Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

LỰA CHỌN nội DUNG và PHƯƠNG PHÁP ôn tập CHO học SINH GIỎI QUỐC GIA KHI GIẢNG dạy CHUYÊN đề QUAN hệ QUỐC tế GIỮA HAI CUỘC CHIẾN TRANH THẾ GIỚI ( 1919 1939)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (747.48 KB, 27 trang )

CHUYÊN ĐỀ:
LỰA CHỌN NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP ÔN TẬP CHO HỌC SINH GIỎI QUỐC GIA
KHI GIẢNG DẠY CHUYÊN ĐỀ QUAN HỆ QUỐC TẾ GIỮA HAI CUỘC CHIẾN TRANH
THẾ GIỚI ( 1919-1939)


MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU
B. PHẦN NỘI DUNG
PHẦN 1: KHÁI QUÁT NỘI DUNG VỀ QUAN HỆ QUỐC TẾ TỪ 1919
ĐẾN 1939
I. QUAN HỆ QUỐC TẾ TRONG GIAI ĐOẠN (1919 – 1939)
1. Hệ thống hoà ước Vecxai – Oasinhtơn
2. Quan hệ quốc tế trong những năm 1919 – 1929.
3. Quan hệ quốc tế dẫn tới chiến tranh thế giới thứ hai 1929 – 1939.
3.1. Sự hình thành ba lò lửa chiến tranh thế giới và phe trục
3.2 Thái độ của Liên Xô, Anh, Pháp, Mĩ đối với phe phát xít.
3.3. Quốc tế cộng sản ra đời và Mặt trận nhân dân chống Phát xít.
PHẦN 2: PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY VÀ MỘT SỐ DẠNG CÂU HỎI ÔN
TẬP QUAN HỆ QUỐC TẾ (1919 – 1939)
C. PHẦN KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO


A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Thực hiện đường lối Đổi mới của Đảng, quan hệ đối ngoại của nước ta
ngày càng rộng mở theo phương châm đa phương hóa, đa dạng hóa trên tinh
thần Việt Nam muốn là bạn là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng
đồng quốc tế phấn đấu vì hòa bình, hợp tác và phát triển. Để đạt được những
thành tựu ngày càng lớn trong tiến trình hội nhập quốc tế, việc hiểu biết về


lịch sử quan hệ quốc tế là điều vô cùng cần thiết. Trong chương trình lịch sử
THPT, SGK cũng chỉ đề cập tới dưới dạng là trình bày các sự kiện lịch sử
thế giới chứ chưa viết thành từng chuyên đề giảng dạy sâu, chưa xứng với
tầm quan trọng của vấn đề này.
Trong những năm gần đây, vấn đề học và dạy môn Lịch sử tại các
trường THPT chuyên trên cả nước ngày càng được chú trọng đầu tư dạy và
học do vậy nội dung Quan hệ quốc tế cũng được các thầy cô chú tâm nghiên
cứu để giảng dạy cho các lớp chuyên Sử.
Chuyên đề Quan hệ quốc tế giữa hai cuộc chiến tranh thế giới là
một nội dung quan trọng nhằm cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ
bản về lịch sử quan hệ quốc tế nói chung và quan hệ quốc tế trong giai đoạn
từ năm 1919 đến năm 1939; về mối quan hệ giữa các quốc gia, những biến
động lớn trong quan hệ quốc tế giai đoạn đó từ đó dẫn tới chiến tranh thế
giới thứ hai như thế nào.... Nội dung chuyên đề đảm bảo chuẩn kiến chức và
chuẩn kiến thức kĩ năng của môn học, vừa đảm bảo những tri thức về lịch
sử, vừa gợi mở những suy nghĩ về hiện tại và tương lai; vừa mang tính lí
thuyết, vừa có ý nghĩa thực tiễn đối với sự hội nhập quốc tế của đất nước.
Hệ thống các câu hỏi liên quan mật thiết với kiến thức cơ bản, mang tính
thực tế cao và được trả lời một cách khoa học, logic...
Mặt khác, chuyên đề này càng có ý nghĩa quan trọng hơn, quyết
định đến chất lượng thi HSGQG môn Lịch sử: hàng năm nội dung liên quan
tới Quan hệ quốc tế được vận dụng nhiều trong các đề thi HSGQG như năm
2005, 2006, 2009, 2010, 2011, 2013.


Tuy nhiên, trong sách giáo khoa Lịch sử lớp 11 (chương trình nâng
cao) các nhà nghiên cứu, biên soạn không đưa phần Quan hệ quốc tế từ năm
1919 – 1939 vào chương trình dạy thành một bài, một chương hoặc chuyên
đề cụ thể mà nội dung Quan hệ quốc tế nằm xen lẫn trong các mục nhỏ, các
bài, ở các chương. Vì vậy, trong quá trình học ở lớp 11 học sinh chưa có

khái niệm mang tính hệ thống về lịch sử quan hệ quốc tế xuyên suốt, phạm
vi kiến thức rộng, nhiều sự kiện chồng chéo có liên quan mật thiết với
nhau... Do đó, khi giảng dạy ở lớp chuyên Sử và bồi dưỡng HSG QG giáo
viên chúng tôi vẫn phải tổng hợp kiến thức của chương trình nâng cao.
Xuất phát từ những ly do trên, tôi đã lựa chọn đề tài: “Lựa chọn nội
dung và phương pháp ôn tập cho học sinh giỏi quốc gia khi giảng dạy
chuyên đề Quan hệ quốc tế giữa hai cuộc chiến tranh thế giới 1919-1939”.
2. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI
Chuyên đề giúp giáo viên và học sinh chuyên có kiến thức sâu sắc
và nhận thức đầy đủ hơn về các giai đoạn lịch sử Quan hệ quốc tế; biết tổng
hợp, phân tích, đánh giá và liên hệ so sánh...
Các nội dung trong đề tài này cung cấp cho học sinh một số thông
tin cập nhật về nội dung và phương pháp ôn tập, các giải pháp mang hiệu
quả, tính thực tiễn, tính khả thi cao trong hoạt động giáo dục và đào tạo, có
khả năng áp dụng ở nhiều đối tượng, nhiều nơi...đã được kiểm chứng qua
thực tiễn giảng dạy, ôn tập và bồi dưỡng HSGQG.
Từ những mục đích trên, nội dung chuyên đề: “Lựa chọn nội dung và
phương pháp ôn tập cho học sinh giỏi quốc gia khi giảng dạy chuyên đề
Quan hệ quốc tế giữa hai cuộc chiến tranh thế giới 1919-1939” tập trung vào
các chủ đề sau:
Phần 1: Nội dung Quan hệ quốc tế từ 1919 – 1939
Phần 2: Phương pháp giảng dạy và một số dạng câu hỏi ôn tập Quan hệ quốc
tế (1919 – 1939)


Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song Quan hệ quốc tế (19191939) là một vấn đề khó nên chuyên đề nhỏ này của tôi không thể tránh khỏi
những thiếu xót và cần bổ sung thêm. Tôi rất mong nhận được những bổ
sung góp ý của các đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!



B. PHẦN NỘI DUNG
I. QUAN HỆ QUỐC TẾ TRONG GIAI ĐOẠN 1919 – 1939
1. Hệ thống hoà ước Vecxai – Oasinhtơn
Sau khi chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, các nước thắng trận đã
họp hội nghị hoà bình ở Vécxai (ngoại ô thủ đô Pari của Pháp) để phân chia
lại thế giới và thiết lập một trật tự hoà bình, an ninh mới sau chiến tranh. Hội
nghị khai mạc ngày 18/1/1919 và kéo dài suốt năm sau. Hội nghị được tiến
hành trong bối cảnh thế giới có nhiều biến chuyển to lớn.
Thứ nhất, thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Mười Nga năm 1917
đã chọc thủng khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền của chủ nghĩa đế quốc,
chiếm 1/6 diện tích trái đất. “Chủ nghĩa tư bản không còn là 1 một hệ thống
duy nhất trên thế giới nữa và một nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế
giới đã xuất hiện. Cuộc cách mạng tháng Mười đã ảnh hưởng sâu sắc đến
cục diện toàn thế giới, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của phong trào cách
mạng thế giới và đe doạ sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Vấn đề được đặt ra
đối với giới cầm quyền các nước tư bản là làm sao tiêu diệt được nước Nga
Xô viết để duy trì sự ổn định của chủ nghĩa tư bản” [1; .66]
Thứ hai, do hậu quả của cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất và ảnh
hưởng sâu sắc của cuộc cách mạng tháng Mười Nga, một cao trào cách
mạng đã bùng nổ và phát triển mạnh mẽ trong những năm 1918 – 1923 ở
hầu hết các nước tư bản lẫn các nước thuộc địa, phụ thuộc. Cũng vì thế mục
tiêu của giới cầm quyền các nước tư bản khi tham gia hội nghị đều có 1
điểm chung là tìm cách đàn áp và chống lại cao trào cách mạng thế giới.
Thứ ba, chiến tranh đã tàn phá nghiêm trọng các nước tham chiến ở
châu Âu và làm thay đổi căn bản tương quan so sánh lực lượng giữa các
nước tư bản sau chiến tranh: ba nước đế quốc lớn Đức, Áo – Hung và Thổ


Nhĩ Kì bị bại trận và suy sụp tan rã; các nước thắng trận Anh, Pháp, Ytalia,

Nhật Bản cũng bị suy yếu nghiêm trọng; riêng nước Mĩ vì tham gia chiến
tranh muộn, thu về 24 tỉ đô la trong việc buôn bán vũ khí nên đã vươn lên
hàng đầu về kinh tế, tài chính và cũng có 1 tiềm năng quân sự đáng kể, vì
thế trong hội nghị Vécxai, Mĩ là nước có tiếng nói quan trọng nhất, là chủ nợ
của các nước châu Âu.
Tham dự hội nghị gồm đại biểu của 27 nước thắng trận nhưng thực sự
nắm quyền quyết định hội nghị là 3 cường quốc Mĩ, Anh, Pháp. Các cường
quốc thắng trận đều có những ý đồ và tham vọng hết sức khác nhau trong
việc phân chia, thiết lập một trật tự thế giới sau chiến tranh, do đó hội nghị
Vecxai đã diễn ra hết sức gay go quyết liệt. Mĩ là nước thu nhiều lợi nhuận
nhất trong chiến tranh thế giới I và sau chiến tranh Mĩ trở nên phát triển
mạnh mẽ nhất, do vậy Mĩ muốn xác lập địa vị bá chủ thế giới bằng chương
trình 14 điểm của tổng thống Mĩ Uynxơn gửi cho Hội nghị Vecxai, trước khi
Hội nghị Vécxai diễn ra. Do vậy các bên tham chiến đã nhận đình chiến theo
chủ trương của Mĩ và chương trình 14 điểm của Uynxơn được coi là nguyên
tắc để thảo luận tại hội nghị Vécxai. Pháp lúc bấy giờ có lực lượng lục quân
mạnh nhất châu Âu, muốn làm suy yếu lâu dài nước Đức để làm bá chủ châu
Âu lục địa. Anh thì thi hành chính sách “cân bằng lực lượng”. Lập trường
của Anh muốn làm suy yếu Đức về mặt hải quân, thủ tiêu hệ thống thuộc địa
của Đức, đồng thời duy trì 1 nước Đức tương đối mạnh ở trung tâm châu Âu
để chống lại âm mưu làm bá chủ lục địa của Pháp. Chính sách này của Anh
được Mĩ ủng hộ. Nhật Bản muốn củng cố địa vị ở Trung Quốc, mở rộng thế
lực của mình ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Italia muốn mở rộng
lãnh thổ của mình xuống vùng Địa Trung Hải và vùng Ban Căng …. Tóm lại
các nước chiến thắng đều tuỳ theo lực lượng và yêu cầu của mình muốn tổ
chức lại thế giới sao cho phù hợp với quyền lợi của mình nhất, nhằm giành


lấy những lợi lộc béo bở nhất. Lênin đã bình luận 1 cách châm biếm về hội
nghị Vecxai : “Chúng đã cãi cọ nhau từ 5 tháng nay, chúng không còn kìm

chế được mình và bầy thú dữ đó cắn cấu nhau loạn xạ đến nỗi chỉ còn lại
cái đuôi” [2; 303].
Sau 3 lần có nguy cơ tan vỡ vì tranh cãi bất đồng, cuối cùng các
cường quốc thắng trận đã cố gắng tìm cách thoả hiệp với nhau và các văn
kiện của Hội nghị Vecxai trước sau đều được kí kết với những nội dung
chính sau.
*Hội quốc liên
Quy ước thành lập Hội quốc liên nêu rằng mục đích thành lập tổ chức này là
nhằm: phát triển sự hợp tác, đảm bảo hoà bình và an ninh cho các dân tộc và
để thực hiện mục đích cao cả đó người ta đã đề ra 1 số nguyên tắc như
không dùng chiến tranh trong quan hệ giữa các nước, quan hệ quốc tế phải
rành mạch và dựa trên đạo lí, phải thi hành những cam kết quốc tế …. Như
vậy Hội quốc liên được thành lập trước hết nhằm giữ gìn trật tự của thế giới
tư bản chủ nghĩa do các đế quốc chiến thắng sắp xếp lại trong Hội nghị
Vecxai, là kết quả của sự dung hoà các mâu thuẫn trong phe đế quốc chủ
nghĩa về việc phân chia lại thế giới sau chiến tranh. Tóm lại Hội Quốc liên
chỉ tồn tại về mặt hình thức còn hiệu quả hoạt động của nó rất hạn chế.
*Hoà ước Vec – xai với Đức.
Đức là nước lớn nhất trong phe Liên minh, thủ phạm chính gây ra chiến
tranh thế giới lần 1 nên hoà ước kí kết với Đức có vai trò đặc biệt quan
trọng. Theo Hoà ước Vécxai về Đức, Hoà ước này xác định sự thất bại của
Đức trong chiến tranh thế giới thứ nhất, gồm các điều khoản chủ yếu về lãnh
thổ, về đảm bảo an ninh và bồi thường chiến tranh. Theo Hoà ước Vecxai,
nước Đức mất 1/8 đất đai, gần 1/2 dân số, 1/3 mỏ sắt, gần 1/3 mỏ than, 2/5
sản lượng gang, gần 1/3 sản lượng thép và gần 1/7 diện tích trồng trọt. Đây


là những thiệt hại quá sức chịu đựng của nước Đức. Lênin nói: “Nó đặt
nước Đức vào cảnh nô lệ mà người ta chưa từng nghe thấy, chưa từng trông
thấy”

*Những hoà ước khác:
Ngoài hoà ước Vecxai kí với Đức, những hoà ước khác cũng lần lượt được
kí kết với các nước Đồng minh của Đức trong 2 năm 1919 – 1920, đó là hoà
ước Xanh Giécmanh kí với Áo, hoà ước Nơiy kí với Bungari, Hoà ước
Trianông kí với Hunggari và hoà ước Xevrơ kí với Thổ Nhĩ Kì. Nội dung
chung của các hoà ước đó là các nước Đồng minh của Đức phải bồi thường
chiến phí, bị tước bỏ thuộc địa, và phải bồi thường 1 phần lãnh thổ hoặc chia
cắt quốc gia.
Chúng ta thấy rằng những hoà ước mà các nước thắng trận buộc các
nước bại trận kí kết đều mang tính chất nô dịch. Lênin đã bình luận: “Đấy là
một thứ hoà ước kì quái, một thứ hoà ước ăn cướp, nó đẩy hàng chục triệu
con người, trong đó có những người văn minh nhất, rơi vào tình cảnh bị nô
dịch. Đấy không phải là 1 hoà ước, đấy là những điều kiện mà bọn ăn cướp
tay cầm dao, buộc một nạn nhân không có gì tự vệ phải chấp nhận….” [3;
396]
Hội nghị Vecxai kết thúc, hệ thống hoà ước Vecxai được kí kết nhưng
cả 2 phe chiến thắng lẫn chiến bại đều không thoả mãn, đặc biệt là Mĩ. Mĩ
không công nhận sự phân chia thế giới mới được quy định trong hệ thống
hoà ước Vecxai và Mĩ muốn mở 1 hội nghị riêng rẽ để quy định lại các điều
khoản theo hướng có lợi cho mình. Tháng 11/1921, Mĩ mời 8 nước là Anh,
Pháp, Italia, Bỉ, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Nhật Bản, Trung Quốc họp hội nghị ở
Oasinhtơn. Những nghị quyết quan trọng nhất của hội nghị Oasinhtơn được
thể hiện trong 3 bản hiệp ước quan trọng nhất.


Thứ nhất, hiệp ước 4 nước kí ngày 3/12/1921 gồm Mĩ, Anh, Nhật,
Pháp với tên gọi: “Hiệp ước cùng đảm bảo không xâm phạm đến các đảo
thuộc địa ở Thái Bình Dương”.
Thứ hai, Hiệp ước 9 nước, kí ngày 6/2/1922 công nhận nguyên tắc
“hoàn chỉnh về lãnh thổ và tôn trọng chủ quyền của Trung Quốc”, đồng thời

cũng nêu nguyên tắc mở rộng cửa Trung Quốc cho các nước tư bản vào
buôn bán trên cơ sở bình đẳng.
Thứ ba, cũng trong ngày 6/2/1922, 5 cường quốc tư bản chủ nghĩa là
Mĩ, Anh, Nhật, Pháp, Ytalia kí với nhau bản hiệp ước gọi là “Hiệp ước hạn
chế vũ trang và hải quân” nhằm quy định tỉ lệ hải quân cho mỗi nước. Theo
đó, Mĩ và Anh có tỉ lệ hải quân ngang nhau, tiếp đó là Nhật rồi Pháp và
Italia.
Hội nghị Oasinhtơn hoàn toàn có lợi cho Mĩ. Trước áp lực của Mĩ,
Nhật phải từ bỏ 1 phần ưu thế khá lớn đã giành được trong chiến tranh thế
giới thứ nhất ở Trung Quốc. Anh phải nhượng bộ Mĩ, nhận quyền bình đẳng
về hải quân và huỷ bỏ Liên minh Anh Nhật ( nhằm chống lại Mĩ). Như thế
Mĩ nắm được thị trường viễn Đông và Trung Quốc, nâng cao địa vị hải quân
của mình lên hàng đầu thế giới trước sự lùi bước tạm thời của các đế quốc
khác nhất là Nhật.
Như vậy trong những năm 1919 – 1922, trên cơ sở của hiệp ước
Vecxai và hoà ước Oasinhtơn, đã hình thành nên một trật tự thế giới mới
theo những điều khoản của hệ thống hoà ước Vecxai – Oasinhtơn. Tuy
nhiên, hệ thống hoà ước này không những không xoá bỏ được những mâu
thuẫn giữa các nước tư bản trước khi chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra mà
còn làm nảy sinh thêm những mâu thuẫn bất đồng mới. Đó là mâu thuẫn
giữa các nước thoả mãn với các nước không thoả mãn với hệ thống hoà ước
này. Các nước thắng trận trước hết là Anh, Pháp, Mĩ, Ytalia, Nhật Bản giành


được nhiều quyền lợi về kinh tế và xác lập sự áp đặt nô dịch với các nước
bại trận. Các nước bại trận đặc biệt là Đức do bị thiệt hại và nô dịch quá
nặng nề trở nên bất mãn với hệ thống hoà ước này và nuôi dưỡng âm mưu
phục thù, xoá bỏ hoà ước. Ngay trong các nước thắng trận cũng xuất hiện
những mâu thuẫn giữa các nước với nhau do bất đồng về quyền lợi. Nhật
Bản và Ytalia, tuy là nước thắng trận nhưng cảm thấy không thoả mãn với

những gì giành được sau khi chiến tranh kết thúc như lời hứa hẹn của Anh,
Pháp, Mĩ. Nhật Bản thì bị thu hẹp quyền lợi ở Trung Quốc, châu Á Thái
Bình Dương; còn Ytalia không thực hiện được tham vọng kiểm soát vùng
Địa Trung Hải và khu vực Ban Căng, khôi phục được 1 đế quốc La Mã như
trước kia. Do vậy Nhật Bản và Ytalia muốn xoá bỏ hoà ước này và nuôi
dưỡng âm mưu phát động chiến tranh chia lại thế giới.
Mặc dù mâu thuẫn gay gắt với nhau, nhưng tất cả các nước đế quốc
đều thống nhất trong việc tiêu diệt nước Nga Xô Viết (từ 1922 là Liên Xô),
vì cho rằng Liên Xô là 1 mối hiểm hoạ, đe doạ đến sự tồn vong của chủ
nghĩa đế quốc. Mặc dù không phải là một nội dung của hoà ước VecxaiOasintơn nhưng vấn đề Liên Xô cũng là 1 yếu tố quan trọng chi phối đến
quan hệ quốc tế trong những năm giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1919 –
1939).
Tóm lại, hệ thống hoà ước Vecxai-Oasinhtơn, không đảm bảo hoà
bình cho các dân tộc và thế giới, mà trái lại làm sâu sắc thêm những mâu
thuẫn của chủ nghĩa đế quốc. Nguyên soái Phốc, nguyên tổng tư lệnh quân
đội Đồng minh ở châu Âu đã nói: “Đây không phải là hoà bình. Đây là một
cuộc hưu chiến trong 20 năm”. Những mâu thuẫn của chủ nghĩa đế quốc sau
chiến tranh thế giới I vẫn đang cháy âm ỉ và chỉ trở cơ hội là bùng cháy.
2. Quan hệ quốc tế trong những năm 1919 – 1929.


Trong mười năm đầu sau chiến tranh thế giới thứ nhất, chủ nghĩa tư
bản phát triển qua hai thời kì:
Thời kì thứ nhất (1919 – 1923): Là thời kì khủng hoảng về kinh tế, bất
ổn về chính trị. Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, do hậu quả của chiến tranh
tất cả các nước tư bản dù là thắng trận hay bại trận ( trừ Mĩ) đều lâm vào
tình trạng khó khăn về kinh tế, và bất ổn về chính trị do phong trào công
nhân trong nước và phong trào giải phóng dân tộc ở các thuộc địa dâng cao.
Chính quyền các nước tư bản đều rất lao đao, tốn nhiều công sức để đối phó
với tình trạng trên, tình thế cách mạng đã xuất hiện ở nhiều nước tư bản

(Anh, Pháp), ở Đức đã thiết lập được nền cộng hoà Vai-ma. Tuy nhiên cuối
cùng chính quyền các nước tư bản cũng giải quyết được khủng hoảng về
kinh tế, đàn áp phong trào cách mạng để đưa đất nước phát triển ổn định
trong giai đoạn sau.
Thời kì (1924-1929): Là thời kì các nước tư bản bước vào thời kì ổn
định về chính trị và đạt mức tăng trưởng cao về kinh tế. Tuy nhiên sự phát
triển kinh tế diễn ra không đồng đều giữa các nước tư bản.
3. Quan hệ quốc tế dẫn tới chiến tranh thế giới thứ hai 1929 – 1939.
Cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới (1929-1933) bùng nổ đã chấm
dứt thời kì ổn định của chủ nghĩa tư bản cùng với ảo tưởng về 1 kỉ nguyên
hoà bình của thế giới. Cuộc khủng hoảng bắt đầu từ nước Mĩ đã nhanh
chóng tràn sang châu Âu, bao trùm toàn bộ thế giới tư bản chủ nghĩa, để lại
những hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, chính trị, xã hội, đặt chủ nghĩa tư
bản trước ngưỡng cửa của sự suy vong nếu không có những điều chỉnh hợp
lí. Những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản vốn đã tồn tại trước đó nay trở
nên cực kì gay gắt.
Trong bối cảnh đó đã hình thành những xu hướng khác biệt nhau
trong việc tìm kiếm con đường phát triển để giải quyết hậu quả của cuộc


khủng hoảng giữa các nước TBCN. Các nước không có, hoặc có ít thuộc địa
gặp nhiều khó khăn về vốn, nguyên liệu và thị trường đã đi theo con đường
phát xít hoá chế độ chính trị, thiết lập nền chuyên chính khủng bố công khai
nhằm cứu vãn tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng của mình. Theo
Đimitrôp nhà lãnh đạo phong trào cộng sản và phong trào công nhân
Bungari và Quốc tế cộng sản thì chủ nghĩa phát xít là “nền chuyên chính
khủng bố công khai của những phần tử phản động nhất, sô vanh nhất, đế
quốc chủ nghĩa nhất của tư bản tài chính”. Nó thay thế chế độ dân chủ tư
sản đại nghị bằng nền thống trị độc tài tàn bạo nhất của các tập đoàn đại tư
sản. Nó hoàn toàn không phải là sự vùng dậy của giai cấp tiểu tư sản như các

đảng này tuyên truyền hòng lôi kéo đông đảo thanh niên, học sinh, sinh viên
tham gia bị biến thành lực lượng xung kích của chúng. Do vậy chủ nghĩa
phát xít không chỉ mâu thuẫn với chủ nghĩa xã hội mà đối lập với tất cả các
lực lượng đấu tranh cho hoà bình và dân chủ, chống chiến tranh đế quốc. Ba
nước Đức, Ý, Nhật điển hình cho xu hướng này. Trong những năm 1929
-1936, giới cầm quyền các nước nói trên đã từng bước phá vỡ những điều
khoản chủ yếu của hệ thống Vecxai-Oasinhtơn và tích cực chuẩn bị cuộc
chiến tranh để phân chia lại thế giới. Trong khi đó các nước Mĩ, Anh, Pháp
tìm cách thoát ra khỏi khủng hoảng bằng những cải cách kinh tế, xã hội, duy
trì nền dân chủ tư sản đại nghị, đồng thời chủ trương duy trì nguyên trạng hệ
thống Vecxai – Oasinhtơn. Quan hệ giữa các cường quốc tư bản trong thập
niên 30 chuyển biến ngày càng phức tạp. Sự hình thành 2 khối đế quốc đối
lập: một bên là khối phát xít Đức, Ý, Nhật với một bên là khối các nước tư
bản dân chủ Mĩ, Anh, Pháp và cuộc chạy đua vũ trang giữa hai khối đã phá
vỡ hệ thống thoả hiệp Vecxai-Oasinhtơn, dẫn tới sự hình thành các lò lửa
chiến tranh, báo hiệu nguy cơ bùng nổ một cuộc chiến tranh thế giới mới.
3.1. Sự hình thành ba lò lửa chiến tranh thế giới và phe trục


a. Lò lửa chiến tranh ở Nhật.
Nhật Bản là nước đầu tiên có tham vọng phá vỡ hệ thống V-O bằng
sức mạnh quân sự. Từ năm 1927, thủ tướng Nhật Tanaca đã vạch 1 kế hoạch
chiến tranh toàn cầu khẳng định phải dùng chiến tranh để xoá bỏ những bất
công mà mà Nhật phải chấp nhận trong các hiệp ước Oasinhtơn và đề ra kế
hoạch cụ thể xâm lược Trung Quốc, từ đó mở rộng xâm lược toàn thế giới.
Năm 1931, Nhật Bản tấn công vùng Đông Bắc Trung Quốc biến vùng này
thành thuộc địa và lập ra nhà nước “Mãn Châu độc lập” với chính phủ bù
nhìn do Phổ Nghi đứng đầu. Việc Nhật Bản xâm lược vùng Đông Bắc Trung
Quốc đã động chạm đến quyền lợi của các nước tư bản phương Tây, nhất là
Mĩ. “Tuy nhiên, Mĩ cũng như Anh, Pháp đã nhân nhượng, dung túng cho

hành động xâm lược của Nhật với tính toán rằng Nhật sẽ tiêu diệt phong
trào cách mạng ở Trung Quốc và tiến hành chiến tranh xâm lược Liên Xô”
[4; 144]. Hội Quốc Liên đã cử phái đoàn điều tra đến Trung Quốc nhưng đã
không đưa ra được 1 hình phạt nào đối với Nhật. Sau đó Nhật Bản tiếp tục
mở rộng xâm lược Trung Quốc. Để có thể tự do hành động tháng 3/1933
Nhật Bản tuyên bố rút khỏi Hội Quốc Liên. Hành động của Nhật đã phá tan
nguyên trạng ở Đông Á do hiệp ước Oasinhtơn năm 1922 quy định, đánh
dấu sự tan vỡ bước đầu của hệ thống Vécxai-Oasintơn. Từ năm 1937 Nhật
Bản bắt đầu mở rộng chiến tranh trên toàn lãnh thổ Trung Quốc.
b. Lò lửa chiến tranh ở Đức.
Do nước Đức bị thiệt hại quá nặng nề sau chiến tranh thế giới I, do
vậy lực lượng quân phiệt Đức đã nuôi chí phục thù ngay từ sau khi nước
Đức bại trận và phải chấp nhận hoà ước Vec-xai. Tháng 1/1933, Hit-le lãnh
tụ của Đảng Quốc gia Xã hội Đức nên nắm quyền tổng thống đã mở ra 1
thời kì đen tối trong lịch sử nước Đức. Về đối nội, Hit-le đã tiến hành thủ
tiêu nền dân chủ trong nước, đặt Đảng cộng sản Đức ra ngoài vòng pháp


luật, xây dựng một nước Đức theo đường lối quân sự hoá để chuẩn bị chiến
tranh xâm lược. Về đối ngoại Hit-le, thực hiện chính sách xâm lược đối với
tất cả các nước nhằm thực hiện mưu đồ bá chủ toàn cầu. Để tự do hành
động, năm 1933, Đức tuyên bố rút khỏi Hội Quốc Liên. Tháng 5/1935, Hitle công khai vi phạm hoà ước Vec-xai, công bố đạo luật cưỡng bức tòng
quân thành lập 36 sư đoàn. Không dừng lại ở đó, tháng 3/1936, Hít-le ra
lệnh tái chiếm vùng Rênani, công khai xoá bỏ hoà ước Vec-xai, tiến sát biên
giới nước Pháp. Lò lửa chiến tranh nguy hiểm nhất đã xuất hiện tại châu Âu.
c. Lò lửa chiến tranh ở Ý.
Mặc dù là nước thắng trận trong Thế chiến I, nhưng Ý không thoả
mãn với việc phân chia thế giới theo hệ thống Hoà ước Vecxai-Oasinhtơn.
Tháng 10/1922, Mutxôlini thủ lĩnh Đảng phát xít Ý lên nắm quyền thủ
tướng, đưa lịch sử nước Ý bước vào thời kì đen tối. Sau khi nắm chính

quyền, Mutxôlini tiến hành thủ tiêu mọi quyền tự do, dân chủ trong nước,
chống lại Đảng cộng sản. Để thoát ra khỏi cuộc đại khủng hoảng kinh tế
1929-1933, giới cầm quyền phát xít ở Ý chủ trương quân sự hoá nền kinh tế,
tăng cường chạy đua vũ trang và thực hiện chính sách bành trướng xâm
lược ra bên ngoài. Từ năm 1934, Mutxôlini ráo riết chuẩn bị kế hoạch xâm
lược thuộc địa, ban hành đạo luật quân sự hoá đất nước. Tháng 10/1935, Ý
chính thức tiến hành chiến tranh xâm lược Êtôpia, năm 1936 tiến hành can
thiệp chống nước cộng hoà Tây Ban Nha. Để được tự do hành động, tháng
12/1937, Ý tuyên bố rút khỏi hội Quốc Liên. Lò lửa chiến tranh thứ 2 đã
hình thành ở châu Âu.
d. Sự hình thành khối trục phát xít Đức – Ý - Nhật (11/1937)
Với sự hình thành của ba lò lửa chiến tranh ở Đức, Ý, Nhật nhân loại
đang đứng trước nguy cơ của một cuộc chiến tranh thế giới mới. Mặc dù có
những bất đồng, mâu thuẫn với nhau nhưng cả Đức, Ý Nhật đều muốn phát


động chiến tranh để chia lại thế giới xoá bỏ trật tự thế giới được thiết lập
trên cơ sở những quy định của hoà ước Vecxai-Oasinhtơn. Ngoài ra cả ba
nước này đều có chung một mục tiêu là tiêu diệt nước Liên Xô – xã hội chủ
nghĩa. Để tăng thêm sức mạnh, đảm bảo cho những thắng lợi trong tương
lai, ba nước Đức, Ý, Nhật đã quyết định xích lại gần nhau. Tháng 10/1936,
Ý đã kí với Đức bản nghị định thư đánh dấu sự hình thành trục Béclin –
Rôma. Bắt đầu từ đây, Đức và Ý tìm cách phối hợp và củng cố liên minh
trong cuộc đối đầu với Liên Xô cũng như các đối thủ khác ở châu Âu. Hai lò
lửa chiến tranh hình thành ở châu Âu bắt đầu có mối liên hệ với lò lửa chiến
tranh ở Viễn Đông. Ngày 25/11/1936, Đức và Nhật kí Hiệp ước chống Quốc
tế cộng sản, cam kết phối hợp các hoạt động chính trị đối ngoại và các biện
pháp cần thiết để chống Liên Xô và Quốc tế cộng sản, đồng thời còn nhằm
chống cả Anh, Pháp, Mĩ. Ngày 6/11/1937, Ý tham gia hiệp ước này. Sự kiện
đó đánh dấu Trục phát xít Béclin-Rôma-Tôkiô chính thức hình thành. Từ

đây quan hệ quốc tế bước vào một thời kì mới căng thẳng hơn, phức tạp hơn,
trục phát xít đã chính thức ra đời đặt nhân loại đung đưa trước miệng hố
chiến tranh. Tuy nhiên, cuộc chiến tranh đó có xảy ra hay không còn phụ
thuộc rất nhiều vào thái độ chống phát xít của Liên Xô và các nước tư bản
dân chủ Anh, Pháp, Mĩ.
3.2 Thái độ của Liên Xô, Anh, Pháp, Mĩ đối với phe phát xít.
Vào cuối những năm 30 của thế kỉ XIX, quan hệ quốc tế trở nên vô
cùng phức tạp và căng thẳng. Sự chuyển hoá mâu thuẫn giữa các cường
quốc tư bản chủ nghĩa đã dẫn tới sự hình thành hai khối đế quốc đối địch
nhau: một là khối Trục phát xít do Đức, Ý, Nhật cầm đầu; hai là khối đế
quốc do Anh, Pháp, Mĩ cầm đầu. Trong khi khối Trục ráo riết chuẩn bị kế
hoạch chiến tranh ngay từ đầu những năm 30, thì khối đế quốc Anh, Pháp,


Mĩ mới bắt đầu quá trình này vào những năm cuối của thập niên 30. Chiến
tranh thế giới ngày càng trở nên khó tránh khỏi.
Ngay sau khi phát xít hoá bộ máy chính quyền và đặc biệt sau khi đã
liên kết với nhau trong phe Trục, các nước phát xít Đức, Ý, Nhật công khai
tiến hành chiến tranh xâm lược mở rộng lãnh thổ, phá vỡ trật tự của hoà ước
Vecxai-Oasinhtơn. Trước tình hình đó, thái độ của Lên Xô và các nước tư
bản dân chủ Anh, Pháp, Mĩ hoàn toàn khác nhau. Trong khi Liên Xô kiên
quyết chống lại những hành động xâm lược, phá hoại hoà bình thế giới của
phe phát xít, kêu gọi các nước Anh, Pháp, Mĩ cùng hợp tác để thực hiện thì
các nước Anh Pháp, Mĩ lại có những hành động đi trái ngược lại với thiện
chí của Liên Xô. Các nước này không muốn hợp tác cùng Liên Xô chống
phát xít mà thi hành chính sách thoả hiệp, nhượng bộ làm ngơ trước những
hành động xâm lược của chủ nghĩa phát xít để cho các nước phát xít tự do
hành động với mưu đồ hướng mũi nhọn chiến tranh của phe phát xít để tiêu
diệt nước Liên Xô xã hội chủ nghĩa. Một loạt các sự kiện diễn ra nửa cuối
thập niên 30 của thế kỉ XX đã chứng tỏ điều này.

Khi phe phát xít xâm lược Tiệp Khắc năm 1938, đòi chiếm vùng Xuyđét, trong khi Liên Xô ra sức kêu gọi Anh, Pháp cùng hợp sức để chống lại
chủ nghĩa phát xít, bảo vệ Tiệp Khắc nhưng các nước Anh, Pháp đã phớt lờ
đề nghị trên. Ở hội nghị Muy-nich (9/1938), Anh, Pháp đã đồng ý cho Đức
cắt vùng Xuy-đet của Tiệp Khắc sáp nhập vào lãnh thổ của mình, và gây áp
lực buộc chính phủ Tiệp Khắc phải chấp nhận Hiệp ước trên. Để đổi lại Đức
kí với Anh, Pháp những Hiệp ước đảm bảo không xâm phạm nhau nhưng đó
chỉ là thủ đoạn chính trị của Hit-le, còn sau này khi chiến tranh xảy ra diễn
biến của nó đã hoàn toàn đi ngược lại với sự suy tính của Anh, Pháp.
Trước hành động mở rộng xâm lược toàn Trung Quốc của Nhật Bản
từ năm 1937, các nước Anh, Pháp, Mĩ cũng không có hành động gì cụ thể để


ngăn chặn mà tiếp tục thi hành chính sách thoả hiệp nhượng bộ đối với Nhật
Bản. Sau đó Anh, Pháp còn rất nhiều hành động thoả hiệp nhượng bộ để cho
phe phát xít tự do hành động phát triển lực lượng.
Như vậy giữa Liên Xô với các nước tư bản dân chủ Anh, Pháp, Mĩ đã
không có một tiếng nói và hành động chung để chống lại sự phát triển của
chủ nghĩa phát xít. Chính sách thoả hiệp nhượng bộ mù quáng của Anh,
Pháp, Mĩ nhằm chĩa mũi nhọn chiến tranh của phe phát xít sang tiêu diệt
Liên Xô đã tạo điều kiện cho chủ nghĩa phát xít lớn mạnh nhanh chóng, gấp
rút chuẩn bị tiến hành cuộc chiến tranh nhằm phân chia lại thế giới. Tháng
9/1939 chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra chấm dứt sự tồn tại của trật tự thế
giới theo khuôn khổ của hoà ước Vecxai – Oasinhtơn.
Qua diễn biến của quan hệ quốc tế từ 1919-1939, chúng ta thấy rằng
nguyên nhân sâu xa hay nguồn gốc của chiến tranh thế giới thứ hai là do quy
luật phát triển không đồng đều về kinh tế, chính trị giữa các nước tư bản
trong thời đại đế quốc chủ nghĩa. Sự phát triển không đồng đều đó đã làm
cho so sánh lực lượng trong thế giới tư bản chủ nghĩa thay đổi căn bản, làm
cho việc tổ chức và phân chia thế giới theo hệ thống Vecxai-Oasinhtơn do
kết quả của chiến tranh thế giới thư nhất không còn phù hợp nữa.

Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến Chiến tranh thế giới thứ hai là cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 làm những mâu thuẫn giữa các
nước tư bản càng trở nên gay gắt, dẫn tới việc lên cầm quyền của chủ nghĩa
phát xít ở 1 số nước với ý đồ phát động chiến tranh để phân chia lại thế giới.
Thủ phạm gây chiến là phát xít Đức, quân phiệt Nhật Bản và phát xít
Ytalia. Nhưng các cường quốc phương Tây do chính sách hai mặt của họ đã
tạo điều kiện cho phe phát xít gây ra chiến tranh thế giới thứ hai tàn sát nhân
loại nên các nước này cũng phải chịu một phần trách nhiệm trong việc để
xảy ra chiến tranh thế giới thứ hai.


3.4. Quốc tế cộng sản ra đời và Mặt trận nhân dân chống CNPX
Thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 đã tác động
mạnh mẽ đến phong trào đấu tranh của công nhân nhiều nước ở châu Âu.
Trong những năm 1918-1923, cách mạng bùng lên ở Đức, Áo, Hunggari…
Nhiều nơi thành lập chính quyền Xô Viết như Cộng hòa Xô Viết Hunggari
(1919), XHXV Bavie.. Nhưng sau đó, cao trào cách mạng bị đàn áp dữ dội,
các nền cộng hòa Xô Viết đều thất bại. Đứng trước yêu cầu tập hợp lực
lượng công nhân trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, ngày
4/3/1919 một tổ chức mới được thành lập dưới sự lãnh đạo của V.I. leenin
mang tên Quốc tế cộng sản, thường được gọi là Quốc tế thứ ba ( Quốc tế
III).
Trước sự hình thành ba lò lửa chiến tranh báo hiệu nguy cơ một cuộc
chiến tranh thế giới mới xuất hiện, Quốc tế cộng sản đã triệu tập Đại hội hội
lần thứ VII tại Matxcova (7/1935), có đại biểu của các đảng cộng sản 65
nước tham dự. Đại hội đã nghe báo cáo quan trọng của G.Đimitrop, tổng bí
thư ban chấp hành Quốc tế III. Báo cáo đã vạch rõ bản chất của CNPX là
nền chuyên chính khủng bố công khai của những phần tử phản động nhất, sô
vanh nhất, đế quốc chủ nghĩa nhất của tư bản tài chính. Do vậy, CNPX là kẻ
thù của nhân dân toàn thế giới, các lực lượng yêu chuộng hòa bình thế giới

cần đoàn kết chống lại CNPX trên toàn cầu. Trong tình hình đó, QTCS chủ
trương thành lập Mặt trận Nhân dân, trước hết là thống nhất các lực lượng
trong giai cấp công nhân từng quốc gia và trên phạm vi quốc tế, rồi mở rộng
sự đoàn kết với các tầng lớp nhân dân, với tất cả các lực lượng chống chủ
nghĩa phát xít.
Sách lược đúng đắn của QTCS đã động viên được đông đảo nhân dân
tham gia mặt trận Nhân dân chống PX. Cuộc chiến tranh chống chủ nghĩa
PX Tây Ban Nha, sự thành lập chính phủ của MTND Pháp, Mặt trận nhân


dân ở nhiều nước thuộc địa và phụ thuộc đã thu hút đông đảo các lực lượng
xã hội tham gia đấu tranh chống CNPX trên thế giới.
II. PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY VÀ MỘT SỐ DẠNG CÂU HỎI ÔN TẬP
VỀ QUAN HỆ QUỐC TẾ (1919 – 1939)

1. Một số phương pháp giảng dạy
a. Lập bảng niên biểu gắn với các sự kiện
- Các em có thể lập bảng niên biểu ngắn gọn, chia thành các cột thời gian,
sự kiện, nội dung hoặc diễn biến vắn tắt trong một bài học lịch sử.
- Lập bảng niên biểu có tác dụng hệ thống hóa kiến thức bài học một cách
nhanh và ngắn gọn nhất . Từ đó các em nắm được nội dung bài học và thuộc
bài lâu hơn.
b. Vẽ sơ đồ tia
- Muốn vẽ sơ đồ tia, trước hết các em cần nắm được nội dung kiến thức của
bài , sau đó cụ thể hóa bằng cách phân ra các ý theo hình tia. Trên cơ sở các
nhánh tia chính đó, phân ra các tia để cụ thể hóa các ý của bài học. Việc học
theo cách này khiến học sinh ghi nhớ tốt hơn và lâu hơn cách truyền thống
rất nhiều
c. Dùng thao tác ghi nhớ linh hoạt
- Để nhớ được lâu các sự kiện và mốc thời gian trong một bài học, học sinh

có thể vận dụng những cách sau:
+ Ghi nhớ các sự kiện, con số…. ra một tờ giấy hay sổ tay để khi cần
thiết có thể tranh thủ học.
+ Tái hiện và xác lập mối quan hệ giữa bài đang học với kiến thức của
các bài đã học để không quên kiến thức cũ ( chẳng hạn khi học chiến tranh
thế giới thứ 2 (1939-1945), ta nên so sánh với chiến tranh thế giới thứ nhất
để khắc sâu kiến thức, ví dụ: con đường dẫn đến chiến tranh thế giới thứ
hai…)


+ Ghi nhớ tương đối: Tức là trong sự kiện hoặc một chiến dịch nào đó,
không nhất thiết phải nhớ cụ thể ngày giờ mà chỉ cần nhớ tháng, năm hoặc
khoảng thời gian xảy ra sự kiện đó.
d. Hệ thống hóa lại kiến thức
Sau khi học bài xong các em cần kiểm tra và hệ thống hóa lại kiến
thức bài học một lần nữa, nếu cảm thấy chưa đạt thì phải có biện pháp khắc
phục ngay. Đây là khâu quan trọng đối với các môn khoa học xã hội, bởi nếu
học xong mà không hệ thống hóa lại kiến thức sẽ dẫn đến tình trạng học
trước quên sau, râu ông nọ cắm cằm bà kia … Thao tác này cũng giúp cho
học sinh có cách nhìn khách quan, tổng thể về các chặng đường, giai đoạn
lịch sử và rút ra những kĩ năng nhận xét, so sánh, lý giải. Từ đó sẽ giải
quyết được những yêu cầu của nội dung bài học và làm bài thi hiệu quả hơn.
2. CÁC DẠNG CÂU HỎI THƯỜNG GẶP
Giống như các bộ môn khác môn lịch sử cũng có các dạng câu hỏi cơ
bản thường gặp trong các kì kiểm tra hay trong các kì thi. Mỗi dạng câu hỏi
có những đặc trưng hay yêu cầu riêng. Vì vậy việc đầu tiên trong quá trình
ôn tập và củng cố kiến thức các giáo viên cần cung cấp cho các em học sinh
một số dạng câu hoỉ thường gặp trong chương trình lịch sử ở trwongf phổ
thông và cách giải quyết từng dạng bài tập đó là:
a. Câu hỏi tìm hiểu diễn biến của một sự kiện lịch sử

Ví dụ: Hãy trình bày diễn biến chính của cuộc khủng hoảng kinh tế
thế giới 1929 – 1933?
Đây là dạng câu hỏi yêu cầu học sinh tái hiện những vấn đề, những sự
kiện, hiện tượng lịch sử đúng như nó từng diễn ra ( tức là trả lời câu hỏi sự
kiện đó diễn ra như thế nào)
Đây là loại câu hỏi phổ biến. Khi trình bày diễn biến của một sự kiện các
em nên trình bày theo dàn ý sau:


+ Khái quát vài nét về hoàn cảnh lịch sử ( những nét chính về tình hình
kinh tế, chính trị của các nước tư bản dẫn đến khủng hoảng)
+ Trình bày diễn biến: tuân thủ nguyên tắc biên niên ( tức là sự kiện nào
có trước thì nói trước, sự kiện nào có sau thì nói sau). Ngoài ra cần đảm bảo
tính hệ thống và tính chính xác
+ Nêu kết quả và ý nghĩa: thường nêu ra những con số cụ thể, nội dung
chính của ý nghĩa.
b. Câu hỏi xác định nguyên nhân thành công hay thất bại của một sự
kiện lịch sử
Ví dụ: Nguyên nhân đưa đến CNPX ra đời?
Đây là dạng câu hỏi yêu cầu các em dung toàn bộ hiểu biết của mình
khám phá bản chất sự kiện đó, để đánh giá tác động của nó đến lịch sử, khi
phân tích phải dùng lí lẽ, luận điểm chắc chắn, khoa học để suy xét.
Khi làm dạng câu hỏi này các em cần thiết phải phân tích được 2 dạng
nguyên nhân: khách quan và chủ quan vì nguyên nhân thành công hay thất
bại của một sự kiện lịch sử đều là kết quả tổng hợp của những nhân tố khách
quan và chủ quan. Muốn làm được điều này các em cần:
+ Nắm chắc bản chất của sự kiện lịch sử hay vấn đề lịch sử, mối lien hệ
giữa các sự kiện lịch sử đó.
+ Phân tích theo đúng yêu cầu của đề bài, tránh lan man.
+ Phải có quan điểm lịch sử đúng đắn khoa học, tránh xuyên tạc. bóp

méo sự thật lịch sử
+ Luận điểm, luận cứ phải rõ rang, mạch lạc logic. Phân tích thường đi
liền với thuyết minh để có tính thuyết phục cao.
- Gợi y trả lời câu hỏi: Nguyên nhân đưa đến sự ra đời của CNPX?
+ Trật tự V-O
+ Tác động của khủng hoảng kinh tế 1929-1933


+ Chính phủ các nước không có biện pháp ngăn chặn
+ Nguồn gốc xuất phát từ chủ nghĩa quân phiệt
+ Tương quan so sánh lực lượng giữa các nước phát xít so với các nước
khác: ít thuộc địa, nghèo tài nguyên nhưng lại muốn phát triển Kt TBCN nên
tiến hành chiến tranh.
c. Câu hỏi yêu cầu so sánh giữa các sự kiện lịch sử
Ví dụ: Quá trình xác lập CNPX ở các nước Đức, Ý, Nhật Bản có gì
giống và khác nhau? Hãy giải thích nguyên nhân?
Khi làm câu hỏi dạng này, các em cần biết khái quát quát hóa các
kiến thức lịch sử, tìm ra bản chất của từng sự kiện lịch sử đó để đưa vào
bảng so sánh một cách ngắn gọn, rõ rang nhất, qua đó làm rõ sự giống và
khác nhau giữa các sự kiện lịch sử.
Gợi y trả lời:
- Giống nhau:
+ Đều chuyển từ nền dân chủ tư sản sang nền chuyên chính vô sản khủng
bố công khai.
+ Đều có bản chất chủ nghĩa phát xít, đều hiếu chiến
+ Đều là các nước nghèo tài nguyên thiên nhiên, có nền kinh tế phát
triển.
- Khác nhau:
+ Thời gian…
+ Cách thức, bản chất…

+ Người lãnh đạo
+ Tiềm lực
- Nguyên nhân:
+ Tương quan lực lượng
+ Nguồn gốc sâu sa khác nhau.


d. Câu hỏi xác định, phân tích tính chất của sự kiện lịch sử
Ví dụ: Chứng minh rằng: Cuộc chiến tranh thế giới thứ 2 (1939 – 1945)
là cuộc chiến tranh lớn nhất, ác liệt nhất trong lịch sử loài người?
Câu hỏi này yêu cầu các em không chỉ có kiến thức lịch sử phong phú
về vấn đề đó mà phải có khả năng lập luận chặt chẽ, logic thì bài làm mới có
tính thuyết phục.
Để làm tốt dạng câu hỏi này đòi hỏi các em không chỉ có kiến thức lịch
sử phong phú về vấn đề đó mà phải có khả năng lập luận chặt chẽ, logic thì
bài làm mới có tính thuyết phục.
Để làm tốt dạng câu hỏi này đòi hỏi các em phải hiểu sâu sự kiện lịch sử,
đồng thời phải tìm được lý lẽ xác đáng, chia thành các ý rõ rang, đặc biệt là
lựa chọn sự kiện để chứng minh. Dẫn chứng càng phong phú, tiêu biểu, xác
thực thì bài làm càng có tính thuyết phục cao.
Khi chứng minh phải kết hợp với phân tích khái quát để làm rõ vấn đề.
e. Câu hỏi xác lập mối quan hệ nhân quả giữa các sự kiện lịch sử thế
giới với Việt Nam
Ví dụ: Những sự kiện của lịch sử thế giới từ năm 1919-1939 có tác
động sâu sắc tới lịch sử Việt Nam?
Dạng câu hỏi này yêu cầu các em phải cả kiến thức lịch sử việt Nam
và lịch sử thế giới, hiểu rõ mối tác động qua lại giữa lịch sử Việt Nam và
lịch sử thế giới trong cùng một thời kì lịch sử để từ đó hiểu rõ quy luật: Cách
mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, nằm trong sự phát
triển chung của cách mạng thế giới.

Gợi y trả lời:
- Tháng 3/1919: Thành lập QT3
- Các ĐCS ra đời trong những năm 20 của thế kỉ XX
- CNPX ra đời, ĐH V QTCS (1935).


- CTTG2 bùng nổ.
* HS nêu tác động của từng sự kiện, cỏ thể nêu sự kiện sau đó đánh giá tác
động, hoặc có thể nêu từng sự kiện rồi đánh giá tác động của từng sự kiện
luôn.
f. Câu hỏi tìm hiểu khuynh hướng phát triển của một sự kiện, một thời
đại, hay một xã hội nói chung?
Ví dụ: Trình bày nội dung của quan hệ quốc tế (1919-1939) giữa hai
cuộc chiến tranh thế giới. Từ những điểm nổi bật của quan hệ quốc tế
giai đoạn này hãy dự đoán diễn biến quan hệ quốc tế ở giai đoạn tiếp
theo.
- Để làm được dạng câu hỏi này học sinh cần phải nắm bắt được
phương pháp tư duy biện chứng để đoán định được sự phát triển
tương lai của 1 sự kiện lịch sử trên cơ sở hiểu rõ quá khứ và hiện tại.
- Gợi y trả lời:
+ Trình bày nội dung quan hệ quốc tế 1919-1939:
1. Sự hình thành một trật tự thế giới mới: trật từ V-O
2. Sự hình thành CNPX và con đường dẫn tới CT
3. QTCS và MTND ra đời chống CNPX
+ Dự đoán tình hình thế giới giai đoạn sau: CTTG2 bùng nổ…


×