Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

Tiểu luận: Công ty cổ phần và quá trình cổ phần hóa ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (350.47 KB, 32 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH

BÀI TIỂU LUẬN LUẬT KINH TẾ
Đề tài:

CÔNG TY CỔ PHẦN VÀ QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN
HÓA Ở VIỆT NAM.
GVHD

: Th.S Dương Mỹ An

Nhóm SV : Nguyễn Tấn Đương
Nguyễn Thị Diễm Hương
Nguyễn Thị Thanh Loan
Lê Đình Toàn

Tháng 5 năm 2010

1


MỤC LỤC
I. Những vấn đề cơ bản về công ty cổ phần
1. Lịch sử hình thành của công ty cổ phần………………………….3
2. Công ty cổ phần…………………………………………………..7
3. Tính tất yếu khách quan của sự ra đời loại hình công ty cổ phần
và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế thế giới………………..11
II. Thực trạng của các CTCP và tình hình cổ phần hóa
DNNN ở Việt Nam hiện nay
1. Vai trò của công ty cổ phần trong nền kinh tế thị trường….……13


2. Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam……………..20
3. Thành công và những tồn tại của các công ty cổ phần ở Việt Nam
trong thời gian qua……………………………………………...............25
4. Nguyên nhân những hạn chế trong quá trình cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước……………………………………………………..27
III. Phương hướng và những giải pháp cơ bản nhằm đẩy
nhanh quá trình phát triển các công ty cổ phần trong nền kinh
tế hiện nay
1. Phương hướng tiếp tục thực hiện việc hình thành và phát triển
công ty cổ phần thông qua cổ phần hóa…………………………...........30
2. Giải pháp nhằm nâng cao vai trò của công ty cổ phần………….32

2


I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN
1. Lịch sử hình thành của công ty cổ phần:
a. Trên thế giới:
Ở các nước khác nhau, CTCP có thể có những tên gọi khác nhau.
Ở Pháp là công ty vô danh (anonymous Company), ở Anh là công ty với
trách nhiệm hữu hạn (Company LTD), ở Mỹ nó được gọi là công ty kinh
doanh (Commercial Coporation) và ở Nhật Bản gọi là công ty chung cổ
phần (Kabushiki Kaisha)…
Các giai đoạn hình thành CTCP:
- Giai đoạn mầm móng: góp vồn theo nhóm bạn – hoạt động liên
kết lỏng lẻo.
- Giai đoạn hình thành: bắt đầu phát hành cổ phiếu, bước đầu xuất
hiện giao dịch chứng khoán, hoạt động có tổ chức hơn.
- Giai đoạn phát triển: CTCP trở nên phổ biến ở các nước công
nghiệp. Xuất hiện các hình thức đa quốc gia, các trung tâm giao dịch

chứng khoán lớn.
- Giai đoạn trưởng thành: hình thức công ty xuyên quốc gia, đa quốc
gia; thu hút công nhân mua cổ phiếu; cơ cấu công ty cổ phần hoàn thiện,
pháp luật hoàn thiện.
Quá trình công nghiệp hoá ở các nước châu Âu và Bắc Mỹ từ thế
kỷ 18, 19 cùng với nhu cầu tích tụ vốn để đầu tư của các nhà tư bản đã
làm xuất hiện loại hình CTCP. Sự phát triển mạnh mẽ của Chủ nghĩa Tư
bản đòi hỏi sản xuất kinh doanh phải có quy mô ngày càng to lớn, cạnh
tranh và độc quyền có mức độ ngày càng gay gắt. Các chủ tư bản đi đến
3


thoả hiệp với nhau nhằm thu được lợi nhuận tối đa và bành trướng hơn
nữa thế lực kinh tế của mình. CTCP là hình thức kinh doanh thoả mãn
được những nhu cầu này, nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút và
tập trung tư bản, nhu nhận định của Các Mác “Qua các công ty cổ phần,
sự tập trung đã thực hiện được việc đó trong nháy mắt”
Về mặt lịch sử hình thành, CTCP ra đời sau các loại công ty đối
nhân nhưng là hình thức đầu tiên của loại hình công ty đối vốn. Khác với
sự ra đời của hình thức công ty TNHH – là sản phẩm của các nhà lập
pháp xuất phát từ nhu cầu của thực tiễn kinh doanh, CTCP được hình
thành trong hoạt động kinh doanh và do nhu cầu của các nhà kinh doanh
rồi sau đó mới được pháp luật thừa nhận và được hoàn thiện thành một
chế định pháp lý. Chẳng hạn như ở Anh, Luật công ty được ban hành lần
đầu tiên năm 1844 nhưng trước đó hơn 100 năm đã có sự xuất hiện của
các công ty cổ phần. Và đến năm 1856, ở Anh mới có Luật về công ty cổ
phần.
Công ty cổ phần xuất hiện đầu tiên trên thế giới là công ty Đông
Ấn (East India Company) của Anh (1600-1874). Nó được thành lập ngày
31/10/1860 abởi một nhóm có 218 người, và được cấp phép độc quyền

kinh doanh trong vòng 15 năm ở vùng Đông Ấn, các quốc gia và hải
cảng ở châu Á, châu Phi và được đi lại từ tất cả các hải cảng của các đảo,
thị trấn và địa điểm ở châu Á, châu Phi và Mỹ hay bất kỳ địa điểm nào
như thế nằm ngoài Mũi Hảo Vọng (Cape of Good Hope) và Eo biển
Magellan. Ngày 01/6/1874, công ty bị giải thể khi giấy phép lần sau cùng
không được gia hạn. Công ty đầu tiên này hoạt động hết sức lỏng lẻo:
“Người đầu tư góp vốn theo chuyến đi biển và sau mỗi chuyến đi biển
nhận lại vốn cổ phần và tiền lãi”. Đến năm 1602, ở Hà Lan xuất hiện các
4


công ty cổ phần theo hình thức tương tự công ty Đông Ấn của Anh, rồi
lần lượt CTCP xuất hiện ở Thụy Điển, Đan Mạch, Đức…
Ở Mỹ, CTCP phát triển rất mạnh. Lúc đầu là vì phải xây dựng
đường xe lửa, sau này là để thiết lập mạng lưới phân phối và bán lẻ trên
toàn lãnh thổ rộng lớn của Mỹ. Chính do yêu cầu tài trợ cho các công ty
làm đường xe lửa mà thị trường chứng khoán ở NewYork phát triển.
Năm 1811, bang NewYork ban bố luật về tính trách nhiệm hữu hạn dành
cho các công ty sản xuất. Nhờ có luật này, tiền ùn ùn đổ về NewYork và
tính hữu hạn kia trở thành phổ biến vì bang nào không dùng đến nó là
không thu hút được vốn.
Từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX, CTCP bắt đầu phát triển
ở nhiều lĩnh vực khác nhau như giao thông, vận tải, xây dựng, các ngành
chế tạo cơ khí, ngân hàng, bảo hiểm…ở các nước tư bản phát triển và về
sau phát triển rộng rãi ở các nơi khác trên thế giới. Đến những năm 20,
30 của thế kỷ XIX, với sự phát triển nhanh chóng của khoa học - kỹ thuật,
nền kinh tế thế giới có bước phát triển mạnh mẽ, điều đó dẫn đến nhu cầu
phải tập trung những nguồn vốn lớn để xây dựng cơ sơ hạ tầng kinh tế xã hội. Công ty cổ phần là một trong những công cụ giúp thực hiện
nhanh chóng vấn đề tập trung vốn. Vì vậy, có ý kiến bình luận rằng “Nếu
như cứ phải chờ cho đến khi tích luỹ làm cho số tư bản riêng lẻ lớn lên

đến mức có thể đảm đương được việc xây dựng đường sắt thì có lẽ đến
ngày nay thế giới vẫn chưa có đường sắt”. Sự ra đời của CTCP đã giúp
cho các nhà doanh nghiệp giải quyết được mâu thuẫn về tiền vốn một
cách sáng tạo.
Tóm lại, trải qua quá trình phát triển lâu dài, CTCP đã từ phạm vi
ở một nước, một khu vực nhất định đã phát triển thành những công ty đa
quốc gia, hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau, đúng như nhận định:
5


“Công ty cổ phần đã phát triển ở hầu hết các nước từ đơn giản đến phức
tạp, từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn, từ một ngành đến đa ngành, từ một
quôc gia đến nhiều quốc gia thông qua các công ty đa quốc gia”
Ở Mỹ, năm 1989, số lượng các công ty cổ phần chiếm 31,7% trong
tổng số các xí nghiệp công nghiệp và chiếm 92,6% giá trị tổng sản phẩm
công nghiệp. Ngày nay, công ty cổ phần đã chiếm vị trí thống lĩnh trong
các ngành công nghiệp, dịch vụ công cộng và trong các ngành khác nhau
của nền kinh tế Hoa Kỳ.
Ở các nước phương tây, công ty cổ phần là mô hình phổ biến nhất
cho các doanh nghiệp có quy mô lớn. Ở Đức, vốn cơ bản trung bình của
các công ty cổ phần năm 1980 là 43 triệu DM, trong khi đó vốn trung
bình của một công ty TNHH chỉ là 0,38 triệu DM. Trong 100 công ty lớn
nhất của Đức năm 1980 có tới 66 công ty cổ phần. Ở Pháp, vào năm 1986,
có tới 123.303 công ty cổ phần, chiếm tới 15,22% tổng số các doanh
nghiệp.
b. Ở Việt Nam:
Trong lịch sử hình thành và phát triển có hai phương pháp để thành
lập công ty cổ phần đó là thành lập mới các công ty cổ phần và cổ phàn
hóa các doanh nghiệp nhà nước đã có.
Do nền kinh tế Việt Nam có những đặc điểm riêng biệt so với các

nước khác trên thế giới nên việc thành lập mới các công ty cổ phần
không được chú trọng phát triển. Chính việc cải cách DNNN bằng cách
cổ phần hóa là con đường khả thi và có hiệu quả nhất được Đảng và Nhà
nước ta quán triệt nên chúng ta chỉ tập trung đi sâu vào việc hình thành
công ty cổ phần bằng cách cổ phần hóa DNNN.
Việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước được thực hiện theo ba
phương thức: thứ nhất, giữ nguyên giá trị hiện có của doanh nghiệp và
6


phát hành cổ phiếu theo quy định nhằm thu hút cổ đông; thứ hai, bán một
phần doanh nghiệp hiện có của doanh nghiệp; thứ ba, tách một bộ phận
doanh nghiệp đã đủ điều kiện cổ phần hóa.
Quá tình cổ phần hóa ở nước ta trải qua 3 giai đoạn:
 Giai đoạn thí điểm (1992 - 1995).
 Giai đoạn mở rộng (5/1996 - 6/1998).
 Giai đoạn đẩy mạnh cổ phần hóa (từ 6/1998).
2. Công ty cổ phần:
a. Khái niệm
Công ty cổ phần là một dạng pháp nhân có trách nhiệm hữu hạn,
được thành lập và tồn tại độc lập đối với những chủ thể sở hữu nó. Vốn
của công ty được chia nhỏ thành những phần bằng nhau gọi là cổ phần và
được phát hành huy động vốn tham gia của các nhà đầu tư thuộc mọi
thành phần kinh tế trên cơ sở tư nguyện để tiến hành các hoạt động sản
suất nhằm thu lợi nhuận.
Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó:
- Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;
các cá nhân hay tổ chức nắm giữ quyền sở hữu hợp pháp một phần hay
toàn bộ phần vốn góp gọi là cổ đông.


7


- Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác
trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;
- Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho
người khác, trừ trường hợp cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết;
- Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba
và không hạn chế số lượng tối đa.
Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh và có quyền phát hành chứng khoán ra
công chúng theo quy định của pháp luật về chứng khoán.
Công ty cổ phần phải có Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và
Giám đốc (Tổng giám đốc). Đối với công ty cổ phần có trên mười một cổ
đông phải có Ban kiểm soát.
b. Nguyên tắc cơ cấu:
Công ty cổ phần là một thể chế kinh doanh, một loại hình doanh
nghiệp hình thành, tồn tại và phát triển bởi sự góp vốn của nhiều cổ đông.
Trong công ty cổ phần, số vốn điều lệ của công ty được chia nhỏ thành
8


các phần bằng nhau gọi là cổ phần. Các cá nhân hay tổ chức sở hữu cổ
phần được gọi là cổ đông. Cổ đông được cấp một giấy chứng nhận sở
hữu cổ phần gọi là cổ phiếu. Chỉ có công ty cổ phần mới được phát hành
cổ phiếu. Như vậy, cổ phiếu chính là một bằng chứng xác nhận quyền sở
hữu của một cổ đông đối với một công ty cổ phần và cổ đông là người có
cổ phần thể hiện bằng cổ phiếu. Công ty cổ phần là một trong loại hình
công ty căn bản tồn tại trên thị trường và nhất là để niêm yết trên thị
trường chứng khoán.

Bộ máy các công ty cổ phần được cơ cấu theo luật pháp và điều lệ
công ty với nguyên tắc cơ cấu nhằm đảm bảo tính chuẩn mực, minh bạch
và hoạt động có hiệu quả.
Công ty Cổ phần phải có Đại hội đồng Cổ đông, Hội đồng Quản trị
và Ban Điều hành. Đối với công ty cổ phần có trên mười một cổ đông
phải có Ban Kiểm soát.
c.Cơ cấu tổ chức:
Khái niệm công ty cổ phần được xem đồng nghĩa với công ty đại
chúng bởi cấu trúc, mục tiêu và tính chất của nó. Quy định trong một số
bộ luật, trong đó có Luật Việt Nam ghi rõ công ty cổ phần cần có tối
thiểu 3 cổ đông, bất kể đó là pháp nhân hay thể nhân Tuy nhiên, các quy
định đối với một công ty niêm yết thường yêu cầu công ty phải có số cổ
đông lớn hơn nhiều. Các quy định cụ thể của cả 6 sàn chứng khoán Hoa
Kỳ đều cho thấy điều này, từ các sàn sơ khai như Pink
Sheet, OTCBB, NASDAQ, NYSE; trong đó OTCBB yêu cầu công ty ít
nhất có 40 cổ đông, còn NYSE lại yêu cầu công ty phải có ít nhất 2.000
cổ đông.

9


Cơ quan tối cao của các công ty cổ phần là Đại hội đồng Cổ đông.
Các cổ đông sẽ tiến hành bầu ra Hội đồng Quản trị với Chủ tịch Hội đồng
Quản trị, các Phó Chủ tịch và thành viên (kiêm nhiệm và không kiêm
nhiệm). Sau đó, Hội đồng quản trị sẽ tiến hành thuê, bổ nhiệm Giám đốc
(Tổng giám đốc) và/hoặc Giám đốc điều hành. Hội đồng này cũng có thể
tiến hành thuê, bổ nhiệm các Phó Giám đốc (Phó Tổng Giám đốc) hoặc
ủy quyền cho Ban Giám đốc (công ty) làm việc này.
Quan hệ giữa Hội đồng Quản trị và Ban giám đốc là quan hệ quản trị
công ty. Quan hệ giữa Ban giám đốc và cấp dưới, người lao động nói

chung là quan hệ quản lý. Xung quanh vấn đề quan hệ giữa các chủ sở
hữu là cổ đông của công ty và những người quản lý thông thường cần
được tách bạch và kể cả các đại cổ đông cũng không nhất nhất là được
hay có thể tham gia quản lý công ty. Để đảm bảo khách quan, nhiều công
ty đã quy định chặt chẽ về điều này.
d. Ưu điểm:


Nhà đầu tư chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn tương ứng với tỷ lệ góp

vốn trong công ty;


Quy mô hoạt động lớn và khả năng mở rộng kinh doanh dễ dàng từ

việc huy động vốn cổ phần;


Nhà đầu tư có khả năng điều chuyển vốn đầu tư từ nơi này sang nơi

khác, từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác dễ dàng thông qua hình thức
chuyển nhượng, mua bán cổ phần;


Việc hoạt động của công ty đạt hiệu quả cao do tính độc lập giữa

quản lý và sở hữu.
10



e. Nhược điểm:


Mức thuế tương đối cao vì ngoài thuế mà công ty phải thực hiện

nghĩa vụ với ngân sách nhà nước, các cổ đông còn phải chịu thuế thu
nhập bổ sung từ nguồn cổ tức và lãi cổ phần theo qui định của luật pháp;


Chi phí cho việc thành lập doanh nghiệp khá tốn kém;



Khả năng bảo mật kinh doanh và tài chính bị hạn chế do công ty

phải công khai và báo cáo với các cổ đông;


Khả năng thay đổi phạm vi lĩnh vực kinh doanh cũng như trong hoạt

động kinh doanh không linh hoạt do phải tuân thủ theo những qui định
trong Điều lệ của công ty, ví dụ có trường hợp phải do Đại hội đồng Cổ
đông của công ty cổ phần quyết định
3. Tính tất yếu khách quan của sự ra đời loại hình công ty cổ phần
và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế thế giới:
a. Tinh tất yếu:
Xuất phát từ thực tế khách quan do đòi hỏi của sự hình thành và phát
triển của nền kinh tế thị trường. Do đó, việc hình thành các công ty cổ
phần (CTCP) và vấn đề cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) là
tất yếu đối với quá trình phát triển mạnh của nền kinh tế thị trường.

a.1 Quá trình xã hội hóa tư bản, tăng cường tích tụ và tập trung tư
bản ngày càng cao.
Trong nền sản xuất hàng hóa quy luật giá trị tác động mạnh đến sự
cạnh tranh khốc liệt giữa các nhà tư bản. Điều này đã thúc đẩy họ phải
nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật, năng suất lao động…mà làm đươc

11


điều đó chỉ có các nhà tư bản lớn mới đủ sức thực hiện. Vì thế các nhà tư
bản vừa và nhỏ đã liên kết để mạnh hơn nhằm tiếp tục cạnh tranh và phát
triển và thu lại lợi tức sau 1 thời gian nhất định.
a.2 Sự ra đời và phát triển của nền đại công nghiệp cơ khí tạo điều
kiện cho sự hình thành và phát triển của công ty cổ phần.
a.3 Sự phân tán tư bản để tránh rủi ro trong kinh doanh và tạo thế
mạnh quản lý. Khi công nghệ phát triển, sự cạnh tranh ngày càng khốc
liệt thì rủi ro trong kinh doanh cũng ngày càng lớn. Để tránh rủi ro này,
các nhà tư bản đã phân tán vốn của mình đầu tư ở nhiều ngành, nhiều
công ty khác nhau nhằm phân tán rủi ro và tập trung sức mạnh trí tuệ…
a.4 Sự phát triển của tín dụng tạo điều kiện thúc đẩy công ty cỏ phần
ra đời và phát triển.
Tóm lại, sự ra đời của công ty cổ phần là 1 tất yếu khách quan
trong sự hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường và tập trung tư
bản.
b.Vai trò:
- CTCP có khả năng huy độn vốn nhanh chóng với quy mô lớn để
thực hiện các dự án khổng lồ mà không nhà đầu tư riêng biệt nào làm nổi.
- CTCP góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn do sử
dung nguồn vốn huy động bị sức ép chia lợi tức từ phía các cổ đông và
khả năng sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi ở nhiều kênh khác nhau.

- CTCP tạo được 1 cơ chế riêng biệt nhằm hạn chế tối đa các tác
động tiêu cực vào thị trường khi các doanh nghiệp này lâm vào khủng
hoảng.

12


- CTCP vận động được sự tham gia đông đảo của dân chúng lại có
cơ cấu tổ chức chặt chẽ, phân định rõ giữa quyền sở hữu và quyền kinh
doanh, nó đã đem lại quyền lợi cho người lao động được quản lý thực sự
công ty.
-CTCP là hình thức tranh thủ nguồn vốn đầu tư từ ngoại quốc
thông qua hình thức liên doanh.

II. THỰC TRẠNG CỦA CÁC CÔNG TY CỔ PHẦN VÀ TÌNH
HÌNH CỔ PHẦN HÓA DNNN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY:
1. Vai trò của công ty cổ phần trong nền kinh tế thị trường;
- Trong nền kinh tế thị trường, việc huy động vốn đưa vào SXKD
thông qua thị trường chứng khoán là một kênh rất quan trọng. Mà muốn
"gia nhập" thị trường chứng khoán thì chỉ có các doanh nghiệp cổ phần.
Bạn thấy đấy giá trị giao dịch hàng ngày trên các sàn chứng khoán Việt
Nam lên đến hàng chục ngàn tỷ đồng/ngày; nhờ vậy, đã huy động được
mọi nguồn vỗn trong xã hội đưa vào lưu thông, làm cho đồng tiền không
"ngủ yên" mà luân chuyển không ngừng nghỉ. Tốc độ luân chuyển tiền tệ
càng nhanh thì kinh tế càng phát triển mạnh.
- Giờ đây, không chỉ có nhà doanh nghiệp mới kinh doanh; mà bất
cứ ai khi đã mua cỏ phần, chứng khoán thì cũng đã trở thành người
SXKD rồi.
- So với các loại hình doanh nghiệp khác hiện nay ở nước ta, thì loại
hình doanh nghiệp là công ty cổ phần (hình thức pháp lý liên kết các nhà

đầu tư, các chủ thể kinh doanh cùng nhau hùn vốn để thành lập và tổ
chức vận hành công ty theo những mục đích nhất định) có nhiều lợi thế
13


hơn hẳn. Lợi thế hơn hẳn đó xuất phát từ những lợi ích và đặc điểm pháp
lý mà pháp luật qui định và được thể hiện ở những khía cạnh sau:

 Công ty cổ phần là tổ chức có tư cách pháp nhân độc lập. Pháp
luật về công ty của các nước đều xác lập một cách cụ thể về
các quyền và nghĩa vụ pháp lý của công ty cổ phần với tư cách
là một pháp nhân độc lập, có năng lực và tư cách chủ thể riêng,
tồn tại độc lập và tách biệt với các cổ đông trong công ty.
Trong quá trình hoạt động, công ty chịu trách nhiệm về các
khoản nợ của công ty bằng chính tài sản của mình; với tư cách
chủ thể là pháp nhân thông qua người đại diện của mình theo
qui định của pháp luật, công ty có thể trở thành nguyên đơn
hoặc bị đơn dân sự trong các quan hệ tranh tụng tại tòa án. Khi
công ty mua sắm các tài sản mới, thì tài sản đó thuộc sở hữu
của công ty chứ không thuộc sở hữu của các cổ đông công ty vì
lúc này công ty cổ phần là một pháp nhân, tách biệt hoàn toàn
với các cổ đông. Trong trường hợp này, cổ đông không được
xem tài sản mà công ty mới mua sắm là tài sản của cá nhân
mình; mặc dù trên thực tế cổ đông là chủ sở hữu một số quyền
lợi có giá trị của công ty cổ phần như:quyền tham gia quản lý,
điều hành công ty theo qui định, quyền được chia cổ tức, quyền
được chia tài sản theo tỷ lệ cổ phần sở hữu khi công ty giải
thể … Tuy nhiên, với tư cách là một pháp nhân, công ty có
quyền sở hữu tài sản riêng còn các cổ đông chỉ được sở hữu cổ
phần trong công ty mà không có bất kỳ quyền sở hữu nào đối

với tài sản của công ty.

14


 Các cổ đông trong công ty cổ phần chịu trách nhiệm hữu hạn.
Khi một tổ chức hay cá nhân mua cổ phiếu của công ty cổ
phần tức là họ đã chuyển dịch vốn của mình theo những
phương thức nhất định vào công ty cổ phần và trở thành tài sản
thuộc sở hữu của công ty cổ phần, nhưng cổ đông vẫn được
hưởng các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ việc góp vốn. Với tư
cách là một pháp nhân, công ty có năng lực pháp luật độc lập,
có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình theo qui
định của pháp luật nên các quyền và nghĩa vụ của công ty hoàn
toàn tách biệt khỏi các quyền và nghĩa vụ của cổ đông vì công
ty là chủ thể của quyền sở hữu công ty. Vốn thuộc sở hữu công
ty chính là giới hạn sự rủi ro tài chính của các cổ đông trên
toàn bộ số vốn đã đầu tư vào công ty, nên trách nhiệm của
những cổ đông đối với các nghĩa vụ của công ty được hạn chế
trong phạm vi mà họ đã đầu tư vào cổ phiếu của mình. Xét về
phương diện sự tách bạch về tài sản thì các cổ đông không có
quyền đối với tài sản của công ty cổ phần nên họ không chịu
trách nhiệm về các nghĩa vụ của công ty cổ phần; công ty cổ
phần chịu trách nhiệm bằng chính tài sản của mình. Cả công ty
cổ phần lẫn chủ nợ của công ty đều không có quyền kiện đòi
tài sản của cổ đông trừ trường hợp cổ đông nợ công ty do chưa
đóng đủ tiền góp vốn hoặc chưa thanh toán đủ cho công ty cổ
phần số tiền mua cổ phiếu phát hành. Đây là điểm khác nhau
cơ bản về trách nhiệm của các chủ thể kinh doanh, đối với
công ty hợp danh hay doanh nghiệp tư nhân (theo pháp luật

Việt Nam) và đối với công ty đối nhân hay doanh nghiệp một
chủ của hầu hết các nước thì các thành viên hợp danh (hay
15


thành viên nhận vốn) và chủ doanh nghiệp sẽ chịu trách nhiệm
cá nhân vô hạn về các nghĩa vụ của công ty hay của doanh
nghiệp bằng tài sản của mình, bất kể tài sản đó có liên quan
đến hoạt động kinh doanh hay không.

 Việc chuyển nhượng các phần vốn góp được thực hiện một
cách tự do. Hầu hết pháp luật về công ty của các nước trên thế
giới đều qui định và cho phép chuyển nhượng một cách dễ
dàng và tự do các loại cổ phiếu do công ty cổ phần phát hành
từ cổ đông sang chủ sở hữu mới. Vì khác với các loại công ty
khác, vốn điều lệ của công ty cổ phần được chia thành nhiều
phần bằng nhau gọi là cổ phần. Giá trị của mỗi cổ phần gọi là
mệnh giá cổ phiếu. Việc góp vốn vào công ty cổ phần được
thực hiện bằng cách mua cổ phiếu nên cổ phiếu được xem là
hình thức thể hiện phần vốn góp của các cổ đông. Các cổ phiếu
do công ty cổ phần phát hành là hàng hóa nên các cổ đông khi
sở hữu cổ phiếu có thể tự do chuyển nhượng; hơn thế nữa trách
nhiệm của các cổ đông chỉ giới hạn trong phạm vi giá trị các
cổ phiếu mà họ sở hữu nên khi họ muốn rút lui khỏi công việc
kinh doanh hay muốn bán cổ phiếu của mình cho người khác
thì họ thực hiện rất dễ dàng. Trong khi đó đối với công ty trách
nhiệm hữu hạn theo qui định của pháp luật Việt Nam thì khi
chuyển nhượng các phần vốn góp của mình, thành viên đó phải
chuyển nhượng trước hết cho các thành viên còn lại trong công
ty hoặc chỉ được chuyển nhượng cho người không phải là

thành viên công ty trong trường hợp các thành viên còn lại
không mua hoặc không mua hết. Đó là lý do giải thích vì sao
có rất nhiều người muốn đầu tư vào công ty cổ phần chứ
16


không muốn đầu tư vào các loại hình doanh nghiệp khác. Đây
cũng là một trong những yếu tố cần thiết cho việc hình thành
và phát triển thị trường chứng khoán.
- Công ty cổ phần có cấu trúc vốn và tài chính linh hoạt
Công ty cổ phần không thể được thành lập và hoạt động nếu không có
vốn. Vốn là yếu tố quyết định và chi phối toàn bộ hoạt động, quan hệ nội
bộ cũng như quan hệ với các đối tác bên ngoài. Trong quan hệ nội bộ,
vốn của công ty được xem là cội nguồn của quyền lực. Với đặc trưng là
loại hình công ty đối vốn, quyền lực trong công ty cổ phần sẽ thuộc về
những ai nắm giữ phần lớn số vốn trong công ty. Trong quan hệ với bên
ngoài, vốn của công ty cổ phần là một dấu hiệu chỉ rõ thực lực tài chính
của công ty. Tuy nhiên, khác với nhiều yếu tố khác, vốn trong công ty cổ
phần là yếu tố năng động nhất. Các qui luật kinh tế thị trường chỉ ra rằng
cùng với sự lưu thông hàng hóa là sự lưu thông tiền tệ, tức là sự chu
chuyển các nguồn vốn. Sự phát triển của công ty cổ phần tỷ lệ thuận với
sự luân chuyển các nguồn vốn trong nền kinh tế. Sự vận động của vốn
trong công ty cổ phần vừa chịu sự chi phối khách quan của các qui luật
kinh tế, vừa bị ảnh hưởng bởi ý chí chủ quan của con người. Điều này đặt
ra một đòi hỏi là con người phải tạo ra cách thức góp vốn, cách tổ chức
và quản lý vốn để có thể đáp ứng được sự vận động linh hoạt của vốn.
Sự linh hoạt trong vận động của vốn vừa phải thích ứng với yêu cầu
đòi hỏi đa dạng của nhà đầu tư, vừa không mất đi bản chất vốn có của
công ty cổ phần. Điều đó có nghĩa là phải tạo cho bản thân công ty cổ
phần khả năng chuyển dịch các phần vốn góp một cách dễ dàng song tư


17


cách pháp nhân của công ty không vì sự chuyển nhượng đó mà bị thay
đổi.
Theo các qui định của Luật Doanh nghiệp thì công ty cổ phần ở Việt
Nam có thể qui định và phát hành nhiều loại cổ phiếu khác nhau như: cổ
phiếu phổ thông, cổ phiếu ưu đãi (trong cổ phiếu ưu đãi có: cổ phiếu ưu
đãi biểu quyết, cổ phiếu ưu đãi cổ tức, cổ phiếu ưu đãi hoàn lại và các
loại cổ phiếu ưu đãi khác…) và các loại trái phiếu. Đây sẽ là những loại
chứng khoán được phát hành rộng rãi ra công chúng nhằm tăng khả năng
thu hút vốn đầu tư cho kinh doanh của công ty. Ngoài ra, khi xây dựng
giá trị các cổ phiếu của công ty thì các công ty thường xác lập mệnh giá
của cổ phiếu thấp đã tạo điều kiện thuận lợi cho những nhà đầu tư dù cho
khả năng tài chính không nhiều nhưng vẫn có khả năng tham gia đầu tư
vốn vào công ty cổ phần.
- Tính ổn định trong hoạt động kinh doanh và không hạn chế về
thời gian tồn tại
Với các loại hình doanh nghiệp tư nhân hay công ty hợp danh, sự tồn
tại của các doanh nghiệp này luôn luôn gắn liền với tư cách của chủ sở
hữu doanh nghiệp hay các thành viên hợp danh; bởi vì hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp này có thể sẽ bị kết thúc cùng với cái chết,
sự rút lui hay sự khánh tận của chủ doanh nghiệp tư nhân hay của một
trong các thành viên hợp danh của công ty. Nhưng đối với công ty cổ
phần thì hoạt động kinh doanh của công ty hoàn toàn không phụ thuộc
vào bất kỳ điều gì có thể xảy ra đối với các cổ đông trong công ty; bởi vì
công ty cổ phần có tư cách pháp nhân độc lập nên nếu có bất kỳ sự rút lui,
sự phá sản hoặc thậm chí cái chết có xảy ra đối với các cổ đông thì công
18



ty cổ phần vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển mà hoàn toàn không hề bị ảnh
hưởng gì. Đây chính là một ưu điểm bảo đảm cho việc kinh doanh của
công ty diễn ra một cách liên tục và ổn định. Mặt khác, các luật công ty
hiện đại của một số nước đều không hạn chế thời gian tồn tại của công ty
cổ phần trừ những trường hợp như: công ty phá sản hoặc các cổ đông
cùng thỏa thuận chấm dứt hoạt động hay vì một lý do nào khác mà điều
lệ công ty qui định. Chính sự ổn định trong kinh doanh và thời gian hoạt
động lâu dài đã tạo cho các công ty cổ phần có được sự thu hút mạnh mẽ
và được ưa chuộng hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác .
- Công ty cổ phần có cơ chế quản lý tập trung cao
Với tư cách là một pháp nhân độc lập, trong công ty cổ phần có sự
tách biệt giữa quyền sở hữu và cơ chế quản lý. Đó là việc các cổ đông sẽ
bầu ra Ban giám đốc và Ban giám đốc sẽ thay mặt các cổ đông quản lý
công ty cổ phần. Như vậy, trong công ty cổ phần việc quản lý được tập
trung hóa cao vào Ban giám đốc mà không dàn trải đều việc quản lý cho
các cổ đông như đối với công ty hợp danh; bởi vì trong công ty hợp danh
việc quản lý công ty được thực hiện bởi các thành viên hợp danh với tư
cách là những người chịu trách nhiệm vô hạn hoặc liên đới chịu trách
nhiệm vô hạn về các khoản nợ trong kinh doanh của công ty nên họ được
toàn quyền quản lý công ty và nhân danh công ty trong các hoạt động. Sự
tách biệt giữa quyền sở hữu và việc quản lý còn được thể hiện ở việc luật
công ty hiện đại của một số nước còn qui định cho phép giám đốc quản lý
công ty có thể không phải là cổ đông của công ty. Giám đốc có thể là
người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, là người điều hành các
hoạt động kinh doanh hàng ngày của công ty. Rõ ràng việc qui định như
vậy một mặt thu hút được những người quản lý chuyên nghiệp được công
19



ty thuê làm công tác quản lý, mặt khác tách biệt vai trò chủ sở hữu với
chức năng quản lý đã tạo cho công ty cổ phần có được sự quản lý tập
trung cao thông qua cơ chế quản lý hiện đại, lành nghề nên rất phù hợp
với điều kiện quản lý các doanh nghiệp có qui mô lớn. Khác với doanh
nghiệp tư nhân là việc quản lý mang tính chất nội bộ gia đình, công ty cổ
phần có một cơ chế quản lý hợp lý, minh bạch rõ ràng.
Tóm lại: Trong điều kiện hiện nay của Việt Nam khi chúng ta chủ
trương phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa
thì việc giải phóng mọi năng lực sản xuất của xã hội theo hướng khai
thác các tiềm năng sẵn có về vốn, lao động, trình độ quản lý và các nguồn
lực vật chất cần thiết khác cho nhu cầu đầu tư và phát triển của đất nước
là một nhân tố quan trọng bảo đảm cho việc thực hiện thành công các
nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội theo Nghị quyết Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong tiến trình đẩy
mạnh việc khai thác các nguồn lực quốc gia, chúng ta không thể không
tính đến yếu tố nội lực. Nhìn lại các loại hình doanh nghiệp hiện nay mà
pháp luật Việt Nam cho phép thành lập và hoạt động, tuy mỗi loại đều có
những điểm mạnh nhất định đòi hỏi các nhà kinh doanh cần nắm bắt để
khai thác và vận dụng một cách linh hoạt phù hợp với điều kiện và sở
thích của mình; nhưng chúng ta không thể phủ nhận những lợi thế hơn
hẳn của loại hình doanh nghiệp là công ty cổ phần so với các loại hình
doanh nghiệp khác. Chính những ưu điểm vượt trội như thế, một mặt đã
tạo nên lực hút rất lớn của xã hội đầu tư vào hình thức kinh doanh này,
mặt khác cũng đòi hỏi nhà nước ta cần có chính sách tạo hành lang pháp
lý thuận lợi, an toàn cho các nhà đầu tư khi thành lập các công ty cổ phần

20



để kinh doanh, nhất là việc hình thành một cơ chế quản lý thích hợp
nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý công ty cổ phần ở Việt Nam.
2. Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam:
Việt Nam với một nền kinh tế còn non kém chưa thoát ra sự yếu
kém và nghèo nàn, một nền kinh tế chiếm đa số là nông nghiệp lạc hậu,
hệ thống kinh tế Nhà nước chưa năng động, không tận dụng hết các
nguồn lực tiềm năng vốn có. Thời gian chuyển đổi cơ cấu kinh tế chưa
lâu còn mang nặng tính tập trung bao cấp nặng sức, phó thác cho Nhà
nước. Người lao động chưa có tinh thần làm chủ vì thực chất tài sản đó
không phải của họ và cũng chẳng phải là của ai mà toàn dân. Chuyển
sang nền kinh tế, sự tiếp thu chậm chạp và bảo thủ đã hạn chế rất đáng kể
khả năng pháp triển nền kinh tế. Nền kinh tế Nhà nước vẫn mang vai trò
chủ đạo và được Nhà nước bảo hộ nhưng trong thực tế các doanh nghiệp
Nhà nước hoạt động kinh doanh không hiệu quả trong thị trường thậm
chí Nhà nước phải bù lỗ, kiến thức kinh tế của các nhà quản lý này có thể
là khiêm tốn cũng có thể là do sức ì cho Nhà nước giải quyết.
Năm 2009, cả nước thực hiện, sắp xếp được 105 doanh nghiệp.
Trong đó, cổ phần hóa 60 doanh nghiệp, bộ phận doanh nghiệp, đạt 8,4%
kế hoạch giai đoạn 2009 - 2010. Có thể nhận thấy, tiến độ cổ phần hóa
trong năm 2009 là rất chậm so với kế hoạch đã được Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt.
Quá trình cổ phần hóa diễn ra chậm là do khách quan. Khi kinh tế
suy giảm, đem doanh nghiệp ra bán cũng không ai mua. Chính phủ vẫn
quyết tâm đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa nhưng không có nghĩa làm

21


bằng mọi giá, mà phải làm theo cách có hiệu quả nhất, đảm bảo phát huy
được thị trường hóa cổ phần hóa. Có doanh nghiệp muốn cổ phần hóa để

đổi mới chu trình quản trị quản lý nhưng vì chưa tìm được đối tác chiến
lược, nên phải tạm dừng để tìm kiếm.
Nhiều chủ trương sắp xếp đổi mới cũng thể hiện quyết tâm cổ phần
hóa, cho phá sản những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả và thua lỗ
kéo dài, Nghị quyết của Quốc hội cũng thể hiện điều này. Chủ trương của
Chính phủ là giữ một số tổng công ty lớn trong những lĩnh vực nhạy cảm,
nhưng đồng thời vẫn hình thành những tập đoàn đa sở hữu.
Chẳng hạn ngành xăng dầu, tiếp đến là những tập đoàn mà Nhà
nước vẫn đang nắm giữ 100% vốn, trong điều kiện cho phép sẽ cổ phần
hóa. Nhà nước là chủ sở hữu chỉ cần nắm tỷ lệ vốn nhất định đủ để chi
phối chứ không cần 100%, trừ những lĩnh vực đặc biệt.
Cổ phần hóa là giai đoạn thí điểm, vừa làm vừa hoàn thiện cơ chế
nên vai trò quản lý Nhà nước là rất quan trọng, nếu không sẽ xảy ra tình
trạng như các nước là người lao động bị đưa ra ngoài. Chúng ta làm rất
thận trọng nên cơ chế thay đổi liên tục, thay đổi để phù hợp với thực tế,
đảm bảo nâng cao hiệu quả, phát huy tính dân chủ của người lao động và
huy động được các nguồn lực.
Nhờ có vai trò Nhà nước, quá trình cổ phần hóa ở từng doanh
nghiệp đã đảm bảo điều kiện người lao động được giải quyết tốt, không
tạo sức ép về lao động đối với chương trình cổ phần hóa. Đây là những
điểm đạt được.

22


Mô hình doanh nghiệp lớn có đặc thù và có vấn đề lớn do đó cần
có cơ chế xử lý riêng. Định hướng của Chính phủ chỉ đạo là sửa đổi cơ
chế theo thực tế phát sinh. Điểm “vướng” nhất trong quá trình cổ phần
hóa các doanh nghiệp lớn là đổi mới toàn diện từ tư duy đến quản trị.
Vừa rồi, Quốc hội đưa ra vấn đề bán cổ phần cho cổ đông chiến lược.

Đây là vấn đề khó vì nhiều khi phải mời cổ đông chiến lược vào để
họ giúp cho doanh nghiệp mình. Lúc ấy, giá không quan trọng và có thể
bán với giá thỏa thuận thấp hơn giá thị trường. Cần có chủ trương quan
điểm rõ thì doanh nghiệp mới dám làm.
Khó khăn nhất của doanh nghiệp là xử lý tài chính, xác định giá trị
sở hữu đất đai, giá trị thương hiệu, mua bán cổ phần cho cổ đông chiến
lược, giải quyết thu nhập với người lao động. Do đó, cần rà soát xem cơ
chế vướng ở đâu. Kết quả khảo sát sơ bộ cho thấy vướng ở cơ chế bán,
vấn đề tài chính.
Cho đến nay, sau nhiều năm cổ phần hóa (CPH) mới có hơn 3.800
công ty nhà nước và bộ phận của công ty nhà nước chuyển sang công ty
cổ phần, 300 công ty TNHH một thành viên nhà nước. Như vậy, thời
gian còn lại để thực hiện không còn nhiều, trong khi còn khoảng 1.500
DN nhà nước phải sắp xếp, đây là một thử thách không dễ vượt qua.
Nhiều bất cập trong quá trình CPH:
Theo Bộ Tài chính, có nhiều nguyên nhân dẫn đến các DN chậm
CPH. Nào là tồn tại về tài chính, do kinh doanh thua lỗ dẫn đến mất vốn
nhà nước, nợ xấu ngân hàng, nhiều tài sản tồn đọng không xử lý… đã
làm nhiều DN nhà nước không CPH được. Nhiều DN đã "ép" CPH do

23


đánh giá tăng giá trị tài sản, chất lượng hoạt động, nên sau CPH tình hình
sản xuất, kinh doanh không cải thiện. Thậm chí, không ít DN không thể
quyết toán để bàn giao tài chính sang công ty cổ phần. Việc huy động
vốn từ các tổ chức, cá nhân bên ngoài còn hạn chế, nên vốn nhà nước vẫn
chiếm tỷ lệ lớn trong vốn điều lệ các DN CPH (52%). Đã vậy, một tỷ lệ
lớn DN sau CPH, ban quản lý, điều hành là những người quản lý của DN
Nhà nước cũ, nên không đổi mới trong quản trị DN... Ngoài ra, một số

quy định pháp luật về CPH chưa thật sát với thực tế, hoặc chậm hướng
dẫn thi hành. Về các nội dung tính đủ giá trị đất, nhất là việc tính giá đất
thuê vào giá trị DN, xác định lợi thế về địa lý, giá trị thương hiệu, lựa
chọn cổ đông chiến lược, minh bạch các thông tin về CPH… làm chưa
chuẩn nên đã kéo dài thời gian CPH, hoặc bị lợi dụng trong khi thực hiện.
Bên cạnh đó, các quy định, khung pháp lý về CPH lại thay đổi
liên tục khiến DN khó cập nhật. Chẳng hạn, từ năm 2002 đến nay quy
định pháp luật về CPH được thay đổi 3 lần (Nghị định (NĐ) 64/2002/CP,
NĐ 187/2004/CP và NĐ 109/2007/CP) và các thông tư hướng dẫn
thường ban hành chậm, nên đã ảnh hưởng đến việc thực hiện kế hoạch
CPH DN nhà nước...
Đẩy nhanh tiến độ, nhưng phải bảo đảm chất lượng
Để DN hoạt động hiệu quả sau CPH, Nhà nước chỉ giữ 100%
vốn tại các loại DN như DN quốc phòng, an ninh; DN công ích quan
trọng; công ty mẹ của một số tập đoàn kinh tế, tổng công ty hoạt động
một trong những ngành, nghề liên quan đến an ninh quốc gia về kinh tế,
quản lý, khai thác nguồn tài nguyên và khoáng sản quan trọng… Ngoài ra,
Nhà nước cũng cần đổi mới chính sách đầu tư tạo lập tài sản và quyền sở
hữu, quản lý tài sản phục vụ mục tiêu cung ứng sản phẩm và dịch vụ
công ích theo hướng Nhà nước có trách nhiệm đầu tư tạo lập những tài
24


sản cần đầu tư lớn, mà các DN không có khả năng đầu tư hoặc không
muốn đầu tư (hệ thống đập hồ, kênh mương thủy lợi liên vùng, hệ thống
cấp thoát nước đô thị lớn, thông tin tín hiệu hàng hải…) để giao hoặc tổ
chức đấu thầu cung ứng các sản phẩm, dịch vụ công ích.
Được biết, địa vị pháp lý của các công ty cổ phần mà Nhà nước
giữ cổ phần chi phối chưa nhất quán. Khi cần kiểm soát, các cơ quan
quản lý coi họ là DN nhà nước, khi xét hưởng ưu đãi của nhà nước (nếu

có) họ lại bị coi là công ty cổ phần. Vì thế, nên thay đổi nhận thức không
còn tồn tại DN nhà nước nữa, mà chỉ còn DN hoạt động theo Luật DN.
Các cơ quan quản lý nhà nước nên hạn chế việc can thiệp bằng mệnh
lệnh hành chính vào quá trình quản trị điều hành của DN. Thay vào đó,
nên ban hành các quy định về người đại diện sở hữu vốn nhà nước và
thực hiện quyền của Nhà nước với DN như một cổ đông bình đẳng với
các cổ đông khác.
Một số chuyên gia cho rằng, trong thời điểm hiện nay nếu CPH
vội vàng có thể dẫn đến tình trạng "thôn tính" tài sản nhà nước. Vì thế,
mục tiêu CPH nên được nhìn nhận một cách tổng thể và dài hạn hơn.
CPH là việc cần phải làm để tái cơ cấu DN nhà nước nhằm đặt mục tiêu
tăng hiệu quả sử dụng vốn nhà nước, nhưng không CPH bằng mọi giá.
Vấn đề hiện nay là đẩy nhanh tiến độ CPH các DN nhà nước, song phải
bảo đảm chất lượng khi thực hiện CPH các DN này.

3. Thành công và những tồn tại của các công ty cổ phần ở Việt
Nam trong thời gian qua:
a, Những thành tựu:
25


×