Tải bản đầy đủ (.docx) (76 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (415.87 KB, 76 trang )

LỜI CẢM ƠN

Em xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc nhất tới Cô giáo - Lại
Trang Huyền, người đã hướng dẫn và chỉ bảo tận tình để em hoàn thiện khóa
luận này.
Em cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Ban Giám hiệu, Phòng
đào tạo, khoa Lý luận chính trị, thư viện trường Đại học Tây Bắc đã luôn tạo
điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình nghiên cứu.
Cuối cùng, em xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành nhất đến những người
thân trong gia đình, Thầy giáo chủ nhiệm và các bạn sinh viên lớp k50 Đại học
Giáo dục chính trị đã luôn ủng hộ, động viên giúp đỡ. Trong quá trình làm khóa
luận do những hạn chế về mặt thời gian và tài liệu nên không tránh khỏi thiếu
sót, kính mong các thầy cô và các bạn sinh viên đóng góp ý kiến để khóa luận
hoàn thiện hơn.

Em xin chân thành cảm ơn!


BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

CHDCND
MDGs
NXB

Cộng hòa dân chủ nhân dân
Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ
Nhà xuất bản

PGS.TS
TS


Phó giáo sư, tiến sĩ
Tiến sĩ

VN

Việt Nam

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã tiến hành
các cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ, từng bước giành lại độc lập, tự do
cho dân tộc, đi lên chủ nghĩa xã hội. Sở dĩ đạt được những thắng lợi vĩ đại và vẻ
vang đó là nhờ sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng theo ngọn cờ chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ kinh nghiệm lịch sử và từ yêu cầu
cấp bách của sự nghiệp đổi mới đất nước, Đại hội lần thứ IX (2001) của Đảng
một lần nữa khẳng định: Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt
Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống lý luận bao gồm nhiều lĩnh vực rất
phong phú, nhằm hướng dẫn toàn Đảng, toàn dân ta đấu tranh bảo vệ thành quả

cách mạng và lao động sáng tạo, xây dựng một nhà nước Việt Nam hòa bình,
thống nhất độc lập, dân chủ giàu mạnh và văn minh theo định hướng xã hội chủ
nghĩa là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân là quan điểm tư
tưởng nhất quán của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là kim chỉ nam định hướng cho toàn
bộ quá trình tổ chức, xây dựng và hoạt động của nhà nước ta. Tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân là bước phát
triển mới và sự vận dụng sáng tạo của chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với chủ
nghĩa yêu nước, truyền thống văn hóa Việt Nam, tinh hoa văn hóa phương Đông
và phương Tây.
Nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp
quyền ở Việt Nam có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn đối với sự nghiệp xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là một hệ thống quan điểm rõ ràng, nhất quán, phù hợp với đặc điểm nước ta. Tư
tưởng này của Người có vai trò quyết định đến sự thành lập nhà nước thực sự
của dân, do dân và vì dân. Ngày nay, Đảng ta đã vận dụng một cách sáng tạo tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền vào điều kiện cụ thể để từng bước
xây dựng thành công nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân.

4

4


Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về hình thức chính thể nhà nước có thể
tìm ra lời giải đáp cho hàng loạt các vấn đề lý luận của việc hoàn thiện mô hình
tổ chức nhà nước Việt Nam hiện nay.
Vì những lí do trên Tôi lựa chọn đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và sự vận dụng của

Đảng ta trong giai đoạn hiện nay” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam được đề cập trong một số công trình dưới những khía cạnh và góc độ
khác nhau, cụ thể là:
Cuốn “Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh” của nhà xuất bản chính trị - hành
chính, xuất bản năm 2009 đã đề cập đến tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà
nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân và nhấn mạnh được vấn đề: Để nhà
nước thực sự của dân, do dân và vì dân Người chỉ rõ là phải xây dựng nhà nước
pháp quyền Việt Nam nhằm đem lại hiệu quả xã hội thực sự. Nhà nước pháp
quyền trước hết là một nhà nước hợp pháp và hợp hiến, được nhân dân tổ chức
nên thông qua tuyển cử, được xây dựng và hoạt động theo nguyên tắc của Hiến
pháp. Tuy nhiên, giáo trình chưa đi nghiên cứu sâu một số nội dung về sự vận
dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
Cuốn “Tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước kiểu mới ở Việt Nam”
của nhà xuất bản đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đã nêu nội dung, giá
trị tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Tuy
nhiên cuốn sách chưa chỉ rõ xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là
nhiệm vụ quan trọng trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ở
Việt Nam hiện nay.
Cuốn “Hồ Chí Minh - Người mang lại ánh sáng” của nhà xuất bản Thời đại
tạp chí Xưa và nay trong đó có bài viết của tác giả Vũ Đình Hòe đã bàn về nhà
nước pháp quyền trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Cuốn sách đã làm rõ cơ sở hình
thành tư tưởng của Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền.
Cuốn “Những vấn đề cơ bản về nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa”
của nhà xuất bản Chính trị - hành chính đã nêu các đặc trưng và phương hướng
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo tư tưởng của Hồ
Chí Minh, nhưng chưa làm nổi bật lên nội dung nhà nước pháp quyền trong tư
tưởng của Người.
5


5


Cuốn “Tài liệu nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh”của nhà xuất bản Chính
trị quốc gia đã đề cập đến quyền làm chủ của nhân dân và xây dựng nhà nước
thực sự của dân, do dân và vì dân nhưng chưa đi nghiên cứu sâu nội dung tư
tưởng của Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền và chưa đề cập đến sự vận
dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
Những công trình trên đã định hướng cho tôi đi vào tìm hiểu nghiên cứu về
đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam và sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay”. Đây
cũng là những nguồn tư liệu tham khảo quý để tôi tiếp tục nghiên cứu làm rõ về
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà Đảng ta vận dụng trong
giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng, phạm vi, mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Cơ sở, quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Bản chất của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam - nhà nước
của dân, do dân, vì dân.
Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền và sự
vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa từ khi Người bắt gặp chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước
nói chung, nhà nước chuyên chính vô sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa nói riêng.
Sự vận dụng của Đảng ta về tư tưởng ấy trong giai đoạn hiện nay.
Đề tài tập trung nghiên cứu sự phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và sự vận dụng của Đảng trong

giai đoạn hiện nay.
3.3. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ cơ sở hình thành, nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

6

6


Khẳng định giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và vai trò của Hồ Chí Minh đối với sự
nghiệp xây dựng nhà nước ta hiện nay.
Sự vận dụng đúng đắn của Đảng để xây dựng Nhà nước nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

3.4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ chủ yếu của người nghiên cứu là phân tích, tổng hợp, so sánh,
thống kê, đối chiếu để làm rõ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, thấy được những thành tựu mà Đảng ta vận
dụng sáng tạo tư tưởng của Người về vấn đề nhà nước ở Việt Nam.
4. Đóng góp của khóa luận
Khóa luận góp phần làm sáng tỏ cơ sở, quá trình hình thành và phát triển tư
tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đặc
biệt đề tài thể hiện một cách sinh động và thiết thực sự vận dụng tư tưởng của
Hồ Chí Minh của Đảng ta về Nhà nước pháp quyền, cơ chế hoạt động, tổ chức
bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức của Nhà nước đó.
Bổ sung nguồn tư liệu về tư tưởng Hồ Chí Minh của dân tộc ta, góp phần
củng cố tri thức cho thế hệ trẻ về việc chấp hành quy định của nhà nước và pháp
luật, khơi dậy truyền thống yêu nước, lòng biết ơn và kính trọng đối với các thế

hệ đi trước, các anh hùng giải phóng dân tộc, làm tài liệu tham khảo học tập cho
sinh viên trường Đại học Tây Bắc.
5. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu như sau: Phương pháp lịch
sử, phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê…
6. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo… đề tài gồm 3
chương:
Chương 1: Cơ sở, quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

7

7


Chương 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Chương 3: Sự vận dụng giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.

CHƯƠNG 1 CƠ SỞ, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam hết sức phong phú, toàn diện, không chỉ có giá trị đối với cách mạng
Việt Nam mà còn mang tính phổ biến, đóng góp vào kho tàng lý luận cách mạng
của giai cấp công nhân và nhân loại tiến bộ trên toàn thế giới.
1.1. Vị trí của vấn đề nhà nước trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh
V.I. Lênin đã khẳng định: “Vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn

đề chính quyền nhà nước” [20, 13]. Vấn đề chính quyền nhà nước là vấn đề cơ
bản của mọi cuộc cách mạng và chỉ khi giành được chính quyền giai cấp cách
mạng mới xác lập được nền chuyên chính của mình, triển khai quyền lực của
mình trong đời sống xã hội.
Đối với cách mạng vô sản, những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã
nhiều lần nhấn mạnh chuyên chính vô sản là vấn đề cơ bản của cách mạng vô
sản. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản, Mác và Ăngghen đã khẳng định:
“giai đoạn thứ nhất của cuộc cách mạng của công nhân là giai đoạn giai cấp vô
sản tự xây dựng thành giai cấp thống trị, là giai đoạn giành lấy dân chủ” [24,
657]. Trong Phê phán cương lĩnh Gôta, C. Mác cũng đã viết: “giữa xã hội tư
bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ
xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính
trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính
cách mạng của giai cấp vô sản” [26, 47]. Nhà nước vô sản được xác lập bằng
con đường cách mạng. Không thể cải tạo bộ máy nhà nước bóc lột bằng con
8

8


đường tiến hóa trong khuôn khổ nhà nước cũ. Trong bức thư gửi Lubwing
Kugelmann ngày 12 - 4 - 1971, C.Mác đã viết: “Nếu anh còn lại chương cuối
cùng trong quyển “Ngày mười tám tháng Sương mù” của tôi, anh sẽ thấy tôi nói
rằng mục tiêu cách mạng sắp tới ở Pháp sẽ không nên là việc chuyển giao bộ
máy quân phiệt quan liêu từ tay kẻ này sang tay kẻ khác như trước nữa, mà là
đập tan bộ máy ấy” [25, 547]. Cách mạng vô sản phải đập tan bộ máy nhà nước
tư sản, thiết lập bộ máy nhà nước kiểu mới của giai cấp vô sản. Đối với kết luận
trên của Mác, V. I. Lênin cho rằng đó là vấn đề cơ bản của học thuyết Mácxít về
nhà nước. Đồng thời V. I. Lênin đã phát triển hơn nữa và cụ thể hóa kết luận đó.
V. I. Lênin đã soạn thảo ra cương lĩnh về việc đập tan bộ máy nhà nước tư sản

được áp dụng trong những điều kiện của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở thời kỳ
đế quốc chủ nghĩa. Các nhà kinh điển của chúng ta đã dày công nghiên cứu tìm
một mô hình nhà nước phù hợp với điều kiện cầm quyền của giai cấp vô sản.
Như vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra rằng nhà nước vô sản là vấn đề cơ bản
của cách mạng vô sản.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là anh hùng giải phóng dân tộc, mà cuộc đời và sự
nghiệp của Người gắn liền với công cuộc cách mạng Việt Nam. Từ bến cảng
Nhà Rồng, Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước là tìm con đường cách mạng Việt
Nam trong hiện tại và tương lai. Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX
(2001) đã khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện
và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự
vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của
nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp
thu tinh hoa văn hóa nhân loại” [8, 38].
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào
thực tiễn nước ta. Người đã xác định cách mạng Việt Nam nhất định phải đi theo
con đường cách mạng vô sản. Thấm nhuần những quan điểm cách mạng của chủ
nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã nhìn nhận vấn đề chính quyền nhà nước
như một nội dung cơ bản của cách mạng Việt Nam.
Người không những quan tâm đến vấn đề giành chính quyền mà còn quan
tâm đến cách thức tổ chức nhà nước cách mạng Việt Nam. “Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã dành toàn bộ tinh lực và trí tuệ, dày công xây dựng một chế độ nhà
nước theo những phương châm thể hiện tốt nhất bản chất nhân dân của chế độ
ta, thể hiện sự tôn kính nhân dân và ý thức phục vụ nhân dân” [48, 157]. Không
những xây dựng về mặt lý luận, chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ đạo việc tổ chức
9

9



nhà nước trên thực tiễn, và trực tiếp đảm nhận việc thực hiện quyền lực nhà
nước với cương vị nguyên thủ quốc gia.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại một di sản tư tưởng đồ sộ về vấn đề nhà
nước. Hồ Chủ tịch đã ký hơn 60 sắc lệnh, chỉ đạo việc soạn thảo hai bản hiến
pháp năm 1946 và năm 1959 viết nhiều tác phẩm, có nhiều bài báo, bài nói về
vấn đề nhà nước.
Hồ Chí Minh là người đầu tiên ở Việt Nam với lý luận cách mạng Mácxít
đã khởi sướng và tổ chức việc đấu tranh vạch trần bản chất bóc lột, phản dân chủ
của nhà nước phong kiến thực dân. Từ rất sớm trong cuộc đời hoạt động cách
mạng của mình, Người đã lên án và không chấp nhận sự tồn tại của nhà nước
thực dân, phong kiến trong con đường cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh đã
nhận thức một cách sâu sắc lý luận Mácxít về nhà nước vô sản và vận dụng sáng
tạo vào điều kiện cách mạng Việt Nam.
Hơn nữa, Bác Hồ cũng đã nghiên cứu các học thuyết khác về tổ chức quyền
lực nhà nước và các mô hình tổ chức nhà nước đương đại. Ngoài ra, Người cũng
đã kế thừa và phát triển những tư tưởng trị quốc truyền thống của phương Đông.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người khai sinh ra nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, trực tiếp chỉ đạo, xây dựng nhà nước Việt Nam qua các giai đoạn
cách mạng khác nhau: kháng chiến chống Pháp, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc, đấu tranh thống nhất đất nước. Mô hình nhà nước Việt Nam được xây
dựng trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh đã phát huy hiệu quả tích cực trong sự
nghiệp cách mạng của dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một hệ
thống quan điểm rõ ràng, nhất quán, phù hợp với đặc điểm và truyền thống Việt
Nam, trên cơ sở của nền kinh tế Việt Nam và cơ cấu của xã hội Việt Nam trong
giai đoạn lịch sử. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa là một bộ phận cơ bản cấu thành hệ thống quan điểm của Người về những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam.
1.2. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Xuất phát từ vị trí của vấn đề nhà nước trong tư tưởng Hồ Chí Minh, cơ sở
hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam bao gồm cơ sở khách quan và nhân tố chủ quan.
10

10


1.2.1. Cơ sở khách quan
 Điều kiện lịch sử xã hội
Thực tiễn lịch sử Việt Nam
Giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp tiến hành xâm lược và đặt ách thống trị
của chúng lên dân tộc ta. Vua quan nhà Nguyễn đầu hàng thực dân Pháp, phản
bội truyền thống yêu nước quật cường và phong trào đấu tranh anh dũng liên tục
của các tầng lớp nhân dân ta. Tình cảnh đó đã đặt trước dân tộc Việt Nam câu
hỏi: Làm thế nào để đánh đuổi thực dân Pháp, giành chủ quyền cho đất nước,
đem lại hạnh phúc cho nhân dân?
Do đó, vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nước ta đã xuất hiện những
dòng tư tưởng mới và các cuộc vận động cách mạng lớn và có mục đích chung
là đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập dân tộc, tuy nhiên lại khác nhau về
con đường cách mạng. Trong đó, một trong những nội dung cơ bản của cách
mạng là phương thức tổ chức quyền lực nhà nước sau khi giành được chính
quyền.
Với ý thức hệ phong kiến, các sĩ phu lãnh đạo phong trào Cần Vương (1858
- 1896) dưới chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi đã hăng hái phát động phong
trào chống Pháp, chủ trương xây dựng nước Việt Nam cũ. Thực chất khuynh
hướng của các sĩ phu phong kiến này là xây dựng lại nhà nước quân chủ phong
kiến không còn phù hợp với trào lưu chung của thế giới và sự phát triển tất yếu
của lịch sử Việt Nam.
Đầu thế kỷ XX, phong trào cách mạng tư sản đã ảnh hưởng đến Việt Nam,

làm xuất hiện những dòng tư tưởng mang màu sắc mới. Đại biểu xuất sắc đầu
tiên là Phan Bội Châu. “Ông chủ trương đánh Pháp giành độc lập dân tộc, sau đó
xây dựng nhà nước quân chủ chuyên chính ở Việt Nam theo kiểu quân chủ lập
hiến Nhật Bản hoặc một chính quyền cộng hòa dân chủ theo kiểu Âu - Tây [47,
14]. Khác với Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh là người chống đối triều đình
quyết liệt và đấu tranh cho một nền cộng hòa ở Việt Nam. Mô hình tổ chức nhà
nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản mặc dù có những mặt tiến bộ nhưng
không phù hợp với điều kiện cách mạng Việt Nam và vì vậy không trở thành
hiện thực.
Việt Nam Quốc dân đảng - một chính đảng của giai cấp tư sản Việt Nam ra
đời vào cuối những năm 20 với chủ trương đánh Pháp, đồng thời kêu gọi “trăm
họ hãy đoàn kết để xây dựng một nhà nước cộng hòa” (nhà nước cộng hòa tư
11

11


sản). Đường lối cách mạng của Việt Nam Quốc dân đảng không phù hợp với
thực tiễn Việt Nam và đã đi đến thất bại.
Sự thất bại của các cuộc vận động cách mạng đã chứng tỏ rằng: nhà nước tư
sản và nền dân chủ tư sản không phải là mục tiêu của cách mạng Việt Nam lúc
bấy giờ. Hay nói cách khác, mô hình nhà nước tư sản không phải là mô hình phù
hợp ở Việt Nam, bởi lẽ nhà nước đó chỉ có thể mang lại quyền lợi và dân chủ
cho một số ít người trong xã hội - đó là giai cấp tư sản và tiểu tư sản. Trong khi
đó yêu cầu cấp bách nhất, chủ yếu nhất của cách mạng Việt Nam là giải phóng
kiếp người nô lệ và đem lại cuộc sống mới cho đại đa số nhân dân lao động.
Trong thời điểm đó, “Nguyễn Tất Thành - một thanh niên mới mười lăm
tuổi đã sớm hiểu biết và đau xót trước cảnh thống khổ của đồng bào, lúc bấy giờ
Anh đã có chí đánh đuổi thực dân Pháp. Anh đã tham gia công tác bí mật, nhận
công việc liên lạc” [47, 15]. Tuy rất khâm phục nhưng không tán thành đường

lối cách mạng của họ, trong đó có vấn đề chính quyền nhà nước. Có thể thấy
rằng đây là lúc bắt đầu hình thành tư tưởng về một nhà nước độc lập, có chủ
quyền. Như vậy, việc Nguyễn Tất Thành không đồng tình với con đường cách
mạng của những nhà yêu nước đương thời, trong đó có vấn đề nhà nước, cho
thấy rằng, tuy chưa tìm ra một cơ sở lý luận toàn diện, nhưng bước đầu Người
đã nhận thấy nhà nước quân chủ chuyên chế, quân chủ lập hiến, cộng hòa dân
chủ kiểu tư sản không phù hợp với con đường cách mạng Việt Nam.
Năm 1923, trả lời phỏng vấn tạp trí “Ngọn lửa nhỏ” ở Liên Xô, đồng chí
Nguyễn Tất Thành đã giải thích quyết định của mình: “vào trạc tuổi mười ba, lần
đầu tiên tôi đã được nghe những từ ngữ tiếng Pháp, thế là tôi đã muốn làm quen
với văn minh Pháp, tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau từ ấy” [47, 15 - 16].
Không tán thành đường lối cách mạng của những nhà yêu nước đương thời,
Nguyễn Tất Thành quyết định tự mình ra đi tìm đường cứu nước. “Tôi muốn đi
ra nước ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm thế
nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào ta” [47, 16]. Trong những năm bôn ba hải ngoại,
với tên người yêu nước, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy và tố cáo bộ mặt thật của
thực dân Pháp ở Việt Nam, trong đó thể hiện sự phản đối hình thức nhà nước
của chính quyền thuộc địa.
Với sự phủ nhận chính quyền thực dân Pháp ở Việt Nam, có thể thấy rằng
Nguyễn Ái Quốc không chấp nhận nhà nước tư sản, nhất là nhà nước thực dân
trong con đường cách mạng Việt Nam. Lúc này, trong tư tưởng Nguyễn Ái
Quốc, Việt Nam phải được độc lập và có chủ quyền, mô hình tổ chức Nhà nước
12

12


Việt Nam trong tương lai phải là một mô hình tổ chức nhà nước kiểu mới đối lập
với mô hình nhà nước của chính quyền thuộc địa.
Con đường cách mạng quyết định kiểu nhà nước, hình thức tổ chức và hoạt

động của nhà nước. Cách mạng Việt Nam không thể theo con đường cách mạng
tư sản. Điều đó cũng có nghĩa là nhà nước sau khi giành chính quyền là nhà
nước kiểu mới, thể hiện bản chất giai cấp vô sản của nhà nước.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước trong con đường cách mạng
Việt Nam đã phát triển từ chính phủ công - nông - binh đến chính phủ nhân dân
của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - nhà nước cộng hòa dân chủ nhân dân.
Lãnh đạo nhân dân tiến hành thắng lợi cuộc cách mạng tháng Tám vĩ đại, ngày 2
- 9 - 1945, tại quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên
ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, tuyên ngôn độc lập
là văn kiện chính trị - pháp lý do Bác Hồ trực tiếp viết, thể hiện một cách sâu sắc
tư tưởng của Người về một nhà nước độc lập, tự chủ thống nhất, cộng hòa dân
chủ nhân dân.
Ý tưởng vĩ đại của Hồ Chí Minh trong tuyên ngôn độc lập về quyền độc lập
dân tộc đã được truyền tải thành nội dung của một quy phạm pháp luật quốc tế
tại hội nghị thế giới về nhân quyền họp ngày 25 - 6 - 1993. Tuyên ngôn Vienna
và chương trình hành động của hội nghị khẳng định: Tất cả các dân tộc đều có
quyền tự quyết, với quyền đó, các dân tộc tự quyết định thể chế chính trị của
mình và tự do theo đuổi con đường kinh tế, xã hội và văn hóa của mình. Tuyên
ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bằng xương máu của nhân dân Việt
Nam trong cách mạng giải phóng dân tộc đã đóng góp cho nhân loại tiến bộ một
quy phạm giá trị về quyền tự quyết dân tộc với tư cách là một nội dung của
quyền con người.
Khẳng định độc lập dân tộc, chủ tịch Hồ Chí Minh đã tạo cơ sở cho việc ra
đời Hiến pháp năm 1946. Sau này, ngày 3 - 9 - 1945, liền một ngày sau khi đọc
bản tuyên ngôn độc lập trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Hồ Chí
Minh đề nghị một trong những nhiệm vụ cấp bách của nhà nước là: “trước
chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không
kém phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến pháp. Nhân dân ta không được
hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ” [30, 8].
Có thể nói rằng Tuyên ngôn độc lập và Hiến pháp có quan hệ mật thiết với nhau.


13

13


Bộ trưởng Bộ Tư pháp đầu tiên của Việt Nam, ông Vũ Đình Hòe khẳng định:
“Hiến pháp 1946 gắn hữu cơ với Tuyên ngôn độc lập, trong mối quan hệ này
tuyên ngôn độc lập là cơ sở của Hiến pháp” [47, 32].
Tư tưởng hồ Chí Minh về một nhà nước độc lập tự chủ thống nhất cộng hòa
dân chủ nhân dân đã được thể chế hóa, Người khẳng định: Nước Việt Nam là
nước dân chủ cộng hòa. Đất nước Việt Nam là một khối thống nhất Trung - Nam
- Bắc không thể phân chia. Với hiến pháp năm 1946, tư tưởng Hồ Chí Minh về
hình thức nhà nước đã được cụ thể hóa đến từng chế định. Sau Hiến pháp năm
1946, chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục cụ thể hóa tư tưởng của mình về một nhà
nước độc lập, tự chủ, thống nhất, cộng hòa dân chủ nhân dân trong các bài viết,
các bài phát biểu, các cuộc nói chuyện, trong chính thực tiễn hoạt động xây dựng
nhà nước của Người, trong các văn bản pháp luật mà Người đã ban hành tổ
chức.
Trước đây, Người đã từng nói “đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam.
Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi” [30,
246]. Trong điều kiện mới của cách mạng, hiến pháp 1946 đã hoàn thành sứ
mệnh lịch sử của mình. Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: “nhưng so với tình hình
mới và nhiệm vụ cách mạng mời hiện nay thì nó không thích hợp nữa. Vì vậy,
mà chúng ta phải sửa đổi hiến pháp ấy” [35, 585]. Hiến pháp năm 1959, cũng do
chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì, soạn thảo, hiến pháp được ra đời để đáp ứng
nhiệm vụ mới của cách mạng. Bản hiến pháp này tiếp tục thể hiện tư tưởng Hồ
Chí Minh về một nhà nước độc lập, tự chủ, thống nhất, cộng hòa dân chủ nhân
dân. Báo cáo về dự thảo hiến pháp sửa đổi tại kì họp thứ VI Quốc hội khóa I
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Người nói: “toàn thể nhân dân ta tin tưởng

rằng chắc chắn nhất định Nam Bắc sẽ xum họp trong gia đình Tổ Quốc Việt
Nam thống nhất” [35, 597]. Điều một Hiến pháp năm 1959 quy định: Đất nước
Việt Nam là một khối Bắc Nam thống nhất không thể chia cắt.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, hình thức nhà nước trung gian này vẫn là
cộng hòa dân chủ nhân dân. Tình hình cách mạng thay đổi, nhà nướcViệt Nam
dân chủ cộng hòa chuyển sang thực hiện nhiệm vụ chuyên chính vô sản, nhưng
bản chất nhà nước không thay đổi, hình thức nhà nước cộng hòa dân chủ nhân
dân vẫn phù hợp với điều kiện cách mạng mới. Hồ Chí Minh đã ghi rõ “nhà
nước ta thành lập sau cách mạng tháng Tám là nhà nước dân chủ nhân dân do
giai cấp công nhân lãnh đạo. Để đấu tranh xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu
tranh thực hiện thống nhất nước nhà, chúng ta cần phải tăng cường không ngừng
sự lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với nhà nước dân chủ nhân dân” [35,
14

14


586]. Hình thức cộng hòa dân chủ nhân dân của nước Việt Nam cũng được
khẳng định trong hiến pháp 1959. Lời nói đầu trong hiến pháp 1959 đã xác định:
nhà nước ta là nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công
nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo. Điều 2 hiến pháp 1959 xác định: nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa thành lập và củng cố do thắng lợi mà nhân dân ta đã
giành được trong Cách mạng tháng Tám vẻ vang và kháng chiến anh dũng là
một nước dân chủ nhân dân. So với hiến pháp 1946, hiến pháp 1959 có một số
điểm đổi mới về cơ cấu nhà nước, điều này không làm thay đổi bản chất của nhà
nước hiến pháp 1959 vẫn thể hiện tư tưởng hồ Chí Minh về nhà nước cộng hòa
dân chủ nhân dân.
Như vậy, xuất phát từ điều kiện lịch sử xã hội Việt Nam lúc bấy giờ là thực
dân Pháp xâm lược và sự thất bại của các phong trào đấu tranh giải phóng dân
tộc. Nguyễn Ái Quốc đã không đồng tình với con đường cách mạng của những

nhà yêu nước trước đó, đó là con đường cách mạng tư sản. Chính vì thế đã thôi
thúc Người ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc đem lại một Nhà nước
độc lập, tự chủ và thống nhất.
Đặc điểm thời đại
Cuối thế kỷ XIX sang đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn tự do
cạnh tranh đã chuyển sang giai đoạn tư bản độc quyền, tức giai đoạn đế quốc
chủ nghĩa. Sự hình thành chủ nghĩa đế quốc và hệ thống thuộc địa của chúng đã
làm nảy sinh một mâu thuẫn cơ bản của thời đại: mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế
quốc với các dân tộc ở thuộc địa. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc với
“sự thức tỉnh của châu Á” là một nét nổi bật của tình hình thế giới đầu thế kỷ
XX.
Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và sự ra đời của
Nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới đã phá vỡ tính thống nhất của chủ
nghĩa tư bản thế giới, mở đầu cho thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, tạo ra mâu thuẫn cơ bản
xuyên suốt thời đại là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản.
Chính sự ra đời của nhà nước Xôviết và sau đó là Quốc tế cộng sản đã tạo điều
kiện cho phong trào cách mạng thế giới phát triển, trong đó có phong trào giải
phóng dân tộc các nước phương Đông, mở ra sự chuyển hướng của cách mạng
giải phóng dân tộc theo quỹ đạo của cách mạng vô sản.
Nguyễn Ái Quốc đã chỉ ra cho nhân dân ta thấy rằng cách mạng Việt Nam
không thể đi theo con đường cách mạng tư sản. Tìm hiểu cách mạng Mỹ, Người
15

15


nhận định: “Mỹ tuy rằng cách mạng thành công đã hơn 150 năm, nhưng công
nông vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ lo cách mạng lần thứ hai. Ấy là vì cách mạng Mỹ
là cách mạng tư bản, mà cách mạng tư bản chưa phải là cách mạng đến nơi” [28,

270]. Người đánh giá: “Cách mạng Pháp cũng như cách mạng Mỹ, nghĩa là cách
mạng tư bản, cách mạng không đến nơi, tiếng là cộng hòa dân chủ, kỳ thực trong
thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa” [28, 274]. Cách mạng
đến nơi trong tư tưởng Nguyễn Ái Quốc là cách mạng vô sản theo kiểu Cách
mạng tháng Mười Nga: “trong thế giới bây giờ chỉ có Cách mạng tháng Mười
Nga là thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được được hưởng
cái hạnh phúc, bình đẳng thực sự… Cách mạng tháng Mười Nga cho chúng ta
thấy rằng muốn cách mạng thành công thì phải lấy dân chúng làm gốc, phải có
đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại phải
theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin” [28, 280]. Như vậy, Nguyễn Ái Quốc đã
tìm thấy con đường cứu nước và giải phóng dân tộc, đó là con đường cách mạng
vô sản.
Sự phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản đã làm sâu sắc thêm mâu
thuẫn giữa các nước đế quốc với nhau, gây ra cuộc chiến tranh nhằm phân chia
lại thị trường, tiêu biểu là hai cuộc Chiến tranh thế giới (1914 - 1918 và 1939 1945). Gánh nặng của hai cuộc chiến tranh đè nặng lên số phận của nhân dân lao
động ở cả chính quyền và thuộc địa, thúc đẩy phong trào đấu tranh cách mạng ở
các nước. Nếu Chiến tranh thế giới thứ nhất làm xuất hiện một Nhà nước xã hội
chủ nghĩa Xôviết thì Chiến tranh thế giới thứ hai đã làm xuất hiện thêm một loạt
nước xã hội chủ nghĩa mới, hình thành nên hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới,
thành trì của phong trào cách mạng vô sản, chỗ dựa vững chắc của phong trào
giải phóng dân tộc.
Chủ nghĩa tư bản phát triển, sự bóc lột tư bản tăng lên cùng với gánh nặng
của các cuộc chiến tranh xâm lược, chiến tranh thế giới,… làm cho mâu thuẫn
giữa giai cấp tư sản với giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc
và thuộc địa cũng tăng lên. Các cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản
châu Âu liên tiếp nổ ra (từ 1918 đến 1923) và bị đàn áp khốc liệt.
Mặt khác, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, sự hình thành thị trường thế
giới, đã làm cho các dân tộc xích lại gần nhau, phá vỡ tình trạng biệt lập giữa
các quốc gia ở thế kỷ XIX. Sự ra đời và hoạt động của Quốc tế Cộng sản đã có
đóng góp to lớn vào sự tăng cường đoàn kết, gắn bó giữa phong trào cách mạng

vô sản ở chính quốc với phong trào giải phóng dân tộc ở thuộc địa.
16

16


Cho đến những năm 60 của thế kỷ thứ XX, loài người cũng đã chứng kiến
sự phát triển vượt bậc của cách mạng khoa học và công nghệ, đưa tới những đổi
thay có tính cách mạng về năng lượng, vật liệu, về giao thông vận tải, thông tin
liên lạc, về công nghệ sinh học, v.v… Lực lượng sản xuất phát triển tới một trình
độ cao chưa từng thấy, làm cho nền sản xuất thế giới ngày càng được quốc tế
hóa cao và trở thành một thị trường có tính thống nhất rộng lớn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong Báo cáo chính trị đọc tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ II của Đảng (tháng 2 - 1951), đã khái quát những nét lớn về nửa thế
kỷ XX như sau: “Năm mươi năm vừa qua có những biến đổi mau chóng hơn và
quan trọng hơn nhiều thế kỷ trước cộng lại. Trong 50 năm đó, đã có những phát
minh như chiếu bóng, vô tuyến điện, vô tuyến truyền hình cho đến sức nguyên
tử. Nghĩa là loài người đã tiến một bước dài trong việc điều khiển sức thiên
nhiên. Cũng trong thời kỳ ấy, chủ nghĩa tư bản từ chỗ tự do cạch tranh, đã đổi ra
độc quyền lũng đoạn, đã tiến lên chủ nghĩa đế quốc.
Trong 50 năm đó, đã có hai cuộc chiến tranh thế giới khủng khiếp nhất
trong lịch sử do bọn đế quốc gây ra. Đồng thời cũng do những chiến tranh đó mà
bọn đế quốc Nga, Đức, Ý, Nhật bị tiêu diệt; đế quốc Anh, Pháp bị suy đồi; tư
bản Mỹ thì nhảy lên làm trùm đế quốc, trùm phản động.
Quan trọng nhất là Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, Liên Xô,
nước xã hội chủ nghĩa thành lập, rộng một phần sáu thế giới và gần một nửa loài
người, đã tiến vào con đường dân chủ mới, những dân tộc bị áp bức lần lượt nổi
dậy chống chủ nghĩa đế quốc, đòi độc lập tự do” [32, 153].
Đó chính là một sự tổng kết ngắn gọn mà sâu sắc, bao quát được mặt cơ
bản của thời đại trong nửa đầu thế kỷ XX, từ sự phát triển của khoa học - công

nghệ, sức sản xuất đến đấu tranh giành giai cấp và cách mạng xã hội.
Như vậy, xuất phát từ đặc điểm thời đại đặc biệt là thắng lợi của cuộc Cách
mạng Tháng Mười Nga năm 1917 là cơ sở để Nguyễn Ái Quốc chỉ ra cho nhân
dân ta thấy rằng cách mạng Việt Nam không thể đi theo con đường cách mạng
tư sản mà phải đi theo con đường cách mạng vô sản. Đó là cơ sở quan trọng hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam.
 Những tiền đề tư tưởng lý luận
Những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trước hết là chủ nghĩa yêu nước
Việt Nam.
17

17


Trải qua mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước, đất nước Việt Nam đã trở
thành Tổ quốc thiêng liêng của toàn thể dân tộc ta, tinh thần yêu nước đã trở
thành đạo lý sống, và là một nhân tố cơ bản đứng đầu trong bảng giá trị tinh thần
của người Việt Nam. Hồ Chí Minh đã tiếp thu tinh thần đó và tinh thần này đã
trở thành một định hướng cơ bản trong cuộc đời hoạt động cách mạng của
Người. Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân tộc ta có một lòng nồng nàn yêu nước đó
là truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng,
thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn,
nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả bè lũ bán nước và
cướp nước” [35, 171]. Tư tưởng yêu nước đó là cơ sở truyền thống đoàn kết của
dân tộc ta. Truyền thống yêu nước và đoàn kết dân tộc không chỉ là tình cảm,
phẩm chất tinh thần mà còn là trí tuệ, hành động và phát triển thành chủ nghĩa
yêu nước truyền thống Việt Nam, thành dòng chủ lưu của tư tưởng Việt Nam,
xuyên suốt lịch sử dân tộc, là động lực mạnh mẽ của sự nghiệp bảo vệ và xây
dựng Tổ quốc.

Chính truyền thống quý báu đó của dân tộc ta đã ảnh hưởng sâu sắc đến tư
tưởng chính trị của Hồ Chí Minh. Đó cũng là động lực tinh thần chi phối mọi
suy nghĩ, hành động trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, là cơ
sở tư tưởng để người tiếp thu tinh hoa văn hóa Đông Tây và đến với chủ nghĩa
Mác - Lênin.
Chủ nghĩa yêu nước, truyền thống dựng nước và giữ nước cả dân tộc thấm
nhuần trong con người Hồ Chí Minh, là nhân tố thúc đẩy người ra đi tìm đường
cứu nước, đưa dân tộc thoát khỏi ách nô lệ thực dân, giành độc lập dân tộc, xây
dựng một mô hình nhà nước phù hợp với sự phát triển của xã hội Việt Nam.
Tư tưởng văn hóa Đông - Tây
Ngoài truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh còn chịu
ảnh hưởng và tiếp thu tinh hoa văn hóa phương Đông và phương Tây. Người đã
tiếp thu và kế thừa có chọn lọc tư tưởng chính trị dân chủ, nhân văn của văn hóa
Phục hưng của thời kỳ Ánh sáng, của cách mạng tư sản phương Tây và của cách
mạng Trung Quốc.
Hồ Chí Minh đã kế thừa và khai thác những yếu tố hợp lý trong tư tưởng
chính trị của Nho giáo khi kế thừa và vận dụng tư tưởng chính danh của Nho
giáo, Hồ Chí Minh đã loại bỏ tính chất duy tâm thiên mệnh khôi phục lại quan
hệ bình đẳng hai chiều tự nhiên trong quan hệ người với người. Người dạy rằng:
“dù là chủ tịch nước, bộ trưởng, công dân, nông dân bộ đội hay người phục vụ
18

18


nấu ăn, quét rác… đều là người tồi nếu không hoàn thành được nhiệm vụ của
mình, còn làm tốt hơn người khác thì đều là anh hùng, chiến sỹ thi đua là những
thánh nhân vậy” [40, 13].
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người đã thấm nhuần các giá trị tiến bộ của tư
tưởng chính trị của Nho giáo, đã sớm chỉ ra cho chúng ta thấy sức mạnh của

nhân dân một nhà nước do dân: “Gốc có vững cây mới bền, xây lầu thắng lợi
trên nền nhân dân”. Người cũng đã từng dạy phải lấy dân làm gốc. Đó là sự kế
thừa các giá trị tiến bộ của các nhà tư tưởng đi trước. Người xưa chỉ mới nhận
thấy sức mạnh của nhân dân, nhưng chưa nhận thấy nhân dân là người chủ của
quyền cai trị, tức là quyền lực nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên cơ sở thấy
được sức mạnh to lớn của nhân dân, đã đi đến khẳng định rằng, nhân dân là
nguồn gốc của quyền lực nhà nước: “Nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích
đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân” [31, 299].
Như vậy trong nhà nước ta, nhân dân không những là một sức mạnh to lớn,
mà còn là nguồn gốc của quyền lực nhà nước. Do vậy, mọi công việc của nhà
nước đều vì lợi ích của nhân dân, xuất phát từ ý nguyện của nhân dân. Trách
nhiệm của người cầm quyền là phải làm “người đầy tớ trung thành của nhân
dân” [36, 663].
Tư tưởng của Nho giáo về đạo của người quân tử với tư cách là người cầm
quyền, cũng được Hồ Chí Minh nhận thức và phát triển với những nội dung mới.
Các giá trị mà Nho giáo đề ra như nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, dũng, liêm, chung…
được Hồ Chí Minh vận dụng trong quá trình bàn về đạo đức cách mạng của
người cầm quyền.
Tư tưởng chính trị của Mặc gia và Lão gia cũng được Hồ Chí Minh kế thừa
và phát triển. Mặc gia chủ trương chính sách kiêm ái trong công cuộc cai trị: nhà
cầm quyền phải yêu thương nhân dân, tận tụy với những lợi ích của nhân dân.
Thuyết kiêm ái hạn chế ở tính duy tâm và tính phi giai cấp. Hồ Chí Minh đã loại
bỏ những hạn chế đó, tiếp thu tinh thần “làm đầy tớ cho nhân dân của Mặc Tử”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói “chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của chính phủ
từ toàn quốc cho đến các dân làng đều là công bộc của dân” [39, 216].
Phật giáo cũng góp phần vào việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Phật
giáo có tư tưởng nhân thị tối thắng: “đó là tư tưởng Phật tổ đánh giá vai trò của
con người trong vũ trụ trời đất. Hồ Chí Minh cũng đã đánh giá sức mạnh to lớn
của người, đó là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân” [36, 14]. Hồ Chí
Minh cũng tiếp thu phần tích cực trong tư tưởng nhân ái của Phật giáo muốn xây

19

19


cuộc sống “thẩm mỹ, chí thiện, bình đẳng, yên vui, ấm no cho chúng sinh, xây
dựng một xã hội hạnh phúc và an lạc”, xóa bỏ nỗi đau khổ của con người trên
trái đất.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh có nguồn gốc từ các trường phái triết học
phương Đông. Tuy nhiên, chỉ với những nguồn gốc tư tưởng trên chưa thể giúp
Hồ Chí Minh tìm ra con đường cách mạng nói chung và nhà nước cách mạng
nói riêng; chỉ dừng lại ở những tư tưởng cổ truyền ấy, những bậc tiền bối của
phong trào giải phóng dân tộc đã không tìm ra con đường đúng đắn. Chỉ có Hồ
Chí Minh, người chứng kiến tận mắt thất bại của các bậc tiền bối mới nhìn ra
những hạn chế của tư tưởng cổ truyền và Người đã quyết định tìm tòi, nghiên
cứu, tiếp thu hệ tư tưởng mới.
Trong những năm học ở Trường Quốc học Huế, được làm quen với những
khẩu hiệu “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” của Cách mạng tư sản Pháp, Hồ Chí
Minh đã có ý định sang phương Tây để tìm hiểu bản chất của tư tưởng đó.
Người cho biết: “Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ
Pháp: “Tự do, Bình đẳng, Bác ái…Và từ thưở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền
văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những chữ ấy” [24, 226].
Điều tìm thấy đã được Người thể hiện trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân
Pháp.
Trong ba mươi năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Người đã lao động
và dừng chân ở nhiều nơi khắp các châu lục. Ở Mỹ (khoảng cuối năm 1912 đến
cuối năm 1913), Người đến Brúclin thăm khu da đen Háclem, đã chiêm ngưỡng
tượng Thần Tự do, đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập (1776) của nước Mỹ, trong
đó đề cập đến quyền bình đẳng, quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh
phúc của con người. Người phát hiện ra nghịch lý: đằng sau những lời hoa mỹ

về tự do, bình đẳng kia là sự bất bình đẳng và nghèo đói của hàng triệu người lao
động, là điều kiện sống khủng khiếp của người da đen - nạn nhân của sự phân
biệt chủng tộc. Ở Pháp, Người đã có dịp tiếp xúc với những tư tưởng chính trị
nhân văn tư sản, thoát thai từ thời kỳ Phục hưng, được thể hiện trong Tuyên
ngôn độc lập của nước Mỹ (1776) và Tuyên ngôn về nhân quyền và dân quyền
của Cách mạng tư sản Pháp (1789). Trong khi khẳng định và tiếp thu những giá
trị tư tưởng chân chính, những nhân tố nhân văn tiến bộ của cách mạng dân chủ
tư sản, nhất là tư tưởng Dân chủ - Tự do - Bình đẳng - Bác ái, tư tưởng giải
phóng con người khỏi thần quyền và sự thống trị của những quan hệ phong kiến,
Người cũng đáng giá đúng những hạn chế của nó. Sau này, trong tác phẩm
Đường cách mệnh (1927), Người viết: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh
20

20


Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và
dân chủ, kì thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc
địa…” Người kết luận: “Cách mạng An Nam nên nhớ những điều ấy” [28, 274].
Chính vì không thỏa mãn với con đường cách mạng tư sản, Người đã tìm con
đường cách mạng mới và đến với chủ nghĩa Mác - Lênin.
Hồ Chí Minh đã tìm hiểu cách mạng Tân Hợi và tư tưởng Tôn Trung Sơn.
Khẩu hiệu “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” mà Hồ Chí Minh đề ra năm 1945 có
phần vận dụng từ chủ nghĩa tam dân, kinh nghiệm cách mạng Trung Quốc và tư
tưởng “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” của cách mạng tư sản Pháp, nhưng đã được
Người phát triển lên một trình độ mới mang tính giai cấp, tính nhân dân, tính
dân tộc và cách mạng triệt để của một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của đảng tiên
phong của giai cấp công nhân.
Chủ nghĩa Mác - Lênin

Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 đã lập ra nhà nước công nông đầu
tiên trên thế giới, mở ra một thời đại mới trong sự phát triển của lịch sử loài
người. Cũng chính năm 1917, Người từ Anh trở lại Pháp, vừa hoạt động chính
trị vừa phải kiếm sống một cách chật vật, nhưng Người vẫn lạc quan say xưa học
tập và kiên trì mục tiêu đã định. Được sự giúp đỡ của một số đảng viên Đảng Xã
hội Pháp, Người gia nhập Đảng Xã hội Pháp. Rồi tiếp xúc với Sơ thảo lần thứ
nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin, Người xúc
động, phấn khởi, tin tưởng, vui mừng đến phát khóc vì tìm thấy trong luận
cương này phương hướng và đường lối cơ bản của phong trào cách mạng giải
phóng dân tộc, trong đó có cách mạng Việt Nam. Năm 1920, Người tham gia
thành lập Đảng Cộng sản Pháp và đứng hẳn về lập trường Quốc tế cộng sản.
Qua tìm hiểu và học tập các tác phẩm của Lênin và của Mác, Người tìm
thấy con đường giải phóng dân tộc đúng đắn. Người nói: “Từng bước một, trong
cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác - Lênin, vừa làm công tác thực tế,
dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải
phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi
ách nô lệ” [36, 128] và “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản” [35, 314]. Từ đó mục tiêu của
cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam được xác định đúng đắn là độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng Hồ Chí Minh từ đó, thuộc hệ tư
tưởng của giai cấp vô sản, mang tính cách mạng, khoa học và nhân văn.
21

21


Chính thế giới quan và phương pháp luận Mác - Lênin đã giúp Hồ Chí
Minh tổng kết kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn của loài người để tìm ra con
đường cứu nước đúng đắn. Trong tác phẩm Đường Cách Mệnh, khi phân tích
các chủ nghĩa, các học thuyết, Người viết: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa

lắm, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ
nghĩa Lênin” [28, 268]. Và tổng kết kinh nghiệm thắng lợi của cách mạng Việt
Nam, Người cũng chỉ rõ: chúng ta giành được thắng lợi đó trước hết là nhờ cái
vũ khí không gì thay thế được là chủ nghĩa Mác - Lênin. Chủ nghĩa Mác - Lênin
là cái cẩm nang thần kỳ của chúng ta.
Hồ Chí Minh không chỉ vận dụng mà còn phát triển một cách sáng tạo lý
luận Mác - Lênin. Đối với Người, việc học tập chủ nghĩa Mác - Lênin trước hết
là phải nắm cái cốt lõi, linh hồn sống của nó - phép biện chứng, phải học tập
theo tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin; dựa trên lập trường, quan điểm và
phương pháp do chủ nghĩa Mác - Lênin đề ra để giải quyết những vấn đề thực tế
trong công tác cách mạng của chúng ta. Chân lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo
điều đó luôn thể hiện trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Có thể khẳng định: tư tưởng
Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc chủ yếu của tư tưởng Hồ
Chí Minh.
Lý luận Mácxít về nhà nước cách mạng vô sản là cơ sở để Người đánh giá,
phê phán các học thuyết khác về tổ chức nhà nước cũng như thực tiễn tổ chức
nhà nước của nhà nước tư bản. Mô hình nhà nước vô sản mà những nhà kinh
điển của chúng ta đưa ra ảnh hưởng một cách quyết định đến quá trình Hồ Chí
Minh xác lập mô hình nhà nước cách mạng Việt Nam. Mô hình nhà nước Xôviết
mà Lênin tổng kết là một mô hình nhà nước mà Hồ Chí Minh mong muốn thiết
lập ở Việt Nam. Chính phủ công - nông - binh mà Người đặt vấn đề phải xây
dựng ở Việt Nam trong Chính cương vắn tắt là biểu hiện của mô hình nhà nước
Xôviết.
1.2.2. Nhân tố chủ quan
 Năng lực hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh.
Ngoài cơ sở khách quan - tư tưởng Hồ Chí Minh còn phải đề cập đến nhân
tố chủ quan - yếu tố quan trọng trong việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Bởi lẽ, chính từ trong cuộc đời hoạt
động thực tiễn cách mạng - xã hội mà từng bước Hồ Chí Minh đã tìm ra quy luật
vận động xã hội, hiện thực của thời đại, khái quát nhận thức của mình thành lý

22

22


luận. Lý luận ấy lại được Người vận dụng và kiểm nghiệm trong thực tiễn. Cũng
từ trong hoạt động thực tiễn cách mạng của mình, tư tưởng lý luận cách mạng,
về chính quyền nhà nước của Hồ Chí Minh đã hình thành và phát triển hoàn
thiện.
Trong ba mươi năm bôn ba đi tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã
đến nhiều nước thuộc địa nhiều châu lục khác nhau để nghiên cứu xem xét các
hoạt động của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào công nhân, cách thức tổ
chức xã hội, quản lý nhà nước ở các nơi ấy. Đặc biệt là thực tế hoạt động của
Người trong Đảng Xã hội Pháp, hoạt động và làm việc ở Liên Xô trong Cục
Phương Đông của Quốc tế Cộng sản; Người trực tiếp tổ chức đào tạo, huấn
luyện cán bộ cộng sản Việt Nam ở Quảng Châu (Trung Quốc)… Tất cả đều tác
động mạnh mẽ đến quá trình nhận thức, lựa chọn để tìm ra một con đường cứu
nước, một mô hình nhà nước phù hợp với điều kiện thực tế Việt Nam sau khi
giành được chính quyền.
Đến các nước Pháp, Anh, Mỹ, Người để tâm sức nghiên cứu Tuyên ngôn
độc lập của nước Mỹ (1776), trong đó đề cập tới “quyền bình đẳng”, “quyền
sống”, “quyền tự do”, “quyền mưu cầu hạnh phúc”… của con người, đặc biệt là
quyền nhân dân kiểm soát chính phủ.
Thời gian ở Pháp, Người tìm hiểu cách mạng tư sản Pháp (1789), tìm hiểu
những tư tưởng của ban tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền, về Tự do - Bình
đẳng - Bác ái, tư tưởng nhân văn giải phóng con người, Nguyễn Ái Quốc khẳng
định những giá trị tích cực, tiến bộ của cuộc cách mạng Pháp, Mỹ, đồng thời
đánh giá những hạn chế của hai cuộc cách mạng này.
Trong khi nghiên cứu xem xét các cuộc cách mạng lớn trên thế giới, Hồ
Chí Minh đánh giá cao cuộc cách mạng vô sản, cách mạng Tháng Mười Nga

năm 1917. Người cho rằng, đây là cuộc cách mạng triệt để, đưa lại quyền lợi
thực sự cho nhân dân, nhân dân có quyền làm chủ nước nhà. Cách mạng Việt
Nam nên đi theo con đường của Cách mạng tháng Mười Nga.
Sống và hoạt động chủ yếu ở trung tâm văn minh châu Âu và nguồn tinh
hoa cách mạng tư sản, Nguyễn Ái Quốc đủ thời gian và điều kiện nhận những gì
cần thiết cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc mình và phục vụ dân tộc khác
cùng cảnh ngộ. Một vốn tri thức sách vở đồ sộ, những cuộc khảo nghiệm thực tế
phong phú đã làm giàu thêm vốn văn hóa phương Đông, phương Tây trong con
người Nguyễn Ái Quốc. Những chuyến dài ngày gần như vòng quanh thế giới đã
thực sự mang lại cho Hồ Chí Minh những tri thức, kinh nghiệm, sự hiểu biết lịch
23

23


sử, tình cảm hữu ái giai cấp, sự thông cảm sâu sắc khi chứng kiến cảnh khổ cực
của người lao động dưới sự áp bức, bóc lột dã man, vô cùng nhân đạo của những
kẻ thống trị. Mặt khác, trong những cuộc tiếp xúc, gặp gỡ của Hồ Chí Minh với
các nhà văn, nhà báo, nhà hoạt động chính trị xã hội có danh tiếng lúc đó và với
sự có mặt của Người ở các cuộc hội thảo về văn hóa, triết học, chính trị, kinh tế,
ở các câu lạc bộ, nhà máy, nhà bảo tàng… đã làm tăng sự hiểu biết về chính trị
và nhiều lĩnh vực khác, trong đó có vấn đề nhà nước.
Không chỉ đến với chủ nghĩa nhân văn, đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tiếp
nhận những tri thức từ sách vở và từ truyền thống văn hóa của phương Đông,
phương Tây và của dân tộc, mà điều quan trọng hơn là sự tiếp nhận ấy Nguyễn
Ái Quốc đã sáng tạo ra những sản phẩm văn hóa nhằm mục đích đấu tranh giải
phóng con người, tuyên truyền cách mạng, đào tạo cán bộ, thức tỉnh quần chúng
đứng lên đấu tranh giành tự do, độc lập, xây dựng Nhà nước của dân, do dân và
vì dân.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho rằng: “Thực tiễn hoạt động cách mạng của

Hồ Chí Minh là một cơ sở có ý nghĩa quyết định đối với sự hình thành, phát
triển và hoàn thiện tư tưởng Hồ Chí Minh” [3, 25].
Hồ Chí Minh đã đến các nước tư bản Anh, Pháp, Mỹ, đã đến nhiều các
nước thuộc địa và phụ thuộc ở các châu lục. Ở đâu Người cũng sống và lao động
thực sự như người công nhân để xem xét đời sống kinh tế - chính trị - xã hội của
các tầng lớp nhân dân; nghiên cứu cách thức tổ chức xã hội và nhà nước, chế độ
chính trị hiện thời; xem xét đời sống, nguyện vọng, hoạt động đấu tranh của các
dân tộc.
Người đã đi nhiều nơi, làm nhiều công việc, nghiên cứu học tập kinh
nghiệm của các nước và phụ trách nhiều cương vị trong những điều kiện, hoàn
cảnh khác nhau. Sau này, Người trực tiếp tổ chức đào tạo Đảng Cộng sản Việt
Nam, thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - nhà nước công nông đầu tiên
ở Đông Nam Á. Người đứng đầu Đảng và Nhà nước, đó là kết quả của sự tác
động biện chứng giữa nhận thức và hành động, lý luận và thực tiễn, vì vậy mà
Người ngày càng tiếp cận với chân lý của thời đại.
Từ thực tiễn hoạt động cách mạng sôi nổi, phong phú, Hồ Chí Minh đã tìm
ra những quy luật, đúc kết thành lý luận. Trong những năm bôn ba ở các nước tư
bản phát triển, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu cách tổ chức nhà nước ở đó, phê
phán những mặt tiêu cực, tiếp thu những yếu tố hợp lý cho quá trình xây dựng
mô hình nhà nước cách mạng Việt Nam. Cũng chính xuất phát từ thực tiễn hoạt
24

24


động cách mạng mà Người có những bước phát triển lớn trong tư tưởng về hình
thức nhà nước trên con đường cách mạng Việt Nam, cụ thể là sự chuyển biến
trong tư tưởng của Người từ một nhà nước công - nông - binh sang nhà nước
cộng hòa dân chủ nhân dân.
 Trí tuệ và phẩm chất chính trị của Hồ Chí Minh

Hồ Chí Minh là con người có phẩm chất chính trị và phẩm chất cá nhân tiêu
biểu đặc sắc nhất của con người. Lẽ sống của Người là suốt đời đấu tranh cho
nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có
cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Hồ Chí Minh là người lịch thiệp, tế nhị,
giàu lòng nhân ái lại rất thông minh, sắc sảo, nhạy bén về chính trị, ham học hỏi
có tư duy độc lập, sáng tạo, có trí tuệ uyên bác, kiến thức sâu rộng, biết nhiều
ngoại ngữ. Người là hiện thân của phẩm chất cao quý, toàn tâm toàn ý phục vụ
cách mạng, phục vụ nhân dân, luôn khắc phục và vượt qua mọi khó khăn, thử
thách, vững vàng trong lập trường cách mạng, sáng suốt trong đường lối, chính
sách, dũng cảm trong hành động, thắng không kiêu, bại không nản…
Người là nhà chính trị Mácxít tiêu biểu của thời đại chúng ta về tài năng và
đức độ, đức tính ngay thẳng, trung thực, nguyên tắc, linh hoạt. Người sống mẫu
mực trong cuộc sống hàng ngày, khiêm tốn giản dị, gần gũi mọi người, hòa đồng
với quần chúng, vì nhân dân, vì dân tộc, vì sự nghiệp hòa bình và tiến bộ của
loài người.
Nét đặc biệt trong phong cách chính trị Hồ Chí Minh là luôn gần gũi với
nhân dân, lắng nghe ý kiến của quần chúng, quan tâm đến nguyện vọng của mọi
tầng lớp nhân dân. Người thương yêu, kính trọng, tin tưởng vào con người nên
có sức cảm hóa lớn. Ngay từ đầu thế kỷ XX, nhà thơ Xôviết Ôxip Manđextam
đã nhận định: “Từ Nguyễn Ái Quốc tỏ ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa
châu Âu mà có lẽ là một thứ văn hóa tương lai” [27, 478]. Là một bậc đại nhân,
đại trí, đại dũng, Người đã cho ta một ý niệm đầy đủ nhất về phẩm chất chính trị
nhân văn hết sức tiêu biểu của con người. Phẩm chất đó được phát huy trong
suốt cuộc đời hoạt động của Người. Nhờ vậy, giữa vô vàn đường lối, học thuyết
khác nhau, Hồ Chí Minh đã tìm ra được mục tiêu lý tưởng và con đường cách
mạng đúng đắn ấy là lựa chọn đảng kiểu mới, lựa chọn nhà nước kiểu mới - nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phấn đấu vì độc lập dân tộc, vì hạnh phúc
của nhân dân.
Như vậy, cơ sở để hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam bao gồm cơ sở khách

25

25


×