Tải bản đầy đủ (.doc) (123 trang)

Sự lãnh đạo của đảng bộ tỉnh phú thọ đối với kinh tế nông nghiệp từ năm 1997 đến năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.99 MB, 123 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ năm 1986 đến nay, thực hiện đường lối đổi mới, Đảng, Nhà
nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách thể hiện rõ sự đổi mới trong tư
duy kinh tế đặc biệt là kinh tế Nông nghiệp. Nhờ đó nền kinh tế nước ta
đạt tốc độ tăng trưởng khá cao và phát triển toàn diện, cơ cấu kinh tế nói
chung và cơ cấu kinh tế Nông nghiệp nói riêng có bước chuyển dịch theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thực tế phát triển Nông nghiệp, nông thôn nói chung, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng những năm qua đã khẳng định
đường lối, chủ trương xây dựng kinh tế nông nghiệp của Đảng là đúng
đắn. Song mức độ thành công của đường lối, chủ trương đó trên từng địa
phương, từng giai đoạn còn phụ thuộc rất nhiều vào sự sáng tạo trong vận
dụng và tổ chức thực hiện của các đảng bộ và chính quyền địa phương,
gắn với đặc thù từng địa phương trong những hoàn cảnh cụ thể.
Đảng bộ và nhân dân các tỉnh, thành phố trong cả nước cũng như
Phú Thọ, trong những năm qua đã phát huy nội lực và thuận lợi, khắc
phục và hạn chế những khó khăn thực hiện tốt nhất chủ trương phát triển
kinh tế của Đảng, góp phần đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng.
Phú Thọ là một tỉnh thuộc vùng trung du miền núi Bắc Bộ, có diện
tích đất tự nhiên khá lớn, là vùng có thế mạnh phát triển nông nghiệp, đặc
biệt là trồng trọt, chăn nuôi và lâm nghiệp. Trong quá trình xây dựng kinh
tế từ năm 1997 đến năm 2010, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, nền
nông nghiệp của tỉnh phát triển khá toàn diện, đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân không ngừng được nâng cao. Những thành tựu đó góp
phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Tuy
nhiên, tốc độ tăng trưởng kinh tế nông nghiệp còn chậm và thiếu bền
vững, chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế mà thiên nhiên đã ban
1
tặng cho tỉnh. Phú Thọ còn gặp phải những khó khăn và đối mặt với nhiều
vấn đề mới nẩy sinh trong quá trình lãnh đạo xây dựng kinh tế Nông


nghiệp: tình trạng độc canh, sản xuất nhỏ manh mún, nông dân nghèo còn
nhiều, trình độ dân trí thấp,… cản trở đưa kỹ thuật vào sản xuất nông
nghiệp. Nguyên nhân của những thành quả cũng như những yếu kém nêu
trên có phần xuất phát từ kết quả vận dụng đường lối, chủ trương của
Đảng vào tình hình thực tế của tỉnh.
Tìm hiểu quá trình Đảng bộ Phú Thọ lãnh đạo kinh tế Nông nghiệp
của tỉnh trong những năm 1997 - 2010 là một trong những vấn đề quan
trọng. Nó góp phần làm rõ những biến đổi trong Nông nghiệp, nông thôn
của tỉnh trong quá trình thực hiện, đưa đường lối đổi mới của Đảng vào
cuộc sống, cũng như những tác động bước đầu của quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn của Đảng đối với Phú Thọ.
Nguyên nhân của những thành quả cũng như những yếu kém trên có phần
xuất phát từ kết quả vận dụng đường lối, chủ trương của Đảng vào tình
hình thực tế của tỉnh.
Nghiên cứu quá trình Đảng bộ Phú Thọ vận dụng thực hiện đường
lối chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước để lãnh đạo kinh tế
Nông nghiệp từ năm 1997 đến năm 2010; đánh giá kết quả đạt được và
những hạn chế yếu kém; từ đó rút ra những kinh nghiệm góp phần làm
cho kinh tế Nông nghiệp của tỉnh phát triển mạnh trong thời gian tới là
việc làm có ý nghĩa khoa học và thực tiễn.
Với những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Sự lãnh đạo của Đảng bộ
tỉnh Phú Thọ đối với kinh tế Nông nghiệp từ năm 1997 đến năm
2010” làm luận văn thạc sỹ lịch sử, chuyên ngành lịch sử Đảng Cộng Sản
Việt Nam.
2
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng Sản Việt Nam, các ngành kinh tế nước ta đã có bước phát triển
mạnh. Vì vậy, việc nghiên cứu quá trình lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực
kinh tế nói chung và kinh tế Nông nghiệp nói riêng trở thành đề tài hấp

dẫn được nhiều người quan tâm. Trên phạm vi cả nước đã có nhiều công
trình của các nhà khoa học đề cập đến vấn đề này ở những góc độ khác
nhau. Vấn đề kinh tế ở Phú Thọ cũng có một số công trình nghiên cứu.
Có thể chia thành ba nhóm công trình sau:
Nhóm thứ nhất là các công trình chung, tiêu biểu là các cuốn sách:
Những nguyên tắc Lêninnít trong công tác Đảng lãnh đạo xây dựng kinh
tế (Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1981); GS. Đỗ Đình Giao: Chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa nền kinh tế quốc dân
(Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994); Phạm Nguyên Nhu:
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nước ta theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa (Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999); Đoàn Duy Thành:
Đảng lãnh đạo kinh tế và Đảng viên làm kinh tế (Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2002); Nguyễn Minh Tú: Việt Nam trên chặng đường
đổi mới và phát triển kinh tế (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2002); Phát triển kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam (Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004);…vv. Những tác phẩm này chủ yếu đề
cập đến quan điểm, chủ trương, đường lối lãnh đạo xây dựng các ngành
kinh tế, một vấn đề rất cần thiết mà luận văn có thể kế thừa được khi giải
quyết đề tài.
Nhóm thứ hai là những sách chuyên luận, chuyên khảo về vấn đề
xây dựng phát triển kinh tế nông nghiệp như: Đặng Văn Thắng và Phạm
Ngọc Dũng: Chuyển dịch cơ cấu công, nông nghiệp ở Đồng bằng Sông
Hồng thực trạng và triển vọng (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
3
2003); Nguyễn Sinh Cúc: Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi
mới (Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 2003); Vũ Năng Dũng: Nông
nghiệp Việt Nam 61 tỉnh thành phố (Nhà xuất bản nông nghiệp, Hà Nội,
2001); Chu Hữu Quý và Nguyễn Kế Tuấn: Con đường công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 2002); Lê mạnh Hùng: Thực trạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa

nông nghiệp nông thôn Việt Nam (Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội,
1998); Trương Thị Tiến: Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp Việt
Nam (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1990) …v.v. Nhóm công
trình này đã cung cấp cho đề tài tư liệu và sự nhìn nhận mang tính khái
quát về xây dựng, phát triển kinh tế Nông nghiệp.
Nhóm thứ ba là những công trình trực tiếp liên quan đến lãnh đạo
kinh tế nói chung và kinh tế nông nghiệp nói riêng ở Phú Thọ như: Lịch
sử Đảng bộ tỉnh Phú Thọ, tập 1 (1939-1968), (Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2000); Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Phú Tho: Lịch sử
Đảng bộ tỉnh Phú Thọ, tập 2 (1968-2000), (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2003) và một số sách lịch sử Đảng bộ các huyện, thị của Phú Thọ.
Đây là những công trình rất quan trọng, cung cấp cho tác giả những số
liệu, nhận định, đánh giá về thực trạng phát triển kinh tế Nông nghiệp ở
Phú Thọ.
Nhìn chung, các công trình nói trên là rất cần thiết đối với việc thực
hiện đề tài, tác giả có thể kế thừa được nhiều nội dung quan trọng, đặc
biệt là vấn đề về tư liệu. Tuy nhiên, chưa có một công trình nào đề cập
đến vấn đề nội dung của đề tài từ cách tiếp cận thuộc chuyên ngành Lịch
sử Đảng. Vì vậy tôi chọn đề tài “Sự lãnh đạo của Đảng bộ Phú Thọ đối
với kinh tế Nông nghiệp từ năm 1997 đến năm 2010 ” làm luận văn thạc
sĩ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4
- Mục đích:
Mục đích nghiên cứu của luận văn là trình bày một cách hệ thống
quá trình Đảng bộ Phú Thọ lãnh đạo xây dựng kinh tế Nông nghiệp từ
năm 1997 đến năm 2010. Thông qua đó, khẳng định sự vận dụng đúng
đắn và sự chủ động sáng tạo đường lối kinh tế Nông nghiệp của Đảng vào
địa phương từ khi tái lập tỉnh
- Nhiệm vụ:

Sưu tập và hệ thống hóa các tư liệu lịch sử liên quan đến vấn đề
Đảng bộ Phú Thọ lãnh đạo xây dựng kinh tế Nông nghiệp trong những
năm 1997-2010, trên cơ sở đó trình bày sự lãnh đạo của Đảng bộ Phú Thọ
đối với vấn đề này.
Nêu lên những thành tựu, hạn chế trong lãnh đạo xây dựng kinh tế
Nông nghiệp của Đảng bộ Phú Thọ trong những năm 1997-2010 và rút ra
một số kinh nghiệm để phục vụ nhiệm vụ xây dựng phát triển kinh tế
Nông nghiệp ở Phú Thọ hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những nhận thức, chủ
trương, sự chỉ đạo của Đảng bộ Phú Thọ trong lĩnh vực kinh tế Nông
nghiệp và những thành tựu, hạn chế, kinh nghiệm trên lĩnh vực này của
Đảng bộ Phú Thọ trong những năm 1997-2010.
- Phạm vi nghiên cứu:
Về nội dung: Nông nghiệp, nông thôn là lĩnh vực rộng lớn và gắn
bó chặt chẽ với nhau. Phạm vi nghiên cứu của luận văn chỉ tập trung vào
nghiên cứu chủ trương của Đảng bộ tỉnh trên lĩnh vực kinh tế nông
nghiệp cũng như những kết quả, kinh nghiệm trong sự lãnh đạo của Đảng
bộ tỉnh.
5
Về thời gian: Nghiên cứu sự lãnh đạo, những kết quả, kinh nghiệm
của tỉnh Phú thọ từ năm 1997 cho đến năm 2010.
Về không gian: Nghiên cứu lĩnh vực kinh tế Nông nghiệp tại địa
bàn tỉnh Phú Thọ bao gồm các thành phố, thị xã, huyện, xã trong những
năm 1997-2010.
5. Cơ sở lý luận, nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
Cơ sở lý luận của việc thực hiện luận văn là dựa vào những quan
điểm lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và

những quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về vấn đề xây dựng kinh
tế Nông nghiệp.
-Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp
lôgic, phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp lôgic. Ngoài ra,
chúng tôi còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như: phương
pháp phân tích, so sánh kết hợp với phương pháp thống kê, phương pháp
khảo sát thực tế để đánh giá tình hình với những số liệu đã được khẳng
định.
- Nguồn tư liệu:
Quá trình thực hiện luận văn, tác giả sử dụng các nguồn tài liệu
sau: các văn kiện, nghị quyết của Đảng, Nhà nước, các văn kiện, báo cáo
của Tỉnh ủy Phú Thọ, Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân tỉnh, Sở Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh. Ngoài ra luận văn còn sử dụng tài
liệu của các công trình đã trình bày ở trên.
6. Đóng góp của luận văn
Trình bày một cách có hệ thống quá trình lãnh đạo kinh tế Nông
nghiệp từ năm 1997 đến năm 2010 của Đảng bộ Phú Thọ.
6
Nêu lên một số kinh nghiệm của Đảng bộ Phú Thọ trong lãnh đạo
kinh tế Nông nghiệp những năm 1997-2010.
Luận văn là nguồn tài liệu tham khảo cần thiết cho việc nghiên cứu
lịch sử Đảng bộ tỉnh Phú Thọ nói riêng và lịch sử Đảng nói chung trên
lĩnh vực lãnh đạo kinh tế Nông nghiệp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH PHÚ THỌ
ĐỐI VỚI KINH TẾ NÔNG NGHIỆP TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM
2005

Chương 2: ĐẢNG BỘ TỈNH PHÚ THỌ LÃNH ĐẠO XÂY
DỰNG, PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG NGHIỆP TỪ NĂM 2005
ĐẾN NĂM 2010
Chương 3: MỘT VÀI NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM CỦA
ĐẢNG BỘ TỈNH TRONG LÃNH ĐẠO KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
(1997 - 2010)
7
CHƯƠNG 1
SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ PHÚ THỌ ĐỐI VỚI KINH TẾ
NÔNG NGHIỆP TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2005
1.1. Đặc điểm, tình hình kinh tế Nông nghiệp Phú Thọ trước
năm 1997
1.1.1. Vài nét về tỉnh Phú Thọ và Đảng bộ Phú Thọ
* Về tỉnh Phú Thọ
Phú Thọ là một tỉnh thuộc vùng Trung du miền núi Bắc Bộ, nằm
tiếp giáp giữa vùng Đông Bắc, Đồng bằng sông Hồng và Tây Bắc, cửa
ngõ phía Tây của thủ đô Hà Nội, là cầu nối giữa các tỉnh Đồng bằng Bắc
Bộ với các tỉnh miền núi phía Tây Đông Bắc; phía Bắc giáp tỉnh Yên Bái
và Tuyên Quang, phía Nam giáp tỉnh Hòa Bình, phía Đông giáp tỉnh Vĩnh
Phúc và Hà Tây, phía Tây giáp tỉnh Sơn La.
Phú Thọ là một trong những cái nôi của loài người. Hàng nghìn
năm qua, từ khi vua Hùng dựng nước Văn Lang cho đến ngày nay, địa
bàn Phú Thọ đã trải qua biết bao thay đổi về địa danh và địa giới hành
chính.
Thời Hùng Vương, địa bàn Phú Thọ nằm trong bộ Văn Lang, trung
tâm của nước Văn Lang. Thời Thục An Dương Vương với Nhà nước Âu
Lạc, Phú Thọ nằm trong huyện Mê Linh.
Dưới thời Bắc thuộc (từ năm 111 trước Công nguyên đến thế kỷ X ),
Phú Thọ nằm trong địa bàn quận Mê Linh, Tân Xương, Phong Châu.
Đến thời kỳ phong kiến độc lập, đơn vị hành chính là các đạo (lộ,

trấn, xứ, tỉnh), dưới là các phủ, châu, huyện thay thế cho chế độ quận,
huyện thời Bắc thuộc, Phú Thọ thuộc lộ Tam Giang. Đến triều Nguyễn,
triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam, địa bàn phú Thọ nằm trong
tỉnh Hưng Hóa và sơn Tây.
8
Sau khi đánh chiếm Bắc Kỳ, hoàn thành việc xâm lược toàn bộ
Việt Nam, thực dân Pháp thi hành chính sách chia để trị, lập ra các tỉnh
mới địa bàn nhỏ hơn trước để dễ dàng và chủ động trong việc đàn áp các
phong trào kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta. Thực dân pháp lập
ra các quân khu, đạo quan binh, các tiểu quân khu. Một số huyện của tỉnh
Sơn Tây và Hưng Hóa nằm trong tiểu quân khu Yên Bái.
Ngày 5 tháng 5 năm 1903, Toàn quyền Đông Dương ký nghị định
chuyển tỉnh lỵ của tỉnh Hưng Hóa lên làng Phú Thọ thuộc tổng Yên Phú
huyện Sơn Vi và từ đây tỉnh Hưng Hóa đổi tên thành tỉnh Phú Thọ.
Từ năm 1903 đến cách mạng tháng Tám năm 1945, về cơ bản đơn
vị hành chính trong tỉnh không có những thay đổi lớn, chỉ có thay đổi tên
gọi một số phủ huyện và thêm một số làng xã mới.
Cách mạng tháng Tám thành công, về mặt hành chính, Nhà nước ta
thống nhất gọi các châu, phủ, huyện là huyện bỏ cấp tổng và tiến hành
hợp nhất các làng nhỏ thành xã lớn. Đợt liên xã đầu tiên, thực hiện năm
1946, tỉnh Phú Thọ từ 467 làng cũ hợp nhất thành 106 xã mới. Nhưng vì
xã mới quá lớn nên giữa năm 1947 lại điều chỉnh từ 106 xã lên 150 xã.
Thời kỳ cải cách ruộng đất và sửa sai (1955 - 1957), các xã lại có
sự điều chỉnh, chia tách, từ 150 xã lên 271 xã. Bước vào thời kỳ miền Bắc
tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, tháng 1-1968, theo Nghị quyết của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội, tỉnh Phú Thọ được hợp nhất với tỉnh Vĩnh Phúc
hợp thành tỉnh Vĩnh Phú, thành phố Việt Trì là tỉnh lỵ của tỉnh Vĩnh Phú.
Tháng 11 năm 1996 Quốc hội khóa IX ra Nghị quyết tách tỉnh Vĩnh Phú
thành hai tỉnh Phú Thọ và Vĩnh Phúc. Tỉnh Phú Thọ chính thức đi vào
hoạt động từ ngày 1 tháng 1 năm 1997.

Tỉnh Phú Thọ tái lập năm (1997) có diện tích đất tự nhiên là 3528
km
2
, trong đó diện tích đất nông nghiệp chiếm 27,6%, đất lâm nghiệp
chiếm 41%. Phú Thọ có 13 đơn vị hành chính, gồm 01 thành phố, 01 thị
9
xã và 11 huyện. Dân số năm 2007 là 1.350.565 người; mật độ dân số
trung bình 383 người/km
2
. Phú Thọ có trên 20 dân tộc, trong đó dân tộc
Kinh chiếm 85,7%, dân tộc mường chiếm 12,9%, các dân tộc khác (Dao,
Sán chay, Tày, H

mông, Thổ, Nùng, Thái, …) chiếm 1,4% [13, tr 27].
Là một tỉnh miền núi, nhưng địa hình Phú Thọ vừa có tính chất
miền núi, trung du, vừa có tính chất đồng bằng. Đoạn sông Hồng chảy
qua Phú Thọ (sông Thao) đã chia Phú Thọ thành hai miền có những đặc
điểm khác nhau.
Miền tả ngạn sông Hồng, gồm đất đai các huyện Đoan Hùng, một
phần đất Hạ Hòa, Thanh Ba, Phù Ninh, Lâm Thao và ngoại thành Việt
Trì, có nhiều đồi gò nối tiếp nhau san sát như bát úp, rất phù hợp cho phát
triển cây công nghiệp ngắn ngày và dài ngày, cây nguyên liệu giấy, cây
ăn quả, v.v…Nhờ nằm ven sông Hồng, sông Lô, sông Chảy, nên miền
này hàng năm được phù sa bồi đắp, đất tốt, có nhiều cánh đồng lớn, vựa
lúa của tỉnh.
Miền hữu ngạn sông Hồng, chiếm tới hai phần ba diện tích toàn
tỉnh, gồm đất đai các huyện Thanh Sơn, Yên Lập, Thanh Thủy, Tam
Nông, Tân Sơn và một phần huyện Hạ Hòa, chủ yếu là đồi núi.Tuy vậy
ven sông Hồng, sông Bứa, sông Đà, cũng có những cánh đồng, đất bãi
trồng lúa, hoa màu, cây công nghiệp, nhưng không lớn. Vì đây là miền

núi nên các căn cứ chống Pháp thời kỳ Cần Vương, các chiến khu thời kỳ
tiền khởi nghĩa, các kho tàng của Trung ương thời kỳ kháng chiến chống
Pháp, v.v. đều xây dựng ở vùng này.
Tính chất địa hình và cấu tạo địa chất trên đây đã tạo cho Phú Thọ
có khá nhiều khoáng sản phân bổ ở hầu khắp các huyện, nhưng tập trung
ở các huyện phía hữu ngạn sông Hồng. Các khoáng sản đã được phát hiện
ở Phú Thọ có sắt, than đá, vàng, mica, cao lanh,… hiện nay các mỏ như
10
zít, pirit, phenpat, cao lanh,…đang được khai thác phục vụ công nghiệp
trong tỉnh.
Phú Thọ có vị trí là điểm trung chuyển giữa các cửa khẩu Lào Cai,
Hà Giang, Lạng Sơn và cảng biển Hải Phòng, sân bay quốc tế Nội Bài
(Hà Nội)… trong tương lai, Phú Thọ sẽ là điểm kết nối hành lang kinh tế
quốc tế Hải Phòng - Hà Nội - Côn Minh, với nhiều điểm giao kết, trung
chuyển cả giao thông đường sắt và đường bộ trong hành trình xuyên Á.
Đây là những điều kiện rất thuận lợi để Phú Thọ phát triển cả nông
nghiệp, công nghiệp và đặc biệt là phát triển các ngành kinh tế dịch vụ,
tiến tới xây dựng, phát triển một nền kinh tế toàn diện.
Phú Thọ là tỉnh có truyền thống yêu nước và cách mạng; Đảng bộ
và nhân dân trong tỉnh có truyền thống đoàn kết, cần cù, sáng tạo trong
lao động sản xuất, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Những truyền thống
quý báu đó đã ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển kinh tế của tỉnh trong
mọi thời kỳ. Trong giai đoạn hiện nay, sự đồng thuận nhất trí của Đảng
bộ và nhân dân trong tỉnh là điều kiện quan trọng để Phú Thọ tiếp tục đẩy
mạnh phát triển kinh tế nông nghiệp, nhằm phục vụ thắng lợi sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn tỉnh, góp phần vào sự nghiệp
phát triển kinh tế của cả nước.
* Vài nét về Đảng bộ Phú Thọ
Phát huy truyền thống cách mạng của quê hương, cha ông, trước
khi Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời, với sự giúp đỡ của tổ chức Việt

Nam Quang Phục Hội, tổ chức Việt Nam Quốc dân Đảng phong trào cách
mạng theo khuynh hướng tư sản đã sớm xuất hiện và diễn ra rất mạnh mẽ.
Từ sau khi Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời (1930) đến năm 1939
là những năm xây dựng cơ sở đầu tiên của Đảng bộ với sự ra đời của các
chi bộ đầu tiên trên địa bàn tỉnh: chi bộ Cát Trù - Thạch Đê (Cẩm Khê),
Thái Ninh (Thanh Ba), Phú Hộ (Lâm Thao) và chi bộ Nhà máy giấy Việt
11
Trì. Với sự lãnh đạo của những chi bộ đó, trong thời kỳ mặt trận dân chủ
Đông Dương, phong trào đấu tranh công khai, hợp pháp đòi quyền dân
sinh, dân chủ đã diễn ra sôi nổi, rộng khắp từ thị xã đến nông thôn với
nhiều hình thức đấu tranh phong phú và đa dạng trên địa bàn tỉnh.
Mùa xuân năm 1940, Xứ ủy Bắc Kỳ quyết định thành lập Ban cán
sự Đảng tỉnh Phú Thọ gồm 5 đồng chí, do đồng chí Đào Duy Kỳ làm bí
thư. Ban cán sự tỉnh Phú Thọ ra đời là mốc son lịch sử quan trọng, đánh
dấu bước trưởng thành của phong trào đấu tranh cách mạng tỉnh Phú Thọ.
Từ đây, dưới sự lãnh đạo thống nhất của một cơ quan lãnh đạo cấp tỉnh, là
Ban cán sự tỉnh, các phong trào đấu tranh chính trị rộng lớn đã diễn ra có
tổ chức hơn. Qua những cuộc đấu tranh đó, Đảng bộ đã xây dựng được
đội quân chính trị rộng lớn ở khắp thành thị và nông thôn trong tỉnh.
Tháng 4 năm 1945, Hội nghị quân sự Bắc Kỳ do đồng chí Trường
Chinh, Tổng bí thư Đảng chủ trì, đã đề ra chủ trương: “Trong những vùng
có đủ điều kiện về địa hình, cơ sở quần chúng, lương thực, về so sánh
giữa ta và địch, chúng ta phải xây dựng những căn cứ địa kháng Nhật” [3,
tr 30]. Thực hiện chủ trương này của Đảng, Xứ ủy Bắc Kỳ quyết định
thành lập Ban cán sự Đảng liên tỉnh Phú Thọ - Yên Bái để lãnh đạo phong
trào cách mạng ở hai tỉnh. Mặt trận Việt Minh, các đoàn thể cứu quốc
được thành lập và không ngừng mở rộng. Khi thời cơ đến họ vùng lên đấu
tranh, cùng với nhân dân cả nước tiến hành cuộc cách mạng tháng Tám
năm 1945 thắng lợi, giành chính quyền về tay nhân dân.
Bước vào thời kỳ độc lập, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản

Đông Dương, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Phú Thọ đã đẩy mạnh công cuộc
xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng; đấu tranh chống quân
Tưởng và tay sai; không ngừng xây dựng lực lượng, vừa kháng chiến kiến
quốc, bước đầu chống địch càn quét. Trong cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp, nhân dân Phú Thọ đã giành được những thắng lợi to lớn như
12
trận Khoan Bộ trong chiến dịch Việt Bắc - Thu đông năm 1947, giành
thắng lợi to lớn trong chiến dịch Tổng phá tề năm 1950… Đặc biệt, Đảng
bộ và nhân dân Phú Thọ đã góp phần quan trọng cùng quân dân cả nước
giành thắng lợi trong chiến dịch Điện Biên Phủ (1954), kết thúc cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp.
Sau khi miền Bắc được giải phóng hoàn toàn, Đảng bộ Phú Thọ đã
lãnh đạo nhân dân tiến hành khôi phục kinh tế, văn hóa - xã hội theo
hướng xã hội chủ nghĩa. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước,
nhân dân phú Thọ đã vừa sản xuất, vừa chiến đấu, góp phần đánh bại hai
cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trên địa bàn tỉnh. Bên cạnh đó,
cùng với nhân dân miền Bắc, Phú Thọ đã hoàn thành tốt nhiệm vụ chi
viện cho tiền tuyến lớn miền Nam. Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội,
đầu năm 1968, hai tỉnh Phú Thọ và Vĩnh Phúc được hợp nhất lấy tên là
tỉnh Vĩnh Phú. Cùng với quá trình hợp nhất tỉnh, hai Đảng bộ cũng được
tiến hành hợp nhất lấy tên là Đảng bộ Vĩnh Phú.
Sau khi đất nước được hoàn toàn giải phóng, Đảng bộ và nhân dân
hai tỉnh Phú Thọ và Vĩnh Phúc trước đây với nỗ lực xây dựng tỉnh Vĩnh
Phú đã cùng nhân dân cả nước đạt được những thành tựu to lớn trong
công cuộc khôi phục phát triển kinh tế. Với tinh thần chỉ đạo của Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng bộ tỉnh đã lãnh đạo nhân dân bước
đầu thực hiện thành công công cuộc đổi mới trên địa bàn tỉnh.
Bước vào thời kỳ đất nước đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, ngày 1-1-1997, tỉnh
Vĩnh Phú được tách làm hai tỉnh Phú Thọ và Vĩnh Phúc. Theo đó, sau

hơn 29 năm sáp nhập, Đảng bộ Phú Thọ lại được tái lập.
Thực tế quá trình lãnh đạo đấu tranh cách mạng và xây dựng, phát
triển kinh tế - xã hội trong những thập kỷ qua của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ
là sự vận dụng một cách sáng tạo đường lối, chủ trương, chiến lược và
13
sách lược của Đảng vào thực tiễn địa phương qua từng thời kỳ lịch sử.
Quá trình hình thành và phát triển của Đảng bộ đã ghi nhận sự cống hiến
và hy sinh của nhiều cán bộ đảng viên như: Bùi Đình Cư, Đinh Văn Mẫu,
Nguyễn Hoài Xuân, Chu Minh Tua, Trần Minh Sung,… Đồng thời qua
quá trình đó đã khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, xứng đáng
với lòng tin cậy của nhân dân các dân tộc trong tỉnh.
Bước vào thế kỷ XXI, phát huy truyền thống yêu nước và cách
mạng của quê hương, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam,
Đảng bộ tỉnh Phú Thọ đã lãnh đạo nhân dân bước đầu thu được nhiều
thành tựu to lớn trong công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế, từng bước
thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.1.2. Đặc điểm, tình hình kinh tế Nông nghiệp Phú Thọ trước
năm 1997
Sau 10 năm cả nước cùng quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Việt Nam
đã đạt được những thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực của đời sống
kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, khủng hoảng kinh tế xã hội vẫn chưa được
khắc phục, trong khi đó, các thế lực đế quốc lại tăng cường bao vây cấm
vận, thực hiện âm mưu “Diễn biến hòa bình” làm cho sự nghiệp cách
mạng của nhân dân ta càng thêm khó khăn.
Trong bối cảnh đó, từ ngày 15 đến ngày 18-12-1986, tại Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng chính thức khởi xướng công cuộc
đổi mới toàn diện đất nước, trọng tâm là đổi mới cơ chế quản lý kinh tế:
chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế hạch toán kinh
doanh xã hội chủ nghĩa với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế.
Đồng thời, Đại hội đã nêu ra phương hướng, mục tiêu chủ yếu để phát

triển kinh tế xã hội trong 5 năm (1986-1990). Sau 5 năm thực hiện đường
lối đổi mới trong lĩnh vực phát triển kinh tế, đất nước ta đã thu được
những thắng lợi bước đầu hết sức quan trọng, góp phần từng bước đưa
14
nước ta thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng; ổn định được thị
trường trong nước, từng bước hướng tới xuất khẩu. Nhằm bổ sung, hoàn
thiện và phát triển đường lối đổi mới kinh tế được vạch ra từ Đại hội VI,
trong hoàn cảnh mới Đảng ta đã thông qua “Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” và “Chiến lược ổn định
và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000 ” trong Đại hội lần thứ VII (6-
1991) của Đảng.
Thực hiện đường lối đổi mới đất nước, quán triệt quan điểm, chủ
trương phát triển nền kinh tế thị trường của Đại hội VI, VII, dưới sự lãnh
đạo của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ, nền kinh tế trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
trước khi tái lập đã có những bước chuyển biến rất mạnh mẽ, bước đầu
thu được những kết quả quan trọng trên tất cả các ngành kinh tế, trong đó
có ngành kinh tế nông nghiệp.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, tỷ trọng công nghiệp và
dịch vụ tăng lên, nông lâm nghiệp giảm xuống. Cơ cấu GDP giữa nông
nghiệp - công nghiệp - dịch vụ năm 1990 là 45,91% - 27,6% - 26,5% đến
năm 1995 là 36,72% - 31,67% - 32,19%.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp của tỉnh có sự chuyển dịch tích cực
theo hướng tăng tỷ trọng chăn nuôi, giảm tỷ trọng cây trồng. Do nông
nghiệp phát triển nên đã căn bản giải quyết được nhu cầu lương thực của
tỉnh, không còn tình trạng thiếu đói giáp hạt. Tổng sản lượng lương thực
quy ra thóc của tỉnh năm 1995 đạt 57,8 vạn tấn. Bình quân lương thực
đạt 255 kg/người/năm.
Cây công nghiệp dài ngày như chè, sơn,… từng bước được mở
rộng cả về diện tích và sản lượng. trong năm 1995, diện tích chè trồng
mới được 528 ha, nâng tổng số diện tích chè trên địa bàn là 7.521 ha,

trong đó diện tích chè cho sản phẩm là 6.156 ha. Diện tích cây sơn toàn
tỉnh là 485 ha Sông thao và Đoan Hùng,… Các loại cây ăn quả chủ lực
15
như chuối, cây có múi, hồng đã phát triển tập trung chủ yếu ở Đoan
Hùng, Thanh Hòa, Phong Châu và Việt Trì. Phong trào cải tạo vườn tạp
thành các vườn cây ăn quả có giá trị kinh tế cao được cấp ủy tiếp tục chỉ
đạo đối với các địa phương trong tỉnh. Chương trình vườn đồi, nông trại,
trang trại được mở rộng với quy mô ngày càng lớn.
Trong thời kỳ này chăn nuôi gia súc, gia cầm ở các địa phương
trong tỉnh được đẩy mạnh. Năm 1991, tỉnh có 10,5 vạn con trâu, trong đó
trâu cày kéo là 8,6 vạn con, 14,4 vạn con bò, 44,7 vạn con lợn; 40 vạn
con gia cầm các loại và 4.812 ha mặt nước nuôi trồng thủy sản. Việc tận
dụng diện tích mặt nước vào nuôi trồng thủy sản đã mang lại hiệu quả
kinh tế cao. Nhiều diện tích ao hồ, đầm sau khi đấu thầu, sản lượng cá đều
tăng 40-50% so với trước đây. Trong 3 năm 1993-1995, chăn nuôi phát
triển nhanh cả về số lượng và chất lượng. Đàn lợn, đàn trâu và đàn gia
cầm đều tăng khá [12, tr70]. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng năm 1995 đạt
49.649 tấn, riêng thịt lợn hơi chiếm 3,6 vạn tấn. Nuôi thả cá phát triển
mạnh ở tất cả các diện tích mặt nước sẵn có và một phần diện tích mặt
nước bị ngập úng. Do đó sản lượng cá thịt tăng gấp 2 lần so với trước
đây, đáp ứng một phần nhu cầu tiêu dùng của nhân dân trong tỉnh.
Thực hiện chương trình phủ xanh đất chống đồi núi trọc, mặc dù số
vốn đầu tư chưa nhiều, nhưng nhân dân ở các địa phương trong tỉnh đã
tích cực trồng chăm sóc và bảo vệ rừng. Trong 5 năm 1991-1995, toàn
tỉnh trồng được trên 5 nghìn hécta rừng tập trung và trên 5 triệu cây phân
tán. Năm 1996, trồng rừng được 3.785 ha rừng tập trung và 2665 ha rừng
phân tán. Việc giao đất, giao rừng đến từng hộ giúp cho việc khoanh vùng
nuôi dưỡng rừng tự nhiên được chăm sóc và bảo vệ tốt hơn, góp phần
từng bước cải tạo môi trường sinh thái. Trong 3 năm 1993 - 1995, sản
phẩm lâm nghiệp khai thác gồm: 38,7 vạn m

3
gỗ các loại, 4,59 vạn tấn
củi, 2.807 tấn nguyên liệu giấy và hàng ngàn tấn măng tươi, mộc nhĩ,
16
nấm…Phú Thọ bước đầu đã có nông sản xuất khẩu như chè: hàng năm
xuất khẩu từ 2-3 ngàn tấn chè khô.
Những tồn tại hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong xây dựng và phát triển
kinh tế, các ngành kinh tế nói chung và ngành kinh tế nông nghiệp nói
riêng của Phú Thọ trước khi được tái lập (năm 1997) còn có nhiều tồn tại,
hạn chế.
Đến trước năm 1997, về cơ bản kinh tế Phú Thọ vẫn chủ yếu là sản
xuất Nông nghiệp, thu nhập thấp, đời sống nhân dân nông thôn còn
nghèo. Kinh tế tuy có tăng trưởng nhưng tốc độ chưa đạt mức bình quân
chung của cả nước. Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội tuy phát triển khá
nhưng chất lượng kém, xuống cấp nhanh, tích lũy từ nội bộ nền kinh tế
còn rất hạn hẹp. Tỉnh đang trong hoàn cảnh được tái lập, nhu cầu đầu tư
xây dựng rất lớn.
Việc áp dụng các tiến bộ khoa học vào sản suất nông nghiệp còn
manh mún, nhỏ lẻ, tình trạng độc canh vẫn còn diễn ra triên nhiều địa bàn
của địa phương. Sản xuất lương thực và chăn nuôi vẫn chưa đáp ứng đủ
nhu cầu của nhân dân. Việc phủ xanh đất trống đồi núi trọc chưa được
đầu tư thỏa đáng nên chưa đem lại hiệu quả cao…
Nhìn chung những hạn chế nêu trên là những thách thức không nhỏ
được đặt ra buộc Đảng bộ và nhân dân Phú Thọ phải có những chủ
trương, quyết sách đúng đắn để đưa kinh tế nông nghiệp của tỉnh phát
triển xứng với tiềm năng vốn có. Là một tỉnh có nhiều thuận lợi về mặt
địa lý, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm của khu vực phía Bắc là những
điều kiện quan trọng để Phú Thọ phát triển kinh tế nền nông nghiệp. Với
đường lối, chủ trương và những biện pháp phát triển kinh tế đúng đắn của

Đảng bộ sau khi tái lập, kinh tế Phú Thọ đã căn bản khắc phục được
những hạn chế, yếu kém nêu trên, nền kinh tế, trong đó có kinh tế nông
17
nghiệp từng bước đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần đưa
Phú Thọ ngày càng phát triển.
1.2. Sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ đối với kinh tế
Nông nghiệp theo đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp nông thôn của Đảng (1997 -2005)
1.2.1. Chủ trương của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Nông nghiệp nông thôn
Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nước ta đã thu
được nhiều thành tựu quan trọng, vượt qua nhiều khó khăn thử thách, giữ
vững sự ổn định về chính trị, đất nước ta đã cơ bản ra khỏi cuộc khủng
hoảng kinh tế - xã hội. Tuy nhiên cho đến nay về cơ bản Việt Nam vẫn là
nước nông nghiệp, nền kinh tế nông nghiệp vẫn giữ vai trò quan trọng
trong đời sống kinh tế đất nước.
Tháng 6 năm 1996, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII quyết
định đưa nước ta bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Đại hội xác định trong những năm còn lại của thập kỷ 90 phải đặc
biệt coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn.
Đại hội đã đề ra chương trình phát triển nông nghiệp với mục tiêu:
Phát triển một nền nông nghiệp toàn diện hướng vào đảm bảo
lương thực quốc gia trong mọi tình huống tăng nhanh nguồn thực phẩm
và hoa quả, cải thiện chất lượng bữa ăn, giảm suy dinh dưỡng.
Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn có hiệu quả.
Trên cơ sở đảm bảo vững chắc nhu cầu lương thực, chủ yếu là lúa, mở
rộng diện tích trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, tăng nhanh đàn gia
súc, gia cầm, gắn nông nghiệp với công nghiệp chế biến và xuất khẩu, mở
rộng thị trường nông thôn, tăng thu nhập của nông dân. Đẩy mạnh việc
xây dựng, nâng cấp kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội [24, tr 174].

18
Với chủ trương đó, Đại hội đã đưa ra nhiệm vụ và giải pháp phát
triển Nông nghiệp và kinh tế nông thôn như sau:
Tăng nhanh sản lượng lương thực hàng hóa vùng đồng bằng có
năng suất cao và hiệu quả cao. Bố trí lại mùa vụ để né tránh thiên tai,
chuyển sang các vụ có năng suất cao, phẩm chất tốt, thích ứng với từng
vùng sinh thái, đặc biệt là giống lúa lai, ngô lai. Quy hoạch và phát triển
vùng sản xuất nông nghiệp có giá trị cao. Dự kiến đến năm 2000, sản
lượng lương thực đạt khoảng 30 triệu tấn, bình quân đầu người đạt 360-
370 kg.
Phát triển mạnh các loại cây công nghiệp, cây ăn quả, rau đậu có
hiệu quả kinh tế cao, hình thành những vùng sản xuất tập trung gắn với
công nghiệp chế biến tại chỗ.
Hình thành và phát triển các vùng chăn nuôi tập trung với công
nghiệp chế biến thực phẩm. Khuyến khích và nhân rộng các hộ chăn nuôi
giỏi, các nông trại chăn nuôi. Đổi mới hệ thống giống có năng suất cao,
chất lượng tốt. Thực hiện nạc hóa đàn lợn, cải tạo đàn bò, mở rộng hệ
thống dịch vụ cho chăn nuôi. Phấn đấu đến năm 2000 đưa tỷ trọng chăn
nuôi trong nông nghiệp lên khoảng 30 - 40 %.
Chuyển một số vùng trũng thường bị úng lụt, năng suất thấp sang
nuôi trồng thủy sản. Cải tạo con giống, từng bước áp dụng cách thức
nuôi công nghiệp.
Khôi phục, sửa chữa, nâng cấp và mở rộng hệ thống thủy lợi.
Đảm bảo hệ thống dịch vụ cho nông nghiệp, phát triển hệ thống
khuyến nông, chuyển giao kỹ thuật. Thực hiện chính sách bảo hiểm và
khuyến khích về giá đối với nông sản, đặc biệt là cây công nghiệp xuất
khẩu [24, tr 175].
Ngày 17/10/1998, Hội nghị Trung ương 6 (lần 1), khóa VIII đã họp
bàn về “Nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 1999 và vấn đề phát triển nông
19

nghiệp, nông thôn”. Hội nghị khẳng định: “Tập trung sức cao hơn nữa
cho nhiệm vụ phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm cơ sở vững chắc cho sự ổn định và
phát triển kinh tế - xã hội trong mọi tình huống, ưu tiên phát triển công
nghiệp phục vụ nông nghiệp, điều chỉnh cơ cấu, đổi mới cơ chế các ngành
công nghiệp nhằm tháo gỡ khó khăn, tăng nhanh khả năng cạnh tranh của
sản phẩm” [25, tr 194].
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (lần 1), khóa VIII của Đảng có
nhiều nội dung mới, trong đó quan trọng nhất là khẳng định vai trò, vị trí
của sản xuất nông nghiệp, nông thôn và nông dân trong giai đoạn đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Lần đầu tiên vấn đề kinh tế trang trại
được thừa nhận trong Nghị quyết của Đảng.
Đặc biệt , tháng 11 năm 1998 Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 06/NQ
- TW về “Một số vấn đề phát triển nông nghiệp và nông thôn” với quan
điểm: Coi trọng thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp đưa
nông nghiệp lên sản xuất lớn, củng cố liên minh giai cấp nông dân với
giai cấp công nhân và trí thức. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn
kinh tế nông nghiệp với công nghiệp chế biến, gắn sản xuất với thị
trường.
Nghị quyết cũng nêu rõ: Kinh tế hợp tác xã dần trở thành nền tảng
hướng dẫn kinh tế tư nhân phát triển. tiếp tục phát triển nhiều hình thức
kinh tế hợp tác, các loại hình hợp tác xã dịch vụ cho kinh tế hộ nông dân,
chú trọng liên kết kinh tế nông nghiệp với các thành phần kinh tế khác,
khuyến khích những người có khả năng đầu tư cho phát triển sản xuất
kinh doanh nông nghiệp.
Mục tiêu Nghị quyết đưa ra: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa, tăng nhanh khối lượng
sản phẩm hàng hóa, nhất là hàng nông phẩm qua chế biến tăng kim ngạch
20
xuất khẩu, giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp tăng tỉ trọng công nghiệp,

dịch vụ trong kinh tế nông thôn [26].
Những quan điểm đúng đắn của Đảng về phát triển Nông nghiệp,
nông thôn nêu trên đã tạo điều kiện cho các ngành các địa phương, các
chủ trang trại yên tâm đầu tư phát triển sản xuất hàng hóa, làm giàu chính
đáng.
Tiếp tục phát triển đường lối các Đại hội Đảng toàn quốc và Hội
nghị Trung ương trước đây vào điều kiện những năm đầu thế kỷ XXI, Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, khi nêu định hướng phát triển
nông nghiệp, nông thôn đã đưa ra những nội dung cơ bản:
Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
theo hướng hình thành nền Nông nghiệp hàng hóa lớn phù hợp với nhu
cầu thị trường, phù hợp với điều kiện sinh thái từng vùng; chuyển dịch cơ
cấu ngành, nghề, lao đông; tạo việc làm thu hút nhiều lao động ở nông
thôn.
Xây dựng hợp lý cơ cấu sản xuất Nông nghiệp.
Tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ trong nông nghiệp,
nhất là công nghệ sinh học kết hợp với công nghệ thông tin.
Phát triển mạnh nông nghiệp và dịch vụ ở nông thôn.
Cụ thể hóa đường lối Đại hội IX, Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp
hành Trung ương khóa IX ban hành nghị quyết “về đẩy nhanh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 - 2010”.
Nghị quyết đã nêu lên một số nội dung tổng quát, quan điểm và mục tiêu
phát triển của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn:
Nghị quyết đưa ra định nghĩa hoàn chỉnh về công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp và công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn, phản
ánh trên cả ba mặt: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội. Trong đó phát triển lực lượng sản xuất được nhấn
21
mạnh trước hết với các giải pháp thực hiện cơ giới hóa, điện khí hóa, thủy
lợi hóa, ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ, trước hết là công

nghệ sinh học, đưa thiết bị, kỹ thuât và công nghệ hiện đại vào sản xuất,
tạo nên quá trình chuyển địch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản
xuất hàng hóa theo hướng quy mô lớn và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
thôn theo hướng tăng nhanh giá trị sản phẩm và lao động các ngành công
nghiệp và dịch vụ. Nghị quyết đã làm rõ hơn những quan điểm về công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trong giai đoạn mới:
Một là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa Nông nghiệp, nông thôn là
một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Phát triển công nghiệp và dịch vụ phải gắn bó chặt
chẽ, hỗ trợ đắc lực và phục vụ có hiệu quả cho công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn.
Hai là, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, chú trọng phát huy
nguồn lực con người, ứng dụng rộng rãi thành tựu khoa học, công nghệ,
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát huy lợi thế của từng
vùng gắn với thị trường để sản xuất hàng hóa quy mô lớn với chất lượng
và hiệu quả cao, bảo vệ môi trường, phòng chống, hạn chế, giảm nhẹ
thiên tai, phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững.
Ba là, dựa vào nội lực là chính đồng thời tranh thủ tối đa các nguồn
lực bên ngoài, phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế, trong đó
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng
trở thành nền tảng vững chắc, phát triển mạnh mẽ kinh tế hộ sản xuất
hàng hóa, các loại hình doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và
vừa ở nông thôn.
Bốn là, kết hợp chặt chẽ các vấn đề kinh tế và xã hội trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn nhằm giải
quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, ổn định xã hội và phát triển kinh tế,
22
nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của người dân ở nông thôn, nhất là
đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, cùng giữ gìn, phát huy
truyền thống văn hóa và thuần phong mỹ tục.

Năm là, kết hợp chặt chẽ công nghiệp hóa, hiện đại hóa Nông
nghiệp, nông thôn với xây dựng tiềm lực và thế trận quốc phòng toàn dân,
thế trận an ninh nhân dân, thể hiện trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch,
dự án phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, của các ngành, các địa
phương…
Mục tiêu tổng quát lâu dài của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn là “Xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa,
hiệu quả và bền vững, có năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh cao,….
Xây dựng nông thôn ngày càng giàu đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh,
có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất phù hợp, kết cấu hạ tầng kinh
tế - xã hội phát triển ngày càng hiện đại” [28, tr. 96].
Từ nội dung tổng quát, quan điểm và mục tiêu phát triển đó, Nghị
quyết đưa ra những chủ trương và giải pháp lớn. Trong đó, chủ trương
quan trọng hàng đầu là ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế. Công tác quy hoạch được nhấn mạnh, nhất là quy hoạch
những vùng sản xuất hàng hóa tập trung, quy hoạch kết cấu hạ tầng kinh
tế - xã hội, quy hoạch phát triển khu dân cư, xây dựng làng xã, thị trấn,
gắn kết chặt chẽ với an ninh - quốc phòng, phòng chống, hạn chê, giảm
nhẹ thiên tai, bảo vệ môi trường, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Đẩy
mạnh nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao khoa học, công nghệ cho sản
xuất được xác định là khâu đột phá quan trọng nhất để thúc đẩy phát triển
nông nghiệp và kinh tế nông thôn…
Hội nghị Trung ương 5 khóa IX còn ban hành Nghị quyết “Về tiếp
tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể”. Nghị quyết
thống nhất nhận thức: “phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp, nông
23
thôn phải trên cơ sở đảm bảo quyền tự chủ của kinh tế hộ, trang trại, hỗ
trợ đắc lực cho kinh tế hộ, kinh tế trang trại phát triển” [28, tr. 30-31].
Đây là đổi mới căn bản trong nhận thức của Đảng về kinh tế tập thể trong
nông nghiệp, nông thôn.

Quá trình thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn theo tinh thần Nghị quyết Đại hội IX và Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 5 khóa IX đạt nhiều kết quả quan trọng. Đến đầu
năm 2004, Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương khóa IX bổ
sung một số giải pháp cụ thể: “Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, nông thôn theo hướng tạo ra các vùng sản xuất hàng hóa tập trung
chuyên canh, thâm canh, có năng suất, chất lượng cao, áp dụng tiến bộ và
công nghệ mới, nhất là công nghệ sinh học, gắn với chế biến, tiêu thụ;
phát triển mạnh các doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ nhỏ và vừa”
[29, tr. 90].
Đường lối Công nghiệp hóa, hiện đại hóa Nông nghiệp, nông thôn
bắt đầu từ nghị quyết Trung ương 5 khóa VII, trải qua các Đại hội VIII,
IX, đến Nghị quyết Trung ương 9 khóa IX là một quá trình lâu dài, liên
tục và ngày càng hoàn thiện. Quá trình này thể hiện nhất quán quan điểm,
mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; đưa hệ
thống giải pháp cơ bản theo hướng ngày càng sát với thực tiễn và thâm
nhập ngày càng sâu hơn vào thực tiễn nông nghiệp, nông thôn. Những
quan điểm chỉ đạo trên của Đảng và Nhà nước không chỉ đảm bảo cho
việc phát triển hài hòa giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa thành thị và
nông thôn, giữa kinh tế với an ninh xã hội, an ninh, quốc phòng, môi
trường, tăng cường khối liên minh công nhân - nông dân và đội ngũ trí
thức xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, bảo đảm cho nước ta phát triển
nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
24
1.2.2. Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh
tế Nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp nông thôn.
1.2.2.1. Giai đoạn 1997 - 2000
Sau 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước ta đã thu được
nhiều thành tựu to lớn trên tất cả các mặt của đời sống xã hội, trong đó

nổi bật là những kết quả đã đạt được trong lĩnh vực kinh tế. Tình trạng
đình đốn trong sản xuất, rối ren trong lưu thông đã được khắc phục. Kinh
tế tăng trưởng nhanh. Nhiều công trình thuộc kết cấu hạ tầng và cơ sở
công nghiệp trọng yếu được xây dựng, tạo thêm sức mạnh vật chất và thế
cân đối mới cho bước phát triển tiếp theo. Nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng một cách đồng
bộ và có hiệu quả hơn. Về cơ bản đất nước đã ra khỏi cuộc khủng hoảng
kinh tế - xã hội nghiêm trọng kéo dài hơn 15 năm. Những kết quả đó đã
tạo tiền đề cần thiết để nước ta chuyển sang thời kỳ phát triển mới - thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thực hiện Nghị quyết kỳ họp Quốc hội thứ 10 (khóa IX) về việc
phân chia địa giới hành chính của một số tỉnh, tỉnh Phú Thọ được tái lập
và đi vào hoạt động từ ngày 1-1-1997 sau gần 29 năm hợp nhất. Nằm
trong bối cảnh chung của đất nước, sau khi được tái lập, Phú Thọ có
những điều kiện thuận lợi căn bản để phát triển kinh tế: sớm có cơ chế
khoán hộ, phát triển kinh tế đồi rừng; là một tỉnh trung du, miền núi có
tiềm năng về đất đai sông ngòi thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp;
nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa bước đầu được phát triển, giao thông
nông thôn phát triển khá; nhân dân bước đầu có kinh nghiệm về lãnh đạo,
quản lý và sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường…
25

×