Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

đặc điểm công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản 1986 1996

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (801.25 KB, 90 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ
---------------------

VŨ THỊ SAO

ĐẶC ĐIỂM CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI
DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN (1986 – 1996)

TÓM TẮT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS VŨ QUANG VINH

HÀ NỘI - 2015


LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình hoàn thành đề tài khóa luận tốt nghiệp “Đặc điểm công
cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản (1986-1996)” em xin gửi lời
cảm ơn đến các thầy cô trong khoa Lịch Sử Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
đã tạo điều kiện thuận lợi để giúp em hoàn thành khóa luận.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn đến Thư viện của Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, Thư viện Quốc gia, Thư viện của Trường Đại học Sư phạm Hà
Nội 2 đã giúp em rất nhiều trong quá trình tìm tài liệu của mình.
Đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến Phó giáo sư, Tiến sĩ
Vũ Quang Vinh người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em rất nhiều trong quá
trình làm và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp của mình một cách xuất sắc nhất.
Em xin chân thành cảm ơn.


Hà Nội, tháng 5 năm 2015
Sinh viên thực hiện
Vũ Thị Sao


LỜI CAM ĐOAN

Đề tài khóa luận tốt nghiệp “Đặc điểm công cuộc đổi mới dưới sự lãnh
đạo của Đảng (1986 - 1996) là bài nghiên cứu của em. Mọi thông tin và tài liệu
sử dụng trong bài nghiên cứu này đều là do em tự tìm hiểu và nghiên cứu.
Em xin cam đoan đây là bài viết của mình, nếu có sự sao chép nào thì em
xin tự chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 5 năm 2015
Sinh viên thực hiện
Vũ Thị Sao


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU………………………………………………………………………..1
1. Lý do chọn đề tài…………………………………………………………..1
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài…………………………………………………2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài…………………………….3
4. Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu……………………….4
5. Đóng góp của đề tài………………………………………………………4
6. Bố cục đề tài………………………………………………………………5
NỘI DUNG
Chương 1: ĐẢNG LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI
(1986-1996)……………………………………………………………………..6
1.1. Bối cảnh lịch sử………………………………………………………..6
1.2. Đảng cộng sản Việt Nam tìm tòi đường lối, chính sách đổi mới……10

1.3. Đảng lãnh đạo thực hiện đường lối đổi mới (1986-1996)…………...18
1.3.1. Đảng lãnh đạo thực hiện đường lối đổi mới giai đoạn 1986 1991……………………………………………………………………………..18
1.3.2. Đảng lãnh đạo thực hiện đường lối đổi mới giai đoạn 1991 1996…………………………………………………………………………….24
1.3.3. Thành tựu, yếu kém và khuyết điểm…………………………….33
Chương 2: ĐẶC ĐIỂM CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO
CỦA ĐẢNG (1986-1996)……………………………………………………47
2.1. Đường lối đổi mới là sự kết tụ sáng kiến của quần chúng, các tổ chức
cơ sở Đảng và sự nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn của Trung ương
Đảng…………………………………………………………………………..47


2.1.1. Đổi mới mang tính tự giác, sáng tạo của các tổ chức cơ sở Đảng và quần
chúng……………………………………………………………………………47
2.1.2. Từ nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, Đảng đề ra đường lối Đổi
mới……………………………………………………………………………50
2.2. Đổi mới đã đột phá vào khâu trọng tâm, then chốt là phân phối, lưu
thông và nông nghiệp……………………………………………………….58
2.3. Đổi mới giữ vững ổn định chính trị và được tiến hành theo những
bước đi phù hợp……………………………………………………………..65
2.3.1. Đổi mới vẫn giữ vững ổn định chính trị……………………………65
2.3.2. Đổi mới từ từng phần đến đổi mới toàn diện với những bước đi phù
hợp…………………………………………………………………………….69
2.3.3. Đổi mới ở Việt Nam được giữ vững và phát triển trong khi một số nước
Xã hội chủ nghĩa cải tổ bị thất bại……………………………………………73
2.4. Mở rộng hợp tác quốc tế trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, phá bỏ bao
vây, cấm vận………………………………………………………………….75
2.4.1. Đổi mới chính sách đối ngoại, phá thế bị bao vây cấm vận……….75
2.4.2. Mở rộng hợp tác quốc tế trên cơ sở phát huy nội lực……………..76
KẾT LUẬN……………………………………………………………………79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………..



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

TBCN

Tư bản chủ nghĩa

CNTB

Chủ nghĩa tư bản

CNĐQ

Chủ nghĩa đế quốc

NQ/TƯ

Nghị quyết Trung ương

GDP


Bình quân đầu người

USD

Đô la Mỹ

EU

Khối liên minh Châu Âu

HTX

Hợp tác xã

BCH

Ban chấp hành

CNH

Công nghiệp hóa

CNH – HĐH

Công nghiệp hóa - hiện đại hóa

CNH - XHCN

Công nghiệp hóa - xã hội chủ nghĩa



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng ta khởi
xướng và lãnh đạo nhân dân thực hiện từ năm 1986 đến nay, trong đó khoảng
thời gian 10 năm từ 1986 đến 1996 có vị trí rất quan trọng. Đó là bước khởi đầu
của một quá trình biến đổi sâu sắc về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, hệ
thống chính trị, quan hệ ngoại giao và đời sống nhân dân. 10 năm tuy chưa dài,
nhưng thực tiễn còn đang tiếp diễn, có nhiều vấn đề đặt ra đòi hỏi phải được
nghiên cứu, tổng kết, rút ra đặc điểm, làm rõ con đường phát triển tiếp theo của
cách mạng nước ta.
Đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ cách mạng rất
phức tạp và mới mẻ, nhưng Đảng và nhân dân ta đã tìm tòi, dũng cảm tiến hành
và giành được nhiều thắng lợi quan trọng. Những thành công do đổi mới đem lại
đã đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, bước vào thời kỳ CNH
- HĐH. Khác với các nước Đông Âu và Liên Xô cải tổ thất bại dẫn đến sụp đổ
chế độ XHCN, Việt Nam một đất nước vừa ra khỏi chiến tranh ác liệt, đang
trong tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội đã từng bước được tiến hành đổi mới
thành công. Việt Nam đổi mới, vừa tiếp tục phát triển theo con đường XHCN,
vừa hội nhập khu vực và thế giới.
Đảng ta đề ra đường lối đổi mới đúng đắn, phù hợp với thực tiễn Việt
Nam. Đường lối đó không dập khuôn máy móc kinh nghiệm nước ngoài, không
đề ra mục tiêu quá cao mà chú ý tới đời sống, xã hội, đất nước, nguyện vọng
thiết thực, chính đáng của nhân dân.
Đổi mới ở Việt Nam mang những đặc điểm khác cải cách, cải tổ của các
nước XHCN nên đã đưa lại những thành công quan trọng bước đầu trong đời
sống chính trị, xã hội.

1



Đề ra đường lối và phương pháp cách mạng phù hợp với thực tiễn từng
nước là yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng do Đảng Cộng sản lãnh
đạo, đó là đòi hỏi chung cho tất cả các Đảng Cộng sản và phong trào công nhân
quốc tế. Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, quá trình lãnh đạo thực hiện đường
lối đổi mới đòi hỏi phải luôn bám sát thực tiễn đất nước, luôn bổ sung, phát triển
đường lối, tìm ra những bước đi, giải pháp sát thực cho công cuộc xây dựng
XHCN ở Việt Nam. Công cuộc đổi mới đã và đang đòi hỏi cần được nghiên cứu
và luận giải một cách khoa học và tổng kết rút ra những đặc điểm, những bài học
kinh nghiệm cho giai đoạn cách mạng tiếp theo. Vì vậy, em chọn đề tài: “Đặc
điểm công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng (1986 - 1996)” làm đề tài
khóa luận tốt nghiệp cử nhân lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Công cuộc đổi mới ở Việt Nam từ 1986 đến nay đã được nhiều cơ quan,
nhiều tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước nghiên cứu trên nhiều phương diện.
Đảng ta bước đầu đã tổng kết rút ra các bài học ở các Đại hội, các Hội nghị
Trung ương như: Hội nghị BCH Trung ương Đảng lần thứ 6, khóa VI (3/1989),
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6/1991), Hội nghị giữa nhiệm
kỳ, khóa VII của Đảng (1/1994) và Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của
Đảng (6/1996).
Các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước có các tác phẩm đó là:
- Tác phẩm “Đổi mới tiến lên” của đồng chí Nguyễn Văn Linh gồm 2 tập
do Nxb Sự thật xuất bản năm 1988, 1999.
- Tác phẩm “Đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới vì chủ nghĩa xã hội” của đồng
chí Đỗ Mười gồm 5 tập do Nxb Sự thật xuất bản năm 1992,1993 và Nxb Chính
trị quốc gia xuất bản năm 1994, 1995 và 1996.

2



- Tác phẩm “Quá trình hình thành con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam” của đồng chí Đào Duy Tùng do Nxb Chính trị quốc gia xuất bản năm
1994.
Các đề tài khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ do các nhà khoa học đầu ngành
chủ nhiệm tập trung nghiên cứu về thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam như đề tài: “Con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam kinh nghiệm
và lý luận” do PGS,TS Nguyễn Ngọc Long (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh) thực hiện năm 1991, đã nghiệm thu tháng 5/1992.
Tác phẩm “Vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam trong thời kỳ
đổi mới đất nước” của PGS,TS Nguyễn Trọng Phúc, Nxb Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, 1998.
Các tác phẩm, các bài viết trên đề cập nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau
về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và công cuộc đổi mới ở Việt Nam, nhưng
chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về đặc điểm của công cuộc đổi mới ở
Việt Nam thời kỳ 1986 - 1996. Đây là thời kỳ có nhiều biến đổi sâu sắc trong đời
sống chính trị xã hội ở nước ta. Dưới góc độ lịch sử, vấn đề mà đề tài nghiên cứu
là phải nêu ra và phân tích các đặc điểm của công cuộc đổi mới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài được thực hiện nhằm tổng kết những đặc điểm của công cuộc
đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, tìm tòi đường
lối đổi mới, quá trình Đảng lãnh đạo, tổ chức thực hiện đường lối đó.
Phân tích khái quát một số đặc điểm công cuộc đổi mới.
Từ những đặc điểm công cuộc đổi mới, gợi mở một số vấn đề cần thiết
trong chỉ đạo CNH - HĐH của Đảng.
3



Góp phần nghiên cứu tổng kết công cuộc đổi mới của Đảng và nhân
dân ta góp phần làm phong phú thêm lý luận của ch nghĩa Mác - Lênin về chủ
nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ mới, tiếp tục khẳng định
bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện hiện
nay.
4. Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu bối cảnh, tiến trình
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công cuộc đổi mới đề tổng kết những đặc
điểm của công cuộc đổi mới ở Việt Nam từ năm 1986 - 1996 trong đó chú trọng
những đặc điểm nổi bật nhất.
Phương pháp nghiên cứu: Đề tài được tiến hành trên cơ sở lý luận Chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Công trình
nghiên cứu sử dụng phương pháp lịch sử là chủ đạo, kết hợp phương pháp lịch
sử với phương pháp logic. Bên cạnh đó, đề tài còn sử dụng các phương pháp:
phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh xử lý tư liệu…Nguồn tư liệu chính mà đề
tài sử dụng là các tác phẩm kinh điển của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh,
các văn kiện, nghị quyết của Đảng, các sách báo xuất bản trong nước, các đề tài
khoa học…
5. Đóng góp của đề tài
Đề tài trình bày có hệ thống quá trình chỉ đạo thực hiện đường lối đổi mới
của Đảng ta. Trên cơ sở đó rút ra những đặc điểm công cuộc đổi mới, chú trọng
những giải pháp mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiến hành để thực hiện các
nhiệm vụ của sự nghiệp đổi mới mang đặc điểm Việt Nam.
Kết quả của đề tài góp phần vào quá trình tổng kết công cuộc đổi mới của
Đảng, góp phần vào cuộc đấu tranh tư tưởng hiện nay nhằm bảo vệ Chủ nghĩa

4



Mác – Lênin, bảo vệ Đảng, bảo vệ Chủ nghĩa xã hội, củng cố lòng tin của nhân
dân vào công cuộc đổi mới.
6. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo đề tài gồm 2
chương, 7 mục.

CHƯƠNG 1
ĐẢNG LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI
(1986 - 1996)
1.1.BỐI CẢNH LỊCH SỬ
Năm 1975, với thắng lợi hoàn toàn và triệt để của cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước, cách mạng Việt Nam đã chuyển sang giai đoạn mới - giai
đoạn độc lập, thống nhất, làm nhiệm vụ chiến lược duy nhất là cả nước tiến hành
cách mạng xã hội chủ nghĩa, tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa
xã hội (CNXH). Tuy đã đạt được một số thành tựu và tiến bộ đáng kể nhưng
cách mạng cũng gặp không ít khó khăn và yếu kém. Cuối những năm 70 đầu
những năm 80 của thế kỷ XX, nước ta lâm vào cuộc khủng hoảng nghiêm trọng.
Ở Việt Nam: Chúng ta tiến hành xây dựng CNXH từ một nền sản xuất
nhỏ, lạc hậu, lại phát triển qua nhiều năm chiến tranh, tàn dư, hậu quả của chủ
nghĩa thực dân mới còn nặng nề, các thế lực phản động trong nước âm mưu phá
hoại cách mạng; các thế lực phản động nước ngoài chống phá, bao vây, cấm vận
Việt Nam; nền kinh tế đất nước phải chuyển từ chỗ nhận được viện trợ không
hoàn lại khoảng ½ tổng sản phẩm xã hội sang chủ yếu dựa vào mình. Nguồn
viện trợ giảm, mất đi thị trường truyền thống, cộng với Đảng ta chưa tìm ra
phương sách giải quyết khó khăn đã có và chưa lường hết những khó khăn mới
5


nảy sinh làm cho tình hình đất nước đã khó khăn lại càng khó khăn hơn. Vào
cuối thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80, đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế, xã hội

trầm trọng. Tình hình kinh tế suy thoái nặng nề, biểu hiện cụ thể mức lạm phát
năm 1986 là 774,7%, các nhà máy xí nghiệp trong tình trạng thua lỗ kéo dài, nạn
thất nghiệp tăng, đời sống nhân dân không được cải thiện, lòng tin của nhân dân
vào chế độ xã hội giảm sút, đồng thời những nhân tố gây mất ổn định về chính
trị, xã hội ngày càng gia tăng.
Theo báo cáo của Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 6, khóa IV (8/1979)
sau chiến tranh chống Mỹ, miền Nam giải phóng, đất nước thống nhất nhưng nền
kinh tế đã thấp kém lại bị chiến tranh tàn phá, thiên tai dồn dập, nền công nghiệp
còn rất nhỏ bé, không đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của đời sống nhân dân.
Hàng tiêu dùng thiếu nghiêm trọng, mặt hàng, mẫu mã nghèo nàn, chất
lượng kém, giá thành cao, có những mặt hàng thông dụng có khả năng sản xuất
nhiều nhưng vẫn thiếu như: hàng sành sứ, thủy tinh, đồ gỗ, mây, tre, chiếu cói,
kim khí thông dụng, đồ dùng dạy học, đồ chơi trẻ em…
Hàng xuất khẩu ít, chưa cân đối được phần nhập nguyên liệu, thiết bị cho
bản thân công nghiệp hàng tiêu dùng và hàng địa phương, chưa tạo được mặt
hàng xuất khẩu chủ lực, nhằm phát huy thế mạnh của tài nguyên, đất đai và lao
động. Chất lượng nhiều hàng xuất khẩu không theo kịp yêu cầu của thị trường
thế giới.
Một số ngành công nghiệp nặng phát triển không mạnh, xí nghiệp quốc
doanh sản xuất, kinh doanh thua lỗ. Sản lượng nông nghiệp không tăng, diện tích
ruộng đất bị hoang hóa gia tăng.
Quan hệ sản xuất XHCN trên phạm vi cả nước trong những năm cuối thập
kỷ 70 và những năm đầu thập kỷ 80 bị khủng hoảng, hàng loạt các hợp tác xã
trong công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và ngư nghiệp tan rã, các xí nghiệp quốc
doanh làm ăn thua lỗ. Nhiều mục tiêu đề ra không đạt được, những giá trị thể
6


hiện mục tiêu, lý tưởng của CNXH chưa được định hình, chưa thể hiện đúng bản
chất của CNXH. Đời sống nhân dân ngày càng khó khăn, tiêu cực xã hội ngày

càng nhiều, các giá trị truyền thống, tinh thần, đạo đức bị xói mòn gây nên tâm
trạng hoài nghi, thiếu tin tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng, dẫn đến khủng
hoảng kinh tế xã hội. Từ 1976 đến 1980 tổng sản phẩm hàng năm chỉ tăng 1,4%,
thu nhập quốc dân tăng 0,4%, trong khi đó dân số hàng năm tăng 2,24% giá cả
đột biến tăng cao so với những năm trước, 1976 tăng 126%; 1978 tăng 120%;
1979 tăng 119% và năm 1980 tăng 120%. Trước những khó khăn và trì trệ đó,
Đảng ta vẫn duy trì cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp cho nên khó khăn
lại càng tăng lên. Đặc biệt thời điểm 1985-1986, đất nước càng lún sâu vào cuộc
khủng hoảng kinh tế - xã hội, đứng trước nguy cơ tụt hậu xa so với các nước
trong khu vực và trên thế giới. Không thể để tình trạng này kéo dài mãi, Đảng
Cộng sản Việt Nam, với tư cách là người lãnh đạo, đã tập trung trí tuệ cùng toàn
dân trăn trở tìm tòi, từng bước đổi mới từ tư duy lý luận đến đường lối, chính
sách và phương pháp, cách thức tiến hành sự nghiệp xây dựng đất nước theo con
đường XHCN.
Trên thế giới: Thời gian này cũng đang diễn ra nhiều thay đổi to lớn, sâu
sắc. Sau một thời gian dài phát triển, đạt được những thành tựu vĩ đại trong lịch
sử nhân loại, đến cuối thập niên 70, đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, các nước
XHCN đều lần lượt lâm vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng. Đây là cuộc khủng
hoảng “có tính chất mô hình”, CNXH mà các nước đang xây dựng, thực chất là
CNXH thời chiến, chủ yếu bắt nguồn từ kinh nghiệm của Liên Xô, từng thích
hợp với những điều kiện đặc biệt của nước Nga Xô Viết, nhưng lại được coi là
mô hình duy nhất, phổ biến cho tất cả các dân tộc khi lựa chọn con đường phát
triển theo CNXH. Ở các nước XHCN đều lần lượt diễn ra quá trình cải tổ, cải
cách, đổi mới…dù tên gọi khác nhau, nhưng đều giống nhau ở thực chất sửa
chữa mô hình. Từ góc độ mô hình nhìn lại, cuộc khủng hoảng mô hình chỉ bùng
7


phát đồng loạt vào những năm cuối thế kỷ trước, nhưng trước đó, cuộc khủng
hoảng ở Hunggari năm 1956, ở Tiệp Khắc năm 1968, ở Ba Lan năm 1980 và

ngay ở nước Nga Xô Viết những năm 90…một mặt là do âm mưu, hoạt động
phá hoại của các thế lực thù địch vốn không bao giờ từ bỏ ý định tiêu diệt chủ
nghĩa cộng sản; mặt khác, đó là những dấu hiệu của việc áp dụng cứng nhắc, duy
nhất một mô hình. Trong lịch sử không có từ “nếu”, nhưng có thể giả thiết về
một cách nhìn nhận, điều chỉnh từ mô hình, có lẽ các nước XHCN đã tránh được
sự đổ vỡ về sau. Dù kết quả điều chỉnh về sau có khác nhau, trào lưu cải tổ, đổi
mới, cải cách… đã phản ánh một nhu cầu khách quan, giúp tháo dỡ một rào chắn
to lớn về nhận thức và tạo không khí thuận lợi cho việc phát triển công cuộc đổi
mới ở Việt Nam.
Ở các nước tư bản chủ nghĩa (TBCN) cũng đang diễn ra những thay đổi to
lớn do tác động không thể cưỡng lại và phản ứng dây chuyền của cuộc cách
mạng khoa học - công nghệ: xu thế toàn cầu hóa, quốc tế hóa đời sống quốc tế,
sự hợp tác - phân công giữa các nước, các nền kinh tế, hình thành thị trường
quốc tế và khu vực; sự thay đổi cơ cấu kinh tế thế giới theo hướng mở, sự thay
bậc đổi ngôi giữa các ngành kinh tế, không phải lúc nào và ở đâu công nghiệp
nặng cũng là ưu tiên hàng đầu, sự ra đời và chiếm lĩnh vị thế của các ngành mới
như: điện tử, tin học, vật liệu mới, công nghệ sinh học…xu thế rút ngắn con
đường phát triển với sự nổi lên của những nước công nghiệp mới ở Châu Á. Thế
giới đang đổi thay. Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, cùng xu thế toàn cầu
hóa đặt Việt Nam cũng như nhiều nước khác trên thế giới, đặc biệt là các nước
XHCN đứng trước những thời cơ và thách thức vô cùng to lớn. Nếu không đổi
mới, cải cách mở cửa để hòa nhịp với xu thế chung của thời đại thì sẽ bị tụt hậu
so với các nước TBCN.
Các nước XHCN đã từng gây những ảnh hưởng tích cực, đa chiều đến sự
đổi thay, điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản (CNTB) thì giờ đây, những đổi thay ở
8


các nước TBCN dưới tác động của cách mạng khoa học - công nghệ đang tác
động ngày càng rõ rệt đến các nước XHCN, giống như một sự đối sánh, yêu cầu

các nước XHCN dần điều chỉnh chính sách đối nội và đối ngoại. Đồng thời, các
biến đổi thực tế trên thế giới sẽ nêu ra những luận đề không hoàn toàn quen
thuộc như lý luận Mácxít đã khái quát và đến lượt nó, lý luận XHCN cũng sẽ
phải có những bước phát triển đủ sức bao hàm và giải thích những hiện tượng,
thực tiễn rất mới vừa mới nảy sinh.
Những diễn biến trên đây của tình hình trong nước và thế giới đã dẫn đến
cuộc đổi mới toàn diện ở Đại hội VI (1986). Đổi mới là vấn đề sống còn của
CNXH ở nước ta, đồng thời là vấn đề phù hợp với xu thế chung của thời đại.
Những yếu tố của hoàn cảnh quốc tế là quan trọng, không có nó, không có đổi
mới. Nhưng những diễn biến của tình hình trong nước là nguyên nhân cơ bản,
sâu xa nhất buộc chúng ta phải “Đổi mới”. Từ sự nắm bắt kịp thời những diễn
biến của tình hình thế giới, cảm nhận chính xác hoàn cảnh đất nước, với bản lĩnh
chính trị vững vàng, Đảng và nhân dân ta đã chủ động tiến hành công cuộc đổi
mới. Đảng và nhân dân đã kết hợp làm một như đã từng thống nhất nhận thức, ý
chí, thống nhất hành động trong chiến tranh, đã phát huy nguồn nội lực dồi dào
của dân tộc, kết hợp với sức mạnh của ngoại lực, của thời đại để phát động và
tiến hành công cuộc đổi mới. Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VI (12
-1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam là mốc quan trọng đánh dấu bước chuyển
của đất nước sang thời kỳ đổi mới.
1.2. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TÌM TÒI ĐƯỜNG LỐI, CHÍNH
SÁCH ĐỔI MỚI
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam được
họp tại thủ đô Hà Nội từ ngày 15 đến ngày 18 tháng 12 năm 1986 trong bối cảnh
đất nước đang lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, tình hình quốc tế
diễn biến phức tạp: các nước XHCN đang tiến hành cải tổ, cải cách, có nước
9


bước đầu đã thành công, có nước không thành công, các nước thế lực thù địch
tấn công CNXH quyết liệt. Đảng ta đã tìm tòi, tháo gỡ những khó khăn của các

địa phương, các cơ sở Đảng, của quần chúng nhân dân. Với tinh thần nhìn thẳng
vào sự thật, đánh giá đúng thực trạng kinh tế - xã hội, tìm ra con đường đi lên
thích hợp, có giải pháp ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, Đảng ta đã tiến
hành Đại hội lần thứ VI. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng
sản Việt Nam có nhiệm vụ tổng kết quá trình khảo nghiệm, tìm tòi từ đó để
hoạch định đường lối đổi mới. Tham dự Đại hội có 1.129 đại biểu thay mặt cho
gần 1,9 triệu đảng viên. Có 32 đoàn đại biểu các Đảng Cộng sản và công nhân
các nước đến dự Đại hội.
Báo cáo chính trị do đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa V trình bày tại Đại hội đã nêu rõ: “Thái độ của Đảng ta
trong việc đánh giá tình hình và nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật. Cùng với
việc đánh giá đúng những thành tích đã đạt được, ở Đại hội này chúng ta chú
trọng kiểm điểm những mặt yếu kém, phân tích sâu sắc những sai lầm và khuyết
điểm, vạch rõ nguyên nhân, nêu ra biện pháp khắc phục, xác định nhiệm vụ và
mục tiêu phấn đấu trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên của thời
kỳ quá độ” [6, tr.19].
Đại hội VI nêu rõ những thành tựu quan trọng trong công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội những năm 1981 - 1985: sản xuất nông nghiệp và công nghiệp
đã ngăn chặn được đà giảm sút những năm 1979 - 1980 và từ năm 1981 đã đạt
được nhiều tiến bộ rõ rệt. Về xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật những năm 1981 1985 đã hoàn thành hàng trăm công trình tương đối lớn và hàng ngàn công trình
vừa và nhỏ. Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa tiến lên một bước. Chú trọng
chăm lo đời sống nhân dân trong hoàn cảnh nền kinh tế còn yếu kém. Cuộc chiến
tranh bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm an ninh chính trị và thực hiện nghĩa vụ quốc tế đã

10


giành được những thắng lợi to lớn. Thu nhập quốc dân hàng năm đạt 6,4% so với
0,4% trong những năm 1976 - 1980.
Đại hội VI nêu rõ tình hình kinh tế - xã hội nước ta đang có nhiều khó

khăn, chưa thực hiện được mục tiêu do Đại hội lần thứ V đề ra là về cơ bản ổn
định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân. Đại hội nhấn mạnh:
“Chúng ta không đánh giá thấp những khó khăn khách quan; những khó khăn rất
lớn. Song điều quan trọng là phân tích sâu sắc những nguyên nhân chủ quan, nêu
rõ những sai lầm, trong hoạt động của Đảng và Nhà nước” [6, tr.19]. Việc đánh
giá tình hình cụ thể về các mặt kinh tế, xã hội của đất nước đã có nhiều thiếu xót.
“ Do đó, trong mười năm qua, đã phạm nhiều sai lầm trong việc xác định mục
tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và
quản lý kinh tế” [6, tr.19]. Đại hội thẳng thắn cho rằng: “Những sai lầm nói trên
là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm
về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện” [6, tr.26]. Khuynh hướng tư tưởng
chủ yếu của những sai lầm về chính sách kinh tế, như Đại hội nhấn mạnh, là
bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động đơn giản, nóng vội, chạy
theo nguyện vọng chủ quan. Những sai lầm và khuyết điểm trong lãnh đạo kinh
tế, xã hội, bắt nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và
công tác cán bộ của Đảng. “Trong lĩnh vực tư tưởng, đã bộc lộ sự lạc hậu về
nhận thức lý luận và vận dụng các quy luật đang hoạt động trong thời kỳ quá độ;
đã mắc bệnh duy ý chí, giản đơn hóa, muốn thực hiện nhanh chóng nhiều mục
tiêu của chủ nghĩa xã hội trong điều kiện nước ta mới ở chặng đường đầu tiên.
Chúng ta đã có những thành kiến không đúng, trên thực tế, chưa thực sự thừa
nhận những quy luật của sản xuất hàng hóa đang tồn tại khách quan; do đó,
không chú ý vận dụng vào chế định các chủ trương, chính sách kinh tế” [6,
tr.27].

11


Từ thực tiễn cách mạng, Đại hội VI của Đảng đã nêu ra những bài học
kinh nghiệm quan trọng đó là:
Một là: trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng

“lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động.
Hai là: Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động
theo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật khách
quan là điều kiện đảm bảo sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng.
Ba là: phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại
trong điều kiện mới.
Bốn là: phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của Đảng cầm
quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, trên cơ sở phân tích, đánh giá đúng đắn tình hình của đất nước,
tự phê bình về những sai lầm, khuyết điểm, đổi mới tư duy lý luận nhận thức rõ
hơn về quy luật khách quan của thời kỳ quá độ, kế thừa những thành tựu và kinh
nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và những năm đầu khi nước nhà
thống nhất, trải qua nhiều năm tìm tòi, khảo nghiệm từ thực tiễn, Đại hội VI của
Đảng đã đề ra đường lối đổi mới.
Trước hết, đó là đổi mới kinh tế, có chính sách sử dụng và cải tạo đúng
đắn các thành phần kinh tế. Chính sách đó cho phép sử dụng nhiều hình thức
kinh tế với quy mô và trình độ kỹ thuật thích hợp trong từng khâu của quá trình
sản xuất và lưu thông và khai thác mọi khả năng của các thành phần kinh tế liên
kết với nhau, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo. Đó là một giải
pháp có ý nghĩa chiến lược, góp phần giải phóng và khai thác mọi khả năng để
phát triển mọi lực lượng sản xuất, xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý. Chính sách đó
“là sự vận dụng quan điểm của Lênin coi nền kinh tế cơ cấu nhiều thành phần là
một đặc trưng của thời kỳ quá độ” [6, tr.56]. Đại hội xác định rõ các thành phần
kinh tế ở nước ta là:
12


- Kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm khu vực quốc doanh và khu vực tập
thể, cùng với kinh tế gia đình gắn liền với thành phần đó.
- Các thành phần kinh tế khác gồm: kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa (thợ thủ

công, nông dân cá thể, những người buôn bán và kinh doanh dịch vụ cá thể);
kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản Nhà nước dưới nhiều hình thức cao là công
tư hợp doanh; kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc trong một bộ phận đồng bào dân
tộc thiểu số ở Tây Nguyên và các vùng núi khác.
Chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa phải xuất phát từ đặc trưng nói trên
mà đề ra những chủ trương và biện pháp đúng đắn. Phải vận dụng đúng đắn quy
luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của các lực
lượng sản xuất. Không thể nóng vội làm trái quy luật. Đại hội VI chủ trương
“đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong
suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với những hình thức và bước đi thích
hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng
sản xuất luôn luôn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất” [6,
tr.58].
Cùng với chính sách kinh tế nhiều thành phần, Đại hội VI còn chủ trương
bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư, tập trung thực hiện cho
được ba chương trình mục tiêu về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và
hàng xuất khẩu. Các chương trình đó là sự cụ thể hóa nội dung chính của công
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên.
Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế: Đại hội VI cho rằng, việc bố trí lại cơ cấu
kinh tế phải đi đôi với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Đảng ta thẳng thắn chỉ ra
rằng, cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp từ nhiều năm nay không tạo
được động lực phát triển, làm suy yếu kinh tế xã hội chủ nghĩa, hạn chế việc sử
dụng và cải tạo các thành phần kinh tế khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm năng
suất, chất lượng, hiệu quả, gây rối loạn phân phối lưu thông và nảy sinh nhiều
13


hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Cơ chế quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh
hành chính là chủ yếu với hệ thống chỉ tiêu kế hoạch phát lệnh chi tiết từ trên
giao xuống không phù hợp với nguyên tắc tập trung dân chủ. Các cơ quan quản

lý hành chính - kinh tế can thiệp sâu rộng vào hoạt động sản xuất kinh doanh của
các đơn vị cơ sở, nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về vật chất đối với các
quyết định của mình; các đơn vị kinh tế cơ sở vừa không có quyền tự chủ, vừa
không bị ràng buộc trách nhiệm với kết quả sản xuất kinh doanh. Cơ chế cũ càng
không chú ý tới quan hệ hàng hóa - tiền tệ và hiệu quả kinh tế, quản lý theo chế
độ cấp phát và giao nộp sản phẩm, hạch toán chỉ là hình thức. Cơ chế đó cũng
nảy sinh ra bộ máy quản lý cồng kềnh với những cán bộ quản lý kém năng động,
không thạo kinh doanh, phong cách quản lý quan liêu, cửa quyền. Cơ chế cũ gắn
liền với tư duy kinh tế dựa trên những quan niệm đơn giản về chủ nghĩa xã hội,
mang nặng tính chất chủ quan duy ý chí. Vì vậy, “phương hướng đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế đã được khẳng định là xóa bỏ tập trung quan liêu, bao cấp, xây
dựng cơ chế mới phù hợp quy luật khách quan và với trình độ phát triển của nền
kinh tế” [6, tr.63].
Việc sử dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ đòi hỏi sản xuất phải gắn liền với
thị trường, phải thực hiện hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Phải vận dụng
các quy luật của sản xuất hàng hóa, đặc biệt là quy luật giá trị, quan hệ cung cầu.
Phải sử dụng đúng đắn các đòn bẩy kinh tế. Nền kinh tế phải được quản lý bằng
các biện pháp kinh tế là chủ yếu. Kết hợp hài hòa lợi ích của toàn xã hội, lợi ích
của tập thể và lợi ích riêng của người lao động. Các đơn vị kinh tế quốc doanh và
tập thể là những đơn vị sản xuất hàng hóa xã hội chủ nghĩa, có quyền tự chủ sản
xuất, kinh doanh, tự chủ về tài chính.
Đại hội VI của Đảng nhấn mạnh phải: “Phân biệt rõ chức năng quản lý
hành chính - kinh tế của các cơ quan nhà nước trung ương và địa phương với
chức năng quản lý sản xuất - kinh doanh của các đơn vị quản lý cơ sở”. “Thực
14


chất của cơ chế mới về quản lý là cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch
toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa theo đúng nguyên tắc tập trung dân chủ” [6,
tr.65].

Cùng với việc phát huy mạnh mẽ động lực khoa học, kỹ thuật, Đảng ta
chủ trương mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Nhiệm vụ ổn định
và phát triển kinh tế trong chặng đường đầu tiên cũng như sự nghiệp phát triển
khoa học - kỹ thuật và công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa của nước ta tiến hành
nhanh hay chậm, điều đó phụ thuộc một phần quan trọng vào việc mở rộng và
nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Đại hội VI nêu rõ sự cần thiết: “Công bố
chính sách khuyến khích nước ngoài đầu tư vào nước ta dưới nhiều hình thức,
nhất là đối với các ngành và cơ sở đòi hỏi kỹ thuật cao, làm hàng xuất khẩu. Đi
đôi với việc công bố luật đầu tư, cần có các chính sách và biện pháp tạo điều
kiện thuận lợi cho người nước ngoài và Việt kiều vào nước ta để hợp tác kinh
doanh” [6, tr.85].
Để thiết lập cơ chế quản lý mới, cần thực hiện một cuộc cải cách lớn về bộ
máy nhà nước. Phân biệt rõ chức năng quản lý hành chính - kinh tế với chức
năng quản lý sản xuất - kinh doanh, kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo
địa phương và vùng lãnh thổ. Nhà nước thể chế hóa đường lối, chủ trương của
Đảng thành pháp luật, chính sách cụ thể. Xây dựng chiến lược kinh tế - xã hội và
cụ thể hóa chiến lược đó thành những kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Quản
lý hành chính - xã hội trong toàn xã hội theo kế hoạch, giữ vững pháp luật, kỷ
cương nhà nước và trật tự xã hội, giữ vững quốc phòng và an ninh. Kiểm tra việc
thực hiện kế hoạch của nhà nước, phát hiện những mất cân đối và đề ra những
biện pháp khắc phục. Thực hiện một quy chế làm việc khoa học có hiệu quả cao.
Xây dựng bộ máy gọn nhẹ, có chất lượng cao, với một đội ngũ cán bộ có phẩm
chất chính trị và có năng lực quản lý nhà nước, phát hiện những mất cân đối và
đề ra những biện pháp khắc phục. . Nhà nước quản lý đất nước bằng pháp luật,
15


chứ không chỉ bằng quản lý. “Tăng cường hiệu lực quản lý của nhà nước và thực
hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động trên thực tế là một thể thống nhất.
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, tất cả đều do dân và vì dân, có thực sự do dân mới

thực sự vì dân một cách đầy đủ. Nguyên lý cơ bản đó được thực hiện từng bước
vững chắc là điều kiện quyết định cho mọi thắng lợi của cách mạng” [6, tr.23].
Đại hội VI chủ trương mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. “Củng cố
chính sách khuyến khích nước ngoài đầu tư vào nước ta dưới nhiều hình thức,
nhất là những ngành và cơ sở đòi hỏi kỹ thuật cao, làm xuất khẩu. Đi đôi với
việc công bố luật đầu tư, cần có chính sách và biện pháp tạo điều kiện thuận lợi
cho người nước ngoài và Việt kiều vào nước ta để hợp tác kinh doanh” [6, tr.85].
Đại hội VI của Đảng cho rằng, để tăng cường sức chiến đấu và năng lực tổ
chức thực tiễn, “Đảng phải đổi mới về nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư
duy kinh tế; đổi mới tổ chức; đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh
đạo và công tác” [6, tr.124]. Đại hội VI nhấn mạnh, muốn đổi mới tư duy, Đảng
ta phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin,
kế thừa di sản quý báu về tư tưởng và lý luận cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết có hệ thống sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, rút ra những quy luật
đúng đắn, khắc phục những quan niệm sai lầm hoặc lỗi thời. Đổi mới tư duy
không có nghĩa là phủ nhận những thành tựu lý luận đã đạt được, phủ nhận
những quy luật phổ biến của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, phủ nhận
đường lối đúng đắn đã được xác định, trái lại chính là bổ sung và phát triển
những thành tựu ấy. Đảng nhấn mạnh đổi mới tư duy, nâng cao phẩm chất cách
mạng cán bộ, đảng viên và nhân dân làm nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư
tưởng. Đổi mới đội ngũ cán bộ, kiện toàn các cơ quan lãnh đạo và quản lý. Đổi
mới phong cách làm việc, giữ vững các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt trong
Đảng trong đó tập trung dân chủ là nguyên tắc quan trọng nhất. Đại hội đề ra yêu
16


cầu nâng cao chất lượng đảng viên, đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực, nâng
cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở, tăng cường đoàn kết nhất trí trong Đảng.
Đại hội VI của Đảng đã hoạch định đường lối đổi mới toàn diện, sâu sắc

và triệt để. Đó là sự kết tinh trí tuệ của Đảng và toàn dân và cũng thể hiện tinh
thần trách nhiệm cao của Đảng trước nhà nước và dân tộc. Đường lối do Đại hội
đề ra thể hiện sự phát triển tư duy lý luận, khả năng tổng kết và tổ chức thực hiện
của Đảng mở ra thời kỳ mới của sự nghiệp cách mạng nước ta trên con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội. Để lãnh đạo sự nghiệp đổi mới Đại hội đã bầu Ban chấp
hành Trung ương Đảng khóa VI gồm 124 ủy viên chính thức và 49 ủy viên dự
khuyết, bầu Bộ Chính trị gồm 13 ủy viên chính thức và một ủy viên dự khuyết,
bầu Ban Bí thư gồm 13 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu làm
Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Các đồng chí Trường Chinh,
Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ được giao trách nhiệm là Cố vấn Ban chấp hành
Trung ương Đảng.
1.3. ĐẢNG LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI (1986 1996)
1.3.1. Đảng lãnh đạo thực hiện đường lối đổi mới giai đoạn 1986 – 1991
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI và Chính phủ, các cấp ủy cùng
toàn Đảng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đường lối đổi mới của Đại hội
VI. Công cuộc đổi mới triển khai mạnh mẽ. Tuy vậy, năm 1987, 1988 tình hình
diễn biến phức tạp, có lúc khó khăn tưởng chừng khó vượt qua. Ba năm liền lạm
phát vẫn ở ba con số: năm 1986 lạm phát lên đến 774,7%, đến đầu năm 1988 vẫn
còn ở mức 398,3%. Vì vậy, đời sống của những người hưởng lương và trợ cấp xã
hội giảm sút mạnh. Nhiều xí nghiệp quốc doanh và hợp tác xã tiểu thủ công
nghiệp đình đốn thua lỗ, sản xuất cầm chừng, thậm chí phải đóng cửa. Hàng
chục vạn công nhân buộc phải rời khỏi xí nghiệp, hàng vạn giáo viên phải bỏ
nghề; những vụ đổ vỡ tín dụng xảy ra nhiều nơi. Đầu năm 1988 nạn đói xảy ra ở
17


nhiều vùng và năm 1988 vẫn phải nhập 45 vạn tấn lương thực. Những diễn biến
quốc tế phức tạp tác động xấu đến tình hình nước ta. Nước ta đã lâm vào tình
trạng khủng hoảng kinh tế xã hội và vẫn chưa ra khỏi tình trạng đó.
Trong hoàn cảnh đó, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta tỏ rõ bản lĩnh vững

vàng. Phân tích rõ những nguyên nhân của khó khăn, nhất là những khuyết điểm
chủ quan như chậm tổng kết thực tiễn để làm rõ một số quan điểm và bước đi
trong đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Nhà nước chậm cụ thể hóa, thể chế hóa
đường lối của Đảng, sự chỉ đạo của bộ máy Đảng, Nhà nước còn nhiều thiếu xót.
Nhận thức rõ điều đó, Đảng và Nhà nước ta ra sức khắc phục khó khăn, giữ vững
ổn định chính trị, giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội cấp bách từng bước
đưa Nghị quyết Đại hội VI vào cuộc sống.
Các Hội nghị Ban chấp hành Trung ương khóa VI đã tập trung bàn và
quyết định những chủ trương, bước đi quan trọng của sự nghiệp đổi mới. Hội
nghị Trung ương lần thứ 2 (4-1987) bàn vấn đề cấp bách về lưu thông phân phối.
Hội nghị Trung ương lần thứ 3 (8-1987) bàn về chuyển hoạt động của các đơn vị
quốc doanh sang kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đổi mới quản lý nhà nước về kinh
tế. Về phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ba năm 1988 - 1990
được bàn và quyết định tại Hội nghị Trung ương lần thứ 4 (12-1987). Hội nghị
Trung ương lần thứ 5 (6-1988) bàn về công tác xây dựng Đảng. Hội nghị Trung
ương lần thứ 6 của Trung ương (3-1989) kiểm điểm 2 năm thực hiện Nghị quyết
Đại hội VI đề ra phương hướng, nhiệm vụ ba năm tới. Về cuộc khủng hoảng của
các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô được bàn tại Hội nghị Trung
ương lần thứ 7 (8-1989). Một số vấn đề cấp bách về công tác tư tưởng trước tình
hình trong nước và quốc tế hiện nay, Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (3-1990) ra
Nghị quyết “Về tình hình các nước xã hội chủ nghĩa, sự phá hoại của chủ nghĩa
đế quốc và nhiệm vụ cấp bách của Đảng ta” (Nghị quyết 8A) và “Đổi mới công
tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân”
18


(Nghị quyết 8B). Hội nghị Trung ương lần thứ 9 (8-1990) bàn về một số vấn đề
cấp bách về kinh tế - xã hội, thông qua dự thảo các văn kiện trình Đại hội VII và
Hội nghị lần thứ 10 (11-1991) xem xét lần cuối các văn kiện chuẩn bị cho Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng.

Bộ Chính trị (khóa VI) đã có nhiều nghị quyết quan trọng vừa cụ thể hóa
vừa phát triển những quan điểm lớn của Đảng trong công cuộc đổi mới. Ngày 54-1988 Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 10 - NQ/TƯ “Về đổi mới quản lý kinh tế
nông nghiệp”. Đó là bước ngoặt có ý nghĩa to lớn đối với phát triển kinh tế nông
nghiệp ở nước ta.
Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (3-1989) đã quyết định 12 chủ trương
chính sách lớn đẩy mạnh công cuộc đổi mới trong đó nhấn mạnh những vấn đề
hàng đầu là điều chỉnh cơ chế kinh tế, tập trung thực hiện các mục tiêu của ba
chương trình kinh tế; thực hiện nhất quán chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần, giải phóng mọi năng lực sản xuất; đổi mới cơ chế quản lý chuyển mạnh
sang hạch toán kinh doanh, nhấn mạnh yếu tố thị trường, coi thị trường vừa là
một đối tượng của kế hoạch hóa. “Cơ chế thị trường thể hiện sự vận động của
các quy luật sản xuất và lưu thông hàng hóa trong quan hệ tác động qua lại với
các quy luật kinh tế khác, phải được vận dụng nhất quán trong kế hoạch hóa và
các chính sách kinh tế. [5, tr.18]. Điều cần nhấn mạnh là Nghị quyết 10 của Bộ
Chính trị và Nghị quyết Trung ương lần thứ 6 đã phát triển và xác định quan
điểm cơ bản về chỉ đạo nông nghiệp. Đó là: kinh tế hợp tác xã có nhiều hình thức
từ thấp đến cao; hợp tác xã và tập đoàn sản xuất nông nghiệp là các đơn vị kinh
tế hợp tác với nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất; gia đình xã viên trở
thành đơn vị kinh tế tự chủ, ngoài việc nhận khoán sử dụng ruộng đất, thực hiện
các hợp đồng với hợp tác xã, còn chủ động phát triển sản xuất kinh doanh dưới
nhiều hình thức.

19


×