Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

đảng bộ tỉnh phú thọ lãnh đạo giáo dục đào tạo từ 1997 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (668.27 KB, 78 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ
---------------------

TRẦN THỊ YẾN

ĐẢNG BỘ TỈNH PHÚ THỌ
LÃNH ĐẠO GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO
TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2010

TÓM TẮT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Người hướng dẫn khoa học:
TS. TRẦN THỊ VUI

HÀ NỘI - 2015


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

................................................................................................... 1

Chương 1. ĐẢNG BỘ TỈNH PHÚ THỌ LÃNH ĐẠO GIÁO DỤCĐÀO TẠO TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2005.............................................. 7
1.1. Cơ sở để Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo giáo dục – đào tạo
từ năm 1997 đến năm 2005 ............................................................................. 7
1.2. Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo giáo dục – đào tạo từ năm
1997 đến năm 2005 ......................................................................................... 19
Chương 2. ĐẢNG BỘ TỈNH PHÚ THỌ LÃNH ĐẠO GIÁO DỤC –
ĐÀO TẠO TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2010............................................... 39
2.1. Chủ trương của Đảng về giáo dục – đào tạo từ năm 2006 đến


năm 2010. ........................................................................................................ 39
2.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ về giáo dục – đào tạo....... 43
2.3. Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo thực hiện giáo dục – đào tạo ..... 45
Chương 3. NHẬN XÉT VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM .......................... 59
3.1. Nhận xét ...................................................................................... 59
3.2. Một số kinh nghiệm ....................................................................... 65
KẾT LUẬN .................................................................................................... 69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 71


DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG KHÓA LUẬN
Chữ viết tắt

Tên đầy đủ

GD&ĐT

Giáo dục và Đào tạo

GDTX

Giáo dục thường xuyên

HĐND

Hội đồng nhân dân

Nxb

Nhà xuất bản


THCS

Trung học cơ sở

THPT

Trung học phổ thông

UBND

Ủy ban nhân dân


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành Khóa luận tốt nghiệp này, tác giả xin trân trọng cảm ơn
Ban giám hiệu, Ban chủ nhiệm khoa, quý Thầy, cô giáo khoa Lịch sử trường
Đại học Sư phạm Hà Nội 2 và quý thầy cô giáo trực tiếp giảng dạy đã giúp đỡ
tôi trong suốt quá trình học tập.
Tác giả xin chân thành cảm ơn: Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Phú Thọ,
Cục thống kê tỉnh Phú Thọ, Ban Tuyên giáo tỉnh Phú Thọ, Thư viện tỉnh Phú
Thọ, UBND các xã trong tỉnh đã tạo điều kiện thuận lợi trong suốt thời gian
thực hiện Khóa luận tốt nghiệp.
Đặc biệt, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô hướng dẫn: TS.
Trần Thị Vui, cô đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong suốt thời gian
nghiên cứu và hoàn thành Khóa luận.
Tác giả cảm ơn tập thể lớp K37A - CN Lịch Sử, trường ĐHSP Hà Nội
2 đã đóng góp ý kiến trong quá trình học tập và thực hiện Khóa luận.
Do hạn chế về nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu nên khóa luận
không tránh khỏi thiếu xót. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ các

thầy cô và các bạn để khóa luận được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 12 tháng 05 năm 2015
Tác giả

Trần Thị Yến


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn này là trung thực và chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Hà Nội, Ngày 12 tháng 05 năm 2015
Tác giả

Trần Thị Yến


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay khi mà trí tuệ đã trở thành yếu tố hàng đầu thể hiện quyền lực
và sức mạnh của một quốc gia thì các nước trên thế giới đều ý thức được rằng
giáo dục - đào tạo thực sự là đòn bẩy quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội.
Giáo dục - đào tạo luôn giữ vai trò đặc biệt quan trọng góp phần vào lưu giữ
những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đồng thời phát triển nền kinh tế tri
thức. Trước bối cảnh toàn cầu hóa và sự bùng nổ của cuộc cách mạng khoa
học - công nghệ và tin học thì giáo dục - đào tạo có vai trò quan trọng quyết
định vị thế của mỗi quốc gia, dân tộc trên trường quốc tế. Chính vì vậy, tất
các nước trên thế giới đều coi trọng sự phát triển của giáo dục và đào tạo.
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm rằng “Một dân tộc dốt là một dân tộc

yếu” Người cho rằng sự dốt nát cũng là một kẻ địch mà ta cần phải chống. Vì
vậy người chủ trương phải phát triển nền giáo dục thì mới xây dựng được chủ
nghĩa xã hội, mới tiến kịp được sự phát triển chung của nhân loại. Với mục
tiêu của chiến lược “trồng người” là “dạy dỗ con em của nhân dân thành
người công dân tốt, người lao động tốt, người chiến sĩ tốt, người cán bộ tốt
của nước nhà”, theo Người phải xây dựng một nền giáo dục toàn diện để đào
tạo những con người có đức có tài.
Tháng 12/1986, với đường lối đổi mới của Đảng, một luồng gió đầy
sinh khí đã đưa đất nước chuyển mình sang một thời kỳ mới. Hoàn cảnh
khách quan và chủ quan đã đặt ra nhiều thời cơ và thách thức đòi hỏi nền giáo
dục Việt Nam phải phát triển với tốc độ cao, đạt tới trình độ phù hợp, đáp ứng
nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Đại hội VII (1991), Đại hội VIII (1996) và trong chiến lược phát triển
giáo dục 2000-2010, Đảng ta đã khẳng định: Khoa học và công nghệ cùng với
giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu để phát triển nguồn lực nhằm đưa

1


đất nước ta thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, vươn lên trình độ tiên tiến thế giới.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 của Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII đã
khẳng định: “Nhận thức sâu sắc giáo dục và đào tạo cùng với khoa học công
nghệ là nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, đầu tư cho
giáo dục là đầu tư cho phát triển”.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của giáo dục và đào tạo đối với sự phát
triển của kinh tế - xã hội và căn cứ vào những chủ trương chung của Đảng về
giáo dục và đào tạo, Phú Thọ cũng như nhiều địa phương khác trên cả nước
đã và đang nỗ lực phấn đấu hết mình đưa sự nghiệp giáo dục và đào tạo của
tỉnh đi lên khẳng định vị trí, vai trò đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Bên
cạnh những thành tích đạt được giáo dục - đào tạo Phú Thọ vẫn còn nhiều hạn

chế: Chất lượng giáo dục còn nhiều vấn đề cần quan tâm, qui mô phát triển
giáo dục chưa đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho tỉnh, cơ sở vật
chất, hạ tầng còn thiếu thốn, đội ngũ giáo viên còn thiếu nhiều...
Việc tìm hiểu, nghiên cứu về sự phát triển giáo dục, đào tạo của tỉnh
Phú Thọ nhằm khẳng định vai trò của Đảng bộ tỉnh đối với việc lãnh đạo sự
nghiệp giáo dục và đào tạo đồng thời đánh giá khách quan những thành tựu
cũng như hạn chế từ đó rút ra được một số kinh nghiệm có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của
địa phương. Với ý nghĩa đó tôi chọn đề tài “Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo
giáo dục - đào tạo từ năm 1997 đến năm 2010” làm đề tài khóa luận tốt
nghiệp đại học chuyên nghành lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam .
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề giáo dục và đào tạo có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển toàn
diện của đất nước nên luôn được Đảng, Nhà nước và toàn xã hội quan tâm.
Các nhà khoa học, đầu tư nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau.
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu đề cập đến giáo dục – đào tạo nói
chung: Giáo dục mười năm đổi mới và chặng đường trước mắt của tác giả

2


Trần Hồng Quân, Nxb Khoa học Xã Hội, Hà Nội năm 1996; GS Phạm Minh
Hạc, Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, năm 1999; PGS,TS Nghiêm Đình Vỳ, Giáo dục Việt Nam từ sau
Cách mạng Tháng Tám đến nay, NXb Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2002; Giáo
dục Việt Nam trong bối cảnh là thành viên của WTO – cơ hội và thách thức,
in trong kỷ yếu hội thảo khoa học, Hà Nội, năm 2007;… Những công trình
nghiên cứu trên đã khẳng định những thành tựu, chỉ ra những hạn chế và bước
đầu đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm thúc đấy sự nghiệp giáo
dục – đào tạo của đất nước trong những năm tiếp theo. Đó là nguồn tài liệu

quý giá để tôi kế thừa trong quá trình viết khóa luận của mình.
Thứ hai, những bài viết, các công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề
giáo dục tỉnh Phú Thọ như Lịch sử Đảng bộ tỉnh Phú Thọ, NXB Chính trị
quốc gia năm 2002; Giáo dục – Đào tạo Phú Thọ: Sự nghiệp “trồng người”
trên mảnh đất cội nguồn của Thu Hà, Việt Cường, Tạp Chí Đông Nam Á, số
11 năm 2004; phát huy truyền thống dạy và học trên vùng đất tổ của tác giả
Phan Văn Lân, Tạp chí Thương mại số 13 năm 2005; Luận văn Đảng bộ tỉnh
Phú Thọ lãnh đạo phát triển giáo dục phổ thông từ năm 1997 đến năm 2010
của Luyện Thị Thu Hưng trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn… Các
đề tài và bài viết trên đã phản ánh một số thực trạng và đưa một số giải pháp
nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo ở
giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, trên thực tế tỉnh Phú Thọ có những nét đặc
trưng riêng khác với các địa phương khác và nền giáo dục đang trong những
giai đoạn đổi mới về mọi mặt. Nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn thông qua đó rút ra được những bài học kinh nghiệm và tìm ra
những giải pháp tốt nhất nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Phú
Thọ đối với công tác giáo dục - đào tạo.
Như vậy, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về giáo dục và
đào tạo nói chung và một số công trình khoa học nghiên cứu về giáo dục ở

3


Phú Thọ nói riêng. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên
cứu một cách hệ thống về quá trình Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo phát triển
Giáo dục và Đào tạo từ năm 1997 đến năm 2010.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của khóa luận là góp phần tìm hiểu sự chỉ đạo,
lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ về phát triển giáo dục và đào tạo từ năm

1997 đến năm 2010. Tiếp đó nêu lên những thành tựu đã đạt được cũng như
những mặt hạn chế rút ra một số kinh nghiệm từ thực tế lãnh đạo của Đảng bộ
tỉnh để tiếp tục thực hiện có hiệu quả hơn nữa đường lối giáo dục và đào tạo
của Đảng trong thời kỳ đổi mới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khái quát đường lối, chủ trương của Đảng về giáo dục – đào tạo từ
năm 1997 đến năm 2010
- Làm rõ quá trình Đảng bộ tỉnh Phú Thọ chỉ đạo sự nghiệp giáo dục đào tạo. Khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ trong việc
phát triển giáo dục và đào tạo từ năm 1997 đến năm 2010.
- Rút ra được một số kinh nghiệm từ hoạt động thực tiễn của Đảng bộ
trong quá trình lãnh đạo công tác giáo dục và đào tạo
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu quan điểm của Đảng về giáo dục và đào tạo và
sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ đối với công tác phát triển giáo dục và
đào tạo trên địa bàn tỉnh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Thời gian: Khóa luận nghiên cứu những quan điểm, chủ trương và sự
chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ về giáo dục và đào tạo trên địa bàn tỉnh từ
năm 1997 đến năm 2010.

4


Không gian: Trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tài liệu
Trong khi thực hiện đề tài khóa luận sử dụng chủ yếu các nguồn tài liệu
thành văn như các văn kiện của Đảng và Nhà nước, các báo cáo tổng kết, các
số liệu thống kê của sở giáo dục, Chỉ thị, nghị quyết của Đảng bộ tỉnh Phú

Thọ, Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Thọ. Ngoài ra còn tham khảo những tài liệu
có liên quan tại thư viện tỉnh Phú Thọ và các sách của Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia…
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận là quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng ta
về phát triển giáo dục trong thời kỳ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Phương pháp nghiên cứu đề tài là kết hợp sử dụng các phương pháp
lịch sử và phương pháp logic, phương pháp điều tra so sánh, đối chiếu, tổng
hợp để làm rõ vấn đề.
6. Đóng góp của đề tài
Tập hợp, sắp xếp một cách có hệ thống những tư liệu, sự kiện về sự
lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ đối với giáo dục - đào tạo ở địa phương từ
năm 1997 đến năm 2010. Phân tích được những thành tựu, hạn chế đồng thời
rút ra được những bài học kinh nghiệm từ lý luận và thực tiễn. Khóa luận có
thể làm tư liệu tham khảo trong việc nghiên cứu về lịch sử địa phương.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo khóa luận
được kết cấu có 3 chương:
Chương 1: Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo giáo dục - đào tạo từ năm
1997 đến năm 2005

5


Chương 2: Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo giáo dục - đào tạo từ năm
2006 đến năm 2010
Chương 3: Nhận xét và một số kinh nghiệm

6



Chương 1
ĐẢNG BỘ TỈNH PHÚ THỌ LÃNH ĐẠO GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO
TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2005
1.1. CƠ SỞ ĐỂ ĐẢNG BỘ TỈNH PHÚ THỌ LÃNH ĐẠO GIÁO DỤC ĐÀO TẠO TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2005
1.1.1. Khái quát chung về tỉnh Phú Thọ
1.1.1.1. Điều kiện tự nhiên và dân cư
Vị trí địa lý, Phú Thọ là tỉnh thuộc khu vực miền núi trung du phía Bắc,
nằm trong khu vực giao lưu giữa vùng Đông Bắc, đồng bằng sông Hồng và
Tây Bắc (vị trí địa lý mang ý nghĩa trung tâm của tiểu vùng Tây - Đông - Bắc).
Phía Đông giáp Hà Nội, phía Đông Bắc giáp Vĩnh Phúc, phía Tây giáp
Sơn La, phía Tây Bắc giáp Yên Bái, phía Nam giáp Hoà Bình, phía Bắc giáp
Tuyên Quang. Phú Thọ nằm ở cửa ngõ phía Tây của Thủ đô Hà Nội, Phú Thọ
cách Hà Nội 80 km, cách sân bay Nội Bài 60 km, cách cửa khẩu Hà Khẩu
(Lào Cai), cửa khẩu Thanh Thuỷ (Hà Giang) hơn 200 km, cách Hải Phòng
170 km và cảng Cái Lân (Quảng Ninh) 200 km.
Nằm ở trung tâm các hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt và
đường sông từ các tỉnh thuộc Tây - Đông - Bắc đi Hà Nội, Hải Phòng và các
nơi khác, Phú Thọ là cầu nối giao lưu kinh tế - văn hoá - khoa học kỹ thuật
giữa các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ với các tỉnh miền núi Tây Bắc. Tỉnh nằm trên
trục Quốc lộ 2 đi Tuyên Quang, Hà Giang sang Vân Nam (Trung Quốc), quốc
lộ 70 đi Yên Bái, Lào Cai sang Vân Nam (Trung Quốc), quốc lộ 32 đi Yên
Bái, Sơn La.

7


Thời Hùng Vương, địa bàn Phú Thọ nằm trong bộ Văn Lang, trung tâm
của nước Văn Lang. Thời Thục An Dương Vương với Nhà nước Âu Lạc, Phú

Thọ nằm trong huyện Mê Linh.
Tại đây có đền thờ các vua Hùng và hệ thống di tích, lịch sử, lễ hội dày
đặc, mỗi lễ hội có một sắc thái riêng đặc sắc và độc đáo, là tiềm năng rất lớn
để phát triển du lịch, dịch vụ.
Ngày 26 tháng 1 năm 1968 thực hiện nghị quyết số 504/NQ – TVQH
của Ủy ban thường vụ Quốc hội, tỉnh Vĩnh Phúc hợp nhất với tỉnh Phú Thọ
thành tỉnh Vĩnh Phú. Từ đầu những năm 90, sau gần 30 năm thực hiện việc
hợp nhất tỉnh, trước những thay đổi to lớn về mọi mặt của đất nước nói chung
và của các tỉnh thành nói riêng, Quốc hội đã có Nghị quyết tách một số tỉnh
thành trong cả nước thành các đơn vị hành chính mới.
Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội khóa IX ( kỳ họp thứ 10), chỉ thị số
03/CT- TW của Bộ chính trị ngày 12/11/1990 và chỉ thị số 85/CT- TTg của
thủ tướng Chính phủ ngày 15/ 11/1996, tỉnh Vĩnh Phú được tách thành hai
tỉnh là Vĩnh Phúc và Phú Thọ. Tỉnh Phú Thọ chính thức đi vào hoạt động
ngày 1 tháng 1 năm 1997.
Tỉnh Phú Thọ sau khi tái lập (1997) có diện tích tự nhiên 3.465km2,
dân số 1.261.900 người. Toàn tỉnh có 12 huyện, thành thị (thành phố Việt Trì,
Thị xã Phú Thọ), 10 huyện: Thanh Sơn, Yên Lập, Sông Thao, Tam Nông,
Thanh Thủy, Hạ Hòa, Thanh Ba, Đoan Hùng, Lâm Thao, Phù Ninh), 270 xã,
phường, thị trấn.
Phú Thọ là tỉnh miền núi, trung du nên địa hình bị chia cắt, được chia
thành các tiểu vùng. Tiểu vùng núi cao phía Tây và phía Nam của Phú Thọ,
tuy gặp một số khó khăn về việc đi lại, giao lưu song ở vùng này lại có nhiều
tiềm năng phát triển lâm nghiệp, khai thác khoáng sản và phát triển kinh tế
trang trại. Tiểu vùng gò, đồi thấp bị chia cắt nhiều, xen kẽ là đồng ruộng và

8


dải đồng bằng ven sông Hồng, hữu Lô, tả Đáy. Vùng này thuận lợi cho việc

trồng các loại cây công nghiệp, phát triển cây lương thực và chăn nuôi. Khí
hậu của Phú Thọ thuận lợi cho việc phát triển cây trồng, vật nuôi đa dạng.
Phú Thọ có nhiều tiềm năng phát triển công nghiệp chế biến nông - lâm
sản, vì có nguồn nguyên liệu, lực lượng lao động tại chỗ. Bên cạnh đó đã hình
thành và phát triển khai thác và chế biến khoáng sản, sản xuất vật liệu xây
dựng, công nghiệp dệt, may, đã xây dựng được một số khu công nghiệp, cụm
công nghiệp và đầu tư với tốc độ nhanh.
Tính chất địa hình và cấu tạo địa chất trên đã tạo cho Phú Thọ phát triển
kinh tế nông nghiệp toàn diện, vững chắc với nhiều sản phẩm phong phú.
1.1.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
Địa hình và điều kiện tự nhiên của tỉnh Phú Thọ đã sớm hình thành nền
nông - công - lâm nghiệp đa dạng với các khu công nghiệp lớn ra đời ở Việt
Trì gồm nhiều xí nghiệp và công nghiệp hóa chất Lâm Thao, giấy Bãi Bằng
một số xí nghiệp chế biến chè, sản xuất giấy, xi măng ở Phía Bắc. Đây là điều
kiện giúp cho Tỉnh Phát triển nhanh về kinh tế và xã hội. Ngoài tác động của
công nghiệp với một hệ thống sông ngòi, đầm hồ cũng góp phần thúc đẩy
nông nghiệp của tỉnh phát triển.
Thời điểm khi tách tỉnh năm 1997, dân số Phú Thọ là 1.261.900 người
với 21 dân tộc anh em sinh sống khác nhau như: Kinh, Mường, Dao, Cao
Lan, … trong đó người kinh chiếm đa số gần 1,1 triệu người. Các dân tộc
sống hòa nhập thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời vẫn bảo tồn
những nét riêng về văn hóa của các tộc người nhằm phát huy sự phong phú và
tính đa dạng trong sự thống nhất.
Phú Thọ là một trong những cái nôi của loài người. Thời tiền sử, trên
các bậc thềm phù sa cổ sông Hồng, sông Lô, sông Đà đã có các thị tộc, bộ lạc
người nguyên thủy sinh sống. Những chứng tích còn lại là dấu vết hóa thạch ở

9



hang Ngựa (Thu Cúc – Thanh Sơn); và rất nhiều công cụ bằng đá được phát
hiện khai quật từ năm 1965 ở hàng trăm địa điểm khảo cổ, nằm rải rác hầu hết
ở các địa bàn trong tỉnh thuộc nền văn hóa Sơn Vi (xã Sơn Vi huyện Lâm
Thao), giai đoạn hậu kỳ đá cũ có niên đại cách đây 11 đến 18 ngàn năm. Phú
Thọ là nơi lưu giữ nhiều di tích văn hóa- lịch sử ngoài đền Hùng là di tích lịch
sử của cả nước, trong tỉnh còn trên một nghìn di tích khác là các đền, miếu
thờ những người có công với nước với địa phương như: Đền thờ Quốc mẫu
Âu Cơ ở xã Hiền Lương (Hạ Hòa). Đền thờ Thiều Hoa công chúa ở Hiền
Quan, đền thờ Xuân Nương công chúa ở Hương Nộn (Tam Nông), đình Hùng
Lô ở Phù Ninh…, ngoài ra còn các loại hình văn hóa dân gian như các điệu
múa, các làn điệu dân ca hát xoan, hát ghẹo, các dao tục ngữ…
Trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, đất và người Phú Thọ đã góp phần
làm lên những mốc son lịch sử vẻ vang trong lịch sử dựng nước và giữ nước
với các nhân vật lịch sử vẻ vang trong sự nghiệp dựng nước. Không những thế
Phú thọ còn là vùng đất hiếu học đã sản sinh ra một số danh nho tiêu biểu như
Trạng nguyên Vũ Duệ, Bảng nhãn Nguyễn Mẫn Đốc…Từ thời Trần đến thời Lê
Trung Hưng Phú Thọ có 26 vị đỗ đại khoa tức là từ hàng tiến sĩ trở lên, trong đó
có một trạng nguyên, 2 bảng nhãn, 6 hoàng giáp và 17 tiến sĩ [1, tr. 41].
Những người con Phú Thọ đang từng ngày nỗ lực kế thừa phát huy
truyền thống của cha ông xây dựng cuộc sống mới.
1.1.2. Tình hình giáo dục – đào tạo ở tỉnh Phú Thọ trước năm 1997
Từ năm 1968 đến năm 1997, hai tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ đã hợp
nhất thành Tỉnh Vĩnh Phú. Nối tiếp những truyền thống đã đạt được trong giai
đoạn trước, Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phú tiếp tục lãnh đạo sự nghiệp giáo dục.
Sau ngày 30/4/1975 miền Nam hoàn toàn được giải phóng, đất nước
thống nhất nhân dân cả nước phấn khởi bước vào thời kỳ xây dựng đất nước
đi lên chủ nghĩa xã hội. Mặc dù mới ra khỏi cuộc chiến tranh giải phóng dân

10



tộc kéo dài 20 năm, đời sống kinh tế, xã hội còn nhiều khó khăn nhưng với sự
quan tâm chỉ đạo về mọi mặt của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh công tác văn
hóa xã hội đã có những chuyển biến quan trọng. Phong trào bình dân học vụ
tiếp tục được duy trì và đạt kết quả tốt. Phong trào “hai tốt” vẫn tiếp tục phát
triển, thời gian này học sinh phổ thông cấp I, II, III không ngừng tăng năm
1969- 1970 số học sinh phổ thông tăng 8,8 % so với năm học trước và tăng
124 % so với năm học 1960 – 1961[1, tr.43].
Ngày 11 tháng 1 năm 1979, Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương
Đảng đã ra nghị quyết thực hiện cải cách giáo dục, tiến hành trong toàn quốc.
Nội dung cải cách giáo dục lần này bao gồm cả ba mặt: cải cách cơ cấu hệ
thống giáo dục, cải cách nội dung và phương pháp giáo dục. Đây thực sự là
thách thức mới đối với sự nghiệp giáo dục và đào tạo cả nước nói chung và
giáo dục Phú Thọ nói riêng.
Sau hai năm thực hiện Nghị Quyết của bộ chính trị về cải cách giáo dục
trong cả nước, đã đạt được những thành tựu đáng kể. Tháng 3 năm 1981, Hội
đồng Chính Phủ ra quyết định về đổi mới hệ thống giáo dục phổ thông, từ hệ
thống 9 năm sang hệ thống trường phổ thông 12 năm.Thực hiện chủ trương
trên của Đảng và Nhà nước, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo nghiêm
túc về thực hiện cải cách giáo dục trong phạm vi toàn tỉnh, phối hợp với các
lực lượng ngoài nhà trường (gia đình và xã hội). Chính vì vậy, trong thời gian
ngắn ngành giáo dục Vĩnh Phú đã có được những kết quả đáng khích lệ.
Mạng lưới trường học trong toàn tỉnh cho trẻ em và người lớn, các cơ
sở đào tạo bồi dưỡng giáo viên được mở rộng. Hệ thống trường lớp, cơ sở vật
chất thiết bị phục vụ cho dạy học ngày càng hoàn thiện đáp ứng nhu cầu học
tập của các cấp(cấp I, cấp II). Các trường cấp ba được mở rộng phù hợp với
tình hình của từng địa phương. Tất cả các huyện, thành, thị trong toàn tỉnh có
ít nhất một trường trung học, có huyện có hai trường, huyện Thanh Sơn có 3

11



trường. So với số dân toàn tỉnh cứ 4 người có một người đi học.Tính đến năm
học 1984 - 1985 toàn tỉnh đã mở được 250 trường Mẫu giáo với trên 2 ngàn
lớp thu nhận hơn 50 ngàn cháu trong độ tuổi đi học, đạt tỷ lệ 45,3%. Công tác
đào tạo đội ngũ cán bộ, giáo viên phục vụ cho công tác giáo dục ngày càng
được chú ý quan tâm [29, tr.19].
Tháng 12 năm 1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng
họp tại Hà Nội. Đại hội đã kịp thời đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất
nước. Đại hội VII (tháng 6 năm 1991) và lần thứ VIII (tháng 6 năm 1996) của
Đảng tiếp tục phát triển đường lối đổi mới của Đảng đề ra từ Đại hội VI.
Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, Sở giáo dục Tỉnh Vĩnh Phú đã chỉ đạo
ngành giáo dục từng bước triển khai cải cách giáo dục, tiếp tục phát triển ngành
giáo dục một cách đồng đều, cân đối, vững chắc theo từng bước đi phù hợp với
nhịp độ phát triển kinh tế của địa phương, góp phần đẩy mạnh công cuộc công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước nhằm mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Để tăng cường công tác quản lý và chỉ đạo ngành giáo dục một cách
thống nhất, tháng 6 năm 1988, Ủy ban nhân dân tỉnh ra Quyết định số
146/QĐ, trong đó qui định sát nhập Ban Giáo dục chuyên nghiệp vào sở giáo
dục thành Sở Giáo dục và Đào tạo.
Từ năm học 1988- 1989 trở đi chất lượng dạy và học ở các trường được
nâng lên, hoạt động giáo dục hướng nghiệp bước đầu gắn với phát triển kinh
tế - xã hội của địa phương. Công tác xóa nạn mù chữ được đẩy mạnh.Tháng 4
năm 1990 trong tổng số 250 xã thì huyện Thanh Hòa và thành phố Việt Trì đã
hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học và xóa nạn mù chữ. Giáo dục phổ thông
ngày càng được mở rộng, đa dạng hóa các loại hình trường lớp. Đến năm
1990 toàn tỉnh đã có 2.132 lớp mẫu giáo với 2.124 giáo viên và 60.583 cháu;

12



492 trường phổ thông cơ sở với 10.237 lớp và 357.925 học sinh; 36 trường
phổ thông trung học với 461 lớp và 16.684 học sinh [29, tr.20].
Trên cơ sở Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VII và nghj quyết hội nghị
Trung ương lần thứ tư (khóa VII) đã xác định giáo dục - đào tạo là quốc sách
hàng đầu, Ban thường vụ Tỉnh ủy ra Nghị quyết số 12- NQ/TƯ về phát triển sự
nghiệp giáo dục của tỉnh đến năm 2000. Sau quá trình triển khai thực hiện
ngành giáo dục - đào tạo của tỉnh có bước phát triển mới các ngành học, các cấp
học từ mầm non, phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp, giáo dục thường xuyên
đều tăng so với năm trước. Từ năm 1991 các trường phổ thông cơ sở tách thành
các trường tiểu học và trung học. Ngành học phổ thông được tỉnh quyết định
thành lập thêm 4 trường, duy trì và mở thêm các lớp hệ B, bán công.
Công tác xóa nạn mù chữ và phổ cập giáo dục Tiểu học tiếp tục được
duy trì. Năm 1992 Tỉnh Vĩnh Phú được công nhận là tỉnh thứ 6 của cả nước
hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học - chống mù chữ. Quy mô giáo dục
không ngừng được phát triển, được mở rộng theo hướng đa dạng hóa các loại
hình trường lớp. Riêng học sinh phổ thông bình quân trong 5 năm (19911995) tăng 6,9%. Tỷ lệ học sinh bỏ học giảm xuống còn 4,1%; Đến năm
1995 tiểu học có 9688 lớp, phổ thông cơ sở có 3 796 lớp, phổ thông trung
học có 503 lớp. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp tiểu học đạt 95,8%, Trung học cơ sở
là 98,2%, phổ thông trung học là 98,6%. Việc xã hội hóa giáo dục đã được
mở rộng thu hút nhiều lực lượng xã hội tham gia [29, tr.21].
Trước năm 1997, bên cạnh những thành tựu nổi bật, ngành giáo dục
Vĩnh Phú vẫn còn một số vấn đề cần được khắc phục như: Cơ sở vật chất đã
được quan tâm nhưng vẫn chưa được đồng bộ, chưa đáp ứng được nhu cầu của
giáo dục trong thời kỳ đổi mới, vẫn còn nhiều lớp học tạm, lớp học 3 ca, thiếu
lớp học. Đó là những khó khăn, thử thách đặt ra cho Đảng bộ tỉnh cần được chú
trọng và giải quyết trong thời gian tiếp theo.

13



1.1.3. Chủ trương của Đảng về giáo dục - đào tạo từ năm 1997 đến năm 2005
Giai đoạn 1997 - 2000
Đại hôi Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996) đã họp và quyết định
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm mục tiêu dân giàu nước mạnh,
xã hội công bằng văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. “Mục tiêu của
công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng nước ta thành một nước công
nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản
xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; đời sông
vật chất và tinh thần cao; quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng văn minh”.
Muốn tiến hành công nghiệp hóa - hiện đại hóa thắng lợi phải phát triển
mạnh giáo dục, phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển
nhanh và bền vững. Để thực hiện Nghị quyết của Đại hội VIII, Hội nghị lần
thứ hai Ban chấp hành Trung ương quyết định định hướng chiến lược phát
triển giáo dục thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm
2000.
Hội nghị khẳng định những thành tựu chỉ ra những yếu kém về giáo
dục - đào tạo; nêu rõ nguyên nhân của những thành tựu, hạn chế. Qua đó nêu
lên những định hướng chiến lược về phát triển giáo dục và đào tạo trong thời
kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Hội nghị đã nhận định bước sang thế kỷ XXI, thế kỷ của nền kinh tế tri
thức và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, con người và nguồn
nhân lực là yếu tố quyết định cho sự phát triển đất nước trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.Vì vậy cần tạo chuyển biến cơ bản, toàn diện về giáo
dục và đào tạo. Bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu nước, yêu quê hương gia
đình và tự tôn dân tộc, lý tưởng Xã hội chủ nghĩa, lòng nhân ái, ý thức tôn
trọng pháp luật, tinh thần hiếu học, chí tiến thủ lập nghiệp.


14


Hội nghị xác định: Trong những năm đầu và những năm tiếp theo của
thế kỷ XXI, chúng ta phải phát triển giáo dục và đào tạo, tạo ra nguồn lực có
chất lượng cao, đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, vì đây chính là động lực thúc đẩy đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Giai đoạn 2000 đến 2005
Tiếp tục những quan điểm trên, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ IX (năm 2001) nêu ra những vấn đề cơ bản cho phát triển giáo dục đào tạo. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Khóa VIII
xác định rõ mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm
(2001- 2010) và khẳng định “Để đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn
nhân lực là nhân tố quyết định cho sự phát triển đất nước trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, cần tạo chuyển biến cơ bản, toàn diện về giáo dục
và đào tạo” [4, tr.201].
Đại hội đã chỉ ra định hướng phát triển giáo dục và đào tạo đến năm
2005:
Tiếp tục quán triệt quan điểm giáo dục là quốc sách hàng đầu và tạo sự
chuyển biến cơ bản, toàn diện trong phát triển giáo dục và đào tạo. Thực hiện
hiệu quả Luật Giáo dục, định hình qui mô giáo dục và đào tạo, điều chỉnh cơ
cấu đào tạo, nhất là cơ cấu cấp học, ngành nghề và cơ cấu lãnh thổ phù hợp
với nhu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên các cấp… [4, tr.292].
Thực hiện thắng lợi mục tiêu đó, sẽ tạo điều kiện để đất nước vững
bước trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trên cơ sở kết hợp linh
hoạt và hợp lý những bước đi tuần tự với những bước nhảy vọt, nhanh chóng
đạt tới trình độ tiên tiến về khoa học công nghệ, đặc biệt chú trọng những
ngành mũi nhọn, bao gồm các ngành công nghệ cao như: công nghệ thông tin,
công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ năng lượng… Ứng


15


dụng ngày càng nhiều những tri thức mới để công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
chủ động đi nhanh vào kinh tế trí thức ở những ngành, những lĩnh vực mà đất
nước ta có điều kiện. Song nếu không có nguồn nhân lực tương xứng thì ngay
cả những kỹ thuật hoàn thiện nhất cũng trở nên vô dụng. Do vậy văn kiện Đại
hội lần thứ IX và một số văn kiện khác của Đảng đã khẳng định:
Phát triển giáo dục đào tạo được coi là một trong những động lực quan
trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát
huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội tăng trưởng kinh
tế nhanh và bền vững… [4, tr.108- 112].
Triển khai thực hiện mục tiêu Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đặt ra
cho giáo dục và đào tạo, ngày 28/12/200. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
Quyết định Số 201/ 2001/ QĐ - TTg “Về chiến lược phát triển giáo dục 20012010” trong đó bao gồm 6 điểm lớn: Tình hình giáo dục Việt Nam hiện nay;
Bối cảnh và thời cơ, thách thức đối với giáo dục nước ta trong vài thập kỷ tới;
Các quan điểm chỉ dạo phát triển giáo dục; Mục tiêu phát triển giáo dục đến
năm 2010; Các giải pháp phát triển giáo dục; Tổ chức thực hiện chiến lược.
Mục tiêu chung mà chiến lược đặt ra là tạo bước chuyển biến cơ bản về
chất lượng giáo dục theo hướng tiếp cận với trình độ tiên tiến của thế giới,
phù hợp với thực tiễn của Việt Nam, phục vụ thiết thực cho sự phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước; của từng vùng từng địa phương; hướng tới một xã
hội học tập. Phấn đấu đưa nền giáo dục nước ta thoát khỏi tình trạng tụt hậu
trên một số lĩnh vực so với các nước phát triển trong khu vực.
Đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp, chương trình giáo dục các
cấp học và trình độ đào tạo; phát triển đội ngũ giáo viên đáp ứng yêu cầu dạy
học; đổi mới quản lý giáo dục tạo cơ sở pháp lý và phát huy nội lực phát triển
giáo dục.

16



Nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ cách mạng mới, tại hội
nghị lần thứ VI Ban Chấp hành Trung ương khóa IX (năm 2002), Đảng ban
hành Kết luận tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII về giáo
dục - đào tạo. Hội nghị xác đinh phương hướng và những giải pháp cụ thể
đối với giáo dục - đào tạo đến năm 2005 và đến năm 2010 với những nội
dung cơ bản:
Về phương hướng: Tiếp tục quán triệt các quan điểm tư tưởng chỉ đạo
giáo dục của Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII, nỗ lực phấn đấu toàn diện
làm cho giáo dục thực sự là quốc sách hàng đầu [2, tr.19].
Về nhiệm vụ: Tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ mà Nghị quyết Trung
ương 2 khóa VIII và Đại hội IX đề ra cho giáo dục, đặc biệt tập chung vào các
nhiệm vụ sau: Nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo nhân tài;
phát triển hợp lý quy mô giáo dục; thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục.
Hội nghị đề ra giải pháp tổng quát: Đổi mới mạnh mẽ quản lý giáo dục;
xây dựng và triển khai chương trình “Xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục một cách toàn diện” hoàn chỉnh cơ cấu hệ thống giáo dục
quốc dân và sắp xếp, củng cố phát triển mạng lưới trường lớp, cơ sở giáo dục;
tăng cường đầu tư cho giáo dục – đào tạo đúng với yêu cầu là quốc sách hàng
đầu [2, tr.45].
Phương hướng, nhiệm vụ và những giải pháp trên đã một lần nữa
khẳng định quan điểm coi giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu của Đảng
và Nhà nước; đồng thời nâng cao nhận thức trong xã hội và trong ngành về
vai trò và nhiệm vụ của giáo dục, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển,
ưu tiên các nguồn lực cần thiết cho giáo dục. Kịp thời định hướng những giá
trị phù hợp với thời kỳ đổi mới, mở cửa hội nhập quốc tế theo quan điểm của
Đảng. Kết hợp chặt chẽ giáo dục nhà trường với giáo dục gia đình và giáo dục
xã hội, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh.


17


Để cụ thể hóa những nội dung của kết luận Hội nghị Trung ương sáu
(khóa IX) chỉ thị số 40- CT/TW “Về việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội
ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục”. Chỉ thị đề ra mục tiêu: Xây dựng
đội nhũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục được chuẩn hóa, đủ về số lượng,
đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống,
lương tâm, tay nghề của nhà giáo; thông qua việc quản lý, phát triển đúng
định hướng và có hiệu quả sự nghiệp giáo dục để nâng cao chất lượng đào tạo
nguồn nhân lực, đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Năm 2005, Quốc hội khóa XI đã thông qua luật giáo dục sửa đổi để xác
định rõ hơn hành lang pháp lý cho tổ chức và hoạt động giáo dục và sự phối
hợp đồng bộ giữa các cá nhân tham gia hoạt động giáo dục.
Các quan điểm trên cho thấy Đảng đã nhận thức rõ hơn về vị trí, vai trò
quyết định của giáo dục - đào tạo đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.Trong
đó việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý
giáo dục giữ vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Các quan
điểm này đã định hướng cho việc xây dựng hệ thống giáo dục quốc dân đồng
thời từng bước hình thành xã hội học tập. Nhờ vậy, sự nghiệp giáo dục - đào
tạo có điều kiện thuận lợi để phát triển đúng hướng, tạo ra sự chủ động nhiều
hơn cho địa phương, các trường và tầng lớp nhân dân trong xã hội hiểu đúng
và thực hiện tốt chủ trương xã hội hóa giáo dục và chính sách khuyến khích
xã hội hóa giáo dục của Đảng và Nhà nước.

18



1.2. ĐẢNG BỘ PHÚ THỌ LÃNH ĐẠO GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO TỪ
NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2005
1.2.1. Chủ trương của Đảng bộ Tỉnh Phú Thọ về giáo dục - đào tạo
Tỉnh Phú Thọ được thành lập vào năm 1891 dưới thời Pháp thuộc. Sau
gần 8 thập kỷ ra đời và phát triển, đầu năm 1968 tỉnh Phú Thọ hợp nhất với
tỉnh Vĩnh Phúc thành tỉnh Vĩnh Phú. Sau 29 năm hợp nhất, Tỉnh Phú Thọ
được tái lập từ ngày 1/1/1997 theo Nghị quyết kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa
IX, khi đất nước đang bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Việc
hợp nhất Phú Thọ với tỉnh Vĩnh Phúc, cũng như việc tái lập tỉnh cũ là do yêu
cầu khách quan của lịch sử và chủ trương của Đảng và Chính Phủ trong phạm
vi toàn quốc [1, tr.284].
Sau khi tái lập, Phú Thọ có những thuận lợi cơ bản về điều kiện kinh tế
- xã hội, tuy nhiên tỉnh cũng gặp phải không ít những khó khăn, thử thách đan
xen. Đồng thời với việc tái lập tỉnh, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương
Đảng ra Quyết định số 117-QĐNS/TW ngày 12/12/1996 thành lập Đảng bộ
Phú Thọ và chỉ định Ban chấp hành lâm thời của Đảng bộ. Quán triệt tinh
thần Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng và các Nghị quyết của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ hai, thứ ba (khóa VIII) khẳng định và cụ
thể hóa đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng. Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh
Phú Thọ lần thứ XIV đã tổ chức. Trên cơ sở nhận định những thuận lợi và
khó khăn mới nảy sinh, Đại hội lần thứ XIV đã xác định phương hướng, mục
tiêu nhiệm vụ và những biện pháp lớn cho ba năm còn lại của thế kỷ XX
(1997 - 2000). Phương hướng chung của Đảng bộ là xây dựng Phú Thọ trở
thành tỉnh có nền kinh tế phát triển với tốc độ khá và ổn định, trong đó kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo; có nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc
và truyền thống quê hương đất nước. Đại hội cũng đề ra mục tiêu tổng quát là
cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, văn hóa, giáo dục và môi trường sống
cho nhân dân.

19



Theo quyết định số 02/1998-TTg của Hội đồng Bộ trưởng ngày 6 tháng
1 năm 1998, Về việc phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội
vùng Đông Bắc giai đoạn từ năm 1997-2010, trong đó đề ra các mục tiêu về
phát triển kinh tế xã hội của các tỉnh thuộc vùng Đông Bắc trong đó có tỉnh
Phú Thọ. Trên lĩnh vực giáo dục quyết định nêu rõ: Ưu tiên phát triển giáo
dục ở vùng cao, vùng sâu, vùng biên giới, hải đảo. Đa dạng hóa các loại hình
giáo dục nhằm thu hút ngày càng nhiều trẻ em đến tuổi đi học đến trường,
lớp. Quán triệt đường lối giáo dục toàn diện của Đảng theo tinh thần Nghị
quyết Trung ương 2 (khóa VIII) về giáo dục đào tạo. Tỉnh đã xây dựng trường
lớp và mở rộng quy mô hợp lý theo phương châm đa dạng hóa các loại hình
đào tạo.
Quán triệt các nghị quyết Trung ương về công tác giáo dục – đào tạo,
Tỉnh ủy Phú Thọ luôn coi “giáo dục - đào tạo là quôc sách hàng đầu”, là một
trong những động lực quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội, đầu tư cho
giáo dục là đầu tư cho sự phát triển. Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban
nhân dân, Sở giáo dục và đào tạo đã tiến hành nhiều biện pháp chăm lo, phát
triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo. Nhờ vậy công tác giáo dục - đào tạo Phú
Thọ đã đạt được nhiều thành tựu hơn trước. Tuy nhiên vẫn còn nhiều bất cập
như: Chất lượng dạy và học của cấp trường phổ thông, dạy nghề chưa cao;
công tác quản lý giáo dục - đào tạo thực hiện xã hội hóa giáo dục ở một số nơi
còn hạn chế…
Trước tình hình đó Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lần thứ XV,
nhiệm kỳ 2000- 2005 đã đánh giá nghiêm túc kết quả thực hiện Nghị quyết
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV những năm từ 1997 đến năm 2000 và cả
những khó khăn, những hạn chế, yếu kém, từ đó đưa ra định hướng, nhiệm vụ
cho thời kỳ 2001 - 2005: Phát huy nội lực, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế xã hội với nhịp độ cao và bền vững. Chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế, cơ cấu

20



×