LỜI NÓI ĐẦU
Để thực hiện mục tiêu Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước, cần
phải có số vốn rất lớn. Nguồn vốn đó có thể khai thác được bao gồm nguồn
trong nước và nguồn từ bên ngoài. Muốn đi lên bằng chính sức mình, phải coi
nguồn vốn tích luỹ từ bản thân nền kinh tế trong nước là chủ yếu. Tuy nhiên,
do điểm xuất phát từ nền kinh tế còn thấp, cần có sự hỗ trợ từ nguồn vốn bên
ngoài. Tạo dựng được vốn cho yêu cầu phát triển này, đòi hỏi toàn bộ hệ
thống Tài chính Quốc gia phải nỗ lực vượt bậc. Hệ thống ngân hàng với
những ngân hàng ngày một lớn mạnh, là lực lượng chủ yếu trong việc thu hút
nguồn vốn. Cách đây gần một thế kỷ, V.I.Lê Nin đã đưa ra một luận điểm vĩ
đại, đánh giá vai trò của ngân hàng như :
“...Không có những ngân hàng lớn thì sẽ không thể thực hiện được Chủ
nghĩa xã hội “. Và người đã ví hệ thống ngân hàng “...Đó là cái gì giống bộ
xương của xã hội Xã hội chủ nghĩa “.
Tạo vốn cho Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước chính là một
trong những giải pháp khắc phục nguy cơ tụt hậu so với các nước, trước hết là
các nước trong khu vực. Với vai trò là trung gian tài chính, ngân hàng là
ngành chủ yếu làm cho cung cầu tiền tệ gặp nhau.
Các ngân hàng thương mại (NHTM) muốn tồn tại phát triển và đóng
góp cho sự nghiệp đổi mới đất nước, không có cách nào khác là phải bằng
mọi biện pháp để thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư. Tuy trong hệ
thống ngân hàng đã có nhiều đổi mới về mọi phương diện song nó chỉ đóng
một vai trò khá “khiêm tốn” trong việc tập trung nguồn vốn tiết kiệm để phân
phối vào các hoạt động tăng trưởng kinh tế. Vậy làm thế nào để người dân gửi
tiền vào ngân hàng?. Cách tốt nhất để huy động vốn, đặc biệt là vốn trung và
dài hạn?. Đây là vấn đề mà tất cả các ngân hàng đều quan tâm. Vì vậy em đã
chọn đề tài nghiên cứu của mình là: “Biện pháp nâng cao hiệu quả huy
động vốn của NHTM
Việt Nam
”.Với đề tài này, chỉ nghiên cứu ở phạm vi:
+Phạm vi không gian: Nghiên cứu hệ thống ngân hàng thương mại Việt
Nam.
+Phạm vi nội dung: Giải pháp huy động vốn trong nước.
Kết cấu của đề án gồm:
Chương
I : Những vấn đề lí luận cơ bản.
Chương II : Thực trạng về huy động vốn của hệ thống NHTM Việt Nam
Chương
III: Một số giải pháp tăng cường khả năng huy động vốn của
NHTM
Do kiến thức về chuyên môn còn có hạn nên bài viết chắc chắn sẽ
không tránh khỏi những sai sót, em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy
cô .Và em xin chân thành cám ơn thầy giáo Hoàng Đình Quang đã hướng dẫn
em hoàn thành đề án này
CHƯƠNG I : NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN
I. KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI:
1. Khái niêm Ngân hàng thương mại:
NHTM là một tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và
ngân hàng, mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên của nó là nhận tiền gửi
của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, để
đầu tư, để chiết khấu và để làm phương tiện thanh toán.
2. Ngân hàng ra đời là một tất yếu khách quan:
Ngân hàng thương mại hình thành và ra đời lần đầu tiên ở Châu Âu. Kể
từ khoảng giữa thế kỷ 14, ở Châu Âu tồn tại các lãnh địa riêng biệt. Các lãnh
địa này diện tích và dân số không lớn lắm. Trong sự tồn tại và phát triển của
chúng không thể thiếu được sự trao đổi, giao thương buôn bán với các lãnh
địa khác. Tuy nhiên, các lãnh địa khác nhau lại sử dụng các loại tiền tệ khác
nhau và cũng có tiềm lực kinh tế khác nhau. Trước tình hình đó, để các hoạt
động giao thương được diễn ra nhanh chóng và thuận lợi. Đã hình thành nên
các tổ chức thu đổi tiền. Hình thức này là khi các thương gia vào lãnh địa họ
sẽ đổi tiền của mình lấy tiền lưu hành trong lãnh địa, và chịu một phần chi phí
thu đổi. Việc đổi tiền này lấy tiền khác dựa vào tiềm lực kinh tế của những
lãnh địa có đồng tiền đó. Dần dần tổ chức thu đổi này lớn mạnh và kiêm luôn
việc giữ hộ tiền và thanh toán hộ. Trong khi giữ số tiền nhàn rỗi (do chưa đến
thời hạn thanh toán hộ) nhằm thu lợi, họ tiến hành cho vay lấy lãi. Việc cho
vay này có căn cứ trên đặc tính "vô danh" của đồng tiền. Tức là họ hoàn toàn
có thể lấy số tiền người gửi chưa đến thời hạn thanh toán và thanh toán cho
người rút tiền. Cùng với thời gian, hoạt động sản xuất kinh doanh giao thương
ngày càng phát triển, tổ chức này cũng ngày càng lớn mạnh và hình thành các
loại hình thương mại đầu tiên.
Tóm lại, Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính ra đời dựa
trên cơ sở của sự phát triển sản xuất và trao đổi hàng hóa và dựa trên sự khác
biệt về tiền tệ giữa các vùng, các khu vực.
3.Các chức năng của NHTM:
Ngân hàng thương mại ra đời do yêu cầu của sự phát triển của nền kinh tế. Cơ
sở nền sản xuất và lưu thông hàng hóa, và nền kinh tế ngày càng phát triển
càng cần đến hoạt động của các Ngân hàng thương mại. Thông qua việc thực
hiện các chức năng, vai trò của mình nhất là chức năng trung gian tín dụng
Ngân hàng thương mại đã trở thành một bộ phận thúc đẩy nền kinh tế phát
triển. Sự đóng góp này thể hiện như sau:
* Thứ nhất: Ngân hàng là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế:
Nền kinh tế phát triển càng cao, thì nhu cầu về vốn càng lớn. Vốn đóng
vai trò rất quan trọng trong việc đầu tư mở rộng hoạt động sản xuất kinh
doanh cũng như duy trì chính hoạt động đó nhằm đảm bảo hiệu quả của
doanh nghiệp.
Chịu trách nhiệm với nhiệm vụ này. Ngân hàng thương mại đã đứng ra
huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của mọi tổ chức, cá nhân mọi
thành phần kinh tế (vốn tạm thời nhàn rỗi được giải phóng từ quá trình sản
xuất, từ nguồn tiết kiệm của dân cư...). Thông qua nghiệp vụ tín dụng ngân
hàng thương mại đã cung cấp vốn cho nền kinh tế, đáp ứng đầy đủ, kịp thời
cho quá trình tái sản xuất. Nhờ đó các doanh nghiệp sẽ nâng cao hiệu quả hoạt
động sản xuất kinh doanh của mình, góp phần nâng cao hiệu quả của cả nền
kinh tế.
* Thứ hai: Ngân hàng là cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường.
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong quá trình vận động chịu
tác động của rất nhiều các quy luật kinh tế khách quan như quy luật cung, cầu,
cạnh tranh. Các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế này cũng không
thoát khỏi sự tác động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế khách quan đó.
Muốn tồn tại các doanh nghiệp buộc phải thỏa mãn các yêu cầu của thị trường
về: phương diện giá cả, khối lượng, chất lượng, mẫu mã, cải tiến máy móc,
trang thiết bị, tìm tòi nghiên cứu, đầu tư... Tuy nhiên tất cả những hoạt động
này đều cần có phải có lượng vốn nhất định (thường vượt quá khả năng vốn
tự có của doanh nghiệp). Giải quyết khó khăn này, doanh nghiệp có thể tìm
đến với Ngân hàng xin vay vốn. Vì vậy Ngân hàng chính là cầu nối giữa
doanh nghiệp và thị trường.
* Thứ ba: Ngân hàng thương mại là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô
nền kinh tế.
Thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các Ngân hàng trong
hệ thống, các Ngân hàng thương mại đã góp phần mở rộng hay thu hẹp lượng
tiền trong lưu thông. Hơn nữa, bằng việc cấp các khoản tín dụng cho nền kinh
tế, Ngân hàng thương mại thực hiện việc dẫn dắt các luồng tiền, tập hợp, phân
chia vốn của thị trường điều khiển chúng một cách có hiệu quả, thực thi vai
trò điều tiết vĩ mô đúng theo phương châm" Nhà nước điều tiết Ngân hàng,
Ngân hàng dẫn dắt thị trường"
* Thứ tư: Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa nền ktc quốc gia với nền
tài chính quốc tế.
Xu thế liên kết, hợp tác, khu vực hóa, toàn cầu hóa đã là xu thế chung
trên thế giới hiện nay. Xu thế này có ảnh hưởng tới mọi quốc gia. Chính xu
thế đó đã khiến các quốc gia tuy cách xa nhau về mặt địa lý vẫn xích lại gần
nhau hơn. Bởi sự phát triển của nền kinh tế mỗi quốc gia luôn gắn với sự phát
triển của nền kinh tế thế giới và là một bộ phận không thể thiếu, cấu thành
nên sự phát triển đó. Ngân hàng thương mại với các hoạt động nhận tiền gửi,
cho vay, nghiệp vụ thanh toán, nghiệp vụ hối đoái và các nghiệp vụ khác đã
góp phần thúc đẩy ngoại thương mở rộng. Cũng thông qua các hoạt động
thanh toán, buôn bán ngoại hối, quan hệ tín dụng với Ngân hàng nước ngoài,
hệ thống Ngân hàng đã thực hiện vai trò điều tiết nền tài chính trong nước
phù hợp với sự vận động của nền tài chính quốc tế
4. Các loại hình Ngân hàng thương mại.
a. Chia theo tính chất hoạt động.
* Ngân hàng chuyên doanh và đa năng.
- Ngân hàng chuyên doanh: là Ngân hàng ngày chỉ tập trung cung cấp
một số dịch vụ Ngân hàng. Ví dụ như chỉ cho vay đối với xây dựng cơ bản,
hoặc đối với nông nghiệp, hoặc chỉ cho vay (không bảo lãnh hoặc cho thuê)...
Tính chuyên môn hóa cao cho phép Ngân hàng có được đội ngũ cán bộ giàu
kinh nghiệm, tinh thông nghiệp vụ. Tuy nhiên, loại Ngân hàng này thường
gặp rủi ro lớn khi ngàng hoặc lĩnh vực hoạt động mà Ngân hàng phục vụ sa
sút.
- Ngân hàng đa năng: là Ngân hàng cung cấp mọi dịch vụ Ngân hàng
cho mọi đối tượng. Đây là xu hướng hoạt động chủ yếu hiện nay của các
Ngân hàng thương mại. Ngân hàng đa năng thường là Ngân hàng lớn (hoặc sở
hữu Công ty). Tính đa dạng sẽ giúp Ngân hàng tăng thu nhập và hạn chế rủi
ro.
* Ngân hàng bán buôn và ngân hàng bán lẻ.
- Ngân hàng bán buôn là Ngân hàng chủ yếu cung cấp các dịch vụ cho
các Ngân hàng, các Công ty tài chính, cho Nhà nước, cho các doanh nghiệp
lớn. Ngân hàng bán buôn thường là Ngân hàng lớn hoạt động tại các trung
tâm tài chính quốc tế, cung cấp các khoản tín dụng lớn.
- Ngân hàng bán lẻ là Ngân hàng chủ yếu cung cấp các dịch vụ trực tiếp
cho doanh nghiệp, hộ gia đình và cá nhân, với các khoản tín dụng nhỏ.
Với xu hướng phát triển hiện nay, rất ít Ngân hàng chỉ có bán lẻ hoặc
bán buôn. Các Ngân hàng nhỏ thường là Ngân hàng bán lẻ. Các Ngân hàng
lớn kết hợp cả hai.
b. Các loại hình Ngân hàng thương mại chia theo cơ cấu tổ chức.
- Đó là Ngân hàng sở hữu Công ty và Ngân hàng không sở hữu Công
ty. Ngân hàng sở hữu Công ty là Ngân hàng nắm giữ phần lớn vốn của Công
ty, cho phép Ngân hàng được quyền tham gia quyết định các hoạt động cơ
bản của Công ty.
- Ngân hàng đơn nhất và Ngân hàng có chi nhánh: Ngân hàng đơn nhất
được hiểu là Ngân hàng không có chi nhánh, tức là các dịch vụ Ngân hàng chỉ
do một hội sở Ngân hàng cung cấp.
Ngân hàng có chi nhánh thường là Ngân hàng có vốn tương đối lớn,
cung cấp dịch vụ Ngân hàng thông qua nhiều đơn vị Ngân hàng. Việc thành
lập chi nhánh thường bị kiểm soát chặt chẽ bởi Ngân hàng Nhà nước thông
qua các quy định về mức vốn sở hữu, về chuyên môn của đội ngũ cán bộ, về
sự cần thiết của dịch vụ Ngân hàng trong vùng.
5. Vai trò cơ bản về hệ thống Ngân hàng Việt Nam
a. Ngân hàng trong cơ chế kế hoạch hóa.
Tổ chức tín dụng đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là
Nha tín dụng, được thành lập 1951. Là tiền thân của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam. Trong cơ chế kế hoạch tập trung và trong điều kiện chiến tranh,
Ngân hàng Nhà nước phải thực hiện các kế hoạch tiền tệ tín dụng được giao.
Lãi suất, tỷ giá, tỷ lệ cho vay... phải hướng vào phục vụ các doanh nghiệp
Nhà nước, các HTX và phục vụ quốc phòng để hoàn thành các kế hoạch 5
năm, phát triển kinh tế miền Bắc đồng thời chi viện cho tiền tuyến. Ngân
hàng Nhà nước đã đóng vai trò quan trọng trong công cuộc kháng chiến
chống Pháp, chống Mỹ cứu nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc,
kiến thiết đất nước sau năm 1975.
Sau năm 1975, nền kinh tế nước ta phải đối đầu với thử thách lớn: viện
trợ bị giảm sút, đất nước đã chịu sự tàn phá khốc liệt của chiến tranh, chuyển
đổi sang một cơ chế kinh tế mới khi chiến tranh kết thúc... Ngân hàng Nhà
nước phải in tiền để tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của các doanh nghiệp, các
đơn vị hành chính sự nghiệp. Lượng tiền cung ứng gia tăng trong điều kiện
sản lượng không tăng kịp đã đẩy lạm phát lên cao trong những năm 80. Lạm
phát gia tăng làm xói mòn tiết kiệm, khuyến khích tích trữ và đầu cơ dẫn đến
gia tăng mạnh nhu cầu vay vốn từ Ngân hàng. Lãi suất thực âm, tỷ giá bị bóp
méo, tiền lương không đủ trang trải các chi phí tối thiểu... nên Ngân hàng
càng phải in nhiều tiền. Ngân hàng đã không bảo đảm được vốn, không tính
toán được hiệu quả kinh tế, bị kéo vào vòng xoáy của siêu lạm phát.
b. Hệ thống Ngân hàng trong chuyển đổi cơ chế kinh tế.
Mô hình tổ chức đã được thay đổi căn bản tách chức năng quản lý hoạt
động tiền tệ, tín dụng đối với chức năng kinh doanh tiền tệ, đa dạng các loại
hình Ngân hàng, từng bước xóa bỏ độc quyền, chuyển sang cạnh tranh có sự
quản lý của Nhà nước.
Tháng 5/1990, hai pháp lệnh Ngân hàng (pháp lệnh Ngân hàng Nhà
nước, pháp lệnh Ngân hàng HTX tín dụng và Công ty tài chính) ra đời là
bước ngoặt quan trọng trong hoạt động của toàn hệ thống Ngân hàng là hệ
thống Ngân hàng hai cấp bao gồm Ngân hàng Nhà nước và các Ngân hàng
thương mại, HTX tín dụng, Công ty tài chính... pháp lệnh đã khẳng định tính
đa hình thức sở hữu, đa loại hình, đa thành phần và kinh doanh đa năng của
hệ thống Ngân hàng thương mại. Pháp lệnh đã mở đường cho quá trình phát
triển các loại hình Ngân hàng tại Việt Nam, bao gồm Ngân hàng quốc doanh
Ngân hàng thương mại cổ phần, Ngân hàng liên doanh giữa Việt Nam và
nước ngoài, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam.
Hiện nay, Quốc hội đã thông qua Luật về Ngân hàng Nhà nước và Luật
về các tổ chức tín dụng. Luật các tổ chức tín dụng đã tạo môi trường pháp lý
mới cho sự phát triển của các Ngân hàng.
6.Các nghiệp vụ cơ bản của Ngân hàng thương mại.
6.1. Nghiệp vụ huy động vốn.
Đây là nghiệp vụ cơ bản, đầu tiên quan trọng nhất của một Ngân hàng
thương mại. Vốn được Ngân hàng huy động dưới nhiều hình thức khác nhau
và sử dụng (sau khi đảm bảo một tỷ lệ dự trữ bắt buộc) với trách nhiệm hoàn
trả gốc và lãi. Nguồn vốn của Ngân hàng thương mại gồm vốn tự có (vốn chủ
sở hữu), vốn vay, vốn khác. Ngân hàng thường sử dụng các nghiệp vụ huy
động vốn sau:
* Vốn tự có của Ngân hàng: đây là nguồn vốn thuộc sở hữu của riêng
các Ngân hàng thương mại. Trong thực tế nguồn vốn này không ngừng tăng
lên từ kết quả hoạt động kinh doanh của bản thân Ngân hàng thương mại
mang lại, nó đóng góp một phần đáng kể vào hoạt động kinh doanh của các
Ngân hàng thương mại.
* Nghiệp vụ tiền gửi: đây là nghiệp vụ phản ánh các khoản tiền gửi từ
các doanh nghiệp vào để thanh toán hoặc nhằm mục đích bảo quản tài sản mà
từ đó Ngân hàng thương mại có thể huy động được. Ngoài ra các Ngân hàng
còn huy động các khoản tiền nhàn rỗi của các cá nhân hay hộ gia đình gửi vào
Ngân hàng với mục đích hưởng lãi.
* Nghiệp vụ tiền vay: phản ánh quá trình tạo ra nguồn vốn bằng cách
vay các tổ chức tín dụng trên thị trường tiền tệ và vay Ngân hàng Trung Ương
dưới các hình thức tái chiết khấu, vay có bảo đảm... mục đích tạo sự cân đối
trong điều hành vốn của bản thân Ngân hàng thương mại khi họ không tự cân
đối được trên cơ sở khai thác tại chỗ.
* Nghiệp vụ huy động vốn khác: thông qua nghiệp vụ Ngân hàng
thương mại có thể tạo vốn cho mình thông qua việc nhận làm đại lý hay ủy
thác vốn cho các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước.
6.2. Nghiệp vụ sử dụng vốn.
Ngân hàng là một tổ chức tài chính trung gian "đi vay để cho vay". Do
vậy mối quan tâm hàng đầu của Ngân hàng sau khi đã huy động được một
lượng vốn là làm sao sử dụng nguồn vốn mà không bị rơi vào tình trạng kẹt
vốn. Ngân hàng cần phải nghiên cứu và đưa ra chiến lược sử dụng vốn của
mình.
* Một là, Ngân hàng tiến hành cho vay.
Cho vay là một hoạt động quan trọng bậc nhất của Ngân hàng thương
mại. theo thống kê, khoảng 60 - 70% thu nhập của Ngân hàng là từ các hoạt
động cho vay. Thành công hay thất bại của một Ngân hàng tuy thuộc chủ yếu
vào thực hiện, kế hoạch tín dụng và thành công của tín dụng xuất phát từ
chính sách cho vay của Ngân hàng. Các loại cho vay có thể phân loại bằng
nhiều cách, bao gồm: mục đích, hình thức bảo đảm, kỳ hạn, nguồn gốc và
phương pháp hoàn trả...
* Hai là tiến hành đầu tư.
Đi đôi với sự phát triển của xã hội là sự xuất hiện hàng loạt những nhu
cầu khác nhau. Với tư cách là chủ thể hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ, đòi
hỏi Ngân hàng phỉa luôn nắm baét được thông tin, đa dạng các nghiệp vụ đẻ
cung cấp đầy đủ kịp thời nguồn vốn cho nền kinh tế. Ngoài hình thức phổ
biến là cho vay, Ngân hàng còn sử dụng vốn để đầu tư. Có hai hình thức chủ
yếu mà các Ngân hàng thương mại có thể tiến hành là:
- Đầu tư vào mua bán kinh doanh các chứng khoán hoặc đầu tư góp
vốn vào các doanh nghiệp, các Công ty khác.
- Đầu tư vào trang thiết bị TSCĐ phục vụ cho hoạt động kinh doanh
của Ngân hàng.
* Ba là nghiệp vụ ngân quỹ.
Lợi nhuận luôn là mục tiêu cuối cùng mà các chủ thể khi tham gia tiến
hành sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, đằng sau mục tiêu lớn lao ấy là hàng
loạt các nhân tố cần quan tâm. Một trong những nhân tố ấy là tính an toàn.
Nghề Ngân hàng là một nghề kinh doanh đầy mạo hiểm, trong hoạt động của
mình Ngân hàng không thể bỏ qua sự "an toàn". Vì vậy, ngoài việc cho vay
và đầu tư để thu được lợi nhuận, Ngân hàng còn phải sử dụng một phần
nguồn vốn huy động được để đảm bảo an toàn về khả năng thanh toán về thực
hiện các quy định về dự trữ bắt buộc do Ngân hàng Trung Ương đề ra.
6.3. Nghiệp vụ khác.
Là trung gian tài chính Ngân hàng có rất nhiều lợi thế. Một trong
những lợi thế đó là Ngân hàng đóng vai trò trung gian thanh toán cho khách
hàng thông qua các hình thức như séc, thẻ thanh toán ủy nhiệm thu, ủy nhiệm
chi, thẻ tín dụng hoặc dựa trên việc hạch toán vào các tài khoản có liên quan
đến đối tượng đó.
Cụ thể:
a. Dịch vụ thanh toán bộ: Trên cơ sở khách hàng gửi tiền và mở tài
khoản giao dịch tại Ngân hàng, Ngân hàng có thể đứng ra thanh toán hộ cho
khách hàng của mình về các khoản tiền mua bán, dịch vụ thông qua việc thu
hộ, chi hộ khách hàng của mình bằng các hình thức trên.
b. Dịch vụ môi giới: mua, bán chứng khoán cho khách hàng và làm đại
lý phát hành chứng khoán cho Công ty.
c. Các nghiệp vụ trung gian khác: dịch vụ ủy thác, bảo quản hộ các
chứng từ có giá cho khách hàng thuê két sắt. Ngoài ra Ngân hàng còn thực
hiện một số dịch vụ trung gian khác.
Tóm lại, ba nghiệp vụ trên nếu thực hiện tốt sẽ đảm bảo cho Ngân hàng
tồn tại và phát triển vững mạnh trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay
gắt. Vì các nghiệp vụ trên có mối liên hệ chặt chẽ thường xuyên tác động qua
lại với nhau. Nguồn vốn huy động ảnh hưởng tới quyết định sử dụng vốn,
ngược lại nhu cầu sử dụng vốn ảnh hưởng tới quy mô, cơ cấu của nguồn vốn
huy động. Các nghiệp vụ trung gian tạo thêm thu nhập cho Ngân hàng nhưng
mục đích chính là thu hút khách hàng qua đó tạo điều kiện cho việc huy động
và sử dụng vốn co hiệu quả.
II. LÝ LUẬN CƠ BẢN CHỨC NĂNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG
Ngân hàng là con đẻ, là sản phẩm tất yếu khách quan của nền kinh tế
hàng hoá. Khi ra đời Ngân hàng lại thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển.
Do đó, đối với hình thái kinh tế nào, đặc biệt là nền kinh tế thị trường, hoạt
động ngân hàng là không thể thiếu được nó giử vai trò đặc biệt quan trọng
trong nền kinh tế.
Do vậy muốn phát triển nền kinh tế thị trường thì đIều đầu tiên là phát
triển hoạt động ngân hàng.
Nếu coi cơ chế thị trường là cơ thể sống thì ngân hàng là huyết mạch
của cơ thể sống đó.
Lật lại lịch sử phát triển, chúng ta có thể thấy, sự ra đời và phát triển
của hệ thống Ngân hàng gắn với tư bản hoá tiền tệ, mà tiền thân của nó là tư
bản cho vay nặng lải đã từng tồn tại trong thời kì phân rả của chế độ nguyên
thuỷ. Sự phát triển mạnh của quan hệ hàng hóa-tiền tệ đã đòi hỏi khách quan
sự ra đời của các tổ chức và họat động Ngân hàng . Lúc này tư bản tiền tệ
nhàn rổi đã bắt đầu xuất hiện phục vụ tư bản công nghiệp với lải suất thấp.
Như vậy, tư bản công nghiệp đã trả một phần lợi thu được cho người
cho vay do việc sử dụng vốn vay vào sản xuất dưới hình thức lợi tức. Cơ chế
phân chia lợi tức và lợi nhuận lúc đàu kinh doanh là ngẩu nhiên, nhưng khi tư
bản hoạt động và tư bản sở hửu được phân định rỏ ràng thì cơ chế phân chia
được đIều chỉnh, một nhóm tư bản nhận lợi tức và bên kia nhận lợi nhuận. Sự
phát triển trong quan hệ hàng-tiền trong công nghiệp tạo điều kiện cho phát
triển Ngân hàng, tư bản trong thương nghiệp. Tư bản trong thương nghiệp là
tiền thân của tư bản có khả năng đem lại lải xuất. Tuy buôn bán tiền tệ là chức
năng chủ yếu, các chức năng khác của ngân hàng được bổ sung dầnvới sự
phát triển của quan hệ hàng-tiền và của nền kinh tế hàng hoá.
Theo Mác, các bộ phận cấu thành tư bản Ngân hàng bao gồm: vàng,
giấy bạc và các chứng khoán. Đến lược mình ngân hàng lại phân thành vốn tự
có và vốn đi vay. Chính vì lí do đó mà có thể kết luận rằng tiền gửi là yếu tố
cấu thành nghiệp vụ tín dụng-ngân hàng. Các thành phần của nền tảng trên
bao gồm:
- Vốn nhàn rổi
- Các loại quỉ được huy động
- Thanh toán trung gian cho khách hàng trên tài khoản
- Vốn tự có của ngân hàng
Hoạt động huy động vốn từ tiền của công chúng là đặc trưng cơ bản
nhất của hoạt động Ngân hàng, là tiêu thức để đánh giá và phân biệt Ngân
hàngvới các tổ chức tài chính khác. Do đặc trưng này mà chức năng cơ bản
của Ngân hàng là đi vay và cho vay. Vì thế vốn huy động chiếm tỷ lệ cao
trong tổng số vốn hoạt động của Ngân hàng. Như vậy vốn tự có của Ngân
hàng sẻ ít hơn rất nhiều so với vốn huy động nhưng nó rất quan trọng.
Ngân hàng ra đời thúc đẩy nền kinh tế phát triển, với chức năng huy
động vốn, Ngân hàng thực hiện chức năng phân phối và tái phân phối vốn,
tiền tệ xã hội, tác động chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trong nền kinh tế hàng
hoá nhất là trong nền cơ chế thị trường mọi hàng hoá đều được biểu thị bằng
giá cả thông qua tiền tệ. Vốn huy động và vốn cho vay của Ngân hàng cũng là
một loại hàng hoá. Nó cũng được biểu hiện bằng tiền và giá cả trong quá trình
sử dụng vốn. Giá cả đó chính là lải suát tiền vay mà Ngân hàng phải trả cho
người cho vay và đòi lại ở người vay vốn từ Ngân hàng. Chúng ta biết rằng,
việc phân chia lợi nhuận thành lợi nhuận thương nghiệp, lợi nhuận công
nghiệp và lải xuất là quá trình phân phối lại lợi nhuận xã hội đối với người
trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất.
Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường, khái niệm " tiền đẻ ra tiền " được
xem như là một qui luật. Chính vì vậy, nhờ qui luật này mà nó tác động vào
những người có vốn nhàn rổi muốn có khoản thu tiền lớn hơn (thu nhập từ
tiền nhàn rổi của mình) sẻ đem đàu tư trực tiếp vào quá trình sản xuất, kinh
doanh hoặc gửi tiền tiết kiệm vào Ngân hàng, để sau một khoảng thời gian
nhất định thu dược một số lợi tức nào đó. Đây là cơ sở và nguồn gốc để các
Ngân hàng thực hiện được các chức năng cơ bản của mình, đó là huy động
vốn nhàn rổi từ các lớp dân cư và các tổ chức trong nền kinh tế. Qua đó Ngân
hàng đã thực hiện được vai trò rất quan trọng của mình với tư cách là một
trung gian tài chính, góp phần vào quá trình chu chuyển vốn nằm rải rác trong
dân cư để trở thành khoản vốn lớn mà nhu cầu đầu tư trong nền kinh tế đòi
hỏi.
Tính tất yếu của Ngân hàng trong vai trò trung gian tài chính được thể
hiện theo chu kì khép kín:
Huy động vốn- Trung gian tài chính-Sử dụng vốn.
Trong đó Ngân hàng đóng vai trò chủ yếu trong mối quan hệ ràng buộc
giữa người vay tiền, người gửi tiền và Ngân hàng. Đồng thời, Ngân hàng còn
có ý nghĩa quyết định việc kích thích tăng trưởng nguồn vốn huy động vào
Ngân hàng thông qua giải quyết tốt mối quan hệ và quyền lợi của cả ba bên
III. MỘT SỐ HÌNH THỨC HUY ĐỘNG VỐN
1.Tiền gửi có thể phát séc
Đây là những tài khoản ở một ngân hàng, người sở hữu chúng có quyền
được phát séc cho những người thuộc bên thứ 3. Các khoản tiền gửi có thể
phát séc gồm tất cả các tài khoản sau : tài khoản séc không có lãi (tiền gửi
không kỳ hạn), các tài khoản NOW có lãi (NOW-negotiable order of
withdrawal-lệnh thu hồi có thể mua bán ), các tài khoản super-NOW, và các
tài khoản tiền gửi thị trường tiền tệ (MMDA). Tiền gửi có thể phát séc là
nguồn vốn quan trọng của ngân hàng.
Tiền gửi có thể phát séc là tiền gửi có thể được thanh toán theo yêu
cầu; tức là , nếu người gửi tới ngân hàng gửi vừa đòi thanh toán bằng cách
viết ra một giấy rút tiền, ngân hàng đó sẽ thanh toán cho khách hàng đó ngay
lập tức. Tương tự, nếu một người nhận được một tấm séc phát theo một tài
khoản ở một ngân hàng, khi ngân hàng đó nhận được tấm séc này, ngân hàng
đó phải chuyển ngay lập tức số tiền ấy vào tài khoản của người đó.
Tiền gửi có thể phát séc là một tài sản có đối với người gửi nó, bởi vì
nó là một phần của cải của người gửi nó. Ngược lại, bởi vì người gửi tiền này
là có thể rút vốn khỏi tài khoản của ông ta, vốn đó ngân hàng có nghiã vụ
thanh toán, do đó các tiền gửi có thể phát séc là một tài sản nợ của ngân
Người gửi
tiền
Người vay
tiền
Ngân h ngà