Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

đảng bộ tỉnh nam định lãnh đạo công tác bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa từ năm 1996 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 82 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
=====***=====

ĐINH THỊ NGA

ĐẢNG BỘ TỈNH NAM ĐỊNH LÃNH ĐẠO
CÔNG TÁC BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY
CÁC DI SẢN VĂN HÓA TỪ NĂM 1996
ĐẾN NĂM 2010
KHÓA LUẬN TỐT NGHỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

HÀ NỘI - 2013


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
=====***=====

ĐINH THỊ NGA

ĐẢNG BỘ TỈNH NAM ĐỊNH LÃNH ĐẠO
CÔNG TÁC BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY
CÁC DI SẢN VĂN HÓA TỪ NĂM 1996
ĐẾN NĂM 2010
KHÓA LUẬN TỐT NGHỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học
GV. Phạm Văn Giềng



HÀ NỘI - 2013
LỜI CẢM ƠN


Khóa luận “Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo công tác bảo tồn và phát
huy các di sản văn hóa từ năm 1996 đến năm 2010” được hoàn thành tại Khoa
Giáo dục chính trị, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 dưới sự hướng dẫn của
thầy giáo Phạm Văn Giềng.
Để hoàn thành khóa luận này, tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành
nhất tới thầy giáo Phạm Văn Giềng người đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn và
góp ý cho tôi trong suốt quá trình làm khóa luận.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy cô trong Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội 2, đặc biệt là các thầy cô trong khoa Giáo dục chính trị đã giảng
dạy tôi trong suốt thời gian qua.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới Tỉnh ủy – Uỷ ban nhân dân tỉnh Nam
Định, Sở văn hóa, thể thao và du lịch tỉnh Nam Định đã giúp tôi hoàn thành
khóa luận.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, thầy cô trong
khoa Giáo dục chính trị, tập thể lớp K35 Giáo dục công dân đã động viên, góp
ý và tạo điều kiện cho tôi trong suốt thời gian thực hiện đề tài nay.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Tháng 05 năm 2013
Sinh viên

Đinh Thị Nga

LỜI CAM ĐOAN



Khóa luận tốt nghiệp này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của
giảng viên Phạm Văn Giềng. Tôi xin cam đoan đây là kết quả nghiên cứu của
riêng tôi. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Tháng 05 năm 2013
Sinh viên

Đinh Thị Nga


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VẤN ĐỀ BẢO TỒN
VÀ PHÁT HUY CÁC DI SẢN VĂN HÓA TẠI TỈNH NAM ĐỊNH ............. 6
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN ............................................................................. 6
1.1.1. Một số khái niệm về văn hóa ........................................................ 6
1.1.2. Khái niệm di sản văn hóa ............................................................ 11
1.1.3. Khái niệm bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa ...................... 13
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN ......................................................................... 14
1.2.1. Vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên của tỉnh Nam Định .................. 14
1.2.2. Điều kiện kinh tế - xã hội của tỉnh Nam Định .............................. 16
1.2.3. Vai trò của di sản văn hoá đối với đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân tỉnh Nam Định ................................................................ 18
Chương 2: ĐẢNG BỘ TỈNH NAM ĐỊNH LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC BẢO
TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC DI SẢN VĂN HÓA TỪ NĂM 1996 ĐẾN
NĂM 2010 ................................................................................................... 32
2.1. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC DI
SẢN VĂN HÓA TRƯỚC NĂM 1996 ..................................................... 32
2.1.1. Chủ trương của Trung ương Đảng và Đảng bộ tỉnh Nam Định về

công tác bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa ................................... 32
2.1.2. Thành tựu và hạn chế, nguyên nhân của hạn chế ................... 37
2.3. MỘT SỐ NHẬN XÉT, KINH NGHIỆM LỊCH SỬ VÀ GIẢI PHÁP 56
2.3.1. Một số nhận xét .......................................................................... 56
2.3.3. Một số giải pháp ......................................................................... 64
KẾT LUẬN.................................................................................................. 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 70


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nam Định là nơi phát tích và gắn liền suốt 175 năm trị vì của vương
triều Trần, một trong những triều đại phong kiến hưng thịnh vào bậc nhất
trong lịch sử dân tộc làm nên những chiến công vĩ đại. Đó là miền đất văn
hiến, “địa linh, nhân kiệt”, nơi sinh dưỡng biết bao trạng nguyên và nhiều trí
thức làm rạng danh non sông đất nước. Một vùng văn hoá đặc sắc, hoà quyện
và đan xen văn hoá biển và văn hoá châu thổ, văn hoá bác học và văn hoá dân
gian. Bản sắc văn hoá Nam Định không thể tách rời nền văn hoá Việt Nam.
Song, trên mảnh đất này, qua những năm dài của lịch sử vẫn có những dấu ấn
riêng, tạo nên cốt cách của người Nam Định.
Là một tỉnh có nền văn hóa giàu truyền thống đa dạng và phong phú,
đặc biệt là các di sản văn hóa, thể hiện ở các hình thức diễn xướng dân gian
như hát Chầu văn, hát ả đào, hát xẩm. Ở các công trình kiến trúc như đình,
chùa, miếu, phủ, lăng mộ, nhà thờ, từ đường,… là nơi bảo tồn, lưu giữ những
lễ hội, phong tục, tập quán cùng những phong cách kiến trúc nghệ thuật đậm
đà bản sắc văn hóa Việt. Trải qua bao thời gian, do sự tác động của con người
cũng như của tự nhiên, các di sản văn hóa đang có xu hướng xuống cấp và bị
xâm hại dần mất đi nét truyền thống của dân tộc. Bên cạnh đó, trong quá trình
đổi mới với xu thế hội nhập, ngoài những thuận lợi còn có những mặt hạn chế
đã và đang phát triển tạo thành nguy cơ ảnh hưởng không tốt đến những giá trị

của các di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh. Bởi vậy, công tác bảo tồn và phát huy
các di sản văn hóa đang được đặt ra như một nhu cầu tất yếu trong đời sống
của đại đa số tầng lớp người dân mà Đảng bộ tỉnh Nam Định phải quan tâm,
chú trọng và tiến hành lãnh đạo để góp phần giữ gìn, kế thừa và phát huy
truyền thống đạo đức của dân tộc. Với những lí do trên tôi quyết định chọn đề

1


tài “Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo công tác bảo tồn và phát huy các di
sản văn hóa từ năm 1996 đến năm 2010” để nghiên cứu.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Vấn đề về công tác bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa trong những
năm gần đây được các nhà nghiên cứu quan tâm nhiều hơn. Trước tiên phải kể
đến cuốn sách “Một số vấn đề về bảo tồn và phát triển di sản văn hóa dân tộc”
(1997) của Hoàng Vinh. Cuốn sách nêu những tiền đề lí luận về di sản văn
hoá dân tộc, thực trạng và một số kiến nghị về chính sách bảo tồn, phát triển
di sản văn hoá dân tộc ở Việt Nam.
Cuốn “Di sản văn hóa bảo tồn và trùng tu” (2002) của Hoàng Đạo Kinh
là cuốn sách tập hợp các bài tiểu luận về các di sản văn hóa Việt Nam và nêu
các định hướng bảo tồn và trùng tu các kiến trúc, các di sản văn hóa.
Cuốn “Một con đường tiếp cân di sản văn hóa” (2006) do Phạm Quang
Nghị chủ biên. Cuốn sách giới thiệu những bài viết về di sản văn hóa vật thể
và phi vật thể, bảo tàng và công tác bảo tồn, tôn tạo ở Việt Nam.
Cuốn “Di sản văn hóa bảo tồn và phát triển” (2008) của Nguyễn Đình
Thanh đã tập hợp những bài nghiên cứu về hoạt động phát triển văn hóa ở
Việt Nam, một số kinh nghiệm bảo tồn di sản văn hóa của một số nước trên
thế giới.
Cuốn “Quản lý di sản văn hóa” (2012) do Th.S Nguyễn Thị Kim Loan
chủ biên đã nêu vai trò của di sản văn hóa trong phát triển kinh tế xã hội, trình

bày nội dung quản lý nhà nước về di sản văn hóa.
Đối với công tác bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa ở tỉnh Nam
Định cũng có những cồng trình nghiên cứu về vấn đề này. Cuốn “Trần miếu
(Đền Trần – Nam Định) - di sản và tín ngưỡng dân gian” (2006) do Hồ Đức
Thọ biên soạn. Giới thiệu về Đền Trần – Nam Định: thờ nguồn gốc lập miếu,
việc thờ tự và giới thiệu kiến trúc nghệ thuật, tín ngưỡng, các ngày kỉ niệm,
đại lễ và lễ hội. Ngoài ra, Hồ Đức Thọ viết rất nhiều về văn hóa ở Nam Định

2


như cuốn “Lễ hội cổ truyền ở Nam Định”, “Chùa Phổ Minh với Giác Hoàng
Trần Nhân Tông”.
Cuốn sách “Di tích lịch sử - văn hóa” (2008) do Ban quản lý di tích và
thắng cảnh tỉnh Nam Định đã tiến hành nghiên cứu, biên soạn và xuất bản.
Đây là công trình sưu tầm, biên soạn của nhiều tác giả, cán bộ giới thiệu chi
tiết về các di tích lịch sử - văn hóa trên địa bàn tỉnh Nam Định.
Nghề và làng nghề truyền thống ở Nam Định (2010) do Đỗ Đình Thọ,
Lưu Tuấn Hùng, Nguyễn Văn Nhiên biên soạn. Giới thiệu một số nghề, làng
nghề truyền thống tiêu biểu của tỉnh Nam Định như nghề làm muối ở Văn Lý,
làng hoa, cây cảnh ở Vị Khê, nghề đúc đồng thị trấn Lâm, làng đúc đồng, đúc
bạc Đồng Quỹ, nghề sơn ở Cát Đằng...
Thông qua việc tìm hiểu các nguồn tài liệu trên, tôi nhận thấy công tác
bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa được đề cập đến rất nhiều. Tuy nhiên,
đối với tỉnh Nam Định nói riêng, tài liệu nghiên cứu về công tác bảo tồn và
phát huy các di sản văn hóa tương đối ít vì vậy cần được quan tâm và nghiên
cứu nhiều hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu đề tài
Đề tài nghiên cứu quá trình Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo công tác

bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa để làm rõ sự quan tâm của Đảng bộ đối
với việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, thực hiện nhiệm vụ Nghị quyết
Trung ương 5 (khóa VIII) đề ra là “xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc văn hóa dân tộc”.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Để đạt được mục đích của đề tài, khóa luận phải giải quyết nhiệm vụ sau:
Tìm hiểu về những di sản văn hóa của tỉnh Nam Định và vai trò của các
di sản văn hóa đó đối với đời sống. Từ đó làm rõ vai trò của công tác bảo tồn
và phát huy các di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh.

3


Đi sâu và làm rõ quá trình triển khai Nghị quyết của Trung Đảng của
Đảng bộ tỉnh Nam Định trong việc lãnh đạo công tác bảo tồn và phát huy các
di sản văn hóa. Đánh giá những kết quả đạt được và chỉ ra những hạn chế
chưa được khắc phục, trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp để bảo tồn và phát
huy các di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu đề tài
Đề tài nghiên cứu về đường lối của Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo công
tác bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa từ năm 1996 đến năm 2010.
4.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài
- Thời gian: Từ năm 1996 đến năm 2010
- Không gian: Tỉnh Nam Định
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên thế giới quan, phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời, sử
dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học chủ yếu sau: phân tích, tổng hợp,
so sánh, điều tra, khảo sát, thống kê, hệ thống hóa…

6. Đóng góp của đề tài
Đề tài đã trình bày một cách tổng quát về số lượng và hiện trạng các di
sản văn hóa của tỉnh Nam Định, về vai trò của các di sản văn hóa đối với
người dân. Đặc biệt, qua việc nghiên cứu và phân tích đường lối, chính sách
của Đảng bộ tỉnh Nam Định đã làm rõ được sự quan tâm của Đảng bộ đối với
các di sản văn hóa, thực hiện đúng tinh thần của Nghị quyết Trung ương Đảng
đề ra. Thông qua đó đã đánh giá tình hình công tác bảo tồn và pháy huy các di
sản văn hóa với những thành tựu đạt được và những hạn chế còn tồn tại. Từ
đó, đưa ra những giải pháp đóng góp vào công tác bảo tồng và phát huy các di
sản văn hóa của tỉnh, để trong những năm tới các di sản văn hóa được lưu giữ,
bảo tồn, tôn tạo và phát huy được giá trị của mình, góp phần gìn giữ các giá trị

4


truyền thống, xây dựng văn hóa tiên tiến, đậm đà bản bản sác văn hóa dân tộc,
làm cho văn hóa đi vào đời sống người dân.
7. Kết cấu khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục. Bài khóa luận
gồm có 2 chương, 5 tiết:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về vấn đề bảo tồn và phát huy các
di sản văn hóa tại tỉnh Nam Định
Chương 2: Đảng bộ tỉnh Nam Định lãnh đạo công tác bảo tồn và phát
huy các di sản văn hóa từ năm 1996 đến năm 2010

5


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VẤN ĐỀ BẢO TỒN VÀ

PHÁT HUY CÁC DI SẢN VĂN HÓA TẠI TỈNH NAM ĐỊNH

1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.1. Một số khái niệm về văn hóa
Văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều cách hiểu khác
nhau, hiện nay có khoảng 5000 khái niệm về văn hóa.
Ở phương Đông, từ văn hóa đã có trong đời sống ngôn ngữ từ rất sớm.
Trong Chu Dịch (Trung Quốc) có viết “quan hồ nhân dĩ hóa thành thiên hạ”
nói đến phép tắc để giáo hóa làm cho thiên hạ được khai hóa. Người sử dụng
từ văn hóa sớm nhất có lẽ là Lưu Hướng (năm 77 – 6 trước công nguyên) thời
Tây Hán với nghĩa như một phương thức giáo hóa con người – văn trị giáo
hóa. Văn hóa ở đây được dùng đối lập với vũ lực.
Theo ngôn ngữ của phương Tây, từ tương ứng với văn hóa của tiếng
Việt (culture trong tiếng Anh và tiếng Pháp, kultur trong tiếng Đức, kultura
trong tiếng Nga ...) những từ này lại có chung gốc Latinh là chữ cultus animi
là trồng trọt tinh thần. Ban đầu, từ “cult” có nghĩa là canh tác đất đai và gieo
trồng thực vật. Sau này với sự phát triển của lịch sử thì nó mang ý nghĩa mới,
đó là sự mở rộng kiến thức, bồi dưỡng về thể chất và tinh thần hay còn gọi là
“trồng trọt tinh thần”. Sang thế kỉ XVII - XVIII thuật ngữ “văn hóa” có nghĩa
là “canh tác tinh thần”, bên cạnh nghĩa gốc là canh tác nông nghiệp cho đến
thế kỉ XIX thuật ngữ “văn hóa” được các nhà nhân loại học phương Tây sử
dụng như một danh từ chính.
Năm 1871, E.B. Tylor cho rằng: Văn hóa hay văn minh, theo nghĩa
rộng về tộc người học, nói chung gồm có tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo
đức, luật pháp, tập quán và một số năng lực và thói quen khác được con người

6


chiếm lĩnh với tư cách một thành viên của xã hội. Theo E.B. Tylor thì văn hóa

và văn minh là một. Nó bao gồm tất cả những lĩnh vực liên quan đến đời sống
con người, từ tri thức, tín ngưỡng đến nghệ thuật, đạo đức, pháp luật… Có
người ví, định nghĩa này mang tính “bách khoa toàn thư” vì đã liệt kê hết mọi
lĩnh vực sáng tạo của con người
F. Boas định nghĩa: Văn hóa là tổng thể các phản ứng tinh thần, thể chất
và những hoạt động định hình nên hành vi của cá nhân cấu thành nên một
nhóm người vừa có tính tập thể vừa có tính cá nhân trong mối quan hệ với
môi trường tự nhiên của họ, với những nhóm người khác, với những thành
viên trong nhóm và của chính các thành viên này với nhau. Theo định nghĩa
này, mối quan hệ giữa cá nhân, tập thể và môi trường là quan trọng trong việc
hình thành văn hóa của con người.
Lênin đã từng viết: Thói quen là điều đáng sợ nhất. C.Mác cũng nhấn
mạnh rằng: Truyền thống của tất cả các thế hệ đã qua đè nặng lên đầu óc
của những người đang sống. Theo V.I. Lênin, đối với những người bắt tay
vào công cuộc kiến thiết chế độ mới, nếu họ chỉ có nhiệt tình và lòng dũng
cảm thì không đủ. Họ cần phải có hiểu biết, học vấn và kinh nghiệm đấu
tranh thực tiễn. Nói một cách khác, họ phải được giáo dục và tự giáo dục về
văn hóa, sao cho quần chúng lao động nâng cao được trình độ văn hóa. Chỉ
có thể phát triển văn hóa, nâng cao trình độ và nhu cầu văn hóa của quần
chúng mới có thể làm cho họ thực sự trở thành những người chủ nghĩa xã
hội mới. V.I. Lênin chỉ ra rằng: “Chỉ có làm cho tất cả mọi người đều phải
có văn hóa, phải nâng cao trình độ văn hóa của quần chúng lên mới có thể
chiến thắng được kẻ thù một cách căn bản”. [14;218]
Trong bức thư gửi Mô - lô - tốp ngày 23-3-1922 về việc chuẩn bị báo
cáo chính trị cho Đại hội XI của Đảng Cộng sản Nga, Lênin chỉ rõ “Về mặt
kinh tế và chính trị, chính sách kinh tế mới hoàn toàn đảm bảo cho chúng ta

7



có khả năng xây dựng được nền móng cho nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Tất
cả chỉ là tùy ở lực lượng văn hóa của giai cấp vô sản và của đội tiền phong
của nó”. [15;74]
Xây dựng nền văn hóa mới tiên tiến có tính chất xã hội chủ nghĩa, thấm
nhuần nội dung và hình thức dân tộc, gắn với những yêu cầu của thời đại mới,
thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một nhiệm vụ, đồng thời là một mục
tiêu quan trọng của cách mạng tư tưởng và văn hóa. Nền văn hóa đó được
Lênin gọi là văn hóa vô sản, văn hóa xã hội chủ nghĩa kết hợp được truyền
thống với hiện đại, vừa giữ gìn và phát huy được bản sắc, tinh hoa của dân tộc
vừa kế thừa được những thành quả tốt đẹp, ưu tú nhất của văn hóa nhân loại
qua các thời đại lịch sử. Một mặt, phải sáng tạo ra một nền văn hóa phong
phú, đa dạng và hiện đại. Mặt khác, phải làm cho giai cấp công nhân và quần
chúng lao động tham gia tích cực vào quá trình sáng tạo văn hóa, trở thành
chủ thể sản xuất, tiêu dùng và cảm thụ các giá trị văn hóa nghệ thuật, xây
dựng môi trường văn hóa lành mạnh để giáo dục và đào tạo con người xã hội
chủ nghĩa.
Đời sống văn hóa tinh thần của xã hội chủ nghĩa vừa như một môi
trường xã hội với chất lượng cao về đạo đức, văn hóa và lối sống, lại vừa
đồng thời là sự tổng hợp phong phú các hoạt động văn hóa của xã hội hướng
vào sự phát triển cá nhân và cộng đồng nhằm tạo ra văn hóa nhân cách của cá
nhân, văn hóa gia đình và văn hóa của xã hội. Chất lượng sáng tạo, cảm thụ
văn hóa, giao tiếp văn hóa được tạo ra từ đó, như điều mà Lênin đã khẳng
định: phải làm cho những người lao động có thể thực sự hưởng được tất cả
những phúc lợi của nền văn hóa, văn hóa, văn minh và dân chủ.
Năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: Văn
hóa nên được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn,
vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội

8



và nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức
chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã mở ra một nền văn hóa mới cho dân
tộc Việt Nam, đó là nền văn hóa trên nền tảng độc lập dân tộc kết hợp với chủ
nghĩa xã hội, tự do, ấm no, hạnh phúc cho mọi người và mỗi người. Đó là nền
văn hóa là tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Tư tưởng văn hóa và sự nghiệp
văn hóa Hồ Chí Minh không chỉ là của thế kỷ XX mà còn là của các thế kỷ
tiếp theo. Trong suốt cuộc đời của mình, tuy không gắn với nghiệp văn
chương, nhưng sự nghiệp cách mạng cao cả của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính
là sự nghiệp văn hóa vĩ đại - văn hóa giải phóng con người và xã hội loài
người khỏi mọi ách áp bức, bất công, nô dịch, nghèo nàn, lạc hậu…tiến tới
xây dựng xã hội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tháng 8-1943, khi
còn trong nhà tù của Tưởng Giới Thạch, lần đầu tiên Hồ Chí Minh đưa ra một
định nghĩa của mình về văn hóa. Điều thú vị là định nghĩa của Hồ Chí Minh
có rất nhiều điểm gần với quan niệm hiện đại về văn hóa, Người viết:
Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới
sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, tôn giáo, văn
học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các
phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn
hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu
hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời
sống và đòi hỏi sự sinh tồn. [18;431]
Về định nghĩa này, Hồ Chí Minh đã khắc phục được quan niệm phiến
diện về văn hóa trong lịch sử và hiện tại, hoặc chỉ đề cập đến lĩnh vực tinh
thần, trong văn học nghệ thuật, hoặc chỉ đề cập đến lĩnh vực giáo dục, phản
ánh trình độ học vấn… Trên thực tế, văn hóa bao gồm toàn bộ những giá trị
vật chất và những giá trị tinh thần mà loài người đã sáng tạo ra, nhằm đáp ứng
sự sinh tồn và cũng là mục đích cuộc sống của loài người.


9


* Quan điểm về xây dựng một nền văn hóa mới
Cùng với định nghĩa về văn hóa, Hồ Chí Minh còn đưa ra 5 điểm lớn
định hướng cho việc xây dựng nền văn hóa dân tộc:
1. Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường.
2. Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.
3. Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của
nhân dân trong xã hội.
4. Xây dựng chính trị: dân quyền
5. Xây dựng kinh tế. [17;431]
Như vậy, ngay từ sớm, Hồ Chí Minh đã quan tâm đến văn hóa, đã thấy
rõ vai trò, vị trí của văn hóa trong đời sống xã hội. Điều này cắt nghĩa vì sao
ngay sau khi giành được độc lập, Hồ Chí Minh đã bắt tay ngay vào việc xây
dựng, kiến tạo một nền văn hóa mới ở Việt Nam trên tất cả mọi lĩnh vực, từ
kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức đến tâm lý con người, đã sớm đưa văn hóa
vào chiến lược phát triển đất nước.
PGS. Phan Ngọc đưa ra một định nghĩa văn hóa mang tính chất thao
tác luận, khác với những định nghĩa trước đó, theo ông đều mang tính tinh
thần luận:
Không có cái vật gì gọi là văn hóa cả và ngược lại bất kì vật gì
cũng có cái mặt văn hóa. Văn hóa là một quan hệ. Nó là mối quan hệ giữa thế
giới biểu tượng và thế giới thực tại. Quan hệ ấy biểu hiện thành một kiểu lựa
chọn riêng của một tộc người, một cá nhân khác. Nét khác biệt giữa các kiểu
lựa chọn làm cho chúng khác nhau, tạo thành những nền văn hóa khác nhau,
tạo thành những nền văn hóa khác nhau là độ khúc xạ. Tất cả mọi cái mà tộc
người tiếp thu hay sáng tạo đều có một độ khúc xạ riêng có mặt ở mọi lĩnh
vực và rất khác độ khúc xạ ở một tộc người khác. [19;28]
Trong Nghị quyết Trung ương 5 ( Khóa VIII), Đảng ta khẳng định: Văn

hóa Việt Nam là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do cộng đồng các

10


dân tộc Việt Nam sáng tạo ra trong quá trình dựng nước và giữ nước…, là kết
quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới để không
ngừng hoàn thiện mình. Văn hóa Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí
phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc.
Như vậy, văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh
thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn trong
sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình.
1.1.2. Khái niệm di sản văn hóa
Di sản văn hóa là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn
hóa, khoa học được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trong diễn
trình văn hóa của mỗi dân tộc, di sản văn hóa đóng vai trò vô cùng quan
trọng vì nó là nguồn lực nội sinh cho quá trình tiếp biến văn hóa. Ngay
phần mở đầu của Luật Di sản văn hóa được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khóa X, kì họp thứ 9 thông qua ngày 29-6-2001 đã
viết: “Di sản văn hóa Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân
tộc Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trò to
lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta”. [16;12] Di
sản văn hóa gồm có di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể:
Theo UNESCO, di sản văn hóa vật thể là những sản phẩm văn hóa
tồn tại hữu hình mà con người có thể tiếp xúc một cách trực tiếp, cảm tính
thông qua các giác quan. Đó là các công trình kiến trúc lịch sử văn hóa, các
tác phẩm hội hoạ, điêu khắc, các di tích lịch sử văn hóa như đền, đài, lăng
mộ, thành cổ, vật cổ và bảo vật quốc gia...
Tại chương 1 – điều 4 của Luật Di sản văn hóa cũng đã nêu rõ: “Di sản
văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học,

bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo
vật quốc gia”. [16;13]

11


Đề cập về di sản văn hóa phi vật thể, ngày 17-10-2003, UNESCO đã
phê chuẩn Công ước về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể:
Di sản văn hóa phi vật thể được hiểu là các tập quán, các hình thức
thể hiện, biểu đạt tri tri thức, kỹ năng và kèm theo đó là những công cụ, đồ
vật, đồ tạo tác và các không gian văn hóa có liên quan mà các cộng đồng, các
nhóm người và trong một số trường hợp là các cá nhân, công nhận là phần di
sản văn hóa của họ. Được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác, di sản
văn hóa phi vật thể được các cộng đồng và các nhóm người không ngừng tái
tạo để thích nghi với môi trường và mối quan hệ qua lại giữa cộng đồng với tự
nhiên và lịch sử của họ, đồng thời hình thành trong họ một ý thức về bản sắc
và sự kế tục, qua đó khích lệ thêm sự tôn trọng đối với sự đa dạng văn hóa và
tính sáng tạo của con người. [4;84]
Theo định nghĩa này thì di sản văn hóa phi vật thể không chỉ là các tập
quán , các hình thức thể hiện, biểu đạt tri thức, kỹ năng mà còn là những công
cụ, đồ vật, đồ tạo tác và các không gian văn hóa có liên quan.
Luật Di sản văn hóa của Việt Nam định nghĩa:
Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử,
văn hóa, khoa học, được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu truyền bằng
truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức lưu giữ, lưu truyền
khác, bao gồm tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn học nghệ thuật, khoa học,
ngữ văn truyền miệng, diễn xướng dân gian, lễ hội, bí quyết về nghề thủ công
truyền thống, tri thức về y, dược học cổ truyền, về văn hóa ẩm thực, về trang
phục truyền thống dân tộc và những tri thức dân gian khác. [16;13]
Di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể có liên quan mật

thiết với nhau. Di sản văn hóa vật thể xuất hiện như là sự biểu hiện vật chất
của di sản văn hóa phi vật thể, và di sản văn hóa phi vật thể đến lượt mình tồn
tại như là biểu hiện tinh thần của di sản văn hóa vật thể đó. Nếu gọi di sản văn

12


hóa vật thể là gương mặt lịch sử, là nhân chứng của các thời đại, thì di sản văn
hóa phi vật thể là linh hồn, là tinh anh, hun đúc những giá trị cao nhất của dân
tộc. Các di sản văn hóa vật thể luôn luôn chứa đựng trong mình những giá trị
vô hình, nơi con người gửi gắm đức tin và tôn thờ một đấng thiêng liêng nào
đó, là không gian văn hóa cho nhân dân trong những ngày lễ hội truyền thống,
lễ hội tôn giáo, là nơi các nghệ nhân xưa thể hiện năng lực sáng tác kiến trúc –
nghệ thuật của mình dâng lên đấng tối cao, thể hiện khát vọng và ước mơ
thầm kín mãnh liệt của mình về cuộc sống – thế giới con người. Đối với di sản
văn hóa phi vật thể thì tự thân nó đã mang trong mình những thông điệp của
quá khứ và khi tham gia vào đời sống văn hóa hiện đại sẽ làm cho văn hóa của
mỗi dân tộc không bị tách rời khỏi truyền thống, nó giữ lại những giá trị tự
thân, đồng thời tạo nên những giá trị bên trong cốt cách, bản lĩnh, năng lực
của mỗi dân tộc. Những hệ giá trị này có tính ổn định rất lớn và có tính bền
vững tương đối, có sức mạnh to lớn đối với cộng đồng. Trong sự tiến bộ phát
triển của xã hội, các giá trị này thường không biến mất mà hóa thân vào các
giá trị của thời sau theo quy luật kế thừa, tái tạo và đó cũng là biểu hiện của
tính liên tục văn hóa.
1.1.3. Khái niệm bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa
Bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa là hoạt động nhằm mục đích lưu
giữ, bảo vệ và phát triển các di sản văn hóa đang có nguy ơ biến mất vì lí do
này hay lí do khác. Bảo tồn và phát huy bao gồm nhiều hoạt động khác nhau
như việc điều tra, nghiên cứu, bảo quản, tu bổ, phục dựng. Bảo tồn và phát
huy được coi là một lĩnh vực khoa học chuyên ngành với nhưng yêu cầu về kỹ

năng riêng biệt. Bên cạnh đó, bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa phải tuân
thủ các nguyên tắc trùng tu, tôn tạo và bảo quản.
Di sản văn hóa là những nét tinh tú nhất, đặc sắc nhất của một nền văn
hóa vượt qua được thử thách của thời gian, lịch sử đến với thế hệ hiện tại, vì
thế nó chính là tấm gương phản ánh thật rõ nét bản sắc văn hóa của dân tộc ta.

13


Đó chính là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí độc lập tự cường bất khuất, đạo lí
uống nước nhớ nguồn sâu sắc, tinh thần tương thân tương ái đoàn kết cộng
đồng vững chắc và tấm lòng bao dung rộng mở. Đây chính là những nét tạo
nên bản lĩnh, cốt cách của dân tộc Việt Nam. Hệ thống di sản văn hóa không
chỉ minh chứng, khẳng định bản lĩnh, cốt cách dân tộc mà còn cho ta thấy rõ
những nếp sống, nếp sinh hoạt và suy nghĩ rất riêng của dân tộc ta thông qua
hệ thống phong tục tập quán thật đa dạng và phong phú.
Do đó, bảo tồn và tôn tạo các di sản văn hóa chính là giữ gìn, phát huy
các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc, nó có ý nghĩa to lớn đối với các thế hệ
nối tiếp. Di sản văn hóa là “bức thông điệp” của thế hệ cha ông gửi lại cho thế
hệ mai sau. Như vậy, bảo tồn, tôn tạo và khai thác các di sản văn hóa trở thành
vấn đề lớn của mỗi dân tộc chứ không phải của riêng cá nhân, tổ chức nào.
Hiện nay trong quá trình đổi mới, với sự tác động của nền kinh tế thị
trường, ngoài những thuận lợi còn có những mặt hạn chế đã và đang phát triển
cả ở thành thị và nông thôn, tạo thành nguy cơ ảnh hưởng không tốt đến môi
trường cảnh quan và những giá trị của các di sản văn hóa. Bởi vậy công tác
bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa sẽ góp phần giữ gìn, kế thừa và phát
huy truyền thống đạo đức của dân tộc là hết sức cần thiết, hết sức có ý nghĩa.
Bởi nếu không có giải pháp bảo tồn, phát huy một cách thiết thực, có hiệu quả
thì nhiều di sản văn hóa cả vật thể và phi vật thể sẽ nhanh chóng bị hủy hoại
bởi thời gian, bởi môi trường thiên nhiên khắc nghiệt và bởi mặt trái của toàn

cầu hóa và thị trường hóa...
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.2.1. Vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên của tỉnh Nam Định
1.2.1.1. Vị trí địa lí
Nam Định là tỉnh duyên hải ở phía nam đồng bằng Bắc Bộ. Phía đông
nam là biển Đông, phía đông giáp tỉnh Thái Bình, phía tây giáp tỉnh Ninh Bình,
phía bắc giáp tỉnh Hà Nam.

14


Toạ độ địa lý: 19o53'-20o vĩ độ Bắc, 105o55'-106o37' kinh độ Đông .
1.2.1.2. Điều kiện tự nhiên
Nam Định có diện tích là 1652,29 km2 bằng khoảng 0,5% diện tích toàn
quốc. Địa hình tương đối bằng phẳng, chủ yếu là đồng bằng thấp trũng và đồng
bằng ven biển. Khu vực phía tây bắc tỉnh tập trung một số ít đồi núi thấp như
Bảo Đài, Ngô Xá (còn gọi là Thương Sơn, Mai Sơn – Ý Yên), Côi Sơn (còn gọi
là núi Gôi), Non Côi, Hổ Sơn, Kim Bảng nay là Kim Thái, Trang Nghiêm tức
núi Ngăm (Vụ Bản)… Dưới chân núi thường có những dòng sông nhỏ chảy
quanh tạo nên cảnh trí hữu tình. Non Côi – sông Vị là những danh thắng đại
diện cho Nam Định mà cả nước nhiều người biết đến. Cư dân tụ họp về đây
sinh sống từ rất lâu đời. Những kết quả nghiên cứu của các ngành khoa học xã
hội như: khảo cổ học, bảo tàng học, dân tộc học,...đã chứng minh người Việt cổ
đã sớm có mặt ở vùng đất này (di chỉ khảo cổ học Núi Lê, hang Lỗ Xá, Tam
Thanh huyện Vụ Bản, núi Hổ Sơn xã Liên Minh, núi Thái xã Kim Thái). Từ
xuất phát điểm đó, các làng, xã ở Nam Định hình thành và trở thành đơn vị
hành chính hàm chứa những yếu tố văn hoá riêng biệt, bao gồm sự kết nối từ
gia đình đến dòng họ, sau đó đến làng, đến quốc gia.
Cũng như các tỉnh trong vùng đồng bằng Bắc Bộ, Nam Định mang khí
hậu cận nhiệt đới ẩm ấm. Nhiệt độ trung bình trong năm từ 23 – 24 °C. Tháng

lạnh nhất là các tháng 12 và 1, với nhiệt độ trung bình từ 16 – 17 °C. Tháng 7
nóng nhất, nhiệt độ khoảng trên 29 °C.
Lượng mưa trung bình trong năm từ 1.750 – 1.800 mm, chia làm 2 mùa
rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa ít mưa từ tháng 11 đến tháng 2
năm sau. Số giờ nắng trong năm: 1.650 – 1.700 giờ. Độ ẩm tương đối trung
bình: 80 – 85%. Mặt khác, do nằm trong vùng vịnh Bắc Bộ nên hàng năm Nam
Định thường chịu ảnh hưởng của bão hoặc áp thấp nhiệt đới, bình quân từ 4 – 6
cơn/năm. Thuỷ triều tại vùng biển Nam Định thuộc loại nhật triều, biên độ triều
trung bình từ 1,6 – 1,7m lớn nhất là 3,31m và nhỏ nhất là 0,11m.

15


Với khí hậu thời tiết của vùng nhiệt đới ẩm gió mùa đã tạo ảnh hưởng
đến các di sản văn hóa. Trước tiên ảnh hưởng đến sự hình thành các phong tục,
tập quán của người dân nơi đây, đó cũng là nguồn gốc để tạo nên nét ẩm thực
vô cùng đa dạng phong phú và ấn tượng của Nam Định. Bên cạnh đó cũng gây
ảnh hưởng xấu đến các di tích lịch sử, với lượng mưa tương đối nhiều, độ ẩm
thấp và hàng năm phải hứng chịu nhiều cơn bão đã phá hủy và xuống cấp nhiều
di tích lịch sử.
Nam Định là vùng đất nằm giữa hạ lưu hai con sông lớn của đồng bằng
Bắc Bộ là sông Hồng và sông Đáy. Dòng chảy của sông Hồng và sông Đáy kết
hợp với chế độ nhật triều đã bồi tụ tại vùng cửa hai sông tạo nên 2 bãi bồi lớn
ven biển là Cồn Lu, Cồn Ngạn (Giao Thuỷ) và vùng Cồn Trời, Cồn Mờ (Nghĩa
Hưng). Ngoài hai con sông lớn, trong tỉnh còn có những chi lưu của sông Hồng
chảy sang sông Đáy hoặc đổ ra biển. Từ bắc xuống nam có sông Đào làm địa
giới quy ước cho hai vùng nam bắc tỉnh, sông Ninh Cơ đổ ra cửa Lác (thường
gọi là Gót Chàng), sông Sò (còn gọi là sông Ngô Đồng) đổ ra cửa Hà Lạn.
Tính đến năm 2000, toàn tỉnh có 4.723 ha rừng các loại, chủ yếu là rừng
phòng hộ, cây trồng chính là sú, vẹt, phi lao, bần. Hệ thực vật chiếm khoảng

50%, hệ động vật chiếm khoảng 40% loài thực vật, động vật cả nước.
1.2.2. Điều kiện kinh tế - xã hội của tỉnh Nam Định
Nam Định gồm có 1 Thành phố là thành phố Nam Định và 09 huyện:
Giao Thủy, Hải Hậu, Mỹ Lộc, Nam Trực, Nghĩa Hưng, Trực Ninh, Vụ Bản,
Xuân Trường, Ý Yên. Nam Định có 230 đơn vị hành chính cấp xã gồm 195 xã,
20 phường và 15 thị trấn.
Theo điều tra dân dố 01-04-2010 Nam Định có 2.005.771 người với mật
độ dân số 1.196 người/km². Dân tộc sinh sống tại Nam Định chủ yếu là dân tộc
Kinh, theo hai tôn giáo chính là Phật giáo và Thiên chúa giáo.
Nam Định là một tỉnh có bề dày văn hóa và truyền thống hiếu học của cả
nước. Sở Giáo dục và Đào tạo cũng như Đội tuyển thi học sinh giỏi Quốc gia

16


nhiều năm xếp thứ nhất toàn quốc. Trường trung học phổ thông chuyên Lê
Hồng Phong (Trường Thành Chung Nam Định xưa) được xếp vào hạng hàng
đầu của cả nước về thành tích học tập. Ngoài ra, có một số ngôi trường khác
cũng khá nổi bật là các trường trung học phổ thông Giao Thủy A, (trường
chuẩn quốc gia năm 2003), Hải Hậu A (trường chuẩn quốc gia năm 2003),
trung học phổ thông Trần Hưng Đạo (trường chuẩn quốc gia năm 2009),
trường trung học cơ sở Lý Tự Trọng, trung học cơ sở Trần Đăng Ninh, trung
học cơ sở Phạm Hồng Thái. Ngoài ra trong tốp 200 trường có kết quả cao nhất
cả nước thì Nam Định có tới 17 trường. Trong Top 100 trường trung học phổ
thông tốt nhất Việt Nam năm 2009, Nam Định có tới 7 trường.
Nam Định có trường Đại học Điều dưỡng được thành lập năm 2005 là
trường Đại Học Điều Dưỡng đầu tiên trên cả nước. Ngoài ra còn có các trường
đại học khác như trường Đại học Sư phạm kỹ thuật Nam Định, trường Đại học
Dân Lập Lương Thế Vinh, trường Đại học Kinh tế kỹ thuật công nghiệp,
trường Cao đẳng Sư phạm Nam Định và 12 trường cao đẳng khác...

Nam Định nằm trong vùng trọng điểm sản xuất lương thực, thực phẩm
của đồng bằng Bắc Bộ. Đồng thời, có nền sản xuất công nghiệp phát triển
tương đối sớm với nhiều ngành nghề truyền thống, là một trong những trung
tâm dệt may hàng đầu của cả nước. Tổng giá trị hàng xuất khẩu trên địa bàn đạt
210 triệu USD (kế hoạch 200 triệu USD). Tổng nguồn vốn đầu tư xã hội trên
địa bàn tỉnh ước thực hiện 8800 tăng 19,4% (kế hoạch tăng 10%). Năm 2010,
ước tính GDP tỉnh đạt 10.920 tỷ đồng. Năm 2009, Cơ cấu kinh tế là: Nônglâm-thuỷ sản: 30%; Công nghiệp-xây dựng: 32%; Dịch vụ: 38%.
Các khu công nghiệp trong tỉnh Nam Định: Khu Công nghiệp Hòa Xá,
khu Công nghiệp Mỹ Trung, khu Công nghiệp Thành An, khu Công nghiệp
Bảo Minh, khu Công nghiệp Hồng Tiến, khu Kinh tế Ninh Cơ và nhiều cụm
công nghiệp khác.

17


1.2.3. Vai trò của di sản văn hoá đối với đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân tỉnh Nam Định
1.2.3.1. Khái quát chung về các di sản văn hóa của tỉnh Nam Định
Nam Định nằm ở trung tâm vùng Nam đồng bằng sông Hồng, không
chỉ là mảnh đất địa linh nhân kiệt, nơi đây còn là nơi phát tích của vương triều
Trần - một trong những triều đại phát triển hưng thịnh nhất trong lịch sử
phong kiến Việt Nam. Là nơi hội tụ và bảo lưu nhiều giá trị văn hóa truyền
thống thể hiện ở các công trình kiến trúc như đình, chùa, đền, miếu, phủ, lăng,
mộ, nhà thờ, từ đường dòng họ,… tất cả hệ thống di sản văn hoá đó đã và
đang hội tụ những giá trị tư tưởng, đạo đức, tín ngưỡng, tôn giáo, góp phần
hun đúc nên nhân cách con người Nam Định, luôn hướng tới Chân - Thiện Mỹ và Nhân - Nghĩa - Lễ - Trí - Tín. Các di tích lịch sử, văn hoá là nơi ghi
dấu công sức, tài năng của các thế hệ qua từng thời đại, là bằng chứng xác
thực, cụ thể về đặc điểm văn hóa mỗi vùng, miền. Các di tích lịch sử văn hóa
hầu như vẫn giữ được khá đầy đủ và liên tục về mạch truyền thống kiến trúc
dân tộc.

* Di sản văn hóa vật thể
Trên địa bàn tỉnh hiện có hơn 2.000 di tích lịch sử - văn hoá, khoảng
300 nhà thờ và đặc biệt là hơn 3.000 Từ đường dòng họ. Trong đó có 77 di
tích được công nhận cấp quốc gia, 214 di tích được công nhận cấp tỉnh, bao
gồm các loại hình di tích: kiến trúc nghệ thuật, lịch sử, khảo cổ, cách mạng
kháng chiến, danh thắng. Số lượng di tích này trải rộng ở khắp các địa bàn,
phong phú, đa dạng và có nhiều giá trị văn hóa truyền thống sâu sắc. Những
di tích lịch sử văn hóa được công nhận có nhiều giá trị về lịch sử, nghệ thuật,
khảo cổ, mang đậm nét dấu ấn văn hóa Việt, tiêu biểu là:
- Khu di tích Đền Trần - Chùa Tháp xã Lộc Vượng là một điển hình
của di sản văn hóa thời Trần ở Việt Nam. Đây là khu di tích qua nhiều thế kỉ

18


được đặt dưới nhiều sự quản lí của Nhà nước phong kiến thời độc lập tự chủ
từ thế kỉ XVI cho đến Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Đây là khu di tích
đặc biệt quan trọng của quốc gia có nhiều dấu ấn văn hóa, lịch sử từ thế kỉ
XIII, là quê hương của vương triều Trần, một vương triều có nhiều võ công –
văn trị lừng danh trong lịch sử. Do vậy, các giá trị văn hóa ở đây được bảo tồn
và khai thác rất tích cực, góp phần vào việc xây dựng bản sắc dân tộc. Đây là
khu di tích có giá trị trong lĩnh vực du lịch để giới thiệu những bài học dựng
nước, giữ nước của cha ông ta trong cuộc kháng chiến chống xâm lược
Nguyên – Mông, một đế quốc hung mạnh nhất thời đó. Nơi đây vào đúng giờ
Tý rằm tháng Giêng âm lịch có lễ Khai Ấn. Tương truyền các vua Trần nghỉ
tết âm lịch hàng năm đến rằm tháng Giêng thì Khai Ấn trở lại quốc sự. Lễ
Khai Ấn hàng năm thu hút rất nhiều du khách các nơi về Nam Định dự và xin
lộc vua Trần.
- Chùa Keo (Thần Quang Tự) tại làng Hành Thiện, Xã Xuân Hồng,
Huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định, là di tích lịch sử được xếp hạng của Bộ

văn hóa. Đây là một khu di tích bề thế, thờ Thiên sư rất nổi tiếng thời Lý được
xây dựng năm 1062. Toàn bộ công trình kiến trúc từ thế kỉ XVII này có nhiều
bia kí, cổ vật, cổ thư.
- Khu di tích Phủ Giầy, bao gồm phủ Tiên Hương, phủ Văn Cát, Lăng
và hơn 10 di tích khác tạo thành một quần thể di tích văn hóa. Chúng ta có thể
tìm thấy ở đây tín ngưỡng thờ Mẫu – một tín ngưỡng cổ xưa và phát triển
mạnh ở thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX.
- Chùa Phổ Minh, một trong những ngôi chùa cổ nhất của Phật giáo
nước ta đã được tu bổ đúng với bố cục kiến trúc ban đầu.
- Chùa Cổ Lễ nơi thiền sư Nguyễn Minh Không trụ trì (cùng với các
thiền sư Từ Đạo Hạnh và Giác Hải là Nam thiền tam tổ)

19


- Phủ Quảng Cung (Phủ Nấp) thờ Thánh mẫu Liễu Hạnh, giáng sinh lần
thứ nhất ở xã Yên Đồng, Ý Yên
- Quần thể các di tích thờ Vua Đinh Tiên Hoàng ở Nam Định gồm Đền
Vua Đinh (Yên Thắng), đền Thượng, đình Thượng Đồng, đình Cát Đằng ở
Yên Tiến, Ý Yên và đền Vua Đinh ở làng việt cổ Bách Cốc, Vụ Bản.
- Tháp chuông chùa Phổ Minh ngày trước có vạc Phổ Minh là một
trong An Nam tứ đại khí, chùa Vọng Cung.
- Mộ Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến, tại núi Phương Nhi, xã
Yên Lợi phía bắc huyện Ý Yên.
- Mộ nhà thơ Tú Xương, tại Công viên Vị Xuyên, thành phố Nam Định.
- Làng Tức Mặc, Phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định xưa là phủ
Thiên Trường là quê hương của các vua nhà Trần, một trong những triều đại
lừng danh nhất trong lịch sử Việt Nam với chiến tích 3 lần chiến thắng
Nguyên Mông.
Ngoài ra, còn rất nhiều các di tích có giá trị khác như dền Bảo Lộc, đền

Bà Kiến Quốc phu nhân, đình Thượng Đồng, đình Hưng Lộc, Cầu Ngói, chùa
Đệ Tứ, chùa Phúc Hải, Chùa Lương,…
Hệ thống từ đường các dòng họ cũng được nghiên cứu và công nhận là
di sản văn hóa của dân tộc. Đây là nơi thờ các ông Tổ, bà Tổ có nhiều công
lao trong sự nghiệp dựng nước. giữ nước, mở làng, lập ấp, khai sông, lấn biển,
học hành, khoa cử. Chính vì vậy mà toàn tỉnh Nam Định có tới 3.360 từ
đường dòng họ chính phái, từ đường chi, ngành…góp phần tạo nên sự đa
dạng, phong phú của văn hóa Nam Định như Đền thờ Trạng nguyên Nguyễn
Hiển, Lương Thế Vinh, Trần Bích San, Vũ Hữu Lợi và nhiều vị quận công,
thượng thư nổi tiếng khác ở cùng một dòng họ như nhà thò, miếu quận công
Thọ Nghiệp, họ Đặng Phi Hiển xã Tân Thanh huyện Nam Trực.

20


×