sống; trên cơ sở nhận thức về các
loại lợi ích cần bảo vệ, về tương quan lực lượng giữa các giai cấp trong xã
hội... nhà làm luật khái quát thành những nguyên tắc, quy tắc nhằm điều chỉnh
hành vi của các thành viên trong xã hội, đảm bảo để chúng phù hợp với
những lợi ích của Nhà nước, của giai cấp thống trị, của cộng đồng. Như vậy,
pháp luật phản ánh đời sống xã hội thông qua thiết chế nhà nước.
Đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội xuất hiện sớm nhất,
nó phản ánh đời sống xã hội của con người không cần thông qua một thiết chế
xã hội nào. Từ thực tế cuộc sống mà dần dần hình thành những quan điểm,
quan niệm, nguyên tắc, chuẩn mực xử sự giữa các thành viên trong đời sống
chung của cộng đồng.
Như vậy, pháp luật và đạo đức không phải là những cái có sẵn trong tự
nhiên, không phải do một thế lực siêu nhiên nào bên ngoài xã hội "ấn vào"
đời sống xã hội. Nó là sản phẩm của việc con người nhận thức đời sống của
chính mình. Thông qua pháp luật, đạo đức, chúng ta hiểu được một mức độ

nhất định thực trạng của đời sống xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất
định của lịch sử.
Thứ ba, là bộ phận của kiến trúc thượng tầng, pháp luật và đạo đức chịu
sự chi phối của cơ sở hạ tầng song có sự tác động ngược trở lại cơ sở hạ tầng.
Mỗi xã hội có một kết cấu kiến trúc đặc trưng, tức là một cơ sở hạ tầng
nhất định, trên đó xây dựng lên một kiến trúc thượng tầng tương ứng, trong
đó có pháp luật và đạo đức. Tương ứng với mỗi hình thái kinh tế xã hội là một
kiểu đạo đức. Cũng như vậy, tương ứng với mỗi hình thái kinh tế xã hội trong


25

xã hội có giai cấp là một kiểu pháp luật. Là hình thức pháp lý của các quan hệ
kinh tế, vì vậy về cơ bản pháp luật quy định vấn đề gì, quy định như thế nào,
điều đó trước tiên phụ thuộc vào nền móng kinh tế. Khi cơ sở hạ tầng xã hội
biến đổi thì đạo đức và pháp luật cũng bị đảo lộn ít nhiều.
Mặc dù do cơ sở hạ tầng quyết định, song pháp luật và đạo đức đều có
tính độc lập tương đối và đều có sự tác động trở lại ở những mức độ nhất định
đối với cơ sở hạ tầng. Sự tác động này có thể diễn ra theo hai hướng: tích cực
hoặc tiêu cực. Khi pháp luật và đạo đức phù hợp với quy luật phát triển của
đời sống, phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, phù hợp với các loại
lợi ích trong xã hội hay nói một cách khác là pháp luật và đạo đức phản ánh
đúng thực trạng của nền kinh tế, xã hội thì chúng có tác động tích cực. Chúng
củng cố, tạo môi trường pháp lý và đạo lý thuận lợi cho các quan hệ kinh tế xã hội tồn tại và phát triển, đồng thời, chúng góp phần loại bỏ những quan hệ
kinh tế - xã hội không phù hợp, đi ngược lại lợi ích của giai cấp thống trị và
lợi ích chung của cộng đồng.
Ở chiều ngược lại, khi pháp luật và đạo đức không phù hợp với quy
luật vận động phát triển của xã hội, không phản ánh đúng thực trạng của nền
kinh tế chúng sẽ có tác động tiêu cực như cản trở, kìm hãm sự phát triển của
các quan hệ kinh tế xã hội làm cho đời sống xã hội trở nên mất ổn định. Tuy

nhiên, cũng cần thấy rằng: sự tác động của pháp luật đối với cơ sở hạ tầng là
tương đối mạnh mẽ và dễ nhìn thấy, còn sự tác động của đạo đức đến cơ sở hạ
tầng không biểu lộ rõ nét như pháp luật, nên thường khó nhận thấy hơn,
thường ẩn sau các quan điểm, tư tưởng hay tập quán đang thịnh hành.
Là hai hiện tượng của kiến trúc thượng tầng, pháp luật và đạo đức đều
có sự tác động nhất định đến những thành tố khác nhau của kiến trúc thượng
tầng cũng như chịu sự tác động trở lại ở những mức độ nhất định của các yếu
tố đó. Chẳng hạn cả pháp luật và đạo đức đều bị ảnh hưởng bởi các quan điểm
chính trị của giai cấp cầm quyền. Ngược lại, cả pháp luật và đạo đức vừa là


×