Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

quan hệ giuawxd phát triển kinh tế và công bằng xã hội dưới sự lãnh đạo của đảng từ 2001 2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (616.79 KB, 77 trang )

1

MỞ ĐẦU

1.

Lý do chọn đề tài
Công bằng xã hội là một phạm trù của xã hội học, đã được đặt ra từ lâu

trong lịch sử loài người.
Tăng trưởng kinh tế là một phạm trù của kinh tế học, chỉ sự chuyển
biến của nền kinh tế qua các giai đoạn, cùng với sự phát triển của khoa học
công nghệ, sự phát triển của sức sản xuất, đưa đất nước phát triển đi lên, làm
thay đổi căn bản bộ mặt một quốc gia.
Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là mối quan
hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Quá chú trọng phát triển kinh tế mà
bỏ qua công bằng xã hội sẽ dẫn đến nhiều hậu quả nghiêm trọng trong sự phát
triển xã hội của một đất nước.
Ngược lại, chỉ chú trọng tới vấn đề công bằng xã hội mà không quan
tâm đến tăng trưởng kinh tế sẽ làm triệt tiêu các động lực phát triển đất nước
mà suy cho cùng đó cũng là sự bất công bằng xã hội ở một mức độ nhất định.
Do vậy tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với công bằng xã hội trong từng
bước đi và trong suốt quá trình phát triển đất nước.
Nhận thức được mối quan hệ chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế và đảm
bảo công bằng xã hội, ngay từ khi bước vào công cuộc đổi mới Đảng Cộng
sản Việt Nam đã chú trọng thực hiện cả hai mục tiêu trong điều kiện nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội VIII của Đảng (1996) đã khẳng định đường lối phát triển đất
nước trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa là “phát triển kinh tế phải
gắn với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong toàn bộ
quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện ở cả hai khâu phân phối


kết quả sản xuất; ở việc tạo điều kiện cho mọi người có cơ hội phát triển và


2

sử dụng tốt năng lực của mình”. Tư tưởng đó tiếp tục được khẳng định tại các
kỳ Đại hội IX, X, XI của Đảng.
Ở nước ta hiện nay, công bằng xã hội là nhu cầu, nguyện vọng chính
đáng của nhân dân và là mục tiêu, động lực của công cuộc đổi mới. Sự lựa
chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng và dân tộc ta càng khẳng
định vai trò to lớn của công bằng xã hội đối với sự nghiệp phát triển đất nước.
Để thúc đẩy kinh tế phát triển, đảm bảo lợi ích dân tộc, thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội đòi hỏi phải có sự phối kết hợp giữa các tổ chức kinh
tế, xã hội, đồng thời phát huy vai trò của nhân tố chủ quan đó là Nhà nước.
Trong những năm qua, sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta đối với việc thực
hiện công bằng xã hội đã được thể hiện rõ và khẳng định, đạt được những
thành quả đáng ghi nhận.
Trải qua những năm đầu của công cuộc đổi mới, bộ mặt đất nước có
nhiều thay đổi, kinh tế tăng trưởng đều, các vấn đề công bằng xã hội được
đảm bảo, đời sống nhân dân được nâng cao rõ rệt.
Tuy nhiên dưới tác động của nền kinh tế thị trường, bên cạnh những
mặt đã đạt được, xã hội cũng tồn tại nhiều vấn đề: tham nhũng, tệ nạn xã hội
có xu hướng gia tăng…đã gây cản trở không nhỏ đến sự phát triển chung của
đất nước và công cuộc đổi mới toàn diện đất nước.
Đứng trước yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội đất nước trong thời kỳ
quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, bước sang thế kỷ XXI, đất nước ta
đang trong thời kỳ đẩy mạnh “công nghiệp hóa, hiện đại hóa”; phấn đấu đến
năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp phát triển. Việc
giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và đảm bảo công bằng xã hội là
một vấn đề quan trọng và càng trở nên cấp thiết. Giải quyết tốt mối quan hệ

trên sẽ tạo động lực cho sự phát triển nhanh và bền vững mọi mặt kinh tế - xã
hội.


3

Chính vì những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Quan hệ giữa phát triển
kinh tế và công bằng xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng từ năm 2001 đến
2011” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản
Việt Nam.
2.

Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề “công bằng xã hội” đã được các nhà nghiên cứu quan tâm và

đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều bài viết, luận văn, luận án về vấn đề
này. Trước hết phải kể đến: “Kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công
bằng xã hội trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta” do GS. TS Trịnh Quốc
Tuấn làm chủ nhiệm, Kỷ yếu khoa học (Đề tài cấp bộ 1999-2000), Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Các tác giả đã bàn đến nhiều nội dung, nhiều
vấn đề lý luận và thực tiễn giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở
nước ta. Và trên cơ sở phân tích tình hình kinh tế – chính trị - xã hội cụ thể ở
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, tác giả đề xuất những giải pháp nhằm kết
hợp tốt hơn tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong giai đoạn hiện nay.
Báo cáo “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh việc thực hiện
công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay”, GS. TS Lê Hữu Tầng đã phân tích sự
gần gũi giữa hai khái niệm công bằng xã hội và bình đẳng xã hội. Và chỉ ra
hai khái niệm này rất dễ bị đồng nhất. Đối với nước ta, tác giả đề xuất nhiều
nguyên tắc để thực hiện công bằng xã hội đầy đủ hơn về phân phối theo lao

động, theo cống hiến…cho xã hội nói chung chứ không phải chỉ cho sản xuất.
Bài “Công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta
hiện nay” của tác giả Lương Việt Hải (Tạp chí Triết học số 4/2004) đã phân
tích khái niệm công bằng xã hội và chỉ ra rằng: trong giới hạn của kinh tế thị
trường đã bao hàm cả việc thực hiện công bằng xã hội, tuy nhiên nó không
thể rộng khắp và toàn diện.


4

Trong những cuốn sách đã xuất bản, có cuốn sách “Công bằng xã hội
trong tiến bộ xã hội”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009 của Nguyễn
Minh Hoàn là tiêu biểu nhất, cuốn sách đã đề cập đến 2 khái niệm cơ bản:
“công bằng xã hội” và “tiến bộ xã hội” một cách cụ thể, sinh động nhất. Hai
khái niệm này được khảo sát trong lịch sử nhân loại dưới nhiều góc nhìn khác
nhau từ cổ đại đến nay. Tác giả đã chỉ ra vị trí, vai trò của công bằng xã hội
trong tiến bộ xã hội. Trên cơ sở lý luận đó, tác giả đã chỉ ra những chủ trương
lớn của Đảng nhằm thực hiện công bằng xã hội. Đáng chú ý, tác giả đã nêu
lên một số vấn đề đặt ra trong việc thực hiện công bằng xã hội ở nước ta hiện
nay như: thái độ ứng xử của chúng ta trước thực trạng gia tăng phân hóa giàu
nghèo, vấn đề công bằng về cơ hội, vấn đề thực hiện công bằng xã hội trong
phân phối tư liệu sản xuất, về vấn đề công bằng trong y tế, chăm sóc sức khỏe
nhân dân; vấn đề công bằng xã hội trong giáo dục và đào tạo [28, tr.196-230].
Cũng trong năm 2009, cuốn sách “Những vấn đề lý luận cơ bản về
công bằng xã hội trong điều kiện nước ta hiện nay” của Phan Thị Ngọc Trầm
(chủ biên), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Tác phẩm đã trình bày các khái
niệm khác nhau về công bằng xã hội của các tác giả trong và ngoài nước; từ
cổ đến cận, hiện đại và phân tích một số việc thực hiện công bằng xã hội ở
một số nước như: Trung Quốc, các nước Đông Nam Á, Thụy Điển…
Các tác giả khẳng định công bằng xã hội là một vấn đề đã được đặt ra

và quan tâm từ rất sớm trong lịch sử xã hội; tuy nhiên đến nay nó vẫn là một
vấn đề mang tính thời sự. Xem xét công bằng xã hội trên bình diện thực tiễn
cũng như lý luận ở Việt Nam, từ đó các tác giả đưa ra các nội dung cơ bản
của công bằng xã hội như: quan niệm, nguyên tắc phân phối công bằng, các
điều kiện, tiền đề cần thiết để thực hiện công bằng xã hội…và đề xuất một số
giải pháp thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam.
Ngoài ra có nhiều công trình nghiên cứu về vai trò của Nhà nước đối
với việc thực hiện công bằng xã hội:


5

+ “Vai trò của Nhà nước đối với việc thực hiện công bằng xã hội trong
tiến trình hiện đại hóa” của tác giả Nguyễn Đình Hòa (Tạp chí Triết học, số
12, (139)/2002). Tác giả tập trung phân tích, chỉ ra vai trò của Nhà nước đối
với việc thực hiện công bằng xã hội trong tiến trình hiện đại hóa, đề xuất một
số việc làm cụ thể để Nhà nước thực hiện tốt vai trò đó; và tác giả kết luận:
công bằng xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực của tiến trình hiện đại hóa
xã hội ở nước ta hiện nay.
+ “Vai trò của Nhà nước đối với việc thực hiện công bằng xã hội trong
điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay”, luận văn thạc sỹ Triết học của Hoàng Thị Kim Oanh – Hà Nội, 2000.
Với góc nhìn triết học, tác giả cho rằng: “công bằng xã hội là một khái niệm
mang tính lịch sử - xã hội, là sự bình đẳng giữa người với người trong quan
hệ giữa cống hiến và hưởng thụ, giữa nghĩa vụ và quyền lợi. Công bằng xã
hội gắn với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội, nó vừa là mục đích, vừa là
động lực của sự phát triển xã hội”. Từ đó tác giả phân tích vai trò của Nhà
nước đối với việc thực hiện công bằng xã hội, thực trạng thực hiện công bằng
trong các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ở nước ta trên cơ sở đó
đề xuất những phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Nhà

nước đối với việc thực hiện công bằng xã hội ở nước ta hiện nay.
Trong luận án Tiến sỹ Chính trị học: “Nhà nước với việc thực hiện
công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay” năm 2011, tác giả Võ Thị Hoa đã có nghiên cứu
khá sâu sắc về vai trò của Nhà nước đối với việc thực hiện công bằng xã hội ở
nước ta hiện nay như nguyên tắc dân chủ, công khai, minh bạch, tự do, chủ
động đối với các nội dung là Nhà nước xây dựng và thực hiện công bằng xã
hội; Nhà nước xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách phát triển kinh tế –
xã hội, bảo đảm thực hiện công bằng xã hội; Nhà nước điều tiết thu nhập và
thực hiện các chính sách xã hội đảm bảo công bằng cho người dân.


6

Cùng với đó là các công trình bàn về các giải pháp, các công cụ thực
hiện và trợ giúp việc thực hiện công bằng xã hội nói chung và thực hiện công
bằng xã hội trong một số lĩnh vực cụ thể hiện nay như: giáo dục và đào tạo,
chính sách sức khỏe y tế, xóa đói giảm nghèo…gồm có:
+ “Vai trò của Nhà nước trong điều tiết phân phối thu nhập” của Tô
Đức Hạnh, Tạp chí Thương mại, số 42/2004.
+ “Tiến tới thực hiện công bằng xã hội trong chính sách sức khỏe nhân
dân – vấn đề và giải pháp” của tác giả Đoàn Viết Cương, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội – 2005.
+ “Hệ thống an sinh xã hội và chính sách an sinh xã hội qua 20 năm
đổi mới – thành tựu, kinh nghiệm và những vấn đề đặt ra” của tác giả Hoàng
Chí Bảo (Tạp chí Thông tin công tác tư tưởng, số 7/2007).
Và nhiều công trình nghiên cứu, bài viết khác.
Như vậy đã có không ít những công trình nghiên cứu về công bằng xã
hội và vai trò của Nhà nước với việc thực hiện công bằng xã hội trong giai
đoạn hiện nay với nội dung phong phú, nhiều cách tiếp cận khác nhau.

Nhiều công trình đã làm rõ được nội dung của tăng trưởng kinh tế,
công bằng xã hội và kinh nghiệm để giải quyết tốt mối quan hệ giữa hai yếu
tố này. Trên các góc độ tiếp cận khác nhau đó, các công trình đã trình bày
công bằng xã hội và vai trò của Nhà nước trong việc thực hiện công bằng xã
hội ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề về lý luận và thực
tiễn xung quanh chủ đề này cần được tiếp tục đi sâu nghiên cứu.
3.

Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu và trình bày một cách có hệ thống quá trình lãnh đạo

đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam về giải quyết mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế và công bằng xã hội từ năm 2001 đến năm 2011.


7

- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Đánh giá khách quan những thành tựu và hạn chế trong quá trình lãnh
đạo giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở
nước ta hiện nay. Từ đó đưa ra một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao vai
trò lãnh đạo của Đảng trong việc giải quyết mối quan hệ tăng trưởng kinh tế
và công bằng xã hội, thực hiện tốt hơn nữa các chủ trương, chính sách của
Đảng trong một số lĩnh vực cụ thể nhằm phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu quá trình giải quyết mối
quan hệ giữa phát triển kinh tế và đảm bảo công bằng xã hội từ năm 2001 đến
năm 2011.
+ Về không gian: Đề tài nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng trong việc

thực hiện đảm bảo công bằng xã hội; các chính sách, chủ trương cụ thể về các
lính vực xóa đói giảm nghèo, chăm sóc sức khỏe, y tế, giáo dục và nâng cao
đời sống của tầng lớp nhân dân trên phạm vi chung cả nước.
4.

Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
- Nguồn tư liệu:
Các văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI, VII, VIII, IX, X, XI; các chủ

trương, chính sách của Đảng về phát triển kinh tế - xã hội.
Các văn bản, nghị quyết các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc; các báo cáo
tổng kết, niên giám thống kê các năm, các thời kỳ từ năm 2001 đến 2011.
Các tạp chí, sách báo có liên quan đến vấn đề công bằng xã hội và mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội đã xuất bản trong những
năm gần đây như: Tạp chí Giáo dục, tạp chí Xã hội học, tạp chí Cộng sản, tạp
chí Lịch sử Đảng…
- Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận kết hợp giữa phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic,
trong đó phương pháp lịch sử là chủ yếu.


8

Ngoài ra khóa luận còn sử dụng phương pháp: tổng hợp, phân tích, đối
chiếu, so sánh để làm rõ sự phát triển và tiến bộ về các mặt kinh tế - xã hội.
5.

Đóng góp của khóa luận
Nghiên cứu quá trình giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và


công bằng xã hội về mặt lý luận và thực tiễn trong những năm 2001 – 2011.
Đồng thời nêu bật được những chủ trương, chính sách cơ bản của Đảng
trong một số lĩnh vực cụ thể của vấn đề công bằng xã hội như: xóa đói giảm
nghèo, phát triển giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe…trong những năm 2001 2011.
Khóa luận cũng đánh giá một cách khách quan những thành tựu, hạn
chế trong quá trình Đảng lãnh đạo giải quyết mối quan hệ phát triển kinh tế và
công bằng xã hội. Từ đó rút ra bài học kinh nghiệm và một số biện pháp cơ
bản trong việc giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và công bằng
xã hội của Đảng và Nhà nước ta.
6.

Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và danh mục chữ viết

tắt, nội dung khóa luận gồm 2 chương và 4 tiết.


9

NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG CƠ SỞ ĐẢM BẢO CÔNG BẰNG XÃ HỘI VÀ CHỦ
TRƯƠNG CỦA ĐẢNG TRONG LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CÔNG
BẰNG XÃ HỘI TỪ NĂM 2001 ĐẾN 2006

1.1. NHỮNG CƠ SỞ ĐẢM BẢO CÔNG BẰNG XÃ HỘI VÀ THỰC
HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRƯỚC NĂM 2001
1.1.1. Hệ thống lý luận về công bằng xã hội
1.1.1.1. Khái niệm công bằng xã hội
Trong lịch sử, có nhiều quan niệm khác nhau về công bằng xã hội,

những quan điểm đó được bàn và đề cập đến những khía cạnh khác nhau.
“Công bằng xã hội” thường được hiểu đồng nhất với nhiều khái niệm, nên
chúng ta phải đi tìm hiểu và chỉ ra một khái niệm chính xác, rõ ràng và thỏa
đáng nhất.
Trên thế giới cũng như ở nhiều quốc gia, mục tiêu của sự phát triển bao
giờ cũng là tiến bộ xã hội, công bằng xã hội. Hai vấn đề trên trở thành mục
tiêu cơ bản. Trong lịch sử tư tưởng nhân loại đã từng có nhiều học giả lớn ở
cả phương Đông và phương Tây quan tâm đến vấn đề này. Họ cũng đã nhận
thức được một cách cơ bản, song lại chưa thể phân biệt rõ hai khái niệm trên.
Vậy “tiến bộ xã hội” và “công bằng xã hội” có những điểm giống và khác
nhau như thế nào? Chúng ta cần đi tìm hiểu nội hàm của hai khái niệm này.
Chúng ta biết rằng, “tiến bộ xã hội” là một giá trị gắn chặt với các yếu
tố tinh thần và chịu sự tác động của các yếu tố của thượng tầng kiến trúc xã
hội, vì vậy nó bị chi phối bởi các yếu tố đó. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác – Lênin xem “tiến bộ xã hội”, ở nghĩa tổng quát nhất, là sự vận động của


10

xã hội loài người từ hình thái kinh tế xã hội này lên hình thái kinh tế xã hội
khác, có nhiều điểm tiến bộ hơn. Theo đó, hình thái kinh tế - xã hội cao hơn,
tiến bộ hơn là sự kế thừa và phát huy những giá trị vật chất và tinh thần đã
được con người sáng tạo ra trong một quá trình lâu dài. Việc thay thế một chế
độ xã hội đã lỗi thời bằng một chế độ tiến bộ hơn là một quá trình tất yếu của
lịch sử loài người. Sự thay thế đó cũng nhằm mục đích phục vụ cho cuộc sống
con người, làm cho con người phát triển hơn về mọi mặt. Đây là cách tiếp cận
“tiến bộ xã hội” theo nghĩa rộng.
Theo quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác – Lênin, dưới
chủ nghĩa xã hội, “công bằng xã hội là sự ngang bằng nhau giữa người và
người trong xã hội chủ yếu về phương diện phân phối sản phẩm xã hội theo

nguyên tắc cống hiến lao động ngang nhau thì hưởng thụ ngang nhau” [30,
tr.428].
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng có quan điểm về “tiến bộ xã hội”, theo
nghĩa rộng, Người cho rằng: sau khi đánh đổ đế quốc thực dân, phong kiến,
Việt Nam nhất định phải tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển
tư bản chủ nghĩa nhằm làm cho: “xã hội ngày càng tiến bộ, vật chất ngày
càng tăng, tinh thần ngày càng tốt”. Như vậy tiến bộ xã hội đã được hiểu một
cách cụ thể nhất.
“Công bằng xã hội” là một khái niệm mang tính lịch sử vậy nên trong
các chế độ xã hội khác nhau, khái niệm này cũng có nội hàm khác nhau.
Từ điển Bách khoa Triết học định nghĩa:
Công bằng là khái niệm đạo đức – pháp quyền, đồng thời là khái
niệm chính trị - xã hội. Khái niệm công bằng bao hàm trong nó yêu cầu
về sự phối hợp giữa vai trò thực tiễn của cá nhân (nhóm xã hội) với địa
vị của họ trong đời sống xã hội, giữa những quyền và nghĩa vụ của họ,
giữa làm và hưởng, giữa lao động và sự trả công, giữa tội phạm và sự


11

trừng phạt, giữa công lao và sự thừa nhận của xã hội. Sự không phối
hợp trong mối quan hệ đó được đánh giá là sự bất công [46, tr.630].
Trong một nghiên cứu khác, các tác giả đã khái quát:
Công bằng xã hội là một phạm trù xã hội dùng để chỉ trình độ
phát triển về phương diện xã hội của con người (cá nhân và cộng
đồng), được thực hiện và thể hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội như: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, tinh thần, mà trước hết là
lĩnh vực xã hội. Nó phản ánh mối quan hệ về nghĩa vụ và quyền lợi
giữa xã hội và cá nhân, nhằm đảm bảo sự phát triển hài hòa của con
người, của xã hội phù hợp với xu thế và tiến bộ xã hội. Công bằng xã

hội vừa là khát vọng của con người, vừa là động lực, là mục tiêu của sự
phát triển xã hội, của cách mạng xã hội chủ nghĩa, của sự nghiệp đổi
mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta [7, tr.37].
Đến đầu những năm 1990, các chuyên gia hàng đầu của Chương trình
phát triển của Liên hợp quốc lại nhấn mạnh nội hàm cốt lõi của công bằng xã
hội là công bằng về cơ hội phát triển, thể hiện ở sự công bằng về cơ hội tiếp
cận các nguồn lực phát triển đối với mỗi cá nhân hay mỗi chủ thể trong cộng
đồng, quốc gia.
Công bằng xã hội là khái niệm có nội dung phức tạp hơn so với khái
niệm tăng trưởng kinh tế. Công bằng xã hội, hiểu theo nghĩa chung nhất, là sự
ngang bằng nhau trong mối quan hệ giữa người với người, dựa trên nguyên
tắc thống nhất giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa cống hiến và hưởng thụ. Từng
thành viên trong xã hội gắn bó với cộng đồng xã hội trên mọi lĩnh vực: chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội thông qua sự cống hiến theo khả năng trí tuệ, sức
lực của mình cho sự phát triển xã hội và được xã hội bù đắp, chăm sóc trở lại
một cách tương xứng, không có sự tương xứng ấy là bất công. Với cách hiểu
công bằng xã hội như vậy, việc định lượng mức độ thực hiện công bằng xã
hội chỉ mang tính tương đối, nó không những phản ánh trình độ phát triển về


12

kinh tế, chính trị, lịch sử, văn hóa của từng nước, mà còn thể hiện quan điểm,
cách nhìn của các nhóm chủ thể.
Như vậy ta thấy, công bằng xã hội là khái niệm mang tính tương đối
phụ thuộc vào quan niệm khác nhau của mỗi giai cấp, mỗi quốc gia.
Do nội hàm của công bằng xã hội phức tạp nên việc định lượng mức độ
thực hiện công bằng xã hội là rất khó khăn. Nhận thức và hiểu rõ nội hàm
khái niệm công bằng xã hội sẽ giúp cho mỗi quốc gia sẽ có được những chính
sách, chiến lược cụ thể để phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo công bằng xã

hội, đáp ứng nhu cầu đời sống cho mọi tầng lớp nhân dân.
1.1.1.2. Quan niệm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin về
công bằng xã hội
Đứng trên lập trường bảo vệ lợi ích của giai cấp vô sản, C.Mác đi đến
xây dựng quan điểm về công bằng xã hội mà nội dung chủ yếu của nó là
nguyên tắc phân phối.
Theo C.Mác trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, quan hệ trao đổi
ngang giá khi mua và bán sức lao động được nhà tư bản gọi là quan hệ công
bằng. Nhưng trên thực tế, hàng hóa sức lao động lại có đặc điểm là khi đưa
vào sử dụng còn tạo ra một số lượng giá trị lớn hơn nó trước khi sử dụng, cho
nên việc người công nhân chỉ nhận “tiền công lao động”, còn phần giá trị gia
tăng do sức lao động tạo ra không được trả công và chuyển thành lợi nhuận
của nhà tư bản đã làm cho quan hệ trao đổi ngang giá đó không thể gọi là
công bằng. Đó chính là bản chất bất công của chế độ phân phối tư bản chủ
nghĩa.
C.Mác và Ăngghen đã phê phán quan điểm thực hiện công bằng xã hội
theo nguyên tắc “trao đổi ngang giá” của các nhà kinh tế Tư sản.
Theo 2 ông, bao giờ “sự công bằng hình như đòi hỏi cả hai bên ngay từ
đầu đã phải đặt vào những điều kiện như nhau” [4, tr.367]. Vì vậy để xây
dựng được một xã hội công bằng thực sự thì phải xóa bỏ sự bất bình đẳng về


13

những điều kiện ban đầu ấy. Muốn thế phải làm cho mọi người được bình
đẳng trong quan hệ sở hữu, tức là phải làm cho mọi người phải ngang bằng
nhau về địa vị trong quan hệ đối với tư liệu sản xuất. Đó chính là xuất phát
điểm bình đẳng làm cơ sở để thực hiện công bằng thực sự trong xã hội.
Quan niệm về một nguyên tắc phân phối đảm bảo công bằng xã hội ấy
đã được C.Mác trình bày khá đầy đủ trong tác phẩm “Phê phán Cương lĩnh

Gôta”.
C.Mác cho rằng một sự phân phối thực sự công bằng chỉ có thể là phân
phối theo lao động. Trước hết, việc thực hiện công bằng xã hội không phải chỉ
phụ thuộc riêng vào lĩnh vực phân phối, mà nó còn bị chi phối bởi toàn bộ
tính chất của phương thức sản xuất.
“Theo quan điểm trên công bằng xã hội chỉ thực sự có được trong chủ
nghĩa xã hội, bởi vì, chỉ khi có chế độ tư hữu mới bị thủ tiêu, chế độ công hữu
mới được thiết lập và do đó mới có xuất phát điểm bình đẳng trong quan hệ
phân phối đảm bảo công bằng xã hội” [28].
Chính nhờ có chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, việc phân phối mới
trở nên công bằng, và việc phân phối sản phẩm của lao động mới có thể được
tiến hành chỉ theo lao động. Như vậy ta thấy rằng nguyên tắc phân phối theo
lao động trong chủ nghĩa xã hội là một nguyên tắc phân phối công bằng.
1.1.1.3. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về công bằng xã hội
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc
về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng
và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể của cách
mạng nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh là kim chỉ
nam cho mọi hành động của Đảng ta.
Tiếp thu quan điểm của C.Mác và Ăngghen về công bằng và bình đẳng
xã hội, đồng thời bằng việc trực tiếp chứng kiến tất cả những gì xảy ra trong


14

đời sống kinh tế - xã hội các nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam trong
những năm tháng biến động nhất; Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng, trong chế
độ xã hội thực dân, phong kiến hoàn toàn không có công bằng và bình đẳng.
Rằng trong xã hội đó, “nhân dân chỉ có nghĩa vụ như nộp sưu đóng thuế, đi

lính đi phu mà không có quyền lợi” [21, tr.219].
Theo quan điểm của Người, công bằng và bình đẳng xã hội chỉ thực sự
có được trong chế độ xã hội mới; rằng, dưới chế độ dân chủ cộng hòa, “nhân
dân có nghĩa vụ, đồng thời có quyền lợi”. Sự công bằng và bình đẳng đó còn
được đảm bảo bởi một cơ sở vững chắc.
Tư tưởng về công bằng và bình đẳng xã hội được Hồ Chí Minh thể hiện
một cách sinh động, linh hoạt trong từng hoàn cảnh và tình huống cụ thể trong
quá trình xây dựng đất nước.
Khi nói đến công bằng xã hội, Hồ Chí Minh thường gắn với bình đẳng
xã hội, mà ở đây chính là mối quan hệ giữa quyền lợi và nghĩa vụ. Nói cách
khác, Hồ Chí Minh đã coi công bằng xã hội là bình đẳng về nghĩa vụ và
quyền lợi. Với quan niệm như vậy, Người đòi hỏi tất cả những người lao động
ngày nay đều phải nhận rõ mình là người chủ nước nhà và đã có quyền hạn
làm chủ, thì phải làm trọn nghĩa vụ của một người chủ - đó là cần kiệm xây
dựng nước nhà, xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhằm mục đích không ngừng
nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân, trước hết là nhân dân lao
động.
Như vậy, trong quan niệm của Hồ Chí Minh, bình đẳng trước tiên là
bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi, đồng thời việc thực hiện bình đẳng giữa
người với người trong mối quan hệ giữa thực hiện nghĩa vụ và hưởng thụ
quyền lợi ấy chính là thực hiện công bằng xã hội.
Chúng ta thấy rằng, trong quan niệm của Hồ Chí Minh, thực hiện một
chế độ phân phối công bằng là thực hiện nguyên tắc phân phối trong đó phần
hưởng thụ tương ứng với mức độ đóng góp, cống hiến của từng cá nhân.


15

Người khẳng định: “Chủ nghĩa xã hội là công bằng hợp lý: làm nhiều
hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không được hưởng”.

Trong tư tưởng của Người, công bằng xã hội không chỉ biểu hiện như
là một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội mà còn là một động lực thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội đất nước, một biện pháp căn bản để hiện thực hóa những
giá trị, lý tưởng cao cả của chủ nghĩa xã hội. Với Người, việc thực hiện công
bằng xã hội là một yêu cầu bức thiết, và yêu cầu đó lại càng bức thiết hơn khi
cuộc sống còn nhiều khó khăn.
Hồ Chí Minh căn dặn: “Trong công tác lưu thông, phân phối, có hai
điều quan trọng:
“ Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng;
Không sợ nghèo, chỉ sợ long dân không yên”
Với quan niệm coi công bằng xã hội thể hiện sự bình đẳng về nghĩa vụ
và quyền lợi, một lần nữa Người nhấn mạnh: “Ai làm nhiều thì ăn nhiều, ai
làm ít thì ăn ít, ai không làm thì không ăn, tất nhiên là trừ những người già
cả, đau yếu và trẻ con”.
Trong hoàn cảnh đất nước còn nhiều khó khăn, đời sống nhân dân còn
nhiều thiếu thốn, Người kêu gọi tinh thần đùm bọc, tương thân tương ái, đồng
cam cộng khổ, đoàn kết, hợp tác vì mục tiêu chung là cuộc sống ấm no, hạnh
phúc. Nhưng, Người kiên quyết chống lại sự đồng nhất tinh thần đồng cam
cộng khổ với chủ nghĩa bình quân, “Đồng cam cộng khổ là một tinh thần cần
phải có, nhưng nếu bình quân chủ nghĩa thì lại không đúng. Bình quân chủ
nghĩa là gì? Là ai cũng như ai, bằng hết…Bình quân chủ nghĩa là trái với chủ
nghĩa xã hội, thế là không đúng” [21, tr.386].
Xuất phát từ việc phân biệt rõ ràng giữa công bằng xã hội và bình đẳng
xã hội, Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh đến việc phải phân biệt rõ lợi ích cá
nhân và chủ nghĩa cá nhân. Người nhấn mạnh, sự thống nhất giữa lợi ích cá
nhân với lợi ích chung của cả xã hội và cho rằng: “lợi ích cá nhân là nằm


16


trong lợi ích tập thể. Lợi ích của tập thể được đảm bảo thì lợi ích riêng của cá
nhân mới có điều kiện để được thỏa mãn” [21, tr.291].
Một điểm đáng chú ý, Hồ Chí Minh không chỉ nhìn nhận nguyên tắc
hành động “mình vì mọi người, mọi người vì mình” là một giá trị văn hóa sâu
sắc mà còn thể hiện sự công bằng trong xã hội, công bằng giữa lợi ích cá nhân
với tập thể, cá nhân với cá nhân.
Đồng thời, Hồ Chí Minh đã đánh giá rất cao vai trò của công bằng xã
hội trong việc làm yên lòng dân, và nhờ vào việc làm yên lòng dân mới có
điều kiện để phát triển kinh tế - xã hội. Thực hiện công bằng xã hội là động
lực thúc đẩy sự phát triển đất nước, việc thực hiện công bằng xã hội nhằm
kích thích mọi người, tùy theo khả năng, sức lực của mình, cùng tham gia vào
xây dựng một cuộc sống mới, từng bước vươn tới xã hội cộng sản – một xã
hội trong đó “Mọi người làm hết khả năng; ai cần dùng gì có nấy”.
Như vậy dưới quan điểm của Hồ Chí Minh, công bằng xã hội được
nhìn nhận dưới nhiều góc độ. Có lúc là mục tiêu để hướng tới xã hội công
bằng, có khi là động lực cơ bản để con người phấn đấu vươn tới xây dựng
một xã hội tốt đẹp, ở đó không còn áp bức, bất công, mọi người được hưởng
quyền lợi đúng với năng lực của mình.
Nắm bắt và hiểu sâu sắc quan điểm của các nhà kinh điển, Người đã có
bước sáng tạo trong quan niệm về công bằng và bình đẳng xã hội, góp phần
bổ sung vào hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Đồng thời, cùng với các hệ tư tưởng khác, tư tưởng Hồ Chí Minh trở
thành hệ thống lý luận để Đảng ta lấy đó làm cơ sở cho mọi hành động của
mình, đặc biệt trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, trong thời kỳ đổi
mới đất nước, phát triển kinh tế - xã hội.


17

1.1.1.4. Quan niệm ngoài Mácxít về công bằng xã hội

Trong lịch sử nhân loại, tư tưởng về công bằng xã hội đã được bàn đến
từ thời cổ đại.
Ở các nước phương Đông, sự phát triển xã hội theo khuynh hướng đặc
thù, chịu sự quy định của phương thức sản xuất mà C.Mác gọi là “Phương
thức sản xuất châu Á” nên quan niệm về công bằng, bình đẳng rất ít xuất hiện
trên phương diện chính trị - xã hội.
Tiêu biểu cho hệ tư tưởng phương Đông là Khổng Tử (551-479 TCN).
Khổng Tử rất quan tâm đến việc xây dựng một xã hội tốt đẹp với nhiều tiêu
chí. Ông mơ ước xây dựng một xã hội đại đồng, đó là một xã hội mà con
người không có sự phân biệt trên dưới, “thân sơ, quý tiện”, thuận hòa, bình
đẳng với nhau và công lí được thi hành triệt để.
Có thể nói, tư tưởng của Khổng Tử là một tư tưởng tiến bộ, ông đã có
quan niệm khá sâu sắc về một xã hội bình đẳng nhưng do hạn chế lịch sử, và
do giai cấp thống trị đương thời tìm mọi cách ngăn cản vì vậy những quan
điểm đó không thể trở thành công cụ cải tạo chế độ chính trị - xã hội đương
thời được.
Ở phương Tây thời cổ - trung đại xuất hiện nhiều quan niệm về công
bằng xã hội, những quan điểm đó sâu sắc và gắn với thực tế hơn.
Platon (427-347 tr.CN) là một trong những nhà triết học, nhà tư tưởng
kiệt xuất thời cổ đại đã có những quan niệm sơ khai về công bằng và bình
đẳng xã hội.
Trong hai tác phẩm “Nhà nước” và “Luật lệ”, Platon đã khẳng định
rằng không thể có sự bình đẳng giữa những tầng lớp người khác nhau trong
xã hội, bởi vì, theo ông bản thân nhà nước xuất hiện từ chính sự đa dạng của
con người. Do có sự đa dạng ấy về nhu cầu nên xã hội cần phải duy trì các
hạng người khác nhau thực hiện các dạng phân công lao động khác nhau thỏa
mãn nhu cầu của xã hội và do đó không thể có sự hoàn toàn bình đẳng.


18


Như vậy, theo Platon, trong xã hội đương thời hoàn toàn không có sự
bình đẳng. Vì thế ông cho rằng:
“Sự bình đẳng giữa những người không bình đẳng là tệ xấu nhất
của nền dân chủ”, và: “Đối với những người không hoàn toàn bình
đẳng, sự bình đẳng sẽ trở thành không bình đẳng. Sự bình đẳng chân
chính là ở tính cân đối – người này được nhiều hơn, người khác được ít
hơn, căn cứ theo bản chất của mỗi người. Đôi khi phải sử dụng nguyên
tắc toán học có lợi cho quần chúng, nhưng chỉ nên làm việc đó ít chừng
nào hay chừng đó…” [27, tr.192].
Platon coi việc người nô lệ mà được đối xử như với người tự do là điều
vượt ra ngoài lẽ thông thường. Tuy nhiên, Platon lại cho rằng dù xã hội không
có sự bình đẳng nhưng lại có công bằng, bởi lẽ công bằng là ở chỗ, mỗi hạng
người dù ở địa vị nào cũng phải làm hết trách nhiệm của mình, biết sống đúng
với tầng lớp của mình và phải biết được thân phận của mình.
Như vậy, theo quan niệm của ông về công bằng xã hội, cái được nhấn
mạnh không phải là sự ngang bằng nhau giữa người với người trong mối quan
hệ giữa cống hiến và hưởng thụ, mà là sự phân định về đẳng cấp.
Những tư tưởng của Platon về công bằng và bình đẳng đã có ảnh hưởng
nhất định đến những quan điểm về công bằng xã hội và bình đẳng xã hội
trong những xã hội sau này.
Arixtốt (384-322 tr.CN) là một nhà triết học vĩ đại thời kỳ cổ đại Hy
Lạp, cũng đã có những tư tưởng sâu sắc về công bằng xã hội và bình đẳng xã
hội. So với Platon, Arixtốt có điểm phân biệt rõ ràng hơn mối quan hệ giữa
công bằng và bình đẳng xã hội.
Đầu tiên ông đưa ra những quan điểm về vai trò của nhà nước đối với
việc thực hiện công bằng xã hội. Theo đó, nhà nước là kết quả của sự phát
triển xã hội loài người từ đời sống tự nhiên sang đời sống chính trị. Theo
Arixtốt, chính vì con người là động vật chính trị sống cố kết trong một cộng



19

đồng xã hội nhất định, cho nên con người cần luôn được đảm bảo không chỉ
về mặt vật chất, mà còn phải được đảm bảo bằng cả sự công bằng [27, tr.207208].
Nhưng do đứng trên lập trường của giai cấp chủ nô, ông đã cho rằng
công bằng là sự bình đẳng giữa những người có cùng địa vị xã hội. Còn sự bất
bình đẳng giữa những người không có cùng địa vị xã hội thì cũng được ông
cho rằng là công bằng. Nói cách khác, trong quan niệm này không chỉ có sự
bình đẳng giữa những người có cùng địa vị xã hội thì mới có công bằng, mà
ngay cả sự bất bình đẳng giữa các đẳng cấp trong xã hội cũng chính là công
bằng. Đây là cách mà Arixtốt bảo vệ địa vị thống trị của giai cấp quý tộc chủ
nô.
Như vậy ta thấy rằng trong quan niệm của ông dù công bằng giữa
những người có cùng địa vị xã hội hay là bất bình đẳng giữa những người
không cùng địa vị đều là thước đo của sự công bằng.
Điều tiến bộ và đáng ghi nhận của Arixtốt đó là, ông trở thành người
đầu tiên đã phát hiện ra “thước đo của sự công bằng” nằm trong cơ sở kinh tế.
Theo ông, cơ sở của sự công bằng xã hội là sự công bằng trong trao đổi vật
phẩm. Ông nói: “Sự trao đổi không thể có được nếu không có sự bằng nhau,
nhưng sự bằng nhau lại không thể có nếu như không thể đo chung được” [4,
tr.97]. Mà thước đo của sự trao đổi hàng hóa, theo ông chính là biểu hiện của
giá trị.
Tuy nhiên, quan niệm của ông vẫn có điểm hạn chế đó là chỉ nêu lên
biểu hiện của giá trị hàng hóa bằng hình thái tiền tệ mà không thấy được
chính lao động mới là thước đo chung của công bằng hay bình đẳng trong mối
quan hệ trao đổi hàng hóa.
Mặc dù vậy, những đóng góp của Arixtốt đã được C.Mác đánh giá rất
cao: “Thiên tài Arixtốt chính là ở chỗ, trong biểu hiện giá trị của hàng hóa,
ông đã tìm ra được một quan hệ bình đẳng. Chỉ có những giới hạn lịch sử xã



20

hội mà ông đang sống mới ngăn cản không cho ông thấy được “trong thực
tế”, mối quan hệ bình đẳng đó là cái gì” [4, tr.97-98].
Môrenly (thế kỷ XVIII) là một nhà cộng sản chủ nghĩa không tưởng
lớn người Pháp. Ông cũng đã có những quan niệm về công bằng và bình
đẳng.
Đầu tiên, theo ông do chế độ tư hữu ngày càng lan rộng đã làm tiêu tan
những luật lệ tự nhiên, những quan hệ bình đẳng tự nhiên.
Trong tác phẩm “Bộ luật tự nhiên”, tư tưởng nổi bật là xóa bỏ chế độ
tư hữu. Tuy vậy, Môrenly đã không đưa ra được nguyên tắc phân phối công
bằng xã hội nào khác ngoài quan điểm cho rằng, việc cải tạo xã hội chỉ cần
làm cho kẻ cầm quyền biết điều và có học thức, có đạo đức, để thay đổi được
những luật lệ mới tốt hơn như luật phân phối, luật ruộng đất, luật giáo dục,
luật cai trị. Những hạn chế trên đây đã làm cho Môrenly không đưa ra được
phương án thực tế cho việc xóa bỏ chế độ bất công và bất bình đẳng xã hội.
Cũng đi theo quan điểm của Môrenly, Gabrien Bonnô de Mably – một
nhà tư tưởng người Pháp đã đề ra một mô hình xã hội và gọi nó là “hệ thống
cộng đồng tài sản và sự bình đẳng”. Tuy nhiên, xã hội mà ông đề chỉ là một
xã hội không tưởng, một xã hội nông thôn với chế độ phân phối bình quân để
đáp ứng những nhu cầu cho cuộc sống tối thiểu.
Những quan điểm của Mably, mặc dù mang tính chất không tưởng như
đã nói nhưng nó cũng có tác dụng nhất định phục vụ cho cuộc đấu tranh vì
mục tiêu xây dựng một xã hội nhân đạo hơn, vì hạnh phúc con người, vì
tương lai của một xã hội công bằng và bình đẳng.
Đi theo quan điểm công bằng xã hội vì lợi ích của những người lao
động, Xanh Ximông (1760-1825), một nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng đã
có những đóng góp quan trọng.

Công lao của ông là sự thừa nhận sự phát triển của xã hội loài người là
một quá trình không ngừng, nó phát triển từ thấp đến cao. Xanh Ximông đặt


21

niềm tin vào sự tiến bộ được đánh dấu bằng một xã hội ngày càng công bằng
hơn. Đứng trước một xã hội đầy rẫy những bất công và bất bình đẳng xã hội
bắt nguồn từ chế độ tư hữu, ông ước mơ xây dựng một xã hội tốt đẹp nhằm
đáp ứng những nhu cầu về vật chất và tinh thần cho mọi người dân.
Tuy nhiên, hạn chế của ông cũng giống như các nhà tư tưởng đi trước,
Ximông vẫn chưa đưa ra được phương án căn bản để xóa bỏ sự bất công và
bất bình đẳng ấy.
Khác với Ximông, Rôbớt Ôoen (1771-1858) là người đã đưa ra được
phương án hết sức cụ thể cho việc thực hiện lý tưởng công bằng xã hội, đó là
làm sao cho những người lao động được sống xứng đáng với nhân phẩm của
mình bằng việc thực hiện một chế độ phân phối đồng đều cho người lao động
những kết quả của chính họ. Những tư tưởng của Ôoen thực sự là sự phản
kháng mạnh mẽ đối với thực tế xã hội tư sản hết sức bất công.
Cùng với Xanh Ximông, 2 ông đã trở thành đại diện tiêu biểu của chủ
nghĩa xã hội không tưởng thế kỷ XIX với những tư tưởng nhân đạo sâu sắc.
Và những quan điểm về công bằng và bình đẳng xã hội đã được tiếp tục
kế thừa và phát triển trong các thế kỷ XIX, XX bởi những đại diện xuất sắc là:
C.Mác, Ăngghen, Lênin – các nhà tư tưởng của chủ nghĩa xã hội khoa học.
Đồng thời với đó, các nhà tư tưởng phương Tây, trong đó đáng kể nhất là
J.Rawls (1921-2002), người đã đưa ra một lý thuyết về công bằng xã hội. Lý
thuyết này được coi là sự tiếp nối, kế thừa tư tưởng truyền thống về công
bằng xã hội trong lịch sử, đặc biệt là tư tưởng khế ước xã hội của Rútxô.
Trong tác phẩm “A theory of justice” vấn đề công bằng và bình đẳng
đã được J.Rawls nghiên cứu một cách hệ thống mang tính lý thuyết thuần túy,

mà đối tượng của công bằng đã được ông xác định: đó chính là thể chế xã hội
nói chung, cái quyết định cho sự lựa chọn nguyên tắc phân chia quyền lợi và
nghĩa vụ cơ bản, hay đó là phương thức phân phối lợi ích có được từ hoạt
động hợp tác xã hội của mỗi cá nhân.


22

Ông quan niệm công lý với tính cách là công bằng, công lý chính là
chuẩn mực của trạng thái xã hội lý tưởng mà ở đó mỗi cá nhân khi tham dự
vào hợp tác xã hội hoàn toàn dựa vào sự tự nguyện, và ngày càng đạt lợi ích
tối đa của mình. Theo ông, công bằng chỉ có được khi con người tự nguyện
cùng ,tham dự vào hợp tác xã hội để làm cho mỗi cá nhân đạt được lợi ích cao
hơn khi họ sống đơn lẻ.
Nguyên tắc phân chia quyền lợi và nghĩa vụ trong trạng thái xã hội lý
tưởng là công lý, thì trong xã hội cụ thể đó là công bằng. Từ đó, J.Rawls đưa
đến sự phân chia hai nguyên tắc khác biệt của công lý với tính cách là công
bằng:
Thứ nhất: giả định được thực hiện trong trạng thái xã hội lý tưởng nên
yêu cầu phân chia bình đẳng quyền lợi và nghĩa vụ.
Thứ hai: thực hiện trong trạng thái xã hội cụ thể và vì ở trạng thái này
tồn tại sự bất bình đẳng về tài sản và năng lực của mỗi con người, cho nên
nguyên tắc thứ hai này chỉ công lý khi nó thực hiện sự bù đắp cho những
thành viên xã hội ở vị thế bất lợi.
Xuất phát từ luận điểm công lý với tính cách là công bằng, trong đó
công lý theo nghĩa là chuẩn mực của một xã hội lý tưởng, còn công bằng
được hiểu là chuẩn mực của một xã hội cụ thể nói trên, và cả hai đều dựa trên
nguyên tắc tự nguyện. Trong một thể chế xã hội, công bằng sẽ ngày càng đạt
đến giá trị công lý, nếu chuẩn mực của công bằng đảm bảo được sự phân chia
ngày càng bình đẳng hơn nữa giữa quyền lợi và nghĩa vụ, hay ngày càng phải

hạn chế được sự khác biệt về xuất phát điểm của mỗi cá nhân khi bước vào
tham dự hoạt động hợp tác xã hội.
Như vậy, những quan điểm về công bằng xã hội của các nhà tư tưởng
ngoài Mácxít ở cả phương Đông và phương Tây từ thời xưa đến nay đã góp
phần làm phong phú thêm hệ thống lý luận về công bằng xã hội. Thấy được


23

những hạn chế, thiếu xót của các hệ tư tưởng trước, từ đó nhận thức rõ ràng
hơn nội hàm, bản chất công bằng xã hội.
1.2. BỐI CẢNH LỊCH SỬ
1.2.1. Bối cảnh thế giới tác động đến Việt Nam
Trong những thập niên cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, bối cảnh thế
giới đã có những biến đổi to lớn và sâu sắc, ảnh hưởng toàn diện và mạnh mẽ
đến mọi mặt đời sống xã hội của các quốc gia, trong đó có Việt Nam, nổi bật
là:
- Cuộc cách mạng khoa học công nghệ diễn ra ngày càng mạnh mẽ; đặc
biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học tiếp tục có những bước
nhảy vọt, ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thúc đẩy sự phát
triển kinh tế, làm chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế và biến đổi sâu sắc các
lĩnh vực của đời sống xã hội.
- Tri thức và sở hữu trí tuệ có vai trò ngày càng quan trọng. Kinh tế tri
thức phát triển mạnh, do đó con người và tri thức càng trở thành nhân tố quyết
định sự phát triển của mỗi quốc gia.
- Quá trình quốc tế hoá sản xuất và phân công lao động diễn ra ngày
càng sâu rộng; toàn cầu hóa kinh tế, với vai trò ngày càng lớn của các công ty
quốc tế xuyên quốc gia ngày càng lớn, tiếp tục phát triển về quy mô, mức độ
và hình thức biểu hiện với nhữmg tác động tích cực và tiêu cực, cơ hội và
thách thức đan xen rất phức tạp. Việc tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi

giá trị toàn cầu đã trở thành yêu cầu đối với các nền kinh tế.
- Chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển, kinh tế thị trường ngày
càng hiện đại, nhưng vẫn tiếp tục tồn tại các mẫu thuẫn; khủng hoảng chu kỳ
vẫn là một hiện tượng gắn liền với sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư
bản.
- Trong quan hệ quốc tế, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế là
một xu thế khách quan; vừa là quá trình hợp tác để phát triển, vừa là quá trình


24

đấu tranh của các nước để bảo vệ lợi ích quốc gia. Cục diện đa cực với sự chi
phối của các nước lớn ngày càng thể hiện rõ thay thế cho cục diện hai cực
trước đây; quan hệ quốc gia, dân tộc và giữa các bộ phận, các nhóm dân cư có
nhiều điểm mới. Hòa bình, hợp tác và phát triển tiếp tục là xu thế lớn, bên
cạnh đó vẫn tiếp tục diễn ra xung đột sắc tộc, tôn giáo, tranh giành tài nguyên,
lãnh thổ... Nổi lên nhiều vấn đề toàn cầu mới đòi hỏi sự tham gia giải quyết
của tất cả các quốc gia như thảm họa thiên nhiên, biến đổi khí hậu, dịch bệnh,
tội phạm, khủng bố, bùng nổ dân số, đói nghèo...
Trong thời đại ngày nay, khi mà cuộc cách mạng tin học đang tạo ra
những thay đổi lớn lao cả trong tư duy lẫn hành động của con người, thì
những ý tưởng mới hữu ích, lôi cuốn được sự tham gia của đông đảo các quốc
gia lại là thước đo quan trọng về sự đóng góp của một nước hay của một tập
thể các nước vào tiến bộ của loài người. Có lẽ trong tương lai không xa,
người ta sẽ đánh giá sức mạnh các quốc gia không chỉ bằng tổng số sắt, thép,
xi măng sản xuất được hoặc GDP tính theo đầu người, mà còn đánh giá qua
sự công bằng xã hội và nền văn minh tinh thần mà nhân dân nước đó được
hưởng.
Các vấn đề quốc tế và khu vực sẽ ngày càng có sự tham gia tích cực
hơn của các quốc gia vừa và nhỏ; mạng lưới song phương, đa phương, khu

vực và toàn cầu trong các lĩnh vực kinh tế, an ninh, xã hội sẽ ngày càng phát
triển; Vị trí của các tổ chức quốc tế, nhất là Liên Hợp Quốc, các NGO, các tổ
chức đoàn thể cũng sẽ được đề cao, nhất là trong giao lưu văn hoá, xã hội
giữa các nước và cả trong việc giải quyết các vấn đề toàn cầu như môi trường,
sinh thái, dân số...
Về bối cảnh khu vực
Trong những thập niên qua, khu vực châu Á - Thái Bình Dương có
những biến đổi sâu sắc do tác động của quá trình quốc tế hóa và khu vực hóa.


25

Là khu vực phát triển năng động và đang hình thành nhiều hình thức
liên kết, hợp tác đa dạng hơn, nhưng còn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn
định, nhất là tranh giành ảnh hưởng, tranh chấp chủ quyền biển, đảo, tài
nguyên.
Ngày 8/8/1967 ASEAN ra đời từ Tuyên bố Bangkok, kể từ khi thành
lập ASEAN được đánh giá là một trong những tổ chức khu vực thành công
nhất vì đã có những đóng góp tích cực cho việc duy trì hòa bình, ổn định, hợp
tác và phát triển ở Đông Nam Á cũng như châu Á – Thái Bình Dương.
Không thể phủ nhận vị trí và vai trò vô cùng to lớn của ASEAN trong
khu vực cũng như trong cộng đồng chung toàn thế giới. Nhiều ý kiến cho
rằng, cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ nghiêm trọng hiện nay đã làm mất
đi hoặc chí ít là giảm hẳn tầm quan trọng của ASEAN trong chiến lược các
nước lớn. Nếu nhìn về bề ngoài thì tưởng như ý kiến trên là đúng. Tuy nhiên,
nếu phân tích kỹ một chút thì có thể thấy ngay là các nhân tố tạo nên vị trí
chiến lược của ASEAN vẫn không bị mất đi do cuộc khủng hoảng: không một
nước lớn nào có thể bỏ qua trong tính toán chiến lược của mình một khối kinh
tế, chính trị, an ninh với khoảng 500 triệu dân như ASEAN.
Và cũng không một nước nào bỏ qua được tầm quan trọng chiến lược

về địa - chính trị của ASEAN ở Biển Đông - con đường giao thông, buôn bán
huyết mạch từ Mỹ, châu Âu sang châu Á. Tuy hiện nay ASEAN đang gặp
nhiều khó khăn, nhưng dấu hiệu phục hồi đã rõ và những nhân tố tạo nên sự
thần kỳ thực sự về kinh tế vẫn còn ( đội ngũ lao động cần cù, có học thức, có
tay nghề, tỷ lệ tiết kiệm vẫn cao, qua khủng hoảng lại càng có thêm kinh
nghiệm trong điều chỉnh kinh tế vĩ mô...). Từ đó có thể thấy, ASEAN vẫn là
một nhân tố mà tất cả các nước lớn đều phải tranh thủ, coi trọng và trên thực
tế các nước trên vẫn đang làm như vậy cả trước, trong và sau cuộc khủng
hoảng ở Đông Á.


×