Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện đƣờng lối đối ngoại trong những năm từ 1991 đến 2001

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (533.6 KB, 87 trang )

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình nghiên cứu đề tài “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo thực hiện đƣờng lối đối ngoại trong những năm từ 1991 đến 2001”.
Em xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành nhất tới Tiến sĩ Khuất Thị Hoa –
Người đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này.
Em xin bày tỏ lòng cảm ơn tới các thầy, cô trong trường Đại học sư
phạm Hà Nội 2; đặc biệt là các thầy cô trong khoa Lịch sử đã giúp đỡ em
trong suốt thời gian qua.
Em cũng xin bày tỏ lời cảm ơn tới gia đình cũng như bạn bè đã tạo điều
kiện và giúp đỡ em trong thời gian hoàn thành khóa luận.
Trong quá trình nghiên cứu, với điều kiện hạn chế về thời gian cũng
như kiến thức của bản thân nên khóa luận khó tránh khỏi những thiếu sót.
Kính mong sự chỉ bảo của các thầy cô cũng như các bạn sinh viên.

Hà Nội, Tháng 5 năm 2012
Sinh viên

Nguyễn Thị Huyền

SVTH: Nguyễn Thị Huyền

1

GVHD: Ts. Khuất Thị Hoa


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

LỜI CAM ĐOAN



Tôi xin cam đoan với đề tài: “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
thực hiện đƣờng lối đối ngoại trong những năm từ 1991 đến 2001” là kết
quả nghiên cứu của riêng tôi dựa trên những kiến thức đã được học trong
chuyên ngành Lịch sử Đảng và các tài liệu tham khảo, đặc biệt dưới sự giúp
đỡ của Tiến sĩ Khuất Thị Hoa. Kết quả này không trùng với kết quả của bất
cứ tác giả nào khác. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, Tháng 5 năm 2012
Sinh viên

Nguyễn Thị Huyền

SVTH: Nguyễn Thị Huyền

2

GVHD: Ts. Khuất Thị Hoa


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................. 6
1. Lý do chọn đề tài .............................................................................. 6
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .............................................................. 7
3. Mục đích và nhiệm vụ của khóa luận ............................................... 9
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của khóa luận ............................. 9
5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu..................................... 9
6.Kết cấu của khóa luận ........................................................................ 10
NỘI DUNG .......................................................................................... 11

CHƢƠNG 1: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO THỰC
HIỆN ĐƢỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI TRONG NHỮNG NĂM TỪ 19911996 ................................................................................................................. 11
1.1. Bối cảnh lịch sử ............................................................................ 11
1.1.1. Bối cảnh quốc tế ......................................................................... 11
1.1.2. Bối cảnh trong nước.................................................................... 14
1.2. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện đƣờng lối đối
ngoại trong những năm từ 1991- 1996 ........................................................ 16
1.2.1. Đường lối đối ngoại rộng mở của Đảng ..................................... 18
1.2.2.Tham gia giải quyết vấn đề Campuchia ...................................... 21
1.2.3. Bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc ................................. 24
1.2.4. Đấu tranh phá bỏ cấm vận và bình thường hóa quan hệ với Mỹ 27
1.2.5.Tăng cường quan hệ với các nước Đông Nam Á và gia nhập
ASEAN............................................................................................................ 32
1.2.6. Khôi phục và củng cố quan hệ với các nước láng giềng, với Nga
và các nước Đông Âu, các nước tư bản, công nghiệp phát triển, các tổ chức
quốc tế, các đảng cộng sản và các tổ chức nhân dân trên thế giới .................. 34

SVTH: Nguyễn Thị Huyền

3

GVHD: Ts. Khuất Thị Hoa


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
CHƢƠNG 2: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO THỰC
HIỆN ĐƢỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI TRONG NHỮNG NĂM TỪ 1996
ĐẾN 2001 ...................................................................................................... 44
2.1. Bối cảnh lịch sử ............................................................................ 44
2.1.1. Bối cảnh thế giới ......................................................................... 44

2.1.2. Bối cảnh trong nước.................................................................... 45
2.2. Đảng lãnh đạo hoạt động đối ngoại trong những năm 19962001 ................................................................................................................ 46
2.2.1. Đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc (1996 - 2001)......... 46
2.2.2. Tiếp tục lãnh đạo thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa các quan
hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế ............................................ 48
2.2.2.1.Củng cố quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước láng giềng,
các nước bạn bè truyền thống, các nước trong khu vực cà các châu lục ....... 48
2.2.2.2. Đẩy mạnh hợp tác với Mỹ, các nước tư bản phát triển và các tổ
chức quốc tế .................................................................................................... 56
2.2.2.3.Triển khai hoạt động ngoại giao đa phương, tích cực góp phần
giải quyết các vấn đề toàn cầu ........................................................................ 62
2.2.2.4. Tích cực chuẩn bị và từng bước tham gia tiến trình hội nhập
kinh tế khu vực và quốc tế; nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại ................... 64
2.2.2.5. Phối hợp chặt chẽ ngoại giao nhà nước với hoạt động quốc tế
của Đảng ......................................................................................................... 69
2.3. Một số nhận xét và bài học kinh nghiệm ................................... 71
KẾT LUẬN .......................................................................................... 82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................... 83

SVTH: Nguyễn Thị Huyền

4

GVHD: Ts. Khuất Thị Hoa


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
BCHTW


: Ban chấp hành Trung ương.

CHNDTH

: Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.

CHXHCNVN : Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
CNXH

: Chủ nghĩa xã hội.

CNTB

: Chủ nghĩa tư bản.

ĐH

: Đại hội.

ĐHĐB

: Đại hội đại biểu.

ĐCSVN

: Đảng Cộng sản Việt Nam.

ĐCSTQ


: Đảng Cộng sản Trung Quốc.

HNTW

:Hội nghị Trung ương.

NQ

: Nghị quyết.

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa.

SVTH: Nguyễn Thị Huyền

5

GVHD: Ts. Khuất Thị Hoa


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12-1986), Đảng Cộng sản
Việt Nam (ĐCSVN) đã đưa ra một quyết định lịch sử: Đổi mới toàn diện
đường lối xây dựng Chủ nghĩa xã hội (CNXH) trong thời kì quá độ ở Việt
Nam, trong đó có đường lối đối ngoại.
Cuối thập niên 80 đầu thập niên 90 của thế kỉ XX, những thành tựu kì

diệu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đã và đưa loài người bước vào
thời kì văn minh hậu công nghiệp với hai đặc trưng đó là xã hội thông tin và
kinh tế tri thức. Trong bối cảnh đó, khu vực hoá, toàn cầu hoá về mọi mặt trở
thành xu thế, quy luật phổ biến của thời đại. Thực trạng đó mang lại những cơ
hội, những xung lực và cả những thách thức gay gắt cho tất cả các nước, trước
hết là những nước đang và chậm phát triển. Đồng thời cùng thời gian này, cục
diện chính trị thế giới đang thay đổi nhanh chóng và phức tạp : Các nước xã
hội chủ nghĩa (XHCN) ở Đông Âu và Liên Xô tan vỡ; chủ nghĩa tư bản
(CNTB) do còn nắm được và sử dụng được thành tựu của Cách mạng khoa
học công nghệ vẫn còn khả năng phát triển; chiến tranh lạnh kết thúc, thế đối
đầu hai cực tan vỡ dẫn tới yêu cầu khách quan cho sự dần hình thành xu
hướng đa cực và đối thoại trong quan hệ quốc tế. Kinh tế trở thành nhân tố
quyết định sức mạnh tổng hợp của từng quốc gia và đóng vai trò quan trọng
trong quan hệ quốc tế trong đó có cả khu vực Đông Nam Á - Châu Á - Thái
Bình Dương.
Trong hoàn cảnh đó, các dân tộc độc lập đã có những điều chỉnh lớn về
chiến lược, sách lược của mình để phát triển đất nước, chống lại nguy cơ bị
xâm lược ; bị nô dịch về văn hoá - kinh tế và áp bức chính trị.

SVTH: Nguyễn Thị Huyền

6

GVHD: Ts. Khuất Thị Hoa


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Trải qua một nhiệm kì thực hiện đổi mới đối ngoại với những thành
công nhất định (1986 - 1991), ĐCSVN bằng nhạy cảm chính trị và kinh
nghiệm lãnh đạo cách mạng, trên nguyên tắc: độc lập, tự chủ, tự cường đồng

thời thực hiện đối ngoại rộng mở: đa phương, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại,
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng bị bao
vây, cấm vận, bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc, Mỹ và các nước
trong khu vực, tạo cơ hội mới cho phát triển kinh tế - xã hội.
Vói khả năng của mình, tôi chọn vấn đề: “đường lối đối ngoại rộng mở
của ĐCSVN giai đoạn 1991- 2001” làm khoá luận tốt nghiệp chuyên ngành
Lịch sử Đảng nhằm hiểu thấu đáo hơn đáo hơn đường lối đối ngoại của Đảng
trong giai đoạn lịch sử đầy biến động này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đường lối đối ngoại của ĐCSVN là một đề tài khoa học rất hấp dẫn đối
với giới nghiên cứu lịch sử và các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Bộ ngoại
giao. Sự thật đó được thể hiện bằng các sản phẩm:
“Hãy nhìn quan hệ Mỹ- Việt với đôi mắt mới” bài phát biểu của Lê
Mai, Thứ trưởng Bộ ngoại giao trước Hội đồng Đối ngoại Mỹ tại Niu Oóc
tháng 9 -1990; “ Dân tộc và thời đại - Cơ hội và thách thức” của Trần Quang
Cơ, Thứ trưởng Bộ ngoại giao trả lời phỏng vấn Tạp chí Thông tin lý luận
tháng 1 - 1991; “Một số vấn đề quốc tế của Đại hội VII” bài viết của Vũ
Khoan, Thứ trưởng Bộ ngoại giao đăng trong Tạp chí Quan hệ Quốc tế, tháng
8 - 1991; “Cục diện thế giới mới và vận nước” của Trần Quang Cơ đăng trên
Tạp chí Quan hệ Quốc tế , 3 -1992; “Trên đường triển khai chính sách đối
ngoại theo định hướng mới” của Nguyễn Mạnh Cầm, Bộ trưởng Bộ Ngoại
giao, đăng trong Tạp chí Cộng sản, số 4-1993; “Nền ngoại giao đổi mới” của
Thủ tướng Võ Văn Kiệt trả lời phỏng vấn Tuần báo Quốc tế đầu xuân 1994…

SVTH: Nguyễn Thị Huyền

7

GVHD: Ts. Khuất Thị Hoa



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Các bài viết của các nhà nghiên cứu: “Nhìn lại thế giới năm 1987”và
“Năm 1988, bước ngoặt lớn” của Kiều Nguyễn đăng trong Tạp chí cộng sản
số 1-1989, “ Hoà bình thế giới và các vấn đề xung đột khu vực”và “ Về vấn
đề hợp tác quốc tế” của Xuân Anh đăng trên Tạp chí Cộng sản số 2, số 10 1989 ; “về chiến lược “ diễn biến hoà bình”của đế quốc Mỹ trong tình hình
hiện nay”của Nguyễn Văn Trung đăng trên Tạp chí Cộng sản, số 12 -1989;
“chính sách đa dạng hoá” của Nguyễn Ngọc Trường và “thử nhìn lại chặng
đường ngoại giao Việt Nam từ 1975” của Thu Nga đăng trên Tuần báo Quốc
tế tháng 5-1994,…
Các sách đã xuất bản của các tác giả trong nước: “Đổi mới hoạt động
kinh tế đối ngoại Việt Nam” , Nxb Chính trị Quốc gia , 2002 cuả Nguyễn
Thanh Uẩn; “ Chiến lược diễn biến hoà bình của đế quốc Mĩ và các thế lực
phản động”, Nxb Chính trị Quốc gia, 1993 của Nguyễn Anh Lân; “Hãy cảnh
giác cuộc chiến tranh không có khói súng”, Nxb Chính trị Quốc gia, 1994 của
Lưu Đình Á; “Chính sách đối ngoại của Hoa Kì sau chiến tranh lạnh”, Nxb
Chính trị Quốc gia, 2002; “Ngoại giao Việt Nam 1945-2000”, Nxb Chính trị
Quốc gia, 2002, của Bộ ngoại giao,…
Bên cạnh đó còn có một số luận án, luận văn đã bảo vệ đề cập đến chủ
đề này: Vũ Quang Vinh: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo hoạt động đối
ngoại (1986-2000), Luận án tiến sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, 2001; Vũ Đình Công : Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng sản
Việt Nam (1986-1995), Luận văn Thạc sĩ khoa học Lịch sử, Đại học Quốc gia
Hà Nội, 1997…
Các sản phẩm đó là tài liệu quý báu để tôi khai thác, kế thừa khi thực
hiện khoá luận của mình.

SVTH: Nguyễn Thị Huyền

8


GVHD: Ts. Khuất Thị Hoa


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
3. Mục đích và nhiệm vụ của khoá luận
Với đối tượng là đường lối đối ngoại của ĐCSVN và thời gian 19912001:
3.1. Mục đích của khoá luận
- Hệ thống khái quát phân tích để làm rõ sự độc lập. sáng tạo của
ĐCSVN trong việc hoạch định đường lối đối ngoại giai đoạn 1991- 2001.
- Làm rõ phương pháp và cách thức tiến hành đường lối đối ngoại.
- Đánh giá những thành tựu, hạn chế và bước đầu nêu những kinh
nghiệm.
3.2. Nhiệm vụ của khoá luận
- Phân tích bối cảnh chính trị quốc tế và trong nước trong những năm
1991- 2001.
- Hệ thống khái quát phân tích để làm rõ sự độc lập sáng tạo của
ĐCSVN trong việc hoạch định đường lối đối ngoại giai đoạn 1991- 2001.
- Làm rõ phương pháp và cách thức tiến hành đường lối đối ngoại.
- Đánh giá những thành tựu, hạn chế và bước đầu nêu những kinh
nghiệm.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Nội dung: Nghiên cứu đuờng lối, chủ trương và quá trình tổ chức chỉ
đạo thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng. Những thành công, hạn chế
trong công tác đối ngoại của Đảng.
Thời gian khoá luận đề cập 1991 đến năm 2001.
5. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
- Nguồn tài liệu:
Các Văn kiện của Ban chấp hành Trung ương Đảng (BCHTW), Bộ
Chính trị, Ban bí thư về đường lối đối ngoại .


SVTH: Nguyễn Thị Huyền

9

GVHD: Ts. Khuất Thị Hoa


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Các tài liệu lưu trữ của Văn phòng Trung uơng Đảng, Bộ ngoại giao,
Ban Đối ngoại Trung ương.
Bài nói, bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Bộ ngoại
giao.
Một số sách, báo, tạp chí trong và ngoài nước đã xuất bản.
Phương pháp nghiên cứu:
Khóa luận đã sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lênin; kết hợp chặt chẽ phương
pháp duy vật lịch sử với các phương pháp được logic, tổng hợp, phân tích, so
sánh.
6. Kết cấu của khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm hai chương:
Chương 1: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện đường lối đối
ngoại trong những năm 1991-1996.
Chương 2: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện đường lối đối
ngoại trong những năm 1996 - 2001.

SVTH: Nguyễn Thị Huyền

10


GVHD: Ts. Khuất Thị Hoa


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO
THỰC HIỆN ĐƢỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI TRONG
NHỮNG NĂM 1991 - 1996
1.1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ
1.1.1. Bối cảnh quốc tế
Từ giữa những năm 80 đến những năm đầu thập niên 90 của thế kỉ XX,
tình hình thế giới và khu vực diễn biến hết sức nhanh chóng và phức tạp làm
thay đổi cục diện kinh tế, chính trị thế giới, đặc biệt là khi chiến tranh lạnh
kết thúc, cuộc cách mạng khoa học- công nghệ phát triển mạnh mẽ. Thực
trạng đó không chỉ đặt ra cho các nước những cơ hội và điều kiện thuận lợi để
phát triển mà còn có cả những khó khăn thách thức rất lớn.
Về tình hình chính trị, vào đầu thập niên 90, một trật tự thế giới mới
dần được hình thành nguyên nhân là do sự sụp đổ của các nước XHCN ở
Đông Âu và Liên Xô (1991) khiến trật tự thế giới hai cực tồn tại trong suốt
nửa thế kỉ từ sau chiến tranh thế giới thứ hai chấm dứt. Lực lượng trên thế
giới thay đổi theo chiều hướng có lợi cho Mĩ và các nước tư bản phát triển,
đẩy phong trào cách mạng thế giới vào tình thế bất lợi và khủng hoảng, thoái
trào mang tính toàn cầu.
Về tình hình kinh tế, có những biến động lớn:
Thứ nhất, ưu tiên phát triển kinh tế trở thành một trong những xu
hướng chung của mọi quốc gia dân tộc.
Chiến tranh lạnh tuy không phủ nhận vai trò của kinh tế song về cơ
bản, sức mạnh chính trị quân sự trở thành nhân tố chủ yếu đảm bảo vị trí

cường quốc của một quốc gia. Tuy nhiên, khi chiến tranh lạnh kết thúc, hoà

SVTH: Nguyễn Thị Huyền

11

GVHD: Ts. Khuất Thị Hoa


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
hoãn trong quan hệ quốc trở thành xu thế chủ đạo, cuộc chạy đua về kinh tế
giữa các nước trên thế giới đang dần thay thế cho cuộc chạy đua về vũ trang.
Tất cả các nước trên thế giới đều điều chỉnh đường lối, tập trung sức phát
triển kinh tế - xã hội, cố gắng ổn định kinh tế, đồng thời mở rộng cửa, đa
phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, tăng cường hợp tác với quốc tế nhằm đưa
đất nước phát triển. Như vậy kinh tế đã trở thành nhân tố quyết định trong sức
mạnh tổng hợp của mỗi quốc gia, đảm bảo vai trò vị trí của các quốc gia đó
trong đời sống quốc tế.
Thứ hai, xu hướng liên kết khu vực trở thành điểm nổi bật của kinh tế
thế giới
Quá trình hợp tác, liên kết và nhất thể hoá nền kinh tế khu vực diễn ra
mạnh mẽ và sôi động từ năm 1992. Nhiều tổ chức và diễn đàn kinh tế đa
phương ở từng khu vực đã được hình thành như Mỹ hình thành Khu vực tự do
thương mại Bắc Mĩ (NAFTA); các nước ASEAN lập khu vực mậu dịch tự do
AFTA...Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và xu hướng toàn cầu hoá nền
kinh tế thế giới... là động lực quan trọng thúc đẩy quá trình hợp tác, liên kết
và nhất thể hoá nền kinh tế khu vực.
Tuy nhiên, ở đầu thập niên 90, nền kinh tế thế giới vẫn trong tình trạng
suy thoái và gặp không ít khó khăn thử thách. Nguyên nhân chính do cuộc
khủng hoảng vùng Vịnh , giá dầu lửa đã tác động mạnh đến kinh tế các nước,

bên cạnh đó, nguồn vốn đầu tư thiếu nghiêm trọng, tình trạng mắc nợ và
thanh toán nợ vẫn chưa được giải quyết về cơ bản, quan hệ kinh tế - thương
mại còn nhiều hạn chế do bế tắc trong vòng thương lượng buôn bán quốc tế.
Thứ ba, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bị khủng hoảng sâu
sắc về lý luận, đường lối, tổ chức và phong trào hoạt động do sự sụp đổ của
các nước XHCN ở châu Âu nhất là ở Liên Xô. Trước yêu cầu đó buộc các tổ

SVTH: Nguyễn Thị Huyền

12

GVHD: Ts. Khuất Thị Hoa


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
chức dân chủ quốc tế phải tìm cách đổi mới, chuyển hướng hành động gắn bó
với lợi ích của quần chúng.
Tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương, đặc biệt là khu vực Đông Nam
Á từ cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 là một khu vực phát triển năng động,
là nơi tập trung các nền kinh tế phát triển nhất thế giới. Đặc biệt, nền kinh tế
Trung Quốc phát triển nhanh nhất thế giới với tỉ lệ tăng trưởng lên tới 9,5%
trong thời kì từ 1978 đến năm 1996 [1, tr.13-14]. Đông Á trở thành khu vực
có tốc độ tăng trưởng cao hàng đầu thế giới.
Tuy vậy, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ vào cuối thập niên 90 diễn
ra tại các nước Đông Á lâm vào gây nhiều bất lợi cho các nước trong khu vực.
Nguyên nhân do môi trường hoà bình, ổn định, phát triển của khu vực chưa
thật vững chắc, vẫn còn tiềm ẩn một số nhân tố gây mất ổn định, nội bộ một
số nước và giữa các nước với nhau vẫn còn tồn tại mâu thuẫn, xung đột về
chính trị, tôn giáo...
Như vậy, nhìn chung sau chiến tranh lạnh các quốc gia trên thế giới vừa

tập trung ưu tiên giải quyết các vấn đề kinh tế- xã hội ở trong nước vừa đẩy
mạnh đấu tranh giành lấy những điều kiện thuận lợi nhất để phát triển. Do đó,
xu thế hoà bình, hợp tác cùng phát triển, giải quyết mọi tranh chấp bất đồng
thông qua đàm phán thương lượng chính trị trở thành xu thế chủ đạo trong đời
sống quan hệ quốc tế đương đại.
Bối cảnh quốc tế như trên đã tác động sâu sắc đến Việt Nam:
Sự sụp đổ của các nước XHCN ở Đông Âu và Liên Xô đã gây ra ảnh
hưởng không tốt về chính trị, tư tưởng, làm một số người hoài nghi đối với
CNXH, giảm lòng tin đối với Đảng và Nhà nước. Một số cán bộ, đảng viên
tiếp nhận những tư tưởng sai lầm về cải tổ, cải cách của nước ngoài một cách
máy móc, giáo điều.

SVTH: Nguyễn Thị Huyền

13

GVHD: Ts. Khuất Thị Hoa


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Những phần tử cơ hội, bất mãn đẩy mạnh hoạt động chống lại sự lãnh
đạo của Đảng, đòi đa nguyên chính trị, đa đảng, đòi dân chủ không giới hạn,
gây mất ổn định tình hình, cản trở công cuộc đổi mới.
Sự ủng hộ, giúp đỡ của Liên Xô và các nước XHCN khác đối với cuộc
đấu tranh của nhân dân ta trong sự nghiệp bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ có những điều chỉnh mới.
Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu cũng tác động sâu sắc
đến Lào và Campuchia. Chủ nghĩa đế quốc (CNĐQ) và các lực lượng phản
động quốc tế lợi dụng tình hình, gây sức ép hơn nữa đối với nước ta và các
nước Đông Dương, hòng giải quyết vấn đề Campuchia có lợi cho chúng và

tiếp tục chia rẽ ba nước Đông Dương. Các thế lực thù địch ra sức lợi dụng
tình hình trên, ráo riết thực hiện âm mưu diễn biến hoà bình bằng những thủ
đoạn về kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá và quân sự rất thâm độc. Chính
quyền Mỹ vẫn duy trì chính sách bao vây, cấm vận, ngăn cản các nước và các
tổ chức quốc tế quan hệ kinh tế với Việt Nam.
1.1.2. Bối cảnh trong nƣớc
Sau 5 năm thực hiện đường lối đổi mới (1986 - 1991), Việt Nam đã tạo
ra những chuyển biến căn bản về mọi mặt.
Trên lĩnh vực kinh tế, đã đạt được những thành tựu rõ rệt trong việc
thực hiện các mục tiêu của ba chương trình kinh tế (lương thực, thực phẩm,
hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu).
Từ chỗ thiếu ăn triền miên, năm 1988 phải nhập hơn 45 vạn tấn gạo,
năm 1989 đã xuất khẩu được 1,4 triệu tấn gạo, đứng hàng thứ ba trên thế giới
về xuất khẩu lương thực [44,tr.211]. Hàng hoá trên thị trường, nhất là tiêu
dùng ngày càng dồi dào, đa dạng, tiến bộ rõ nét về mẫu mã và chất lượng.
Kinh tế đối ngoại phát triển nhanh, mở rộng hơn trước về quy mô, hình
thức và góp phần quan trọng vào thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội. Kim

SVTH: Nguyễn Thị Huyền

14

GVHD: Ts. Khuất Thị Hoa


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ngạch xuất khẩu tăng từ 439 triệu đôla năm 1986 lên 1.019 triệu rúp và 1.170
triệu đôla năm 1990. Đã giảm được phần lớn mức độ nhập siêu so với trước
đây. Bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, kiềm chế được một bước

đà lạm phát. Quan hệ sản xuất được điều chỉnh phù hợp hơn với yêu cầu phát
triển của lực lượng sản xuất. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN
tiếp tục được xây dựng.
Với sự phát triển kinh tế nói trên giúp cho giải quyết tốt các vấn đề
chính sách xã hội. Từ năm 1990 đã có thêm 4,2 triệu lao động tìm được việc
làm, đời sống của nhân dân được cải thiện hơn.
Về công tác bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội có
những đổi mới quan trọng về đường lối, chủ trương, phương pháp công tác và
xây dựng lực lượng, góp phần ổn định chính trị xã hội, tạo môi trường thuận
lợi cho công cuộc đổi mới.
Trên lĩnh vực đối ngoại, cũng đạt được những thành tựu đáng kể, tạo
môi trường quốc tế thuận lợi hơn cho công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, đẩy lùi sự bao vây, cô lập của các thế lực thù địch đối với nước ta,
nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Mặc dù đạt được những thành tựu đáng kể trên nhưng đất nước ta vẫn
còn gặp không ít khó khăn trở ngại: các nhân tố chưa ổn định và các vấn đề
nóng bỏng còn nhiều, đất nước vẫn chưa ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội, số người không có việc làm hoặc việc làm thất thường rất lớn, đời
sống văn hoá tinh thần có biểu hiện suy thoái, chất lượng giáo dục giảm,
nhiều giá trị đạo đức bị suy đồi...
Như vậy với những yếu tố mới của bối cảnh quốc tế và trong nước xuất
hiện, đòi hỏi Đảng phải đổi mới sự lãnh đạo, chủ động đón nhận thời cơ, tranh

SVTH: Nguyễn Thị Huyền

15

GVHD: Ts. Khuất Thị Hoa



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
thủ vốn, khoa học - công nghệ hiện đại của thế giới để xây dựng đất nước
vững mạnh về mọi mặt đồng thời chủ động ứng phó với những nguy cơ, thách
thức trước mắt.

1.2. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN
ĐƢỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI TRONG NHỮNG NĂM 1991 - 1996
Trước tình hình các thế lực thù địch thực hiện chính sách bao vây, cấm
vận Việt Nam, Bộ Chính trị họp và ra NQ số 32 (7-1986) Về tình hình thế giới
và chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, NQ chỉ rõ, trên mặt trận
đối ngoại phải ra sức kết hợp tốt nhất sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của
thời đại, phấn đấu giữ vững hòa bình ở Đông Dương và Đông Nam Á, góp
phần giữu vững hòa bình thế giới. NQ nhấn mạnh phải chủ động chuyển sang
một giai đoạn đấu tranh mới dưới hình thức cùng tồn tại cùng hòa bình giữa
ba nước Đông Dương với Trung Quốc, các nước ASEAN, Mỹ, xây dựng
thành một khu vực hòa bình, ổn định và hợp tác.
Tháng 12-1986, ĐHĐB toàn quốc lần thứ VI của Đảng quyết định đổi
mới toàn diện sự lãnh đạo của Đảng. Cùng với đổi mới tư duy trong đường lối
xây dựng kinh tế, Đảng đã từng bước đổi mới tư duy về đối ngoại. Với chủ
trương đối ngoại rộng mở mà nhiệm vụ hàng đầu là:
Ra sức kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, phấn đấu
giữ hòa bình ở Đông Dương, góp phần tích cực giữ vững hòa bình ở Đông
Nam Á và trên thế giới, tăng cường quan hệ đặc biệt giữa ba nước Đông
Dương, tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các
nước trong cộng đồng XHCN, tranh thủ điều kiện quốc tế thuân lợi cho sự
nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc…[16, tr.99].
Chủ trương “thêm bạn bớt thù”, ĐH nhấn mạnh nhiệm vụ trọng tâm là
bình thường hóa quan hệ Việt- Trung, Việt - Mỹ vì quyền lợi của nhân dân

SVTH: Nguyễn Thị Huyền


16

GVHD: Ts. Khuất Thị Hoa


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
hai nước, coi việc giải quyết vấn đề Campuchia là then chốt mở đường đi tới
những mục tiêu đó.
Bước đi đầu tiên là đổi mới cách nhận thức trong quan hệ với Trung
Quốc: “Việt Nam sẵn sàng đàm phán với Trung Quốc bất cứ lúc nào, bất cứ
cấp nào và bất cứ ở đâu nhằm bình thường hóa quan hệ giữa hai nước…”
[16, tr.107]. Đối với Mỹ, ta “tiếp tục bàn bạc với Mỹ giải quyết các vấn đề
nhân đạo sau chiến tranh để lại và sẵn sàng cải thiện quan hệ với Mỹ” [16,
tr.108]. Với Campuchia, Đảng “chủ trương rút quân tình nguyện Việt Nam
khỏi Campuchia, đồng thời sẵn sàng hợp tác với tất cả các bên để đi tới một
giải pháp chính trị đúng đắn về Campuchia” [16, tr.108]. Đảng và Nhà nước
ta kiên trì thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình hữu nghị, ủng hộ chính
sách cùng tồn tại hòa bình giữa các nước có chế độ chính trị và xã hội khác
nhau.
Nhằm cụ thể hóa hơn nữa về chính sách đối ngoại, Bộ Chính trị ra NQ
13 (5- 1988). NQ xác định quan điểm trong quan hệ quốc tế chúng ta phải
“thêm bạn bớt thù”, ra sức tranh thủ các mối quan hệ truyền thống và dư luận
rộng rãi trên thế giới, phân hóa hàng ngũ đối phương, làm thất bại âm mưu
bao vây và cô lập về kinh tế, chính trị cuả kẻ thù, kiên quyết chủ động chuyển
cuộc đấu tranh từ tình trạng đối đầu hiện nay sang đấu tranh và hợp tác trong
cùng tồn tại hòa bình [5, tr. 56]. Theo đó, NQ nhấn mạnh nhiệm vụ và chủ
trương ngọai giao của Đảng và Nhà nước là “giữ vững độc lập tự chủ, giữ
vững và đoàn kết hợp tác toàn diện với Liên Xô, đồng thời kiên trì phấn đấu
bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và khôi phục tình hữu nghị Việt –

Trung” [5, tr.56]; chủ trương góp phần giải quyết vấn đề Campuchia, cải
thiện quan hệ với các nước ASEAN…; từng bước bình thường hóa quan hệ
với Mỹ, mở rộng quan hệ với các nước phương Tây, có chính sách tích cực
thúc đẩy quan hệ kinh tế, khoa học kỹ thuật với các nước Tây Âu, Bắc Âu,

SVTH: Nguyễn Thị Huyền

17

GVHD: Ts. Khuất Thị Hoa


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Nhật Bản, Ôxtraylia…NQ 13 của Bộ Chính trị tạo ra một bước ngoặt đổi mới
tư duy đối ngoại của Đảng, đó là sự điều chỉnh có ý nghĩa chiến lược cho các
hoạt động đối ngoại nhằm đưa đất nước ra khỏi tình thế bị bao vây, cô lập.
Quán triệt chủ trương mở rộng quan hệ quốc tế, tham gia tích cực vào
phân công lao động quốc tế, Hội nghị lần thứ sáu BCHTW khóa VI (3-1989)
xác định “chuyển mạnh hoạt động đối ngoại từ quan hệ chính trị là chủ yếu
sang quan hệ chính trị- kinh tế” [17, tr. 40].
Tiếp đó, HNTW 8 (khóa VI) tháng 3 - 1990 khẳng định tinh thần độc
lập tự chủ, sáng tạo, khắc phục tư tưởng ỷ lại, đồng thời chủ động hơn trong
quan hệ quốc tế, mở rộng và đa dạng hóa quan hệ hợp tác, tham gia tích cực
vào sự phân công lao động quốc tế.
Đổi mới tư duy về đối ngoại được khởi xướng từ ĐH VI, sau đó được
NQ 13 của Bộ Chính trị và các Nghị quyết khác của Trung ương phát triển đã
thể hiện rõ sự phát triển của đường lối đối ngoại của Đảng. Sự điều chỉnh này
mở ra một thời kỳ mới cho đường lối đối ngoại độc lâp, tự chủ, rộng mở, đa
dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế của ĐCSVN và Nhà nước
CHXHCNVN.

1.2.1. Đƣờng lối đối ngoại rộng mở của Đảng
Từ sau ĐHĐB toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986 ), đường
lối đối ngoại mới của Đảng được đã đi vào cuộc sống. Khó khăn lớn nhất của
nước ta lúc này là đất nước vẫn bị vao vây, cấm vận, các nước lớn lấy vấn đề
rút quân tình nguyện Việt Nam khỏi Campuchia làm điều kiện để giải quyết
các vấn đề quốc tế. nhất là từ cuối năm 1989 đầu năm 1990, bầu không khí
chính trị thế giới có những chuyển biến xấu đã đặt trước Đảng, Nhà nước và
nhân dân ta những thách thức mới.
Đáp ứng yêu cầu mới của lịch sử, ĐHĐB toàn quốc lần thứ VII của
Đảng (6-1991) đã nhấn mạnh: “Cần nhạy bén nhận thức và dự báo được

SVTH: Nguyễn Thị Huyền

18

GVHD: Ts. Khuất Thị Hoa


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
những diễn biến phức tạp và thay đổi sâu sắc trong quan hệ quốc tế, sự phát
triển mạnh của lực lượng sản xuất và xu thế quốc tế hóa cả nền kinh tế thế
giới để có những chủ trương đối ngoại phù hợp” [18, tr.88]. ĐH đã đề ra
nhiệm vụ đối ngoại là “giữ vững hòa bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp
tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ
Tổ quốc” [18, tr.146]. Từ quan điểm trên, nhất quán nguyên tắc Độc lập, tự
chủ, tự lực, tự cường, ĐH VII đã phát triển chủ trương “thêm bạn bớt thù”
của ĐH VI thành phương châm “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước
trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” [ 18,
tr.147]. Phương châm đó được thể hiện rõ trong Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội: đa phương hóa, đa dạng hóa

quan hệ đối ngoại, hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước không
phân biệt chế độ chính trị, xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc cùng
tồn tại hòa bình. Đây chính là bước phát triển mới của Đảng về nhận thức
chính sách đối ngoại trước trước những biến đổi của tình hình thế giới.
Sau ĐH VII, tình hình thế giới chuyển biến nhanh chóng phức tạp.
Đảng Cộng sản Liên Xô bị đình chỉ hoạt động trong toàn Liên bang (8-1991),
CCCP sụp đổ (12-1991), điều đó đã gây hoang mang dao động cho một bộ
phận, cán bộ, đảng viên; các thế lực thù địch thừa cơ nổi dậy chống phá Đảng
và Nhà nước… Trước tình hình đó, Hội nghị lần thứ hai BCHTW khóa VII
(12-1991) nhận định , mặc dù có những khó khăn khách quan không tránh
khỏi, nhưng “chúng ta đang có những khả năng và cơ hội mới” [19, tr. 45].
Cục diện chính trị, kinh tế giữ được ổn định và có bước phát triển “việc giải
quyết hòa bình vấn đề Campuchia, bình thường quan hệ Việt- Trung, nối lại
và phát triển quan hệ với các nước Đông Nam Á đang mở ra thế mới cả trong
nước và trong quan hệ với bên ngoài” [19, tr. 46]. Tuy vậy, Hội nghị cũng
chỉ ra những khó khăn của đất nước là nền kinh tế là còn nhiều nhân tố không

SVTH: Nguyễn Thị Huyền

19

GVHD: Ts. Khuất Thị Hoa


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ổn định, mất cân đối và có phần gay gắt hơn trước; sau khi Liên Xô sụp đổ,
nước ta phải điều chỉnh quan hệ kinh tế đối ngoại, chuyển sang quan hệ trực
tiếp với các nước cộng hòa trong Liên bang Xô viết trước đây cũng như với
nước khác. Cục diện mới ở Campuchia đặt nước ta trước những vấn đề phức
tạp mới trong quan hệ với Campuchia và trong việc bảo vệ an ninh quốc

phòng.
Trong bối cảnh đó, HN chỉ rõ phải “giữ vững nguyên tắc bảo vệ độc
lập chủ quyền, an ninh chính trị, bình đẳng cùng có lợi trong quan hệ với bên
ngoài, đồng thời có đối sách linh hoạt, đồng thời có đối sách linh hoạt, triệt
để khai thác các yếu tố tích cực, hạn chế tác động tiêu cực của nhũng yếu tố
bất lợi…”[19, tr77]. Đặc biệt về việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế
đối ngoại, NQ nhấn mạnh chính sách ngoại giao và kinh tế đối ngoại cần
được điều chỉnh phù hợp với những biến động trong cục diện thế giới, nhằm
vượt khỏi bao vây, cấm vận, không ngừng mở rộng quan hệ với các nước:
phải khai thác những thuận lợi để mở rộng thị trường; tích cực phát triển quan
hệ kinh tế -thương mại với Trung Quốc, Lào; tăng cường quan hệ hợp tác với
các nước ASEAN; coi trọng phát triển quan hệ với Ấn Độ, Ôxtrâylia và các
nước trong khu vực; xúc tiến quan hệ nhiều mặt với Tây Âu, Nhật và Mỹ…
Tháng 6 -1992, xuất phát từ tình hình mới, HNTW 3 (khóa VII) cụ thể
hóa nhiệm vụ đối ngoại của ĐHVII với nội dung: giữ vững nguyên tắc vì độc
lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội, đồng thời phải rất sáng tạo, năng động,
linh hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện, hoàn cảnh của đất nước , cũng như
diễn biến tình hình thế giới và khu vực. Hội nghị đề ra bốn phương châm xử
lý các mối quan hệ đối ngoại trên các lĩnh vực và với các đối tượng:
+ Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa
yêu nước và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.

SVTH: Nguyễn Thị Huyền

20

GVHD: Ts. Khuất Thị Hoa


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

+ Giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đẩy mạnh đa dạng hóa, đa
phương hóa quan hệ đối ngoại .
+ Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế.
+ Tham gia hợp tác khu vực đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các
nước.
Tháng giêng năm 1994, Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kì
(khóa VII) quán triệt sâu sắc hơn yêu cầu vận dụng đúng đắn bốn phương
châm do Hội nghị Trung ương lần thứ ba đề ra. Khẳng định kết quả hoạt động
đối ngoại là một trong ba thành tựu quan trọng trong công cuộc đổi mới, đồng
thời Hội nghị xác định rõ nhiệm vụ đối ngoại là “tiếp tục thi hành đường lối
đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối
ngoại…phát huy các điểm đồng về lợi ích và thu hẹp các bất đồng, tăng thêm
bạn và phát triển sự hợp tác quốc tế” [21, tr.56]
Đường lối đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan
hệ quốc tế của Đảng, cùng với những thành tựu về kinh tế - xã hội trong 10
năm đổi mới đã tạo ra thế và lực cho đất nước; tạo nên sự chuyển biến từ đối
đầu, bao vây, cấm vận sang đối thoại, hợp tác cạnh tranh trong quan hệ với
các tổ chức khu vực và quốc tế.
1.2.2. Tham gia giải quyết vấn đề Campuchia
Năm 1979, Việt Nam đưa quân tình nguyện vào để giúp nhân dân
Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng là cần thiết, phù hợp với lợi ích dân tộc
và quốc tế. Song quan hệ quốc tế và khu vực cho thấy vấn đề Campuchia
không chỉ liên quan đến Việt Nam, Trung Quốc mà còn liên quan đến thái độ
chính trị và sự lo ngại, mặc cảm của các nước ASEAN và một số nước khác.
Từ thực tế đó, HNTW 6 (khóa VI) xác định phải “tích cực giải quyết vấn đề
Campuchia bằng chính trị, chuẩn bị tốt việc rút quân sớm trong trường hợp
chưa có giải pháp về Campuchia” [17, tr. 30]. ĐHVII tiếp tục nhấn mạnh

SVTH: Nguyễn Thị Huyền


21

GVHD: Ts. Khuất Thị Hoa


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
“phấn đấu góp phần sớm đạt được một giải pháp chính trị toàn bộ về vấn đề
Campuchia, trên cơ sở tôn trọng chủ quyền của Campuchia và Hiến chương
Liên hợp quốc” [18, tr.89]
Theo chủ trương Đảng, ngày 26-5-1988 Bộ Quốc phòng nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam ra tuyên bố rút 5 vạn quân và rút Bộ Tư lệnh quân tình
nguyện Việt Nam ở Campuchia về nước. Tháng 9-1989, Việt Nam rút hết
quân tình nguyện khỏi Campuchia. Điều đó đã làm cho tính chất cuộc đấu
tranh ở Campuchia trở thành cuộc đấu tranh nội bộ giữa các lực lượng liên
quân của Campuchia.
Từ sau khi Việt Nam bắt đầu rút dần quân tình nguyện khỏi
Campuchia, các nước ASEAN chuyển dần thái độ, từng bước tách khỏi lập
trường của những nước hậu thuẫn cho Campuchia dân chủ đi vào đối thoại
với Việt Nam.
Cuộc gặp giữa Ngoại trưởng Việt Nam và Ngoại trưởng Indonexia ở
Thành phố Hồ Chí Minh (7-1987) và cuộc gặp đầu tiên giữa Thủ tướng
Hunxen và Hoàng thân Xihanuc ở Pháp (12-1987) đã tạo đã thuận lợi cho quá
trình đối thoại giữa hai nhóm nước nhằm giải quyết hòa bình vấn đề
Campuchia.
Các cuộc họp không chính thức giữa đại diện của Việt Nam với đại
diện của các nước ASEAN thường xuyên được diễn ra nhằm giải quyết cho
vấn đề Campuchia. Ngày 17-7-1990, cuộc họp vòng năm của năm nước
thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc (P-5) cấp thứ trưởng ngoại giao
thỏa thuận việc tập kết và giải giáp các bên Campuchia và Liên hợp quốc tổ
chức Tổng tuyển cử, kiểm soát 5 bộ: Quốc phòng, An ninh, Ngoại giao,

Thông tin, Tài chính, thành lập Hội đồng Dân tộc tối cao (SNC) là cơ quan
đại diện cho chủ quyền Campuchia, sẽ trao quyền cho Liên hợp quốc tổ chức
Tổng tuyển cử ở Campuchia.

SVTH: Nguyễn Thị Huyền

22

GVHD: Ts. Khuất Thị Hoa


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Tháng 8-1990, cuộc họp vòng sáu các đại diện 5 nước lớn thỏa thuận
thông qua văn kiện khung về một giải pháp chính trị toàn bộ cho cuộc xung
đột ở Campuchia và lập Hội đồng dân tộc tối cao của Campuchia bao gồm các
phái Khơme.
Tuy nhiên, do xu thế quốc tế, các nước lớn đều không muốn cuộc xung
đột Campuchia kéo dài, ảnh hưởng đến việc triển khai quan hệ của họ với
nhau và ở khu vực Đông Nam Á. Sau nhiều cuộc đàm phán thương lượng kéo
dài, Hội nghị quốc tế về Campuchia họp vòng hai tại Trung tâm Hội nghị
quốc tế Kleber - Paris từ ngày 21 đến 23-10-1991,để kí kết các văn kiện về
giải pháp chính trị toàn bộ cho vấn đề Campuchia.
Toàn bộ văn kiện thể hiện nội dung cơ bản là công nhận và khẳng định
tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, trung lập và thống nhất dân
tộc của Campuchia; công nhận Hội đồng dân tộc tối cao là cơ quan hợp pháp
duy nhất thể hiện chủ quyền, độc lập và thống nhất của Campuchia trong thời
kỳ quá độ, đại diện cho Campuchia ở bên ngoài, tại Liên hợp quốc, các tổ
chức và hội nghị quốc tế; quy định tổ chức tổng tuyển cử tự do để bầu quốc
hội lập hiến, soạn thảo hiến pháp, lập chính phủ mới của Campuchia.
Việc ký Hiệp định hòa bình về Campuchia trước hết là kết quả của bản

thân nhân dân Campuchia quyết tâm làm chủ vận mệnh của mình, phấn đấu
cho hòa giải và hòa hợp dân tộc vì hòa bình và phát triển; kết quả của những
cố gắng liên tục của các cuộc họp Hội đồng dân tộc tối cao Campuchia đã mở
đường cho việc triệu tập lại Hội nghị quốc tế Paris về Campuchia và chứng
minh rằng người Campuchia hoàn toàn có thể giải quyết những vấn đề thuộc
chủ quyền của họ với sự ủng hộ, hợp tác của các nước có liên quan và Liên
hợp quốc. Vấn đề Campuchia không thể đạt được giải pháp chính trị toàn bộ
nếu không có nỗ lực và thiện chí hợp tác của các nước Đông Nam Á. Việt
Nam là thành viên khu vực, nước liên quan, nước láng giềng của Campuchia,

SVTH: Nguyễn Thị Huyền

23

GVHD: Ts. Khuất Thị Hoa


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
thiết tha mong muốn hòa bình cho nhân dân Campuchia, đã tích cực đối thoại
với các nước hữu quan và nhất quán đóng góp cùng với Lào, các nước
ASEAN để sớm đạt được một giải pháp chính trị toàn bộ, công bằng, hợp lí
cho vấn đề Campuchia.
Hiệp định Paris về Campuchia được kí kết mở ra một trang mới về
quan hệ ngoại giao giữa nước ta với các nước trên thế giới; chính thức chấm
dứt tình trạng căng thẳng đối đầu giữa Việt Nam với các nước đã lợi dụng vấn
đề Campuchia để thực hiện chính sách bao vây, cấm vận, tiến hành chiến
tranh phá hoại hòng làm suy yếu nước ta; bảo đảm được độc lập, chủ quyền
và toàn vẹn lãnh thổ; phù hợp với lợi ích, an ninh lâu dài của Việt Nam; Việt
Nam đã làm tròn nghĩa vụ quốc tế đối với Campuchia.
1.2.3. Bình thƣờng hóa quan hệ với Trung Quốc

Bình thường hóa quan hệ Viêt Nam- Trung Quốc là một vấn đề lớn
trong đường lối quan hệ quốc tế, theo đó, từ ĐH V (3-1982) ĐCSVN đã chủ
trương khôi phục quan hệ bình thường giữa hai nước, ĐH VI (12-1986) tiếp
tục khẳng định: “Chính phủ và nhân dân Việt Nam, trước sau như một, quý
trọng và nhất định làm hết sức mình để khôi phục tình hữu nghị giữa nhân
dân hai nước” [16,tr.107]. Thực hiện Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị (khóa
VI), ĐH VII phát triển hơn nữa những cố gắng trên với chủ trương: “Thúc
đẩy quá trình bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, từng bước mở rộng
sự hợp tác Việt- Trung, giải quyết những vấn đề tồn tại giữa hai nước thông
qua thương lượng” [40, tr.89]. Theo những chủ trương đó, Việt Nam nỗ lực
tìm kiếm khả năng tháo gỡ những vướng mắc, làm giảm bớt căng thẳng trong
quan hệ giữa hai nước bằng nhiều biện pháp khác nhau. Trước hết chúng ta
tiến hành sửa Lời nói đầu trong Hiến pháp 1980, không coi Trung Quốc là kẻ
thù; Hiến pháp 1992 khẳng định: “Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam thực hiện
chính sách hòa bình, hữu nghị, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các

SVTH: Nguyễn Thị Huyền

24

GVHD: Ts. Khuất Thị Hoa


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
nước trên thế giới…Tăng cường tình đoàn kết hữu nghị và quan hệ hợp tác
với các nước XHCN và các nước láng giềng”[49, tr. 141]. Các cuộc đàm phán
cấp bộ và thứ trưởng ngoại giao liên tiếp được tổ chức tại Bắc Kinh trong 2
năm 1988 -1989. Tại các cuộc đàm phán, lập trường của Trung Quốc đối với
việc bình thường quan hệ ngoại giao với ta về cơ bản là giải quyết vấn đề
CamPuChia. Họ “tỏ ý muốn bình thường hóa quan hệ với ta, nhưng vẫn đặt

điều kiện gắn quá trình bình thường hóa quan hệ với quá trình rút quân tình
nguyện Việt Nam và giải quyết vấn đề Campuchia” [7, tr. 5]. Cuộc đàm phán
vòng hai cấp thứ trưởng ngoại giao Việt Nam- Trung Quốc được tiến hành tại
Bắc Kinh (tháng 5-1989), phía Trung Quốc vẫn “chỉ tập trung vào vấn đề
Campuchia trong đó có điểm chính là vấn đề lập chính phủ lâm thời bốn bên
do Xihanuc đứng đầu, đoàn kết và giảm quân đội bốn bên trong thời gian quá
độ”[ 8, tr.6]. Theo quan điểm Biện pháp được coi tìm kiếm giải pháp cho vấn
đề Campuchia là “chiếc chìa khóa” của quá trình bình thường hóa quan hệ
Việt Nam- Trung Quốc, tháng 9-1989, toàn bộ quân tình nguyện Việt Nam rút
khỏi Campuchia. Việc rút hết quân tình nguyện ở Campuchia về nước sớm
hơn dự kiến và giải quyết một cách toàn diện vấn đề Campuchia đã dỡ bỏ trở
ngại lớn nhất trong quan hệ Việt-Trung, thúc đẩy nhanh xu thế đối thoại, mở
ra khả năng hiện thực cho tiến trình bình thường hóa.
Ngay sau khi rút quân, Việt Nam thường xuyên tiến hành các cuộc trao
đổi, hội đàm với Trung Quốc để sớm đi đến bình thường hóa quan hệ. Trung
Quốc tỏ ra có thiện chí và mong muốn bình thường hóa quan hệ nhưng vẫn
đặt ra những điều kiện cho Việt Nam. Tháng 2-1990, phát biểu về quan hệ
Việt Nam- Trung Quốc, Đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy vẫn khẳng
định: “Quan hệ Việt- Trung có một trở ngại lớn là vấn đề Campuchia, miễn
là vấn đề Campuchia được giải quyết toàn diện, công bằng, hợp lý thì cải
thiện quan hệ Trung- Việt không thành vấn đề” [10, tr.1].

SVTH: Nguyễn Thị Huyền

25

GVHD: Ts. Khuất Thị Hoa



×