Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

đảng bộ tỉnh thái bình ra đời và lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền từ 1927 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (568.65 KB, 65 trang )

1

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự
hướng dẫn của thầy giáo, Thạc sĩ Sử học Nguyễn Văn Dũng.
Tôi xin cam đoan những kết quả nghiên cứu của khóa luận chưa từng
được công bố ở bất kỳ một công trình nghiên cứu nào, đó là những kết quả
đúng, nếu sai tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, ngày 26 tháng 4 năm 2011
Tác giả khóa luận

Phạm Thị May


2

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận em xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô trường
Đại Học Sư Phạm Hà Nội 2, nơi đã đào tạo em trong suốt 4 năm học.
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới thầy giáo
Nguyễn Văn Dũng - Người đã tận tình hướng dẫn chỉ bảo, giúp đỡ để em
hoàn thành khóa luận này.
Qua đây em cũng gửi lời cảm ơn tới các cán bộ Thư viện trường Đại
học Sư phạm Hà Nội 2; Thư viện Tỉnh Thái Bình đã giúp đỡ em trong quá
trình thu thập tư liệu để làm khóa luận.
Em xin cảm ơn sự quan tâm của gia đình và bạn bè đã giúp đỡ em hoàn
thành khóa luận này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 26 tháng 4 năm 2011
Tác giả khóa luận



Phạm Thị May


3

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

……………………………………………………………

Chương 1.

Quá trình ra đời của Đảng bộ tỉnh Thái Bình (1927-

1

1929)…………………………………..............................

5

1.1.

Khái quát về tỉnh Thái Bình……………………………...

5

1.1.1.


Địa lí và dân cư ……………………………………….....

5

1.1.2.

Truyền thống lịch sử và văn hóa của nhân dân tỉnh Thái
Bình…………………………………................................

9

1.2.

Quá trình ra đời Đảng bộ tỉnh Thái Bình………………...

15

1.2.1.

Hoàn cảnh ra đời Đảng bộ tỉnh Thái Bình……………….

15

1.2.2.

Sự thành lập Đảng bộ tỉnh Thái Bình……………………

20

1.2.3.


Ý nghĩa sự ra đời Đảng bộ tỉnh Thái Bình……………….

23

Chương 2.

Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo đấu tranh giành
chính quyền (1930- 1945)……………………………….

2.1.

25

Lãnh đạo phong trào cách mạng trong những năm 1930 1935……………………………………………

25

2.2.

Lãnh đạo đấu tranh dân chủ từ năm 1936 đến năm 1939.

32

2.3.

Lãnh đạo phong trào đấu tranh tiến tới tổng khởi nghĩa
giành chính quyền trong những năm từ 1939 đến 1945…

39


2.4.

Nhận xét chung và bài học kinh nghiệm…………………

50

2.4.1.

Nhận xét chung…………………………………………..

50

2.4.2.

Bài học kinh nghiệm……………………………………..

57

KẾT LUẬN ……………………………………………………….

58

TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………...

60


4


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong cách mạng của giai cấp
công nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc Việt Nam. Đảng là tổ chức
lãnh đạo duy nhất cách mạng Việt Nam, đã đưa dân tộc ta tiến lên giành
những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử vĩ đại và có tính thời đại sâu sắc. Và ở tuổi
15, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta đứng lên giành chính quyền trong cả nước,
lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Thắng lợi đó có sự chung lưng góp
sức của các Đảng bộ và nhân dân các địa phương.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, Đảng ta vẫn luôn xác định phải
huy động sức mạnh của toàn dân, sức mạnh của từng địa phương để xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ Nghĩa. Vì vậy, nghiên cứu về sự ra đời của Đảng bộ và thực hiện chủ
trương của Trung ương Đảng, lãnh đạo nhân dân địa phương đứng lên khởi
nghĩa giành chính quyền nhằm làm rõ một vấn đề quan trọng trong lịch sử
đấu tranh của Đảng, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm phục vụ hiện tại
là việc làm có ý nghĩa lí luận và thực tiễn.
Thái Bình là vùng đất có truyền thống yêu nước và cách mạng. Trong
suốt chiều dài lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc, tỉnh Thái
Bình luôn giữ một vị trí chiến lược quan trọng. Vì vậy, nơi đây đã trở thành
nơi cuộc khởi nghĩa diễn ra quyết liệt giữa ta và địch.
Nghiên cứu về sự ra đời của Đảng bộ và cuộc khởi nghĩa giành chính
quyền trên địa bàn tỉnh Thái Bình sẽ giúp chúng ta hiểu sâu sắc về:
- Quá trình ra đời của Đảng bộ tỉnh Thái Bình.
- Sự lãnh đạo tổ chức của Đảng với cuộc khởi nghĩa giành chính quyền.


5


- Tinh thần anh dũng, kiên cường chiến đấu của Đảng bộ và nhân dân
tỉnh Thái Bình.
- Những thắng lợi, ưu điểm và những mặt còn hạn chế trong lãnh đạo
của Đảng mà trực tiếp là Đảng bộ Thái Bình với cuộc khởi nghĩa giành chính
quyền ở địa phương.
Ngoài ra, việc nghiên cứu về sự ra đời của Đảng bộ và sự lãnh đạo của
Đảng bộ tỉnh Thái Bình trong cuộc khởi nghĩa giành chính quyền đã góp phần
vào việc nghiên cứu lịch sử địa phương, lịch sử dân tộc, và giảng dạy giáo
dục truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm cho thế hệ trẻ Thái Bình
hiện nay và mai sau.
Từ ý nghĩa khoa học và thực tiễn trên, nên tôi quyết định chọn đề tài: “
Đảng bộ tỉnh Thái Bình ra đời và lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền từ
năm 1927 đến năm 1945” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu về sự ra đời của Đảng bộ tỉnh Thái Bình và lãnh đạo đấu
tranh giành chính quyền từ năm 1927 đến năm 1945 đã được sự chú ý của
nhiều nhà khoa học. Một số công trình được tuyên bố như: “ Người dân Thái
Bình trong lịch sử”, Kỷ yếu hội tháo khoa học, Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng
Thái Bình, 1986; “ Những sự kiện lịch sử Đảng bộ Thái Bình”, Ban nghiên
cứu lịch sử Đảng, 1982; “ Lịch sử Đảng bộ Thái Bình (1927- 1954), NXB
Chính trị Quốc gia, 1982…
Những công trình khoa học trên đã đề cập đến sự ra đời và sự lãnh đạo
đấu tranh giành chính quyền ở Thái Bình. Tuy nhiên, chưa có công trình khoa
học nào nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về sự ra đời của Đảng
bộ và lãnh đạo đấu tranh giành quyền trong những năm từ 1927 đến 1945.


6

3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu

3.1. Mục đích
Khai thác sâu, tìm hiểu kĩ hơn nữa quá trình ra đời của Đảng bộ tỉnh
Thái Bình; những chủ trương, đường lối và quá trình lãnh đạo nhân dân đấu
tranh giành chính quyền. Làm rõ những thành tựu cũng như hạn chế trong quá
trình lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền. Từ đó rút ra những bài
học kinh nghiệm để lãnh đạo nhân dân trong giai đoạn hiện nay, đẩy mạnh sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa xây dựng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích hoàn cảnh và quá trình ra đời của Đảng bộ tỉnh Thái Bình.
- Phân tích sự lãnh đạo xây dựng lực lượng và tiến hành đấu tranh trên
địa bàn tỉnh của Đảng bộ Thái Bình thời kỳ 1927- 1945 trên cơ sở quán triệt,
thực hiện chỉ thị Nghị quyết của Trung ương Đảng.
- Nhận xét những ưu điểm, hạn chế của Đảng bộ Thái Bình trong việc
lãnh đạo nhân dân giành chính quyền.
- Nêu lên một số đặc điểm và rút ra bài học kinh nghiệm trong lãnh đạo
của Đảng bộ tỉnh Thái Bình.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về sự ra đời và sự lãnh đạo của Đảng bộ
tỉnh Thái Bình trong cuộc đấu tranh giành chính quyền của quân dân trong
tỉnh trong thời kỳ 1927-1945.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
- Các văn kiện của Đảng trong những năm 1930-1945.
- Các văn kiện của Đảng bộ tỉnh và các huyện.
- Lịch sử Đảng bộ các địa phương ở tỉnh Thái Bình.


7


4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu và trình bày khóa luận, tôi đã sử dụng
phương pháp lịch sử và phương pháp logic là hai phương pháp chủ yếu. Bên
cạnh đó tôi còn sử dụng các phương pháp khác như: tổng hợp, phân tích, so
sánh để làm nổi bật những luận điểm mà đề tài đặt ra.
5. Đóng góp của khóa luận
- Đề tài đã nêu bật được quá trình ra đời của Đảng bộ tỉnh Thái Bình và
sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh với cuộc đấu tranh cách mạng giành chình
quyền.
- Khóa luận có thể dùng tài liệu tham khảo khi nghiên cứu và giảng dạy
lịch sử địa phương Thái Bình.
6. Bố cục khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận
bao gồm 2 chương:
Chương 1: Quá trình ra đời của Đảng bộ tỉnh Thái Bình (1927- 1929).
Chương 2: Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo đấu tranh giành chính
quyền (1930- 1945).


8

Chương 1
QUÁ TRÌNH RA ĐỜI CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI BÌNH
(1927- 1929)

1.1. KHÁI QUÁT VỀ TỈNH THÁI BÌNH
1.1.1. Địa lí và dân cư
1.1.1.1. Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên
Thái Bình là một tỉnh ven biển nằm ở phía đông nam vùng đồng bằng
Bắc Bộ, phía đông giáp vịnh Bắc Bộ, tây và nam giáp tỉnh Hà Nam Ninh (

nay là tỉnh Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình), bắc giáp tỉnh Hải Hưng và Hải
Phòng. Thái Bình nằm trong tọa độ 20,17 đến 20,43 độ vĩ bắc; 106,06 đến
106,39 độ kinh đông.
Diện tích Thái Bình rộng 1.495 km2, từ tây sang đông dài 54km, từ bắc
xuống nam dài 49km. Địa hình tương đối bằng phẳng dốc từ tây bắc xuống
đông nam, độ cao so với mặt nước biển từ 2 đến 5 mét. Tuy vậy, tiểu địa hình
lại phức tạp với nhiều cồn cát, gò đống, đầm hồ, bãi lầy và sông ngòi chằng
chịt. Đây là một tỉnh đặc biệt duy nhất không có rừng núi, bốn bề sông nước
bao quanh.
Về đường bộ, Thái Bình có hai đường liên tỉnh lớn: đường 10 qua thị
xã Thái Bình nối cảng Hải Phòng với Thành phố Nam Định; đường 39 nối
đường 5 qua thị xã Hưng Yên sang thị xã Thái Bình rồi chạy tới tận Kha Lý
của vùng cửa biển Diêm Điền. Ở các tuyến đường liên huyện và đê, cơ giới
trọng tải lớn cơ động khó khăn vì nhiều cầu, cống nhỏ, mặt đường phần nhiều
bằng đất được gia cố gạch đá…
Khí hậu Thái Bình cơ bản là khí hậu nhiệt đới gió mùa. Nhưng do nằm
ở ven biển, khí hậu Thái Bình có sắc thái riêng mùa đông thường xen kẽ có


9

những ngày ấm áp. Mùa hè xen những ngày mát dịu thuận lợi cho sản xuất và
đời sống.
Lượng mưa nhiều: Tổng lượng mưa trung bình từ 1700 - 2.200. Độ ẩm
cao, ở các tháng mùa hạ từ 31 – 32mb, ở các tháng chính đông là 16mb. Nhiệt
độ trung bình trong năm là 23 – 24 độ c [34, Tr.81].
Đất Thái Bình được hình thành gắn liền với quá trình bồi tụ của phù sa
và biển lùi. Xa xưa, miền đất phía tây- tây bắc tỉnh đã có tên là Đa Cương
Hương (làng nhiều gò đống); miền đất đông bắc tỉnh có tên là hương Thái
Bình. Trải ở các triều đại phong kiến, Thái Bình đã nằm ở các địa giới hành

chính khác nhau. Thời Tiền Lê, Thái Bình lúc trước là Châu Đẳng sau đổi là
phủ Thái Bình; Thời Lý, Trần, Thái Bình trước sau gồm các lộ: Kiến Xương,
Long Hưng, An Tiêm. Thế kỷ XV, đầu triều Lê, Thái Bình thuộc Nam Đạo,
sau thuộc thừa tuyên Sơn Nam. Năm 1741 niên hiệu Cảnh Hưng thứ hai Sơn
Nam chia thành thượng và hạ lộ, Thái Bình nằm trong Sơn Nam hạ. Năm
1828 dưới triều Nguyễn, Sơn Nam hạ đổi thành trấn Nam Định. Ngày 21- 31890, thực dân Pháp thành lập tỉnh Thái Bình gồm đất hai phủ Kiến Xương,
Thái Bình đang thuộc Nam Định với huyện Thần Khê đang thuộc Hưng Yên.
Cuối năm 1891, hai huyện Diên Hà, Hưng Nhân (thuộc phủ Tiên Hưng, tỉnh
Hưng Yên) được cắt nốt về Thái Bình. Bấy giờ Thái Bình có 3 phủ với 12
huyện, 95 tổng với 802 xã, thôn, phường, trại ấp. Sau cách mạng tháng Tám
năm 1945, Hội đồng nhân dân tỉnh quyết định bỏ đơn vị tổng, phủ, Thái Bình
gồm 12 huyện, 1 thị xã và 829 thôn.
Do thời gian khai phá sớm muộn khác nhau, lại cư trú trên địa hình
phức tạp, làng mạc Thái Bình mang đặc điểm hai miền khá rõ. Đất đai phía
bắc được khai phá sớm, dân thường chọn những nơi gò, cồn cao ở nên làng
mạc rải rác nhưng nhỏ hẹp, nhà của chen xít. Miền đất phía nam là đất mới


10

bồi, dân tràn dần theo các triền sông, cánh bãi tụ cư, nên làng mạc có rộng rãi
thoáng đãng hơn. Nhìn chung mật độ làng xã ở Thái Bình khá dày đặc.
Trong lịch sử cùng với ý thức tự lực, tự quản, tinh thần cố kết truyền
thống, làng xã Thái Bình với những khả năng tự vệ trên đã trở thành “ pháo
đài xanh” kiên cố trước những cuộc tiến công của các thế lực bên ngoài. Đặc
biệt địa thế của Thái Bình thời xa xưa ấy là vùng đồng bằng chằng chịt ngòi
lạch, sông nước, lau lách, sú vẹt dày đặc, gò đống liên tiếp đã tạo thành những
tuyến đường thủy, những nơi giấu quân và những trận tuyến lợi hại trong
chiến tranh chống xâm lược, khi chúng tiến đến vùng này. Theo đường sôngđường giao thông quan trọng chính ngày ấy- các chiến thuyền có thể ngược
xuôi sông Hồng về Thăng Long hoặc qua sông Thái Bình ngược lên vùng Lục

Đầu Giang (Hải Hưng) ở phía bắc, hoặc qua sông Ninh Cơ ( Hà Nam Ninh)
sang sông Đáy bắt vào thượng lưu sông Hồng. Riêng vùng ngã ba cửa Luộc
với những cụm bãi nổi ở giữa dòng rất tiện cho việc phục binh, giấu quân một
vị trí hiểm yếu chặn đường sông Hồng từ Thăng Long xuống, hoặc ven biển
lên. Thế kỷ XIII kỵ binh và cả thủy binh Nguyên Mông- một đội quân xâm
lược thiện chiến, nhiều lần đã bị chặn lại, bị chia cắt lúng túng và chịu thất bại
trước địa thế Thái Bình cùng cả vùng ven biển. “ Vua tôi nhà Trần đã nhiều
lần chọn nơi đây làm hướng rút lui chiến lược kì diệu, vừa bảo toàn được lực
lượng, vừa có điểm nương tựa để tổ chức các cuộc tiến công quyết định trên
các dòng chảy nối về Thăng Long và vùng đất phía bắc, đuổi giặc ra khỏi đất
nước” [9, Tr.178].
Trong chiến tranh hiện đại chống xâm lược, làng xã Thái Bình sẽ tiếp
tục phát huy truyền thống là những “ pháo đài xanh” đáng sợ đối với kẻ thù.
Mặt khác các đại thế quan trọng, Thái Bình cũng là phên dậu phía đông nam
của thủ đô Hà Nội, là một trong những dải phòng ngự có chiều sâu bảo vệ
đường chiến lược số 1, số 5. Nếu địch đánh chiếm đường 5, đường 1, Hải


11

Phòng, Hà Nội thì Thái Bình sẽ là hậu phương, là căn cứ đnags tin cậy sau
lưng địch của đồng bằng Bắc Bộ.
Tuy vậy, với những đặc điểm khí hậu trên, việc tác chiến ở Thái Bình
trong mùa mưa sẽ vô cùng gian khổ vì vừa phải chống giặc vừa phải chống
lụt bão. Các nơi có công trình thủy lợi như : đê điều, cầu cống sẽ là mục tiêu
trogj yếu địch sẽ nhằm vào vào đánh phá. Mặt khác, địa bàn Thái Bình cũng
rất rễ bị địch bao vây, chia cắt, khống chế để tách khỏi sự liên hệ với các tỉnh
xung quanh.
1.1.1.2. Dân cư
Thái Bình là một trong những tỉnh có mật độ dân cư cao nhất trong cả

nước.
Năm 1940, khoảng 90 vạn. Đây là nguồn nhân lực dồi dào cho lao động
sản xuất và quốc phòng. Hầu hết cư dân Thái Bình là người Việt, sống chủ
yếu bằng nghề nông . Giai cấp nông dân chiếm tuyệt đại đa số. Trước tháng
Tám năm 1945, số lượng giai cấp công nhân có không đáng kể, cả tỉnh không
có lấy một xí nghiệp trên 50 công nhân.
Đa số người Thái Bình theo Phật Giáo. Trước đây hầu như làng nào
cũng có một ngôi chùa. Dân theo Thiên Chúa Giáo theo con số của năm 1914
có 98.720 người chiếm tỷ lệ 9,5 % và tập trung đông nhất ở vùng Tiền Hải.
Không nhiều, nhưng giáo dân cũng là một lực lượng quan trọng của dân cư
Thái Bình. Thiên Chúa Giáo vào Thái Bình khoảng cuối thế kỷ XVII. Cuối
thế kỷ XIX là thời kỳ phát triển mạnh nhất của Thiên Chúa Giáo ở Thái Bình.
Năm 1939, Thái Bình tách khỏi địa phận Bùi Chu :“ Đến trước năm 1954, cả
tỉnh có 23 thôn công giao toàn tòng” [32, Tr.53].
Từ lâu, Thái Bình – mảnh đất lắm sông, nhiều bãi, tàng ẩn một cuộc
sống đầy hứa hẹn đã có sức hấp dẫn tự nhiên rất mạnh đối với cư dân bốn
phương. Ngoài lúa – cây trồng chính, Thái Bình còn trồng nhiều loại hoa màu


12

như: Ngô, khoai, đậu, đỗ….nhiều loại cây khác như đay, cói, dâu tằm… “gà
Tò”, “ lợn Tó”…là những sản vật nổi tiếng.
Bên cạnh trồng trọt, chăn nuôi còn có các nghề thủ công truyền thống
như: Chiếu làng Hới, chạm bạc Đồng Xâm, mộc ở Vế…đã cung cấp những
sản phẩm có giá trị cho thị trường và đời sống.
Với nguồn nhân lực dồi dào, tiềm năng kinh tế đa dạng Thái Bình đã
sớm khẳng định được vị trí, vai trò quan trọng trong nền kinh tế tự cấp, tụ túc
dưới các triều đại Phong kiến.
Trần Quang Khải, một đại tướng đời Trần đã ví mảnh đất này như đất

“quan Hà”- đất cơ bản trọng yếu – của nhà Lý. Nhà Trần không chỉ tuyển
đinh tráng ở Thái Bình vào các đội quân tinh nhuệ tin cận mà còn chọn Thái
Bình làm một trong những hậu phương chiến lược trong cuộc kháng chiến
chống Nguyên – Mông. Nguyễn Trãi cũng từng cho biết: “Các triều phí dụng
nuôi quân lính đều nhờ ở đấy” [33, Tr.223].
Như vậy, tiềm lực của Thái Bình mà biểu hiện trực tiếp là sức người,
sức của không hề bị suy giảm trước những yêu cầu đòi hỏi của sự nghiệp giải
phóng dân tộc.
1.1.2. Truyền thống lịch sử và văn hóa của nhân dân tỉnh Thái
Bình
Thái Bình chính thức được khoanh địa vực và mang tên tỉnh như ngày
nay mới cách đây gần 100 năm, nhưng Thái Bình thực sự có mặt từ lâu trong
lịch sử với nhiều truyền thống quý báu.
Cư tụ trên một mảnh đất còn đầy tính hoang dã, lại thường xuyên lụt
bão, nắng hạn, ngay từ buổi đầu những con người dù mới đặt chân đến đã
buộc phải cố kết để vật lộn với sóng gió, khắc phục thiên nhiên. Đặc biệt, với
ba mặt là sông lớn, một mặt là biển, địa hình lại phức tạp bởi nhiều cồn cát,
gò đống, sông ngòi, đầm hồ…muốn tiến hành khai hoang vỡ hóa, trồng trọt,


13

bắt buộc trước hết phải quai đê, đắp đập, khơi dòng…lo trị thủy và làm thủy
lợi. Trị thủy để khẩn hoang là một tất yếu đầy gian nan vất vả trong cố gắng
định cư của người Thái Bình. Làng xóm theo nhau mọc san sát, cùng sự mở
mang mãi lên của những vùng đất để canh tác là minh chứng của kết quả lớn
lao đó. Truyền thống cần cù, dẻo dai trong lao động sản xuất được sản sinh,
và tôi luyện trong truyền thống kiên trì, dũng cảm trị thủy – khẩn hoang nhằm
phát triển nghề trồng lúa nước của cư dân Thái Bình.
Song không chỉ có truyền thống trong lao động sản xuất, Thái Bình còn

có đủ cơ sở để tự hào về cả một truyền thống văn hóa tốt đẹp của mình. Gác
chuông chùa Keo (Vũ Thư), các bức chạm khắc ở đình An Cố (Thái Thụy),
chất liệu đá trong xây dựng đền Tiên La (Hưng Hà)…từ lâu đã được công
nhận là những nét đặc sắc, sáng tạo trong nghệ thuật, kiến trúc điêu khắc cổ
của Thái Bình. Các tiếng chèo Khuốc (Đông Hưng), Hà Xá (Hưng Hà)…
cùng các phường rối nước của Nguyễn, Tuộc, Đống (Đông Hưng) đã được coi
là những bộ môn nghệ thuật độc đáo, gắn chặt với tính dân dã, bình dị mà
thân quen của những cánh đồng lúa, những ao hồ nơi làng xóm Thái Bình.
Các buổi hội hè, đình đám với những cuộc đua thi: nấu cơm, đua thuyền đấu
vật, kéo chữ…đã thể hiện nếp sống lành mạnh, lạc quan và đầy tính thượng
võ của người Thái Bình. Và nữa, danh sách hơn 100 vị đỗ đại khoa đã phản
ánh rất rõ sự hiếu học ham hiểu biết của một miền quê lúa. Nhiều vị đại khoa
đã trở thành danh nhân văn hóa có tên tuổi mà tiêu biểu nhất là bảng nhãn Lê
Quý Đôn, nhà uyên bác của cả dân tộc hồi nửa cuối thế kỷ thứ XVIII.
Tuy nhiên, truyền thống rực rỡ, bền bỉ và xuyên suốt nhất ở Thái Bình
vẫn là lòng yêu quê hương- đất nước tha thiết, tinh thần chống giặc ngoại
xâm, chống các thế lực phản động quyết liệt.
Ngay từ đầu thế kỷ I sau công nguyên, khi ngọn cờ chống phong kiến
phương bắc của Hai Bà Trưng vừa phất lên, hàng loạt các tướng lĩnh


14

ngườiThái Bình đã mộ quân, tích lương hưởng ứng nhiệt liệt. Nổi bật nhất
trong số đó là cánh quân lớn của vị nữ tướng Bát Nàn – tên thật là Vũ Thị
Thục - ở vùng Tiên La (Hưng Hà).
Vào thế kỷ X, tựa dựa vào lực lượng của sứ quân Trần Lãm ở Kỳ Bố
hải khẩu (Thị xã nay) Đinh Bộ Lĩnh đã có đủ sức dẹp tan nạn cát cứ, lập nhà
Đinh thống nhất được đất nước giữ vững nền độc lập.
Trong các cuộc kháng chiến chống giặc giữ Nguyên – Mông ở thế kỷ

XIII, cả Thái Bình đã trở thành một hậu phương, một phòng tuyến lợi hại vừa
cung cấp người, của, vừa góp phần tích cực trong việc chặn đánh giặc và bảo
vệ an toàn cho quân đội Trần rút lui hành quân xuôi ngược hoặc tấn công địch
thắng lợi.
Đầu thế kỷ thứ XV, hàng chục cuộc nổi dậy chống giặc Minh nổ ra ở
Thái Bình. Đoàn Công Uẩn (xã Thụy Trình) dùng mẹo giết giặc ở vùng ven
biển Thụy Anh, Bùi Đăng Liêu (xã Quốc Tuấn) lập đồn ở cạnh sông Trà
Lý…là những gương đánh giặc rất tiêu biểu.
Bước sang thế kỷ XVIII, thế kỷ của các cuộc khởi nghĩa nông dân
chống triều đình Lê – Trịnh thối nát, Hoàng Công Chất ở Hoàng Xá (xã
Nguyên Xá – Vũ Thư) đã lãnh đạo nông dân nổi dậy ở Thái Bình hơn chục
năm trời. Sau ông kéo quân lên vùng Tây Bắc chống lại triều đình hơn chục
năm nữa. Cuộc nổi dậy của vị thủ lĩnh kiệt liệt này là cuộc khởi nghĩa nông
dân tồn tại lâu nhất (1739- 1769) ở Việt Nam hồi thế kỷ XVIII. Khi Tây Sơn
kéo quân ra Bắc, Nguyễn Sơn làng Bứa (xã Hồng Việt – Đông Hưng) cùng
đông đảo nông dân dưới trướng đã trở thành đội quân tiên phong hướng đạo
tích cực cho việc quét sạch chính quyền Lê Trịnh ở cả một vùng của đồng
bằng Bắc Bộ. Trong cuộc tiến công đánh tan 20 vạn quân Thanh vào mùa
xuân năm Kỷ Dậu (1789), quân Tây Sơn được nhân dân cả vùng Kiến Xương
giúp đỡ ngược sông Hồng trót lọt để kịp thời lập những chiến công lớn ở


15

Thăng Long. Nhà Nguyễn dựa vào thế lực thực dân phương Tây đánh đổ Tây
Sơn. Cuộc khởi nghĩa của Phan Bá Vành (xã Vũ Bình – Kiến Xương) (18111827) là cuộc nổi dậy lớn nhất của nông dân Việt Nam hồi đầu thế kỷ XIX.
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược. Vua quan nhà Nguyễn
hèn nhát, từng bước đầu hàng. Song cả dân tộc đứng lên chống Pháp, cả Thái
Bình đã nổi dậy chống Pháp. Chưa bao giờ phong trào cứu nước ở Thái Bình
lại đều khắp, sôi sục và liên tục đến vậy. Ở Thái Thụy có Đề Hiện, Hưng Hà

có Bang Tốn, Đốc Nhưỡng, Vũ Thư có Doãn Khuê, Lãnh Bí…Đến cuối thế
kỷ XIX, khi ngọn cờ Cần Vương đã tàn lụi, Thái Bình vẫn còn sôi động với
phong trào chống Pháp của Kỳ Đồng.
Đầu thế kỷ XX, qua các hoạt động yêu nước mới- mang màu sắc dân
chủ tư sản, thủ khoa Phạm Tư Trực (Vũ Thư), Cả Cương ( Kiến Xương), Ấm
Đoan (Tiền Hải)…cùng nhiều nhân sĩ khác đã trở thành những nhân vật có
tên tuổi trong phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục ở Thái Bình.
Năm 1923, dựa vào cơ sở ở Thái Bình, Việt Nam Quang phục hội đã cử
người về ném tạc đạn giết chết tuần phủ việt gian Nguyễn Duy Hàn gây một
tiếng vang lớn. Cho tới năm 1930, cuộc nổi dậy cướp huyện lỵ của tổ chức
Việt Nam Quốc dân Đảng ở Phụ Dực cũng làm rung động dư luận cả nước.
Trong một bản báo cáo, công sứ Pháp Pari đã phải cay đắng thú nhận: “ Sau
khi chiếm được mảnh đất Thái Bình, các cuộc nổi loạn liên tiếp diễn ra, làm
cho quân đồn trú Pháp vô cùng vất vả mà trật tự an ninh ở đây vẫn không sao
yên ổn được” [7, Tr.85].
Sự phát triển trên cho thấy: truyền thống đấu tranh chống xâm lược,
chống áp bức bóc lột ở Thái Bình được phát huy liên tục từ xã xưa tới cách
mạng tháng Tám năm 1945 vẫn không hề đứt đoạn mà ngược lại mỗi lúc một
bền bỉ, ngoan cường và hào hùng, vẻ vang hơn.


16

Từ Đa Cương Hương đến Thái Bình, đó là cả một bề dày tự khẳng định
vị trí, vai trò của Thái Bình ở vùng đồng bằng Bắc Bộ nói riêng và ở trong cả
nước nói chung.
Dù nằm xa kinh đô- trung tâm lớn về nhiều mặt của cả nước và tách
biệt với các vùng xung quanh bằng những dòng chảy lớn, nền kinh tế lại vo
trọn trong tính chất tiểu sản xuất tự cung tự cấp. Thái Bình vẫn luôn hòa vào
những nhịp thở lớn của dân tộc. Phải chăng, những mối quan hệ với bên ngoài

vẫn thường xuyên được thiết lập bởi chính những đặc điểm về vị trí, dân cư
của Thái Bình (sông, biển là mạng lưới giao thông quan trọng nhất: nhất là
trước kia, dân cư từ bốn phương lần lượt chuyển đến không chỉ mang theo
những mối quan hệ với nhiều nơi quê cũ mà còn đem đến cả những ảnh
hưởng có tính chất thời sự của xã hội). Song dù bắt đầu từ nguyên nhân nào.
Thái Bình vẫn là “kho của, kho người” nằm lọt trong lòng cả một miền đồng
bằng châu thổ sông Hồng giầu thóc gạo, lắm nhân lực. Những “vựa lúa gạo”
này đã là nơi thường xuyên cung cấp lương thực cho các nhu cầu quan trọng
muôn thủa của nhiều triều đại…Và từ Thái Bình, lần theo các đường sông,
biển sẽ có thể đi đến tất cả những vùng trọng yếu của đồng bằng Bắc Bộ, kể
cả các vùng trung du, thượng du một cách thuận lợi. Vai trò vị trí ấy làm tăng
thêm rất nhiều điều kiện giao lưu qua lại với bên ngoài, đồng thời biến Thái
Bình nhanh chóng trở thành hậu phương dồi dào tiềm năng, an toàn và linh
hoạt trong các cuộc chiến tranh chống giặc ngoại xâm.
Dĩ nhiên, bên cạnh những thuận lợi đó, trong chiến tranh Thái Bình
cũng sẽ gặp không ít khó khăn, hạn chế, nếu kẻ thù tập trung binh lực, lợi
dụng sông nước ngăn cách để bao vây, khống chế, chia cắt. Nhưng lúc đó tất
chúng sẽ vấp phải một sự đối đầu bền bỉ, ngoan cường của chính cư dân và
các làng xã tại chỗ của Thái Bình.


17

Với những truyền thống sẵn có, từ lâu làng xã Thái Bình đã là những “
pháo đài xanh” kiên cố đối với mọi nguy cơ đe dọa từ bên ngoài vào. Trước
những biến cố thường xuyên của lịch sử, người Thái Bình cùng làng xóm của
họ đã nhiều phen chứng tỏ sự phản xạ tự vệ hết sức nhanh chóng và gan góc.
Mối đoàn kết “chung lưng đấu cật” trong lao động sản xuất đã trở thành cơ sở
cho sự liên kết trong chiến đấu bảo vệ quê hương- đất nước. Sự gắn bó những
thành quả lao động với cuộc sống sâu đậm “nghĩa xóm tình làng” và những

mối quan hệ thân tộc ruột giã…đã tạo nên sức cố kết phi thường nơi làng xã.
Làng xóm vừa là chỗ dựa, vừa là nơi cố thủ tin cậy trước mọi hiểm họa giặc
giã, ngoại xâm. Chính vì vậy, chế độ phong kiến tồn tại hàng ngàn năm ở Việt
Nam, nhiều lúc nghiệt ngã tới đâu cũng phải làm ngơ trước việc “phép vua
thua lệ làng”. Trong nhiều lần viễn chinh, xâm lược, bọn phong kiến phương
Bắc cũng ngán ngẩm bất lực trước những “bầu trời riêng của người Việt đầy
bí ẩn”. Thực dân Pháp có nhiều thủ đoạn cai trị, xảo quyệt cũng chưa bao giờ
thực hiện được điều ước muốn là với tay trực tiếp can thiệp tới nội bộ làng xã.
Riêng Ra-un Sa-lăng, tên tướng thực dân giầu kinh nghiệm xâm lược, bình
định đã có nhận xét: “Đối với người châu Âu, làng xã Việt Nam là cả một thế
giới bí ẩn và làm cho họ phải hết sức ngỡ ngàng. Người da trắng bị lạc hướng
trong lớp ngõ ngách trước khi có thể nhận ra được lối thiết kế làng xã kiểu
răng lược này”. Làng xã Thái Bình là điển hình của những nhận xét còn chưa
đầy đủ đó.
Tuy vậy, tính cách, tư tưởng của mỗi người dân, mỗi đơn vị làng xóm,
mỗi khu vực cũng không tránh khỏi sự tác động sâu sắc của tính phức tạp do
sự hỗn cư, tính manh mún do nền sản xuất tiểu nông, tư hữu dẫn đến những
hạn chế tất yếu: sự manh động, tư tưởng cát cứ cục bộ địa phương…hậu quả
này đã hạn chế tầm nhìn của làng xã, tạo cơ hội cho giai cấp thống trị nói
chung, tầng lớp trên ở mỗi làng xã nói riêng, kể cả các thế lực dựa vào thần


18

quyền tôn giáo để lợi dụng, cho phối sức mạnh của làng xã phục vụ cho
những ý đồ hẹp hòi, ích kỷ. Việc cát cứ từ thời Đinh, sự ủng hộ cả Lê lẫn Mạc
trong cuộc nội chiến, tranh giành quyền bính, các cuộc chống đối quyết liệt
của một số làng xã đối với quân Tây Sơn, nhũng điển hình “Tử vì đạo” dưới
triều Nguyễn…ở Thái Bình đã là minh chứng hiển nhiên. Những hạn chế đó
chưa thể mất khi nền sản xuất vẫn còn mang nặng tính phân tán lạc hậu. Nó

còn xuất hiện dai dẳng khi ở nơi này hay nơi khác, lúc này hoặc lúc khác
trong quá trình lịch sử kế tiếp của Thái Bình.
Song, với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, với sự phát huy tất cả sức
mạnh truyền thống của hàng ngàn năm kết tụ, Thái Bình vẫn có đầy đủ lợi thế
để xây dựng nối tiếp những trang sử hào hùng.
1.2. QUÁ TRÌNH RA ĐỜI ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI BÌNH
1.2.1. Hoàn cảnh ra đời Đảng bộ tỉnh Thái Bình
Thái Bình là tỉnh chủ yếu sản xuất nông nghiệp, nông dân chiếm 93,7%
dân số. Trong quá trình lịch sử hình thành và phát triển, ở Thái Bình có hai
giai cấp chủ yếu là: giai cấp nông dân và giai cấp địa chủ.
Quá trình phân hóa giai cấp ở Thái Bình diễn ra rất gay gắt. Từ thế kỷ
XIX trở về trước, dân từ các nơi về đây quần tụ làm ăn sinh sống. Nhưng mật
độ dân số ngày một phát triển nhanh, từ đầu thế kỷ XX trở đi, nhất là vào
những năm mất mùa đói kém, dân Thái Bình lại ra đi, đến vùng đất mới làm
ăn, như đến các tỉnh trung du, làm phu ở các sở mỏ, làm phu đồn điền cao su
ở miền Nam, thậm chí sang cả Tân Đảo, Tân Thế Giới.
Lợi dụng tình trạng đất chật người đông, tuyệt đại bộ phận cư dân sống
bằng nghề nông, giai cấp địa chủ tìm mọi cách chiếm đoạt ruộng đất nên dù
chiếm đa số tuyệt đối trong cư dân Thái Bình, nhưng giai cấp nông dân lại
chiếm tỷ lệ phần ruộng đất nhỏ bé, hầu hết có rất ít ruộng đất, thậm chí không
có một tấc đất cắm dùi. Tình hình sở hữu ruộng đất trên đã làm cho nhiều


19

nông dân phải lĩnh canh ruộng đất của địa chủ, hoặc phải làm thuê để kiếm
sống; giai cấp địa chủ càng bóc lột nông dân tàn tệ: địa tô cao, nợ lãi nặng, giá
nhân công rẻ mạt.
Từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, chúng câu kết chặt chẽ với giai
cấp địa chủ phong kiến để tiến hành áp bức bóc lột nhân dân. Nhân dân ta lại

phải sống trong cảnh một cổ hai tròng, bị cả thực dân và phong kiến thống trị.
Ngoài bóc lột nặng nề bằng đầu tư khai thác nguyên liệu, lập đồn điền, độc
quyền kinh tế, ngân hàng, ngoại thương; chính quyền thực dân còn ra sức bóc
lột nhân dân ta bằng những chế độ thuế khóa hết sức phi lý và nặng nề. Tính
bình quân mỗi người dân trong một năm phải đóng thuế ngang với tiền công
lao động của họ từ 2 đến 3 tháng. Chúng dùng biện pháp cai trị trực tiếp và
thẳng tay đàn áp, tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào.
Chính sách chuyên chế của thực dân Pháp cực đoan đến mức chủ nghĩa cải
lương cũng không được phép tồn tại. Chúng phát triển tôn giáo, mê tín dị
đoan, đem văn hóa phản động, trụy lạc nhồi sọ dân ta; thực hiện chính sách
ngu dân để dễ bề cai trị. Bọn quan lại đua nhau bòn rút tiền bạc của dân; bộ
máy hào lý ở hương thôn xuất hiện một số cường hào, là địa chủ hoặc là tay
chân đắc lực cho chính quyền thực dân, phong kiến. Chúng phù thu lạm bổ
nhân việc thu thuế, chiếm đoạt ruộng công, đàn áp tất cả những ai trái ý
chúng.
Từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, làm cho tính chất xã hội Việt
Nam thay đổi từ một xã hội phong kiến thành một xã hội thuộc địa nửa phong
kiến. Vì thế, hai mâu thuẫn cơ bản nổi lên là: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc
Việt Nam với thực dân Pháp, và mâu thuẫn giữa nhân dân ta, chủ yếu là nông
dân với giai cấp địa chủ phong kiến.
Nhân dân Thái Bình, trong đó chủ yếu là nông dân đã tiến hành cuộc
đấu tranh kiên cường, bền bỉ và liên tục chống lại bọn thực dân và địa chủ


20

phong kiến phản động. Cuộc đấu tranh đó, cùng với những truyền thống tốt
đẹp về nhiều mặt của nhân dân Thái Bình, đã tạo ra tiền đề thuận lợi để Thái
Bình sớm tiếp thu được ánh sáng cách mạng của chủ nghĩa Mác- Lênin; trở
thành một trong những cái nôi và trung tâm cách mạng của Xứ ủy Bắc Kỳ

giai đoạn 1925- 1945.
Sau những thất bại của các cuộc khởi nghĩa vũ trang và các phong trào
yêu nước cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX ở Thái Bình cũng như trong cả
nước; những người yêu nước Thái Bình lâm vào tình trạng khủng hoảng tư
tưởng, mang nặng tâm lý thất bại. Trong số họ, có những người “nằm im”
nghe ngóng chờ thời; số khác thì cho rằng “vận nước chưa đến” nên sinh ra an
phận thủ thường; cá biệt có những người thái hóa, thậm chí làm tay sai cho
thực dân Pháp.
Giữa lúc phong trào yêu nước theo khuynh hướng cải lương tư sản,
hoặc bạo động đang bế tắc, thì ngày 11- 11- 1924, đồng chí Nguyễn Ái Quốc
đến Quảng Châu (Trung Quốc). Ở Quảng Châu lúc này đang có một số thanh
niên Việt Nam yêu nước cư trú. Sau khi Việt Nam Quang phục hội thất bại,
nhóm “Tâm tâm xã” (tam nhân đồng tâm xã) được thành lập, nhằm nuôi
dưỡng ý chí yêu nước.
Đầu năm 1925, đồng chí Nguyễn Ái Quốc tổ chức ra nhóm cách mạng
đầu tiên gồm 9 người : “trong đó 5 người được chọn là đảng viên dự bị của
Đảng. Đó là Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Lê Hồng phong…” [30, Tr. 141].
Tháng 6-1925, trên cơ sở nhóm cách mạng đầu tiên, Nguyễn Ái Quốc
lập ra tổ chức Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên. Tổng bộ “Thanh niên”
xuất bản tuần báo Thanh niên làm tài liệu tuyên truyền hướng dẫn công tác.
Đồng thời, đồng chí Nguyễn Ái Quốc mở các lớp huấn luyện chính trị nhằm
làm cho các cán bộ cách mạng hiểu biết được những vấn đề cơ bản của chủ
nghĩa Mác- Lênin, đường lối, chiến lược, sách lược cách mạng ở nước ta,


21

phương pháp công tác…Tổng bộ “Thanh niên” cử người về nước vận động
thanh niên yêu nước sang Quảng Châu học tập, rồi lại trở về nước hoạt động.
Sau khi được đồng chí Nguyễn Công Thu tuyên truyền giác ngộ, đồng

chí Nguyễn Văn Năng đem những hiểu biết ban đầu của mình tuyên truyền
trong số học sinh là bạn bè đã từng tham gia bãi khóa ở trường Thành ChungNam Định. Tài liệu tuyên truyền là báo “Thanh niên”. Sau khi đọc báo
“Thanh niên”, tiếp thu được những quan điểm mới và đúng đắn về cách mạng
Việt Nam, đặt niềm tin sắt đá vào lãnh tụ - Người sáng lập ra tổ chức “Thanh
niên”, một số người đã xin gia nhập tổ chức.
Đầu năm 1927, một chi bộ Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên được
thành lập ở thị xã Thái Bình, gồm 11 người:
“1. Nguyễn Văn Năng
2. Bùi Hữu Diên
3. Đào Đình Mẫn
4. Phan Trần Chúc
5. Đào Đức Quý
6. Đào Gia Lựu
7. Lương Duyên Hồi
8. Phạm Quang Lịch
9. Trần Văn Cận
10. Tống Văn Phổ
11. Hà Ngọc Thiến (tức Hoài Nam)” [29, Tr.90].
Tháng 3- 1928, Đại hội Đại biểu Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên
Thái Bình khai mạc tại địa điểm trường tư thục Minh Thành (thị xã Thái
Bình) gồm đại biểu của các chi bộ “Thanh niên” toàn tỉnh. Đại biểu của Xứ
bộ “Thanh niên” đã về dự.


22

Đại hội bàn biện pháp phát triển, củng cố tổ chức; nội dung công tác
tuyên truyền và huấn luyện; xuất bản báo “Hướng Đạo”; đồng chí Nguyễn
Văn Năng bị địch bắt ở Thái Bình, Tống Văn Phổ được cử làm Bí thư Tỉnh bộ
“ Thanh niên”.

Để tiếp tục đưa phong trào cách mạng trong tỉnh phát triển mạnh mẽ
hơn nữa; cuối tháng 1- 1929, Ban Tỉnh bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh
niên Thái Bình đã triệu tập hội nghị đại biểu “Thanh niên” toàn tỉnh; địa điểm
tại nhà đồng chí Hà Ngọc Thiến (Hoài Nam Tử) ở làng Thuyền Quan, tổng
Trừng Hoài- phủ Thái Ninh (nay thuộc xã Thái Hà, Thái Thụy).
Hội nghị đại biểu “Thanh niên” toàn tỉnh họp trong 2 ngày, bàn nhiều
nội dung, nhưng chủ yếu là thảo luận việc lãnh đạo xây dựng thêm cơ sở cách
mạng ở các phủ huyện, trong đó nhấn mạnh công tác tuyên truyền. Đặc biệt,
hội nghị giành nhiều thời gian thảo luận chủ trương thành lập Đảng Cộng sản
của Xứ bộ “Thanh niên” Bắc Kỳ, do đồng chí Nam Hải nêu ra; các đại biểu
trong hội nghị đã bàn bạc rất sôi nổi và nhất trí cao với Xứ bộ “Thanh niên”
về chủ trương này. Trước sự phát triển mạnh mẽ phong trào cách mạng, Hội
Việt Nam Cách mạng Thanh niên không đủ sức lãnh đạo, yêu cầu phải có một
chính Đảng của giai cấp công nhân- Đảng Cộng sản lãnh đạo để tiếp tục đưa
cách mạng Việt Nam tiến lên. Hội nghị đã cử đồng chí Nguyễn Văn Năng- Bí
thư Tỉnh bộ “Thanh niên” đi dự hội nghị sắp tới do Xứ bộ “Thanh niên” Bắc
Kỳ triệu tập. Từ đây, Ban Tỉnh bộ “Thanh niên”Thái Bình được Xứ bộ công
nhận là một tổ Cộng sản để chuẩn bị cho Đảng bộ Đông Dương Cộng sản
Đảng Thái Bình ra đời.
Quá trình xây dựng, củng cố và phát triển Hội Việt Nam cách mạng
Thanh niên ở Thái Bình, cũng đồng thời là quá trình truyền bá chủ nghĩa
Mác- Lênin, đường lối, chủ trương cách mạng của Hội ở trong tỉnh. Công tác
tuyên truyền để phát triển hội viên, thường bắt đầu bằng việc khơi dậy tinh


23

thần yêu nước trong họ, hoặc kết hợp cả hai nội dung, tùy theo đối tượng.
Những người tự nguyện tham gia Hội cũng là nhũng người vốn sẵn có tư
tưởng yêu nước, hoặc bất bình, chán ghét sự áp bức, bóc lột, bất công của bọn

địa chủ cường hào trong làng xã.
Các hội viên “Thanh niên” đều được học tập qua các lớp huấn luyện
chính trị dưới nhiều hình thức khác nhau, về những kiến thức cơ bản của chủ
nghĩa Mác- Lênin; ngoài ra họ còn được tiếp cận với các tài liệu, sách báo
cách mạng, giúp họ nâng cao trình độ nhận thức, góp phần đắc lực và có hiệu
quả vào công tác tuyên truyền trong quần chúng, nhất là trong các tổ chức
quần chúng.
Sự phát triển mạnh mẽ và đều khắp của tổ chức Hội Việt Nam cách
mạng Thanh niên Thái Bình; với đội ngũ đông đảo, được rèn luyện giáo dục,
không ngừng nâng cao trình độ hiểu biết về chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng
sản; việc truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin được tiến hành sâu rộng trong quần
chúng, được đông đảo quần chúng tiếp thu, giác ngộ cách mạng; đã tạo điều
kiện chin muồi cho sự ra đời của Đảng bộ Đông Dương cộng sản Đảng. Tổ
chức Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên Thái Bình xứng đáng là tổ chức
tiền thân của Đảng bộ cộng sản Thái Bình.
1.2.2. Sự thành lập Đảng bộ tỉnh Thái Bình
Cuối năm 1928 đầu năm 1929, do ảnh hưởng của tổ chức Hội Việt
Nam cách mạng Thanh niên với việc truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin; phong
trào đấu tranh trong cả nước có bước phát triển mới, dần dần thoát khỏi trào
lưu tư tưởng cũ, từng bước đi theo con đường của chủ nghĩa Mác- Lênin.
Phong trào đấu tranh của nông dân bắt đầu có tổ chức, có sự lãnh đạo; phong
trào đấu tranh của công nhân cũng đi từ tự phát đến tự giác. Số lượng các
cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân năm 1928 tăng khoảng 3 lần so với
năm 1927; trong đó, tiêu biểu là cuộc đấu tranh của công nhân nhà máy xe lửa


24

Trường Thi (Vinh), nhà máy sợi Nam Định…Các cuộc đấu tranh không còn
đơn độc từng xí nghiệp, từng ngành, từng địa phương, mà đã có sự liên kết

trên phạm vi nhiều xí nghiệp, nhiều ngành trong cả nước.
Ngay từ đầu năm 1929, nhận thức được đòi hỏi cấp bách và xu thế phát
triển của phong trào cách mạng; một số đồng chí tiên tiến trong “Thanh niên”
Bắc Kỳ đã sớm có khuynh hướng thành lập Đảng Cộng sản. Do vậy, tháng 31929, một chi bộ Đảng đầu tiên đã được thành lập tại ngôi nhà số 5Đ phố
Hàm Long- Hà Nội, gồm 7 đồng chí. Chi bộ đóng vai trò nòng cốt cho việc
thành lập Đảng.
Thực hiện chủ trương trên, ngày 28-2-1929, Đại hội kỳ bộ “Thanh
niên” Bắc kỳ được tiến hành; Đại hội đã nhất trí tán thành việc thành lập
Đảng cộng sản; đồng thời Đại hội cũng cử một đoàn đại biểu đi dự Đại hội “
Thanh niên” toàn quốc họp ở Hương Cảng (Trung Quốc). Đoàn đại biểu Bắc
kỳ đưa ra đề nghị giải tán “ Thanh niên”, thành lập Đảng Cộng sản, nhưng
không được Đại hội chấp nhận; đoàn đại biểu “ Thanh niên” Bắc kỳ bỏ Đại
hội ra về.
Ngày 17- 6- 1929, Đông Dương Cộng sản Đảng thành lập, công bố
chính cương và Tuyên ngôn của Đảng; phát hành tờ báo “ Búa liềm” là cơ
quan ngôn luận của Đảng. Tuyên ngôn của Đông Dương Cộng sản Đảng giới
thiệu chủ nghĩa Cộng sản; xác lập vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân đối
với cách mạng, đồng thời đề ra đường lối cách mạng Việt Nam.
Ở Thái Bình, chủ trương thành lập Đảng Cộng sản đã được đại diện Xứ
ủy nêu ra tại Đại hội đại biểu “ Thanh niên” toàn tỉnh tháng 1-1929; chủ
trương này đã được các đại biểu trong Đại hội thảo luận và hoàn toàn tán
thành. Do đó, từ sau khi thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng, tổ chức
“Thanh niên” đã nhanh chóng tiếp thu chủ trương thành lập Đảng bộ cộng
sản.


25

Sau khi thành lập Đông Dương cộng sản Đảng ngày 17-6-1929, Ban
chấp hành Trung ương đã phân công cán bộ về các tỉnh, thành trong cả nước

thành lập các cơ sở Đảng.
Cuối tháng 6-1929, một đồng chí Xứ ủy viên về Thái Bình, đồng chí
triệu tập hội nghị gồm các đồng chí ủy viên trong Ban Tỉnh bộ “ Thanh niên”.
Hội nghị họp tại nhà số 9 (nhà ông bà Cần) ngõ số 1, phố Duynpíchkê (nay là
phố Lê Lợi)- Thị xã Thái Bình. Hội nghị được đồng chí Xứ ủy phổ biến về sự
phân hóa trong Đại hội toàn quốc Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên ở
Hương Cảng; nghe thông báo về việc thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng.
Sau đó, hội nghị đã đọc và thảo luận kỹ những vấn đề về đường lối cách mạng
Việt Nam được viết trong tuyên ngôn của Đảng. Hội nghị đi đến quyết định
thành lập Đảng bộ Đông Dương cộng sản Đảng Thái Bình. Ban Tỉnh bộ trước
đây đã được cấp trên coi là một tổ cộng sản, nay được đổi thành Ban Tỉnh ủy
của Đảng bộ, do đồng chí Tống Văn Phổ làm Bí thư. Hội nghị quyết định giải
tán “Thanh niên” và bàn biện pháp tổ chức các chi bộ đảng.
Như vậy là trong tháng 7-1929, toàn tỉnh có 6 chi bộ được thành lập, đó
là: Chi bộ Thư- Vũ (Thư Trì- Vũ Tiên); Chi bộ Thần- Duyên (Tiên HưngDuyên Hà); Chi bộ thị xã Thái Bình; Chi bộ vùng Trình Phố (Kiến Xương);
Chi bộ Đa- Cao (vùng Đa Cốc- Cao Mại) - Kiến Xương; Chi bộ Tiền Hải.
Đến năm 1930 chi bộ An Định (Thái Thụy); Chi bộ An Hiệp (Quỳnh Phụ)
được thành lập.
Sau khi thành lập Ban Tỉnh ủy và sáu chi bộ Đảng trong toàn tỉnh, nhân
ngày toàn thế giới chống chiến tranh đế quốc (1-8-1929) Đảng bộ Thái Bình
quyết định tổ chức một cuộc treo cờ, rải truyền đơn, giới thiệu sự ra đời của
Đảng; đồng thời kêu gọi quần chúng đứng lên đấu tranh dưới ngọn cờ cách
mạng của Đảng. Những lá cờ Đảng, lần đầu tiên xuất hiện là sự cổ vũ và kêu


×