Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

Nghiên cứu phát triển một số nghề sản xuất truyền thống ở huyện ân thi, tỉnh hưng yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (480.7 KB, 108 trang )

PHẦN I- MỞ ĐẦU

thế so sánh của mình trên thị trường quốc tế do: Khả năng tiếp cận thị
trường còn hạn chế; việc thiết kế, sang tạo mẫu mã chưa đáp ứng được
thị yếu
nướccủa
ngoài
; đội
ngũ
lao động có tay nghề còn
1.1. của khách
Tính hàng
cấp thiết
đề tài
ngiên
cứu
thiếu và cơ sở sản xuất còn thiếu mặt bằng về vốn và kỹ thuật.
Ở nước ta khu vực nông thôn chiếm tới 74,5% dân số cả nước[l],
Đặctácbiệt
trong
điềubị kiện
tại tốc
nhưđộ
ngày
phátvàtriển
nghề
đất canh
ngày
càng
thu hiện
hẹp do


đô nay,
thị hoá
côngcácnghiệp
truyền
đượcđềcoigiải
là quyết
một trong
những
công
hoá. Dothống
vậy vấn
việc làm
chonội
laodung
độngcơdưbản
thừacủa
ở nông
nghiệp
hoá,
hiện
đại
hoá
nông
nghiệp
nông
thôn

giai
đoạn
hiện

nay

thôn là bài toán khó cho tất cả các cấp các ngành cần phải giải quyết cấp
các
đoạn
theo.Chính
vậy,trong
việc những
nghiên cách
ra các
phápcho
nhằm
báchgiai
trong
giaitiếp
đoạn
hiện nay.vìMột
giảigiải
quyết
bài
khôi
phục

phát
triến
các
nghề
truyền
thống


nông
thôn
trong
quá
toán trên là nghiên cứu để phát triển các nghề truyền thống cho khu vực
trình
đại thống
hoá mang
thiếtthôn
cả góp
về lýphần
luậngiải

nông công
thôn. nghiệp
Bởi cáchoá,
nghềhiện
truyền
ở khutính
vựccấp
nông
thực
tiễn.
quyết một phần lớn các lao động dư thừa, lao động lúc nông nhàn. Hiện
nay trên cả nước có khoảng mười hai triệu lao động đang làm việc thuộc
Huyện An Thi, tỉnh Hưng Yên là một huyện có nghề truyền thống
nghề truyền thống, chiếm khoảng 30% lực lượng lao động ở nông
phát triến tương đối mạnh mẽ. Ngoài những nghề truyền thống có từ lâu
thôn[2], con số này có ý nghĩa rất lớn cả về mặt kinh tế và về mặt xã hội.
đời thì những năm gần đây có them một số nghề truyền thống mới của

Ngoài ra nghề truyền thống còn góp phần nâng cao thu nhập cho người
các làng khác như Hải Dương Và Hà Nội. Phát triến nghề truyền thống ở
dân ở nông thôn, góp phần xoá đói, giảm nghèo, giảm bớt khoảng cách
Huyện đang là chiến lược phát triển kinh tế nhằm mục tiêu quan trọng đế
giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn.Đặc biệt các nghề truyền thống
thúc đấy công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn của huyện. Khi cả
còn góp phần tích cực trong chuyến dịch cơ cấu lao động trong nông
nước đang tham gia hội nhập kinh tế quốc tế và đặc biệt “Cơn bão tài
thôn hiện nay. Hàng năm các nghề truyền thống đóng góp 700trUSD
chính” của thế giới vừa đi qua thì vấn đề giải quyết cho sản phấm nghề ở
trong tống kim ngạch xuất khấu của cả nước[3].Mặt khác Việt Nam đang
huyện nói riêng là vấn đề cân thiết và cấp bách.
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nên việc phát huy lợi thế so sánh
của Xét
mìnhtớilà tầm
việc quan
làm cần
trongvấn
những
lợi trên
thế so
đầu
trọngthiết.Một
của những
đề nêu
nênsành
tôi hàng
đã quyết
của Việt
là các

của các cứu
nghề phát
truyền
thống
cả nước.
định
chọnNam
nghiên
cứusảnđềphâm
tài “Nghiên
trỉến
mộttrong
sơ nghề
sản
Trong
quá
trình
hội
nhập,
sản
phẩm
nói
chung,
sản
phẩm
của
các
nghề
xuầt truyền thống ở Huyện Ân thi, Tỉnh Hung Yên”.
truyền thống nói riêng luôn luôn phải được quan tâm đúng mức. Bởi trên

thị trường
nhu cầu
luôn
cả về chất và mặt lượng, mẫu mã
1.1 Mục
tiêu luôn
nghiên
cứuthay
củađổi
đề tài
sản phẩm.Tuy nhiên theo thực tế khảo sát thì những sản phẩm của các
nghề truyền1.1.1
thống nói Mục
chung
Nghệ
của Việt Nam chưa phát huy được lợi
tiêu
chung

21


Đe tài tập chung nghiên cứu thực trạng và các yếu tố ảnh huởng
đến phát triến các nghề truyền thống tại Huyện Ân thi, Tỉnh Hưng Yên
từ đó đề xuất phuơng huớng và các giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát
triến của một số nghề truyền thống của huyện nhằm giải quyết lao động
dư thừa nâng cao thu nhập cho người dân và góp phần chuyến dịch cơ
cấu kinh tế nông thôn.
1.2.2.


Mục tiêu cụ thể

- Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận về phát triển nghề truyền thống
- Đánh giá thực trạng phát triển và các yếu tố ảnh hưởng đến sản xuất
của các nghề truyền thống trên địa bàn huyện.
- Đe xuất phương hướng và các giải pháp cơ bản đế phát triển các nghề
truyền thống
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1

Đoi tượng nghiên cứu

Nghiên cứu những vấn đề kinh tế phát triển nghề truyền thống ở
Huyện Ân Thi- Hưng Yên như: Quy mô, hình thức tổ chức sản xuất,
phương hướng sản xuất, tiêu thụ sản phấm...
1.3.2.
-

Phạm vi nghiên cứu

về nội dung: Đe tài tập trung đi sâu vào nghiên cứu thực trạng cà giải

pháp nhăm phát triển các nghề truyền thống trên địa bàn huyện.
-

về không gian: Đe tài tập trung nghiên cứu 4 nghề truyền thống trên

địa bàn huyện: Nghề trạm Bạc, nghề nón lá, nghề thêu ren, nghề bánh
đa
gạo

-

về thời gian: Đe tài thu thập số liệu thứ cấp từ năm 2005-2008 và số

3


PHÀN II- CO SỞ LÝ LUẬN VÀ co SỞ THựC TIỄN CỦA ĐÈ TÀI
NGHIÊN CỨU
2.1.

Cơ sở lý luận về phát triển nghề truyền thống

2. LI Cơ sở lý luận về phái triển
2.1.1.1.

Khái niệm về tăng trưởng và phát triển

Tăng trưởng được hiếu là sự gia tăng về số lượng của một sự vật
nhất định. Trong kinh tế tăng trưởng thể hiện sự gia tăng hơn trước về
sản phấm hay lượng đầu ra cỷa một quá trình sản xuất hay hoạt động.
Tăng trưởng kinh tế có thế hiếu là kết quả của mọi quá trình hoạt động
kinh tế trong lĩch vực sản xuất cũng như trong lĩnh vực dịch vụ được tạo
ra trong một kỳ nhất định[4]. Neu sản phẩm hàng hoá và dịch vụ trong
một quốc gia tăng lên, nó được coi là tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng
cũng được áp dụng đế đánh giá cụ thế đối với từng ngành sản xuất, từng
vùng của một quốc gia[5].
Phát triển bao hàm nghĩa rộng hơn, phát triển bên cạnh bình quân
thu nhâp trên đầu người còn bao gồm nhiều khía cạch khác. Sư tăng
trưởng cộng thêm các thay đối cơ bản trong cơ cấu kinh tế, sự tăng lên

của sản phấm quốc dân do ngành công nghiệp tạo ra, sự đô thị hoá, sự
tham gia của một quốc gia trong quá trình tạo ra các thay đổi nói trên là
một nội dung của sự phát triển. Phát triển là nâng cao phúc lợi của nhân
dân, nâng cao các tiêu chuẩn sống, cải thiện giáo dục, sức khoẻ và đảm
bảo sự bình đẳng cũng như quyền công dân. Phát triển còn được định
nghĩa là sự tăng trưởng bền vững về các tiêu chuẩn sống bao gồm tiêu
dung, vật chất, giáo dục, sức khoẻ và bảo vệ môi trường[6].
2.1.1.2.

Khái niệm về phát triến bền vững

4


Trong những năm gần đây, do sự tăng dân số mạnh mẽ, do nhu cầu
nâng cao mức sống, hoạt động của con người nhằm khai thác các nguồn
lực, tài nguyên thiên nhiên đã làm cho môi trường bị cạn kiệt. Sự can
thiệp quá sâu của con người vào thiên nhiên đã dẫn đến cân bằng sinh
thái bị phá vỡ. Nhiều noi trên trái đất, con người đang phải đối mặt với
những thảm hoạ thiên nhiên to lớn. Với những mô hình phát triển không
cân bằng, nhiều quốc gia đã và đang phải trả giá cho những sai lầm về
quan điểm phát triển của mình .
Trước những vấn đề nêu trên của phát triến vào nửa cuối thế kỷ
XX Liên hợp Quốc đã đưa ra khái niệm về phát triển bền vững. Theo
quan điếm của Liên hợp Quốc thì một thế giới phát triến bền vững là một
thế giới không sử dụng các nguồn tài nguyên có thể tái tạo nhanh hơn
khả năng tự tái tạo chúng, không sử dụng các nguồn tài nguyên không
thế tái tạo nhanh hơn quá trình tìm ra những loại thay thế chúng và
không thải ra môi trường những chất độc hại nhanh hơn quá trình trái đất
hấp thụ và đồng hoá chúng. Như vậy phát triến bền vững là sự phát triến

lành mạnh, tồn tại lâu dài, vừa đáp ứng nhu cầu hiện tại, vừa không xâm
phạm đến lợi ích của thế hệ tương lai. Một vấn đề đặt ra là những người
đang hưởng thụ những thành tựu của sự phát triến kinh tế ngày nay có
thể sẽ làm cho các thế hệ tương lai phải chịu đựng tình cảnh tồi tệ do
môi trường sinh thái bị suy thoái quá mức. Các thế hệ tương lai không
chỉ kế thừa tình trạng ô nhiễm và cạn kiệt tài nguyên của hiện tại, mà
còn thừa hưởng các thành quả của lao động hiện tại dưới dạng chất
lượng giáo dục, kỹ thuật và kiến thức cũng như vốn vật chất.
Hội nghị thượng đỉnh về trái đất năm 1992 đã kế thừa những phân
tích ở trên và đã đưa ra khái niệm vắn tắt về phát triển bền vững là: Phát
triển bền vững là phát triển nhằm thoả mãn nhu cầu của thế hệ ngày nay

5


mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của thế hệ tuơng
lai.
2.1.2.

Cơ sở lý luận về nghề truyền thống

2.1.2.1

Khái niệm về nghề truyền thống và làng nghề truyền thống

a. Khái niệm về nghề truyền thống
Nghề truyền thống trước hết là những nghề tiểu thủ công nghiệp
được hình thành và phát triển lâu đời trong lịch sử, được sản xuất tập
trung tại một vùng hay một làng nào đó. Từ đó đã hình thành các làng
nghề, xã nghề. Đặc trưng cơ bản của mỗi nghề truyền thống là phải có

kỹ thuật và công nghệ truyền thống, đồng thời có các nghệ nhân và các
đội ngũ thợ lành nghề. Sản phẩm làm ra vừa có tính chất hàng hoá đồng
thời vừa có tính nghệ thuật và mang đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc dân
tộc[7].
Nghề truyền thống ở nước ta rất đa dạng, phong phú có những nghề đã
tồn tại hàng trăm năm. Nhiều sản phẩm truyền thống đâ từng nổi tiếng ở
trong nước và trên thế giới như nghề: Dệt lụa Hà Đông, nghề chiếu cói
Thái Bình, nghề gốm sứ Bát Tràng....
Ngày nay, sự phát triến mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và công
nghệ đã khiến cho việc sản xuất các sản phẩm có tính truyền thong được
hồ trợ bởi quy trình công nghệ với nhiều loại nguyên liệu mới. Do vậy
khái niệm nghề truyền thống cũng được nghiên cứu và mở rộng hơn ,
khái niệm này được hiểu như sau: Nghề truyền thống bao gồm những
nghề tiểu thủ công nghiệp xuất hiện từ lâu trong lịch sử, được truyền từ
đời này qua các đời khác còn tồn tại đến ngày nay, kế cả những nghề đã
sử dụng máy móc, được cải tiến hoặc sử dụng những loại máy móc hiện
đại để hỗ trợ sản xuất nhưng vẫn tuân thủ công nghệ truyền thống, và

6


đặc biệt sản phẩm của nó vẫn thể hiện những nét đặc sắc văn hoá của
dân tộc[8] .
b. Làng nghề truyền thống
Có nhiều ý kiến đưa ra về khái niệm làng nghề. Giáo Sư Trần
Quốc Vượng đã đưa ra khái niệm về làng nghề như sau: Làng nghề là
một thiết chế kinh tế- xã hội ở nông thôn, được cấu thành bởi hai yếu tố
làng và nghề, tồn tại trong một không gian địa lý nhất định, trong đó bao
gồm nhiều hộ gia đình sinh sống bằng nghề thủ công là chính, giữa họ có
mối liên kết về kinh tế, xã hội và văn hóa.

Xét về mặt định tính, làng nghề ở nông thôn nước ta được hình
thành và phát triển do yêu cầu của phân công lao động và chuyên môn
hoá nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển và chịu sự tác động mạnh của
nông nghiệp và nông thôn Việt Nam với những đặc trưng của nền văn
hoá lúa nước, và nền kinh tế hiện vật, sản xuất nhỏ tự cấp tự túc.
Xét về mặt định lượng, làng nghề là những làng ở đó có số người
chuyên làm nghề thủ công nghiệp và sống chủ yếu bằng nguồn thu nhập
từ nghề đó chiếm tỷ lệ khá lớn trong tống dân số của làng. Tiêu chí đế
xem xét một cách cụ thể đối với một làng nghề điển hình là:
-

Số hộ chuyên làm một hoặc nhiều nghề thủ công chiếm từ 40- 50%

-

Thu nhập từ nghề thủ công chiếm trên 50% tống giá trị sản lượng của
làng.
Tuy nhiên những tiêu chí trên không phải là tuyệt đổi mà chỉ có ý

nghĩa tưong đối về mặt định lượng. Bởi vì ở mồi làng nghề bao giờ cũng
có sự khác nhau về quy mô sản xuất, quy trình công nghệ, tính chất sản
phấm và số người tham gia vào trong quá trình sản xuất. Do vậy sự phát

7


triển của các làng nghề thường khác nhau và có những biến động khác
nhau trong từng thời kỳ.
Ngày nay, khi khoa học kỹ thuật và công nghệ cùng với sự phân
công lao động đã phát triến ở mức độ cao hon thì khái niệm làng nghề

cũng được mở rộng hơn, nó không chỉ bó hẹp ở những làng chỉ có các hộ
chuyên làm nghề thủ công. Điều này có thể hiểu dưới hai giác độ: Thứ
nhất là, công nghệ sản xuất không hoàn toàn là công nghệ thủ công như
trước đây, mà ở nhiều làng nghề đã áp dụng công nghệ cơ khí và bán cơ
khí. Thứ hai là, trong các làng nghề khi sản xuất phát triến ở mức độ cao
hơn thì sẽ làm nảy sinh sự phát triển của nhiều nghề khác nhằm phục vụ
cho nó. Do vậy xuất hiện nhiều người chuyên làm dịch vụ cung cấp
nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm cho các hộ và cơ sở sản xuất chuyên
làm nghề thủ công, từ đó hình thành và phát triển những làng nghề với
mô hình kết hợp nhiều nghề. Chang hạn như ở Ninh Hiệp xuất hiện thêm
nhiều nghề mới ngoài những nghề truyền thống và dần dần hình thành
nên một mô hình kết hợp nông- công- thương - dịch vụ.
Tóm lại, khái niệm làng nghề cần được hiêu là những làng ở nông
thôn có các ngành nghe phi nông nghiệp chiếm ưu thế về số hộ, lao động
và tỷ trọng thu nhập so với nghề nông.
Khái niệm làng nghề truyền thống được khái quát dựa trên hai khái
niệm nghề truyền thống và làng nghề được trình bày ở trên. Như vậy
làng nghề truyền thống trước hết là làng nghề được tồn tại và phát triến
lâu đời trong lịch sử, trong đó gồm có một hoặc nhiều nghề thủ công
truyền thống, là nơi quy tụ các nghệ nhân va đội ngũ thợ lành nghề, là
nơi có nhiều hộ gia đình chuyên làm nghề truyền thong lâu đời, giữa họ
có sự liên kết, hô tợ nhau trong sản xuất và tiêu thụ sản phâm. Họ có


cùng tô nghề và đặc biệt các thành viên luôn có ỷ thức tuân thủ những
ước chế xã hội và gia tộc.
2.1.2.2.

Phân loại nghề truyền thống


Hiện nay nước ta tồn tại rất nhiều nghề truyền thống khác nhau,
được phân bố khắp nơi trong cả nước, song được tập trung nhiều nhất ở
vùng đồng bằng sông Hồng. Việc phân loại các nhóm nghề truyền thống
tương đối khó khăn, chỉ mang tính chất tương đối.
+ Phân loại theo trình độ kỹ thuật:
-

Loại có kỹ thuật đơn giản: Sản phẩm của nghề này có tính chất thông
dụng, phù hợp với nền kinh tế tự cung tự cấp như: Nghề đan lát, chế
biến
lương thực, thực phẩm, nghề nung gạch, nung vôi....

-

Loại nghề có trình độ kỹ thuật phức tạp: Các nghề này không chỉ có
kỹ
thuật công nghệ phức tạp mà còn đòi hỏi ở người thợ sự sáng tạo,
khéo
léo. Sản phẩm vừa có giá trị kinh tế, vừa có giá trị nghệ thuật cao. Do
vậy sản phẩm không chỉ tiêu thụ ở trong nước mà còn có thể xuất khấu
đi nhiều nước trên thế giới như: Nghề thêu thùa, dệt lụa, làm gốm,
khảm

gỗ....
+ Phân theo tính chất kinh tế:
- Loại nghề thường phụ thuộc vào nền kinh tế nông nghiệp tự nhiên:
Đây là nghề phụ của hầu hết các gia đình nông dân, sản phấm ít mang
tính hàng hoá, chủ yếu phục vụ nhu cầu tại chỗ như: Nghề chế biến nông
sản, sản xuất công cụ như cày bừa, liềm hái....
- Loại nghề mà hoạt động của nó độc lập với quá trình sản xuất nông

nghiệp: Những nghề này được phát triển bởi sự tiến bộ của trình độ kỹ
thuật công nghệ và trình độ tay nghề của người thợ. Sản phẩm của nó thể
hiện một trình độ nhất định của sự tách biệt giữa thủ công nghiệp với
9


nông nghiệp, của tài năng sáng tạo và sự khéo léo của người thợ, tiêu
biếu là nghề dệt, gốm, kim hoàn.........
+ Theo giá trị sử dụng của các sản phẩm:
- Các ngành nghề sản xuất các mặt hàng thủ công mỹ nghệ như:
Gốm sứ, chạm khảm gỗ, chạm khắc đá, thêu ren, vàng bạc...
- Các nghề phục vụ chi ản xuất và đời sống như: Ne, mộc, hàn, đúc
đồng, gang, nhôm, sản xuất vật liệu xây dựng...
- Các nghề sản xuất các mặt hàng tiêu dùng thông thường như: Dệt
vải, dệt chiếu, khâu nón...
- Các nghề chế biến lương thực, thực phẩm: Xay xát, nấu rượu, làm
bánh....
2.1.2.3

Khái niệm về phát triến nghề truyền thống

Trên cơ sở lý luận về tăng trưởng, phát triển và nghề truyền thống, tôi
cho rằng phát triển nghề truyền thống là sự tăng lên về quy mô, số lượng
và người tham gia vào sản xuất, chế biến các sản phẩm của nghề truyền
thống và phải đảm bảo được hiệu quả sản xuất, chế biến sản phâm.
Sự tăng lên về số lượng, quy mô của người tham gia vào sản xuất, chế
biến các sản phẩm thuộc nghề truyền thống có nghĩa là số lượng người
được tăng lên cả về số lượng, quy mô sản xua của họ. Trong đó những
nghề cũ được củng cố, nghề mới được hình thành. Từ đó giá trị sản
lượng không ngừng tăng lên, nó thế hiện sự tăng trưởng của một nghề.

Sự phát triển của một nghề truyền thống phải đảm bảo hiệu quả cả về
mặt kinh tế- xã hôi- môi trường.
Trên quan điếm phát triển bền vững, phát triến nghề truyền thống phải
thoả mãn yêu cầu: Sự phát triển phải có kế hoạch, quy hoạch sử dụng các

10


nguồn lực như tài nguyên thiên nhiên, lao động, vốn... Phải đảm bảo hợp
lý và có hiệu quả. Nâng cao mức sống cho người lao động, không gây ô
nhiểm môi trường, giữ gìn bản sắc, văn hoá dân tộc...
2.1.3.

Đặc điếm phát triên của các nghề truyền thong

2.1.3.1

Đặc điểm kỹ thuật, công nghệ và sản phẩm

a. Đặc điểm kỹ thuật và công nghệ
Đặc điếm đặc trưng đầu tiên của nghề thủ công truyền thống là kỹ
thuật thủ công mang tính truyền thống, dòng họ. Công cụ sản xuất la
công cụ thô sơ do chính người thợ thủ công chế tạo ra. Công nghệ của
nghề thủ công hầu như phụ thuộc vào tay nghề, kỹ năng, kỹ xảo của
người thợ. Sản phẩm đòi hởi khéo léo và kinh nghiệm tích luỹ được.
Một đặc tính quan trọng của công nghệ truyền thống là không thể
thay thê hoàn toàn bằng một công nghệ hiện đại, mà chỉ có thế thay thế ở
một sổ khâu sản xuất nhất định. Đây là một trong những yếu tố tạo nên
tính truyền thống của sản phẩm.
Một đặc điểm khác cần được xem xét là kỹ thuật công nghệ trong

các nghề truyền thống hầu hết kà thô sơ, lạc hậu. Xuất phát từ nhiều lý
do như vốn ít, mặt bằng sản xuất chật hẹp, cộng thêm với thói quen sản
xuất của người tiểu nông nên công nghệ chậm được cải tiến và thay thê.
Với sự phát trien của khoa học kỹ thuật đã tạo nên một sự kết hợp
giữa công nghệ truyền thống và công nghệ hiện đại. Sự kết hợp này đã
đem lại những ưu thế đặc biệt quan trọng: Tạo ra năng suất lao động cao,
chất lượng sản phẩm cao hơn, giảm bớt được sự nặng nhọc và độc hại
cho người lao động. Do vậy nhiều nghề truyền thống đã được đầu tư máy
móc, thiết bị.
b. Đặc điếm về sản phấm

11


Đặc điểm riêng nhất, đặc sắc nhất của sản phẩm truyền thống là độc
đáo và có tính nghệ thuật cao. Đặc điếm này được quy định bởi 'kỹ thuật
công nghệ sản xuất thủ công đã có hàng trăm năm và hàng ngàn năm còn
tồn tại cho đến ngày nay. Sản phẩm của mỗi làng, mỗi vùng có đặc trưng
riêng, trình độ kỹ thuật riêng. Các sản phấm đều có sự kết hợp giữa
phương pháp thủ công tinh xảo với sự sáng tạo nghệ thuật. Ở mồi sản
phẩm là sự diễn tả các hoạt động của con người đang lao động sản xuất,
là phong tục, truyền thống, là tín ngưỡng, tôn giáo, là ước muốn của con
người trong chinh phục thiên nhiên.
Sản phẩm truyền thống có tính riêng lẻ, đơn chiếc vì sản phẩm được
sản xuất ra do từng cá nhân thực hiện bằng một công cụ thủ công nên
không thể sản xuất hàng loạt mà sản xuất từng chiếc một. Điều đó tạo
nên sự hấp dẫm riêng, một sắc thái riêng.
Sản phấm truyền thống rất đa dạng, phong phú do phải đáp ứng các
nhu cầu của đời sống kinh tế và văn hoá của người lao động. Nó bao
gồm nhiều chủng loại như sản phẩm là tư liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt

và sản phẩm nghệ thuật. Sản phẩm không chỉ đáp ứng các nhu cầu trong
nước mà còn đế xuất khấu.
2.1.3.2

Đặc điếm về kinh tê, xã hội

a. Đặc điểm về sự gắn bó với sản xuất nông nghiệp và nông thôn
Nghề truyền thống của nước ta ra đời và phảt triến từ làng sản xuất
nông nghiệp. Vì vậy trong lịch sử lâu dài đó là mối quan hệ hai chiều
chặt chẽ được thể hiện dưới nhiều mức độ khác nhau. Xuất phát từ nhu
cầu sản xuất và tiêu dung của người nông dân trong một nền kinh tế tự
cung tự cấp. Nghề thủ công dần dần xuất hiện với tư cách là nghề phụ,
việc phụ trong gia đình. Nghề phụ, việc phụ này giúp giải quyết việc làm

12


lúc nông nhàn, tăng thu nhập. Như vậy người nông dân đồng thời là
người thợ thủ công và ngược lại.
Các cơ sở sản xuất của nghề truyền thống được phân bố taịi chỗ trên
địa bàn nông thôn, phục vụ trực tiếp cho phát triến kinh tế xã hội nông
thôn như: Tiêu thụ nguyên vật liệu, cung cấp vật tư, hàng hoá làm ra, thu
hút lao động nông thôn, thúc đấy sản xuất nông nghiệp và hoạt động dịch
vụ cùng phát triển, góp phần tăng thu nhập cho người nông dân, tham gia
xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, nâng cao trình độ văn hoá, dân
trí nông thôn, đối mới nông thôn đồng thời chịu sự quản lý hành chính
của các cấp chính quyền địa phương.
b. Đặc điểm về lao động
Đặc điểm nổi bật trong sản xuất nghề truyền thống là sử dụng lao
động thủ công là chính. Do sản phẩm của nghề truyền thống đòi hỏi trình

độ kỹ thuật, thẩm mỹ cao, đường nét tỷ mỉ, có tính đơn chiếc nên lao
động làm nghề thủ công truyền thống có tính thủ công, trình độ kỹ thuật
cao, tay nghề khéo léo, có đầu óc thấm mỹ và sáng tạo.
c. Đặc điếm về thị trường
Thị trường là một yếu tố rất quan trọng, nó có ý nghĩa quyết định tới
sự tồn tại và phát triển của mỗi nghề truyền thống.
- Thị trường cung ứng vật liệu:
Nói chung là nhỏ hẹp, chủ yếu là thị trường mua, bán tại chỗ
- Thị trường công nghệ:
Việc tạo ra công cụ sản xuất là khả năng tạo ra vốn của thợ thủ công,
họ có thế làm ra công cụ từ đơn giản đến phức tạp. Hiện nay với sự phát
triển của khoa học và công nghệ thì có sự “ Hiện đại hoá công nghệ

13


truyền thống”, thay thế công nghệ thủ công lạc hậu bằng công nghệ hiện
đại đế nâng cao năng suất lao động, tăng hiệu quả sản xuất.
- Thị trường vốn: Tuy đã được hình thành nhưng vẫn còn nhở bé so
với sức phát triến của sản xuất. Các nguồn vốn tự có, vốn chiếm dụng và
vốn vay vẫn là nguồn vốn chủ yếu, có tác động quan trọng tới sự mở
rộng quy mô sản xuất và duy trì sự phát triển. Hình thức tín dụng chủ
yếu như vay mượn, cho vay lấy lãi, chơi họ, lập phường hội vẫn là phố
biến
- Thị trường lao động: Được hình thành và phát triến có nhiều yếu tố
mới, ngoài lao động tại chỗ có lao động tại các vùng khác, các nơi khác.
Ngoài lao động thời vụ còn có lao động thường xuyên
- Thị trường tiêu thụ sản phấm: Loại thị trường này rất quan trọng, nó
đóng vai trò quyết định tới sự sống còn của từng nghề, về cơ bản vẫn là
thị trường tại chỗ, nhỏ hẹp, sản phẩm được tiêu thụ chủ yếu ở nông thôn.

- Tuy nhiên sản phẩm truyền thống hiện nay đã hấp dẫn đổi với nhiều
khách nước ngoài. Các sản phẩm như: Gốm, sứ, dệt tơ tằm.....................đã được
các thương nhân nước ngoài mua với số lượng lớn, chúng có mặt ở nhiều
nơi trên thế giới như: Pháp, Nhật, Trung Quốc...Hiện nay sự đòi hỏi
khắt khe của thị trường nước ngoài về chất lượng, chủng loại và sự thay
đối mẫu mã nhưng vẫn phải thể hiện sắc thái riêng của văn hoá Việt
Nam trong từng sản phẩm cũng là một khó khăn.
d. Đặc điếm về hình thức tố chức kinh doanh
Trong lịch sử phát triển các nghề truyền thống hình thức tố chức sản
xuất kinh doanh phố biến nhất là hình thức hộ gia đình. Ngoài ra còn
một số hình thức khác hiện nay đã được ra đời và phát triến là: Tố hợp
tác, hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân, công ty Trách nhiệm hữu hạn.

14


2.1.3 Vai trò của phát trỉến nghề truyền thống đổi với các vấn để
kinh tế, xã hội ở nông thôn
Vịêc phát triến nghề truyền thống ở nông thôn có vai trò rất to lớn đó
là:
0 Nghề truyền thống ở nông thôn góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông thôn theo huớng công nghiệp hoá: Chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ở nông thôn là nhằm phát triến kinh tế nông thôn lên một buớc
mới về chất, làm thay đổi cơ cấu sản xuất, cơ cấu lao động, cơ cấu việc
làm, cơ cấu giá trị sản luợng và cơ cấu thu nhập của dân cư nông thôn
bằng các nguồn lợi từ các lĩnh vực trong nông nghiệp và phi nông
nghiệp.Với mục tiêu như vậy, vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
thôn ngày càng được thúc đẩy, nó diễn ra ngay trong nội bộ ngành nông
nghiệp và cả các bộ phận hợp thành khác của cơ cấu kinh tế nông thôn.
Trong quá trình vận động và phát triến, các nghề truyền thống có vai trò

tích cực trong việc góp phần tăng tỷ trọng của công nghiệp, tiếu thủ công
nghiệp và dịch vụ, thu hẹp tỉ trong nông nghiệp, chuyển lao động từ sản
xuất nông nghiệp có thu nhập thấp sang ngành nghề phi nông nghiệp có
thu nhập cao hơn.Thực tế trong lịch sử, sự ra đời và phát triến của các
nghề truyền thống ngay từ đầu đã làm thay đối cơ cấu kinh tế xã hội
nông thôn. Ớ nông thôn, khi nghề thủ công xuất hiện thì kinh tế nông
thôn thôn không chỉ còn ngành nông nghiệp thuần nhất, mà bên cạnh là
các ngành thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ cùng tồn tại và phát
triển.
0 Phát triển nghề truyền thống góp phần giải quyết việc làm, tăng thu
nhập cho người lao động nông thôn:
Các nghề truyền thống góp phần tạo việc làm, nâng cao đời sổng cho
dân cư nông thôn là vấn đề quan trọng ở nước ta hiện nay. Khi đất đai

15


canh tác ngày càng bị thu hẹp, lao động ngày càng dư thừa thì vấn đề đặt
ra là phải làm sao giải quyết được công ăn việc làm cho lực lượng dư
thừa này, đồng thời tăng thu nhập cho các hộ gia đình trong điều kiện
sản xuất còn hết sức hạn chế. Theo tình toán của cac chuyên gia thì hiện
nay thời gian lao động dư thừa ở nông thôn còn khoảng 1/3 chưa sử
dụng. Do vậy vấn đề giải quyết công ăn việc làm cho số la động này là
rất khó khăn.Phát triển các nghề truyền thống ở nông thôn là một trong
những cách giải cho bài toán này.
Sự phát triến của các nghề truyền thống đã kéo theo sự phát triến và
hình thành của nhiều nghề khác, nhiều hoạt động dịch vụ liên quan xuất
hiện, tạo thêm nhiều việc làm mới, thu hút nhiều lao động. Nghề chế
biến lương thực, thực phẩm không chỉ có tác dụng
Hơn nữa, sản phấm của các nghề truyền thống ở Việt Nam ngày càng

được du khách nước ngoài chú ý, do vậy kim ngạch xuất khấu cho các
sản phẩm này ngày càng tăng, góp phần cải thiện đời sống, cơ sở vật
chất cho người dân nông thôn.
0 Góp phần thu hút vốn nhà rỗi, tận dụng thời gian lao động dư thừa,
hạn chế di dân tự do: Đặc điểm sản xuất của các nghề truyền thống là
quy mô nhỏ, cơ cấu vốn và lao động ít nên rất phù hợp với khả năng huy
động vốn và nguồn lực vật chất của các hộ gia đình.Với mức vốn đầu tư
không lớn, trong điều kiện hiện nay thì đó là một lợi thế để có thể huy
động vốn nhàn nhãn rỗi trong dân cho hoạt động sản xuất của các nghề.
Mặt khác, do đặc điểm sản xuất của các nghề truyền thong là sử dụng
lao động thủ công là chủ yếu, nơi sản xuất cũng chính là nơi ở của người
lao động nên bản thân nó có thể tận dụng và thu hút nhiều lao động, từ
lao động thời vụ nông nhàn đến lao động trên độ tuối hay dưới độ tuối.
Trẻ em tham gia sản xuất dưới hình thức học nghề hay giúp việc. Lực

16


lượng lao động này chiềm một tỷ lệ rất đáng kế trong tổng số lao động ở
các nghề.
Cùng với việc tận dụng thời gian và lực lượng lao động, sự phát triển
của cac nghề truyền thống đã có vai trò tích cực trong việc hạn chế di
dân tự do ở nông thôn ra thành thị, từ vùng này sang vùng khác. Sức ép
về việc làm và thu nhập đã thúc đẩy người nông dân di dân để tìm nơi
mới có việc làm và thu nhập khá hơn. Khi nghề truyền thống ở nông
thôn phát triển sẽ là một động lực lớn đế cản trở vấn đề di dân tự do này.
0 Đa dạng hoá kinh tế nông thôn, thúc đấy quá trình đô thị hoá: Đa
dạng hoá kinh tế nông thôn là một biện pháp thúc đấy kinh tế hàng hoá ở
nông thôn phát triển, tạo ra một sự chuyển biến mới về chất, góp phần
phát trien kinh tế, xã hội nông thôn.Vì vậy trong kinh tế nông thôn phát

triến nghề truyền thống được coi là cơ sở và là một trong những giải
pháp quan trọng đế thực hiện quá trình này.Trong thực tế nó đã thế hiện
rõ vai trò thúc đấy sản xuất nông nghiệp phát triển, kích thích sự ra đời
và phát triển của các nghề khác như dịch vụ, thương mại.
0 Góp phần cải thiện đời sống nhân dân và góp phần xây dựng nông
thôn mới: Việc cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân chỉ có thể được
thực hiện trên cơ sở ổn định việc làm và nâng cao thu nhập, Ở những
vùng có nghề truyền thống phát triến đều thế hiện sự văn minh, giàu có,
dân trí cao hơn hẳn những vùng chỉ có thuần tuý san xuất nông nghiệp.Ở
những nơi có nghề thì tỉ lệ hộ khá và giàu thường rất cao, tỉ lệ hộ nghèo
thường rất thấp và hầu như không có hộ đói. Thu nhập từ nghề thủ công
chiểm tỉ lệ lớn trong tống thu nhập đã đem lại cho người dân một cuộc
sống đầy đủ, phong lưu hơn cả về mặt vật chất lẫn tinh thần.

17


Ớ những nơi có nghề thủ công thì người nông dân cùng với sự đối mới
trong đời sống kinh tế , văn hoá của người dân là quá trình xây dựng và
đổi mới nông thôn theo hướng hiện đại hoá.
0 Góp phần bảo tồn giá trị văn hoá dân tộc: Sản phấm của nghề thủ
công truyền thống là sự kết tinh của lao động vật chất và lao động tinh
thần, nó được tạo nên bởi bàn tay tài hoa và óc sáng tạo của người thợ
thủ công. Nhiều sản phẩm truyền thống có tính nghệ thuật cao, mỗi sản
phẩm là một tác phẩm nghệ thuật, trong đó chứa đựng những nét đặc sắc
văn hoá dân tộc, đồng thời thế hiện những sắc thái riêng, đặc tính riêng
của mỗi nghề. Với những đặc điếm ấy chúng không chỉ còn là hàng hoá
đơn thuần mà còn trở thành sản phấm văn hoá có tính nghệ thuật cao và
được coi là biểu tượng nghề truyền thống của dân tộc Việt Nam. Nghề
truyền thống, đặc biệt là nghề thủ công mỹ nghệ là những di sản quý giá

mà các thế hệ cha ông đã sáng tạo ra và truyền lại cho các thế hệ sau.
2.1.4 Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của các nghề
truyền thong
Thứ nhất, yếu tố thị trường: Yeu tố này đóng vai trò quyết định
đến sự sống còn của từng nghế. Những nghề sản xuất ra những sản phẩm
có khả năng thích ứng với sự thay đối của nhu cầu thị trường thường có
tốc độ. Đó là những sản phấm có đủ sức cạnh tranh trên thị trường và
luôn đổi mới cho phủ hợp với nhu cầu và thị hiếu tiêu dung của xã hội.
Đặc biệt là khi chúng ta đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức
thương mại thế giới (WTO) thì sức cạnh tranh đế giữ vững và mở rộng
được thị trường là việc làm rất quan trọng, được đặt lên hàng đầu.
Ngược lại một số nghề truyền thống không phát triến được, ngày càng
mai một, thậm chí có nguy cơ bị mất đi và không đáp ứng được nhu cầu

18


thị trường hoặc nhu cầu thị trường không cần đến loại sản phẩm đó nữa
như: Tranh Đông Hồ, nghề đan quạt...
Như vậy, rõ ràng thị trường và phát triển thị trường đã tác động
mạnh tới phương hướng phát triến, cách thức tố chức sản xuất, cơ cấu
sản phẩm và là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển.
Tuy nhiên nếu thị trường không ốn định sẽ gây ra khó khăn và bấp
bênh cho sản xuất.
Thứ hai, trình độ kỹ thuật và công nghệ: Việt Nam đã chính thức
là thành viên của WTO, nền kinh tế toàn cầu đã được mở rộng do vậy
việc ứng dụng khoa học công nghệ mới có ý nghĩa quyết định, các tác
động trực tiếp tới đảm bảo và nâng cao khả năng cạnh tranh của sản
phẩm. Nhận thức được điều này, nhiều nghề truyền thống đã được đấy
mạnh việc áp dụng khoa học kỹ thuật và đối mới công nghệ, cải tiến

phương pháp sản xuất đế nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản
phẩm, hạ giá thành sản phẩm, tạo ra một sự phát triển mạnh mẽ và ốn
định cho các làng nghề.
Thứ ba, nguồn vốn: Việt Nam vừa trải qua thời kỳ lạm phát cao
đồng thời “ cơn bão tài chính” trên toàn thế giới đã làm ảnh hưởng rất
lớn đến các thành phẩn kinh tế nói chung và đến sản xuất nghề truyền
thống nói riêng. Hiện nay nhu cầu về vốn là một vấn đề khó khăn chung
cho toàn bộ nền kinh tế cần phải được tháo gỡ, với sự hỗ trợ tích cực và
cụ thế từ phía Nhà nước, đặc biệt là đề ra những chính sách phù hợp với
đặc điểm sản xuất của các nghề truyền thống.
Thứ tư, cơ sở hạ tầng: Yeu tố này bao gồm: Hệ thống giao thông,
thông tin liên lạc, cấp thoát nước. Các yếu tố này càng phát triến, thuận
lợi càng tạo ra điều kiện cho các nghề truyền thống phát triến. Tuy nhiên

19


cho đến ngay sự phát triển trong các nghề truyền thống vẫn gặp không ít
khó khăn do yếu kém và thiếu đồng bộ của cở sở hạ tầng.
Thứ năm, nguồn nhân lực: Là một trong những nguồn lực quan
trọng nhất của sự phát triến. Nguồn nhân lực của sản xuất nghề truyền
thống bao gồm những nghệ nhân, thợ thủ công và những chủ cơ sở sản
xuất kinh doanh. Hiện nay một hạn chế rất lớn là chất lượng nguồn nhân
lực chua cao, trình độ chuyên môn và trình độ văn hoá còn thấp, nhất là
đối với các chủ doanh nghiệp, là một cản trở lớn trong việc phát triển
sản xuất theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá.
Thứ sáu: Nguồn vật liệu: Trong những giai đoạn trước đây gần
nguồn nguyên liệu, vật liệu được coi là một trong những điều kiện tạo
nên sự hình thành và phát triển sản xuất các nghề truyền thống. Song
hiện nay giao thông và phương tiện vận chuyến phát triến hơn nên vấn

đề này không còn quan trọng hơn so với trước đối với sự phát triến các
cơ sở nghề truyền thống.
Thứ bẩy: yếu tố truyền thống: Yeu tố truyền thống có tác dụng bảo
tồn những nét văn hoá đặc trưng của từng vùng hay từng nơi có nghề
truyền thống, làm gia tăng giá trị nghệ thuật cúa sản phẩm. Tuy nhiên
trong quá trình phát triển, yếu tố truyền thống cũng phải được duy trig
một cách có chọn lọc nhằm phát huy những mặt tích cực của nó phù hợp
với những thay đối của xã hội hiện tại.
Thứ tám: Cơ chế chính sách: Quá trình đối mới kinh tế cùng với hệ
thống chính sách kinh tế vĩ môi của Nhà nước đã có những tác động to
lớn có ý nghĩa quyết định tới sự phát triển của các nghề truyền thống.
Với chính sách phát triển của các thành phần kinh tế, các thành
phần kinh tế tư nhân, cá thế, hộ gia đình, các doanh nghiệp tư nhân được

20


công nhận và tồn tại trong sản xuất các sản phẩm truyền thống, làm cho
các nghề truyền thống đuợc khôi phục và phát triến mạnh mẽ.
Chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế đã kích thích sản
xuất phát triến, mở rộng thêm nhiều thị truờng mới. Ngoài ra còn có các
chính sách khác như chính sách miễn thuế, chính sách hỗ trợ vốn, chính
sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ... đã có tác động tích cực đến
các nghề truyền thống.
2.2.

Cơ sở thực tiễn về phát triển nghề truyền thống

2.2.1.


Kỉnh nghiệm phát triển các nghề truyền thống trên thế giới

* Kinh nghiệm ở Nhật Bản
Ớ Nhật Bản, bên cạnh những ngành kinh tế hiện đại với các khu
công nghiệp tập trung quy mô lớn thì ở các vùng thị trấn, thị tứ, làng xã
ở nông thôn, một mạng lưới các cơ sở công nghiệp vừa và nhỏ đã được
xây dựng và đặc biệt các cơ sở công nghiệp gia đình ở nông thôn, các hộ
làm nghề thủ công được chú trọng phát triển. Chính trên cơ sở đó nhiều
vùng trên đất nước Nhật Bản đã tồn tại nhiều nghề thủ công truyền thống
như: nghề đan lát, dệt chiếu, may áo kimono, rèn kiếm, dệt lụa...
Đe hỗ trợ các nghề thủ công phát triến thì chính phủ Nhật Bản đề
ra một luật pháp đặc biệt để khôi phục và phát triển các nghề thủ công
truyền thống và pháp luật này được gọi là “ Luật nghề truyền thống”.
Luật này có tác dụng đế bảo lãnh và bảo hiểm tín dụng để giúp đỡ các
làng nghề truyền thống vay vốn mà không cần thế chấp. Trên cơ sở các
luật nghề truyền thống thì các chính sách trợ giúp theo kế hoạch khôi
phục và phát triến nghề truyền thống được ban hành. Trên cơ sở lập kế
hoạch đế khôi phục hay phát triến các nghề truyền thống thì các chủ cơ
sở sẽ được hỗ trợ về mọi mặt.

21


Ngoài ra ở Nhật Bản còn thành lập hiệp hội nghề truyền thống.
Hiệp hội này có chức năng và vai trò rất to lớn trong việc phát triến các
nghề truyền thống như: Tố chức đào tạo và dạy nghề, hỗ trợ vốn cho các
cơ sở, cấp học bống cho thanh niên học nghề truyền thống, cho 300.000
Yên/lnăm đối với những người nâng cao kỹ thuật; vinh doanh các nghệ
nhân giỏi; phát giấy chứng nhận hành công nghệ nghề truyền thống.
Đồng thời hiệp hội này còn giới thiệu hàng công nghệ truyền thống

thông qua sách vở, áp phích, báo chí..
Bằng hàng loạt những hỗ trợ như trên, nghề truyền thống ở Nhật
Bản đã phát triển mạnh mẽ và hàng năm hàng thủ công mỹ nghệ truyền
thống mang lại nhiều USD cho đất nước[9].
* Kinh nghiệm ở Ân Độ
Ân Độ có nhiều nghề truyền thống và làng nghề truyền thống được
hình thành từ rất lâu trong lịch sử và còn tồn tại đến ngày nay. Hiện nay
có hàng triệu người đang sống bằng nghề thủ công truyền thống. Các
nghề truyền thống ở Ân Độ bao gồm chế tác kim hoàn, đồ trang sức,
gốm mỹ nghệ, sản xuất tơ lụa. Trong số những nghề thủ công truyền
thống thì nghề chế tác kim hoàn và trang sức là một trong những nghề
mũi nhọn, nghề hoạt động có hiệu quả cao và thu ngoại tệ nhiều nhất.
Ngành công nghiệp đá quý của Ân Độ đứng đầu trên thị trường thế giới,
các mặt hàng này chủ yếu được xuất khẩu sang Mỹ, HồngKông.
Ân Độ cũng rất chú trọng và có nhiều biện pháp, chính sách đế hỗ
trợ các nghề truyền thống. Ngoài chính sách hỗ trợ về vốn, đầu tư cơ sở
hạ tầng thì chính phủ còn rất chú trọng đến việc tăng cường và bồi
dường nguồn nhân lực, Thợ thủ công được chính phủ quan tâm cả về mặt
vật chất lẫn tinh thần, trong đó các nghệ nhân và thợ cả được coi như
vốn quý của quốc gia. Hàng năm chính phủ tố chức cấp giải thưởng quốc

22


gia cho thợ cả. Những sự quan tâm đó đã khuyến khích, động viên những
nguời thợ giỏi tâm huyết với nghề, góp phần vào việc duy trì và phát
triển các nghề truyền thống của đất nuớc[10].
* Kinh nghiệm ở Trung Quốc
Trung Quốc là nuớc các nhiều nghề truyền thống phát triển. Từ xa
xua nó đã thực sự nối tiếng với các sản phẩm của nghề dệt, nghề gốm,

nghề giấy, nghề đúc kim hoàn... trải qua nhiều biến đổi trong các thời kỳ
lịch sử, nhiều nghề thủ công truyền thống vẫn được bảo tồn và phát
triến. Phát triến nghề truyền thống được chính phủ Trung Quốc rất quan
tâm coi đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng của công cuộc công
nghiệp hoá nông thôn. Nhiều chính sách đã được ban hành và thực hiện
thành công. Các chính sách hồ trợ nghề thủ công truyền thống bao gồm:
Chính sách hỗ trợ về vốn, chính sách thuế, chính sách xuất khấu, chính
sách bảo hộ hành nội địa...
Trung Quốc đã có một thời gian, hàng của các nghề truyền thống
được sản xuất ra hầu hết không bán được do không đáp ứng được nhu
cầu thị trường về chất lượng, mẫu mã sản phẩm nhiều cơ sở đã bị thua
lỗ, phá sản. Nguyên nhân của khó khăn trên là do kỹ thuật thủ công lạc
hậu, quy mô sản xuất nhỏ và phân tán, năng suất thấp, chất lượng kém.
Đế khắc phục những khó khăn này thì chính phủ Trung Quốc đã đề ra
chương trình “Đốm lửa” nhằm chuyển giao công nghệ và khoa học ứng
dụng tiên tiến tới những vùng nông thôn, kết hợp khoa học kỹ thuật với
kinh tế.
Với chương trình “Đốm lửa” thì nghề thủ công của Trung Quốc đã
dần dần ra khỏi khó khăn và tạo ra một đột phá mới trong phát triển các
nghề thủ công truyền thống của mình [11].

23


*

Kinh nghiệm ở Thái Lan:

Chính phủ đã đầu tư một khoản vốn nhất định đế xây dựng trung
tâm dạy nghề truyền thống co những nông dân nghèo. Trung tâm dạy

nghề cho thanh niên nông thôn nghèo làn các sản phấm thủ công mỹ
nghệ truyền thống do Hoàng Hậu đỡ đầu, hàng năm thu hút hàng trăm
thanh niên nghèo ở các địa phương về học nghề. Trong thời gian học tập
được cấp học bống và tạo các điều kiện học tập, không phải đóng học
phí hoặc bất kỳ một khoản lệ phí nào. Ket thúc khoá học họ được giới
thiệu trở lại địa phương và được tạo điều kiện đế hành nghề, vừa đảm
bảo có thu nhập vừa đảm bảo duy trì phát triển và bảo tồn nghề truyền
thống của các dân tộc[ 12].
*

Kinh nghiệm ở Inđônêxia:

Chính phủ đã mở một mạng lưới các ngân hàng nông thôn quy mô
nhỏ được thành lập ở khắp mọi miền đất nước nhằm tạo điều kiện cho
việc cấp tín dụng cho nông thôn mà chủ yếu là những người nghèo thiếu
việc làm. Hàng năm tổng thống đã đứng ra phát động chương trình giúp
đỡ người nghèo và chọn ra những làng kinh tế kém phát triển, cung cấp
cho mỗi làng một khoản tín dụng đế các hộ nông dân nghèo luân phiên
nhau vay vốn dùng vào sản xuất nông nghiệp và phát triển nghề thủ công
truyền thống[13].
2.2.2

Kinh nghiệm phát triên các nghề truyền thong ở Việt Nam

Trong những năm gần đây, nhiều sản phâm của các nghề truyền
thống đã được khẳng định trên thị trường nhiều nước trong khu vực và
trên thế giới, do vậy sản phẩm ổn định và phát triển, quy mô ngày càng
mở rộng. Sự mở rộng của quy mô sản xuất không chỉ thế hiện ở mở rộng
mặt bằng sản xuất, mà ở sự tăng nguồn vốn đầu tư, đối mới kỹ thuật


24


công nghệ, tạo nhiều việc làm cho người lao động, tăng khối lượng sản
phấm, tăng giá trị tống sản lượng.
về lao động và việc làm ở nông thôn thì hiện nay lao động trong
nông thôn chiếm 74,5% lao động trong cả nước (khoảng 32 triệu người),
nhưng trong đó mới sử dụng hơn 70% quỹ thời gian. Do vậy lao động ở
nông thôn vẫn còn dư thừa, không đủ việc làm. Ở một số làng nghề phát
triển mạnh như Bát Tràng (Hà Nội); La Xuyên (Nam Định); La Phù Hà
Tây... Lao động có việc làm quanh năm. Nhưng ở các làng nghề kém
phát triến hơn thì lao động chỉ làm việc 3-4 tháng trong năm.

Mức thu nhập thực tế của người lao động trong các nghề truyền
thống rất khác nhau. Nó tuỳ thuộc vào công việc và khả năng phát triển
của mồi nghề. Hiện nay các nghề có thu nhập cao phải kể đến nghề gốm
sứ, đồ thủ công mỹ nghệ, rèn đúc sắt thép... Thu nhập bình quân của các
nghề này đạt từ BOO.OOOđ đền 1 .OOO.OOOđ/người/tháng. Các nghề dệt,
thêu ren, chế biến nông sản có thu nhập thấp hơn khoảng 500.000đ đến
700.000đ/người/ tháng[14].
Chất lượng lao động và trình độ chuyên môn kỹ thuật ở các nghề
truyền thống nhìn chung còn thấp, chủ yếu là lao động thủ công, lao
động lành nghề chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Ớ Nam Định, Hà Nam, số lao động
bậc cao và tinh xảo chỉ chiếm 2,1%. Cán bộ quản lý có trình độ đại học
hầu như rất ít[l5].
Trong điều kiện mới, sự phát triến của nghề truyền thống đòi hỏi
một lượng vốn rất lớn đế mở rộng sản xuất và cải tiến kỹ thuật và đổi
mới công nghệ, đáp ứng nhu cầu thị trường. Song tình trạng thiếu vốn
vẫn còn phổ biến, sự tiếp cận nguồn vốn tín dụng chính thức bán chính
thức còn gặp nhiều khó khăn.


25


Sự phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học kỹ thuật có
những tác động quan trọng tới sự đối mới kỹ thuật công nghệ trong các
nghề. Ở nhiều nơi đã có sự áp dụng khoa học kỹ thuật mới, thay thế thiết
bị, máy móc cũ bằng thiết bị máy móc mới, hiện đại. Vì vậy các sản
phấm của các nghề truyền thong dần dần đáp ứng đuợc nhu cầu của thị
trường trong nước và trên thế giới. Nhiều nghề đã dung điện lực làm
động lực chạy máy như xay xát, nghiền bột, máy cưa, máy bào...Làng
Bát Tràng đã dùng ga và điện cho lò nung, đào đất bằng máy thay bằng
tay... Nghề Vạn Phúc Hà Tây đã thay máy dệt cho khung cửi.... Việc
đối mới công nghệ vẫn giữ được những yếu tố truyền thống của snả
phẩm. Song sự đổi mới công nghệ diễn ra còn chậm, chưa đồng bộ, chưa
hệ thống. Sự đối mới công nghệ chưa chú ý đến vấn đề môi trường và an
toàn lao động. Tình trạng ô nhiểm môi trường đang trở thành vấn đề bức
xúc trong các làng nghề. Đó là sự ô nhiễm không khí do bụi, tiếng ồn,
nhiệt độ cao. Hoặc ô nhiễm nguồn nước do hoá chất, chất thải của các cơ
sở sản xuất không được xử lý.
Sản phẩm làm ra của các nghề truyền thống hiện nay chủ yếu là
được tiêu thụ ở thị trường trong nước (Chiếm 90%). Các sản phẩm sản
xuất ra được tiêu thụ ngay tại chồ hoặc các vùng lân cận. Khi Việt Nam
hội nhập thì thị trường nước ngoài có thể mở rộng hơn, tuy nhiên các cơ
sở phải nỗ lực đế đáp ứng thị hiếu của khách hàng về chất lượng, mẫu
mã sản phấm.
2.2.3

Thực trạng phát triển các nghề truyền thống ở tỉnh Hưng Yên


Hiện nay Hưng Yên có khoảng 62 làng nghề truyền thống hoạt
động ở các lĩnh vực và các mức độ khác nhau, thu hút và giải quyết cho
trên 19.600 lao động. Từ năm 1997 đến nay làng nghề và ngàng nghề
tiếu thủ công nghiệp có tốc độ tăng trưởng bình quân là 12,5%, giá trị

26


×