ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
NGUYỄN THỊ NHƢƠNG
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ
THỨC TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2013
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Hà Nội – 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
NGUYỄN THỊ NHƢƠNG
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ
THỨC TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2013
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 03 15
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. Lê Mậu Hãn
Hà Nội - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và kết
quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNH, HĐH
Đội ngũ trí thức
ĐNTT
Giáo dục – đào tạo
GD-ĐT
Khoa học – công nghệ
KH-CN
Khoa học – tự nhiên
KH-TN
Khoa học – kỹ thuật
KH-KT
Kinh tế - xã hội
KT-XH
Ban Chấp hành Trung ƣơng
BCH TƢ
Nhà xuất bản
Nxb
Xã hội chủ nghĩa
XHCN
Chủ nghĩa xã hội
CNXH
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu ........................................................................................ 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 4
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn............................................ 5
5. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu ................................................... 5
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn .................................................. 6
7. Kết cấu luận văn ............................................................................................ 6
Chƣơng 1 KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ
THỨC CỦA ĐẢNG TRƢỚC NĂM 2006 ..................................................... 7
1.1. CHỦ TRƢƠNG CỦA ĐẢNG TRONG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ
TRÍ THỨC CÁCH MẠNG ............................................................................... 7
1.1.1. Quan niệm về trí thức .............................................................................. 7
1.1.2.Khái quát nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về trí thức và xây dựng đội
ngũ trí thức trong từng thời kỳ cách mạng ...................................................... 13
1.1.3. Một số hạn chế trong công tác xây dựng ĐNTT ................................... 21
1.2.KHÁI QUÁT ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TRONG TIẾN TRÌNH CÁCH MẠNG
VIỆT NAM (1930-2006)................................................................................. 22
1.2.1.Đội ngũ trí thức từng bƣớc trƣởng thành, đóng góp vào sự nghiệp cách mạng
của đất nƣớc..................................................................................................... 22
1.2.2. Những hạn chế của ĐNTT .................................................................... 25
Tiểu kết chƣơng 1 ............................................................................................ 26
Chƣơng 2 XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC ĐÁP ỨNG YÊU CẦU ĐẨY
MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƢỚC (2006-2013)
......................................................................................................................... 28
2.1. CHỦ TRƢƠNG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TỪ NĂM 2006 ĐẾN
NĂM 2013 ....................................................................................................... 28
2.1.1. Những yếu tố tác động đến chủ trƣơng của Đảng trong công tác xây dựng đội
ngũ trí thức....................................................................................................... 28
2.1.2. Quan điểm, chủ trƣơng của Đảng về xây dựng đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc (2006-2013) .................... 29
2.2. QUÁ TRÌNH TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHỦ TRƢƠNG CỦA ĐẢNG TRONG
CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐỌI NGŨ TRÍ THỨC. ........................................ 37
2.2.1. Đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng về xây dựng đội ngũ trí thức tiếp tục đƣợc cụ
thể hóa, pháp chế hóa bằng các chính sách, văn bản pháp luật ...................... 38
2.2.2.Trong công tác đào tạo và bồi dƣỡng và sử dụng, phát triểnđội ngũ trí thức
......................................................................................................................... 42
2.2.3. Công tác củng cố, xây dựng và phát triển hoạt động của các Hội trí thức trong
cả nƣớc............................................................................................................. 46
2.2.4.Chủ trƣơng của Đảng về thu hút trí thức Việt kiều và trí thức ngƣời nƣớc ngoài
đƣợc chú trọng ................................................................................................. 47
2.3.THỰC TRẠNG CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TỪ NĂM 2006 ĐẾN 2013 .... 48
2.3.1.Đội ngũ trí thức từng bƣớc trƣởng thành đóng góp vào sự phát triển của đất
nƣớc ................................................................................................................. 48
2.3.2. Những đóng góp của ĐNTT vào sự phát triển của đất nƣớc ................ 53
2.3.3. Những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân ............................................ 58
Tiểu kết chƣơng 2 ............................................................................................ 63
Chƣơng 3 NHẬN XÉT CHUNG VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM CHỦ YẾU
......................................................................................................................... 64
3.1.NHẬN XÉT CHUNG ............................................................................... 64
3.1.1. Ƣu điểm ................................................................................................. 65
3.1.2. Hạn chế .................................................................................................. 69
3.2. MỘT SỐ KINH NGHIỆM ....................................................................... 71
3.2.1. Xây dựng đội ngũ trí thức là nhiệm vụ của toàn hệ thống chính trị ..... 71
3.2.2. Chú trọng phát triển giáo dục và đào tạo để tạo ra ĐNTT có trình độ cao.
......................................................................................................................... 73
3.2.3.Đào tạo, bồi dƣỡng phải gắn với sử dụng; đãi ngộ, tôn vinh trí thức, nhân tài là
chiến lƣợc ƣu tiên hàng đầu ............................................................................ 75
3.2.4. Coi trọng phát huy dân chủ thực sự trong hoạt động sáng tạo của trí thức
......................................................................................................................... 77
Tiểu kết chƣơng 3 ............................................................................................ 79
KẾT LUẬN .................................................................................................... 81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 82
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 87
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở mọi thời đại, trí thức luôn là nền tảng tiến bộ của xã hội, đội ngũ trí thức là
lực lƣợng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức. Đại hội VII của Đảng ta chỉ rõ:
“…trong cách mạng dân tộc dân chủ, vai trò của giới trí thức đã quan trọng, trong xây
dựng xã hội chủ nghĩa, vai trò của giới trí thức càng quan trọng. Giai cấp công nhân
nếu không có đội ngũ trí thức của mình và nếu bản thân công – nông không đƣợc
nâng cao kiến thức, không dần đƣợc trí thức hóa, thì không thể xây dựng đƣợc xã hội
chủ nghĩa” [23, tr.17].
Trong thời đại ngày nay, khoa học và công nghệ đã trở thành lực lƣợng sản
xuất trực tiếp, cuộc cách mạng khoa học, công nghệ phát triển nhƣ vũ bão đã làm cho
thế giới đang chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức, mà thực chất là quá
trình chuyển đổi từ nền kinh tế chủ yếu dựa vào vốn và tài nguyên thiên nhiên, lao
động tay chân, sang nền kinh tế chủ yếu dựa vào tri thức con ngƣời. Chính vì vậy, vai
trò cốt lõi là tri thức và công nghệ trong mối quan hệ hữu cơ với đội ngũ trí thức ngày
càng có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc.
Nƣớc ta đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong quá trình hội nhập với thế
giới theo xu thế toàn cầu hoá. Công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đặt ra trƣớc
mắt chúng ta nhiều yêu cầu, đòi hỏi, điều kiện, trong đó có yêu cầu đặc biệt quan
trọng là phát triển nguồn lực con ngƣời. Muốn thực hiện mục tiêu sớm đƣa nƣớc ta ra
khỏi tình trạng kém phát triển, cơ bản trở thành một nƣớc công nghiệp theo hƣớng
hiện đại vào năm 2020 đòi hỏi phải lựa chọn con đƣờng phát triển rút ngắn, phát huy
đến mức cao nhất mọi nguồn lực, tiềm năng trí tuệ của dân tộc, đặc biệt là năng lực
sáng tạo của đội ngũ trí thức.
Hội nghị Trung ƣơng 7 (Khoá X), Đảng đã ra Nghị quyết về “Xây dựng đội
ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, trong đó nhấn
mạnh vị trí và vai trò của đội ngũ trí thức nƣớc nhà hiện nay: “Trí thức Việt Nam là
lực lƣợng lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc và hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng kinh tế tri
thức, phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”[26, tr.90].
1
Tƣ tƣởng, quan điểm của Đảng đối với trí thức và xây dựng ĐNTT là một nội
dung rất quan trọng, là một trong những lĩnh vực thể hiện tầm trí tuệ cao, mang tính
khoa học sâu sắc. Dƣới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nƣớc, ĐNTT Việt Nam hiện
nay đã có sự phát triển cả về số lƣợng và chất lƣợng, đóng góp tích cực vào sự phát
triển đất nƣớc, tuy nhiên, đến nay vẫn còn nhiều hạn chế, vai trò của ĐNTT trong
một số lĩnh vực trong cuộc sống chƣa thể hiện rõ. Những yếu kém này xuất phát từ
nhiều nguyên nhân, trong đó không ít cán bộ, cấp ủy còn chƣa nhận thức rõ đƣợc vị
trí và vai trò của ĐNTT, chƣa quan tâm đến nhiệm vụ xây dựng, phát huy tiềm năng
trí tuệ của ĐNTT.
Để đánh giá đƣợc những kết quả, hạn chế và rút ra đƣợc những bài học kinh
nghiệm trong xây dựng ĐNTT của Đảng là việc làm quan trọng và cần thiết để góp
phần triển khai Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ƣơng khóa X
về xây dựng ĐNTT thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nƣớc. Vì vậy, tôi chọn đề tài:
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng đội ngũ trí thức từ năm 2006 đến năm
2013 làm luận văn Thạc sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu
Từ khi Đảng ra đời đã từng bƣớc đặt vấn đề về trí thức và xây dựng ĐNTT.
Hiện nay, xây dựng ĐNTT là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Đảng trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc. Nhiều chủ trƣơng của
Đảng về xây dựng ĐNTT đã đƣợc nêu ra trong các kỳ Đại hội và Hội nghị BCH TƢ.
Những chủ trƣơng đó cũng từng bƣớc đƣợc cụ thể hóa bằng chính sách và pháp luật.
Đến nay đề tài về trí thức và xây dựng ĐNTT đã nhận đƣợc nhiều sự quan tâm của
các cấp lãnh đạo, các nhà nghiên cứu, nhà khoa học, có nhiều tác phẩm nghiên cứu
của các tác giả, nhiều bài viết trên các tạp chí… đã góp phần cung cấp lý luận và thực
tiễn về xây dựng ĐNTT.
Các công trình nghiên cứu chung về trí thức như:
- Nguyễn Thanh Tuấn (1998), Một số vấn đề về trí thức Việt Nam, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội. Tác giả đã đi sâu nghiên cứu về trí thức, vai trò của trí thức nói
chung đối với sự tiến bộ xã hội, làm rõ những đặc điểm của trí thức Việt Nam trong
tiến trình lịch sử và dự báo xu hƣớng phát triển của đội ngũ này. Trên cơ sở đó, tác
2
giả đã đề cập ra những phƣơng hƣớng đổi mới công tác quản lý và chính sách kinh tế
xã hội đối với đội ngũ trí thức Việt Nam trong giai đoạn mới.
- GS, TS Phạm Tất Dong (2001): “Định hướng phát triển đội ngũ tríthức Việt
Nam trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Công
trình đã có những luận giải xác đáng về vai trò của trí thức trong phát triển lực lƣợng
sảnxuất, trong sáng tạo văn hóa, phát huy bản sắc dân tộc, trong lãnh đạo và điều
hành sự nghiệp CNH, HĐH đất nƣớc. Với thái độ tôn trọng trí thức, GS, TS Phạm
Tất Dong khẳng định, trong nền kinh tế thị trƣờng, “sản phẩm lao động của trí thức là
một loại hàng hóa đặc biệt, nó có thể mất đi hoặc bịchiếm đoạt mà không ai biết,
song nó cũng có thể đƣợc lƣu thông và trả giá xứng đáng nhƣ bao thứ hàng quý hiếm
khác” [10, tr.330]. Đây chính là khởi nguồn cho sự đổi mới tƣ duy khi xem tiền
lƣơng và các loại phụ cấp của trí thức nhƣ những chính sách đầu tƣ có lợi nhất để
mua lại “chất xám” - một loại sản phẩm đặc biệt trong nền kinh tế thị trƣờng.
- GS, TS Nguyễn Văn Khánh (2010), Xây dựngvà phát huy nguồn lực trí tuệ
Việt Nam phục vụ sự nghiệp chấn hưng đất nước, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội và
(2012), Nguồn lực trí tuệ Việt Nam - Lịch sử, hiện trạng và triển vọng, Nxb Chính trị
Quốc gia Sự thật, Hà Nội . Giá trị của hai công trình nghiên cứu thể hiện tập trung ở
những luận chứng khoa học về vấn đề trí thức, nguồn lực trí tuệ với cách tiếp cận liên
ngành. Đội ngũ trí thức đƣợc tác giả quan niệm là tầng lớp tinh hoa của nguồn lực trí
tuệ Việt Nam. Trên cơ sở khảo sát, đánh giá chất lƣợng của nguồn nhân lực này, tác
giả đã đƣa ra hệ thống giải pháp có nghĩa thiết thực đối với việc xây dựng và phát
huy vai trò của nguồn lực trí tuệ đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của sự nghiệp chấn hƣng
đất nƣớc.
- PGS, TS Đàm Đức Vƣợng, PGS, TS Nguyễn Viết Thông (2010), Xây dựng
đội ngũ trí thức Việt Nam giai đoạn 2011- 2020, Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên
cứu của đề tài KX.04.16/06 -10, Hà Nội. Đây là công trình nghiên cứu công phu và
có hệ thống về trí thức. Trên cơ sở đánh giá tổng thể về thực trạng đội ngũ trí thức
Việt Nam, đề tài đi sâu phân tích, kiến nghị những giải pháp nhằm xây dựng và phát
huy nguồn lực trí tuệ trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nƣớc.
Một số luận án, luận văn nghiên cứu về vấn đề trí thức như:
3
- PGS, TS Đỗ Thị Thạch (1999), Trí thức nữ Việt Nam trong công cuộc đổi
mới hiện nay - tiềm năng và phương hướng xâyy dựng, Luận án Tiến sĩ Triết học, Hà
Nội. Đây là công trình nghiên cứu chuyên sâu về đội ngũ nữ trí thức. Tác giả đã chỉ
ra đƣợc vị trí, vai trò của đội ngũ nữ trí thức. Qua đó, đƣa ra những giải pháp nhằm
nâng cao hơn nữa vai trò của đội ngũ này đối với sự phát triển của đất nƣớc.
- TS, Nguyễn Thắng Lợi (2009), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng
đội trí thức từ 1991 đến 2005, Luận án Tiến sĩ Sử học, Hà Nội. Tác giả đã đi sâu vào
nghiên cứu các quan điểm, chủ trƣơng của Đảng đối với ĐNTT trong giai đoạn 1991
-2005, chỉ rõ đƣợc thực trạng của ĐNTT trên tất cả các lĩnh vực trong giai đoạn
này.Luận án đã đề cập đến những vấn đề mang tính thời sự trong xây dựng ĐNTT
nhƣ, chiến lƣợc sử dụng nhân tài, chế độ đãi ngộ, chế độ làm việc…Đặc biệt, tác giả
đã đƣa ra những bài học kinh nghiệm trong xây dựng ĐNTT và chỉ ra những giải
pháp để phát triển ĐNTT.
Trên đây là một số công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài, tuy cách tiếp
cận đối tƣợng, mục đích nghiên cứu là khác nhau, nhƣng các công trình đã nghiên
cứu một cách toàn diện về trí thức và đội ngũ trí thức. Một số công trình đã đi sâu vào
tìm hiểu về đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng đối với ĐNTT, những mạnh và hạn chế
của ĐNTT nƣớc ta…từ đó, đƣa ra những giải pháp và bài học kinh nghiệm. Tuy
nhiên, đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc xây dựng đội ngũ trí thức giai
đoạn 2006 đến 2013, chƣa có công trình nào tập trung nghiên cứu phần chủ trƣơng
của Đảng. Vì vậy, luận văn tiếp tục làm sáng tỏ hơn nữa chủ trƣơng của Đảng đối với
xây dựng ĐNTT trí thức giai đoạn 2006 đến 2013, nhằm làm rõ những bƣớc phát
triển trong nhận thức của Đảng với ĐNTT so với các giai đoạn trƣớc đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu quá trình lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng ĐNTT hiện
nay, làm rõ những bƣớc phát triển trong nhận thức của Đảng về vị trí, vai trò, công
tác xây dựng ĐNTT.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
4
Làm rõ quan niệm về trí thức và vai trò của trí thức trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc.
Hệ thống, khái quát các quan điểm, chủ trƣơng, chính sách của Đảng về xây
dựng ĐNTT trong giai đoạn 2006 – 2013.
Khảo sát quá trình tổ chức, chỉ đạo thực hiện xây dựng ĐNTT từ năm 2006
đến 2013.
Phân tích thực trạng của ĐNTT, đánh giá vai trò của đội ngũ này trong quá
trình CNH, HĐH, tìm ra nguyên nhân, đặc biệt là các nguyên nhân của hạn chế, yếu
kém, những vấn đề đặt ra đối với việc phát huy vai trò ĐNTT hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu quá trình lãnh đạo của Đảng xây dựng ĐNTT từ
năm 2006 – 2013, thông qua việc làm rõ những chủ trƣơng, chính sách xây dựng
ĐNTT.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu quá trình lãnh đạo của Đảng xây dựng
ĐNTT trong giai đoạn từ năm 2006 – 2013, đây là giai đoạn nƣớc ta đẩy mạnh hơn
nữa sự nghiệp CNH, HĐH đất nƣớc. Trong giai đoạn này, nhận thức của Đảng về xây
dựng ĐNTT đƣợc phát triển, thể hiện qua các Nghị quyết Đại hội X, XI, trong các
Nghị quyết chuyên đề, đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị Trung ƣơng 7, khóa X (tháng
7-2008) về xây dựng ĐNTT trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nƣớc.
Thời gian: Nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với ĐNTT
từ năm 2006 đến năm 2013
Không gian: Nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với ĐNTT.
5. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tƣ liệu
Văn kiện của Đảng về công tác xây dựng ĐNTT, bao gồm các văn kiện Đại hội
Đảng toàn quốc, Ban Chấp hành Trung ƣơng, Bộ Chính trị, Ban Bí thƣ, Ban Tuyên
giáo Trung ƣơng.
Các báo cáo, nghị định, quyết định, các thông tƣ liên tịch của Chính phủ, các Bộ
liên quan đến công tác trí thức và xây dựng ĐNTT.
5
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các công trình nghiên cứu khoa học, các luận
văn, luận án, các bài nói, bài viết của các nhà khoa học, các lãnh đạo Đảng và Nhà
nƣớc liên quan đến công tác trí thức làm tài liệu tham khảo.
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận mác xit, luận văn sử dụng kết hợp các
phƣơng pháp lịch sử và lôgic, thống kê…Vấn đề đƣợc nghiên cứu theo trình tự thời
gian, đồng thời xem xét công tác trí thức trong mối quan hệ với các công tác khác của
Đảng.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Luận văn nhằm hệ thống chủ trƣơng, chính sách của Đảng về công tác xây
dựng đội ngũ trí thức giai đoạn 2006 đến năm 2013.
Khái quát về sự phát triển của ĐNTT và vai trò của ĐNTT trong giai đoạn
2006 đến 2013.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chƣơng.
Chƣơng 1: Khái quát quá trình lãnh đạo xây dựng ĐNTT của Đảng trƣớc năm
2006
Chƣơng 2: Xây dựng đội ngũ trí thức trong những năm 2006-2013.
Chƣơng 3: Nhận xét chung và bài học kinh nghiệm.
Chƣơng 1
KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ
6
TRÍ THỨC CỦA ĐẢNG TRƢỚC NĂM 2006
1.1. CHỦ TRƢƠNG CỦA ĐẢNG TRONG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG
ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC CÁCH MẠNG
1.1.1. Quan niệm về trí thức
Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin
Ph.Ăngghen, trong thƣ “Gửi Đại hội quốc tế các sinh viên xã hội chủ nghĩa”,
đề “Luân Đôn, ngày 19 - 12 – 1893”, viết: “Các bạn hãy cố gắng làm cho thanh niên
ý thức đƣợc rằng giai cấp vô sản lao động trí óc phải đƣợc hình thành từ hàng ngũ
sinh viên, giai cấp đó có sứ mệnh phải kề vai sát cánh và cùng đứng trong một đội
ngũ với những ngƣời anh em của họ, những ngƣời công nhân lao động chân tay, đóng
vai trò quan trọng trong cuộc cách mạng sắp tới đây.Cuộc cách mạng tƣ sản trƣớc
đây đòi hỏi các trƣờng đại học chỉ đào tạo ra các trạng sƣ làm nguyên liệu tốt nhất đề
hình thành nên những nhà hoạt động chính trị của chúng, ngoài đòi hỏi đó, sự nghiệp
giải phóng giai cấp công nhân còn cần phải có những bác sĩ, kỹ sƣ, nhà hóa học, nông
học và các chuyên gia khác, vì vấn đề là phải nắm lấy việc quản lý không phải chỉ bộ
máy chính trị, mà còn cả toàn bộ nền sản xuất xã hội nữa và ở đây cần đến những
kiến thức vững chắc chứ không phải là những câu nói xuông oang oang” [38, tr. 507–
508].
Định nghĩa của Ph.Ănghen tập trung nói đến trí thức, đội ngũ trí thức bắt
nguồn từ những sinh viên. Đặc biệt, ông nhấn mạnh đến vai trò ngƣời trí thức cách
mạng trong cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống chủ nghĩa tƣ bản.
C.Mác đánh giá cao vai trò của trí thức đối với nền sản xuất xã hội. Theo ông,
về mặt nghề nghiệp, trí thức chia thành ba nhóm, tƣơng ứng với ba hình thức cơ bản
của lao động trí óc là các nhà văn, nhà báo, những ngƣời hoạt động nghệ thuật; các
nhà lý luận tuyên truyền, giáo viên, bác sĩ, luật sƣ, giới sĩ quan, viên chức và các nhà
hoạt động chính trị; các kỹ sƣ, các nhà khoa học, kỹ thuật.
V.I.Lênin định nghĩa về trí thức, ông viết: “tôi dịch” ngƣời trí thức, tầng lớp trí
thức theo ngữ nghĩa tiếng Đức là Literat, Literatentum, bao gồm không chỉ các nhà
khoa học mà là tất cả những ngƣời có văn hóa, những ngƣời làm nghề tự do nói
7
chung, những đại biểu của lao động trí óc (brain work – er, nhƣ ngƣời Anh nói) để
phân biệt với những ngƣời lao động chân tay”[36, tr.372].
Định nghĩa của V.I.Lênin về trí thức có thành phẩn rộng rãi, cơ động, không gò
bó, nhìn chung là những ngƣời lao động trí óc.
V.I.Lênin cho rằng trí thức đƣợc gọi là trí thức vì giác ngộ hơn, kiên quyết
hơn, phản ánh và thể hiện đầy đủ hơn lợi ích giai cấp của các nhóm chính trị trong
toàn xã hội. Mặc dù trong khi coi trí thức là một tầng lớp trung gian lệ thuộc về tƣ
tƣởng đối với các giai cấp khác, Lênin vẫn đánh giá cao khả năng, sức mạnh và tính
độc lập của trí thức trong xã hội. Ông cho rằng, ở khắp nơi lãnh tụ của một giai cấp
nhất định thƣờng là ngƣời tiến bộ và có trí thức, ông đặc biệt chú ý tới giới sinh viên
coi sinh viên là bộ phận nhạy cảm nhất của trí thức. Đây là ngƣời châm ngòi, là bộ
phận luôn đi đầu trong mọi cuộc đấu tranh chống các thế lực phản động.
Quan niệm của V.I.Lênin về ngƣời trí thức cũng rất rõ ràng: “Ngƣời trí thức
đấu tranh, tuyệt nhiên không phải là bằng cách dùng thực lực theo lối này hay lối
khác, mà là bằng cách dùng những lý lẽ. Vũ khí của họ chính là sự hiểu biết của cá
nhân họ, những năng lực của cá nhân họ, lòng tin của cá nhân họ. Họ chỉ nhờ vào
những phẩm chất cá nhân của họ, cho nên mới có thể đóng đƣợc một vai trò nào đó.
Vì vậy, đối với họ, quyền đƣợc hoàn toàn tự do biểu hiện bản chất cá nhân của mình
là điều kiện đầu tiên để công tác đƣợc kết quả. Với tƣ cách là một bộ phận trong toàn
thể, họ chỉ phục tùng toàn thể đó một cách miễn cƣỡng, phục tùng vì bắt buộc, chứ
không phải tự nguyện. Họ chỉ thừa nhận kỷ luật là cần thiết đối với quần chúng, chứ
không phải đối với những nhân vật đƣợc lựa chọn. Dĩ nhiên là họ xếp mình vào
những hàng ngũ những nhân vật đƣợc lựa chọn...” [36, tr.373].
Các nhà kinh điển của Chủ nghĩa C.Mác – V.I.Lênin rất chú ý tới tầng lớp trí
thức, coi trí thức là lực lƣợng xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp
cách mạng của giai cấp công nhân. Xã hội càng phát triển thì tầng lớp trí thức càng có
vai trò to lớn nhất là trong lĩnh vực khoa học – kỹ thuật và văn hóa tƣ tƣởng.
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Ngƣời định nghĩa về trí thức: “Trí thức là hiểu biết. Trong thế giới chỉ có hai
thứ hiểu biết: một là hiểu biết sự đấu tranh sinh sản. Khoa học tự nhiên do đó mà ra.
8
Hai là hiểu biết vềđấu tranh dân tộc và tranh đấu xã hội. Khoa học xã hội do đó mà
ra. Ngoài hai cái đó, không có trí thức nào khác. Một ngƣời học xong đại học, có thể
gọi là có trí thức. Song, y không biết cày ruộng, không biết làm công, không biết
đánh giặc, không biết làm nhiều việc khác. Nói tóm lại công việc thực tế, y không
biết gì cả. Thế là y chỉ có trí thức một nửa. Trí thức của y là trí thức học sách, chƣa
phải là trí thức hoàn toàn. Y muốn thành một ngƣời trí thức hoàn toàn thì phải đem trí
thức đó áp dụng vào thực tế” [42, tr.275].
Định nghĩa của Chủ tịch Hồ Chí Minh về trí thức nhấn mạnh đến sự cống hiến
của họ, nhấn mạnh đến ý nghĩa thực tế trong hoạt động của ngƣời trí thức, đem sự
hiểu biết của mình để áp dụng vào thực tế, làm nên vật chất và tinh thần góp phần xây
dựng đời sống cộng đồng phát triển, không nên lý luận xuông bởi theo Ngƣời:
“Ngƣời viết lý luận mà không thực hành thì cũng vô ích” [43, tr.356].
Chủ tịch Hồ Chí Minh là ngƣời đã nhận thức rõ và đánh giá cao vai trò, vị trí
của đội ngũ trí thức trong cách mạng giải phóng dân tộc cũng nhƣ trong công cuộc
xây dựng đất nƣớc. Ngay từ những ngày đầu của chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, Ngƣời đã từng nói những ngƣời trí thức tham gia cách mạng, tham gia kháng
chiến rất quý báu cho Đảng. Trả lời các nhà báo nƣớc ngoài về vai trò, vị trí của đội
ngũ trí thức trong nhận thức, chính sách của Chính phủ cũng nhƣ trong thực tiễn cách
mạng ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Trí thức là vốn liếng quý
báu của dân tộc. Ở nƣớc khác nhƣ thế, ở Việt Nam càng nhƣ thế. Chứng thực là trong
cuộc kháng chiến cứu quốc này, những ngƣời trí thức Việt Nam đã chung một phần
quan trọng. Một số thì trực tiếp tham gia vào công việc kháng chiến, hy sinh cực khổ,
chen vai thích cánh với bộ đội nhân dân. Một số thì hăng hái hoạt động giúp đỡ ở
ngoài"[42, tr.156].
Bản thân Hồ Chí Minh là một trí thức yêu nƣớc đi làm cách mạng. Ngƣời đã
hết sức trọng dụng tầng lớp trí thức ƣu tú của dân tộc, tạo điều kiện cho họ đƣợc cống
hiến, đƣợc thể hiện đầy đủ nhất tài năng, vai trò và trách nhiệm của mình trong sự
nghiệp chung của toàn dân. Hàng loạt trí thức trẻ - những học sinh, sinh viên yêu
nƣớc, giác ngộ cách mạng đã có mặt trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo trung kiên, giữ
những vị trí quan trọng trong bộ máy Đảng, Nhà nƣớc trong quá trình cách mạng giải
9
phóng dân tộc nhƣ: Trần Phú, Lê Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Đức Cảnh,
Lê Duẩn, Trƣờng Chinh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Tố Hữu... Nhiều trí thức
trƣởng thành trong nƣớc hay từ nƣớc ngoài trở về nhƣ: Hồ Đắc Di, Đặng Văn Ngữ,
Tạ Quang Bửu, Phạm Ngọc Thạch, Huỳnh Tấn Phát, Nghiêm Xuân Yêm, Trần Đại
Nghĩa, Lƣơng Định Của, Tôn Thất Tùng, Phạm Huy Thông, Trần Duy Hƣng, Đặng
Thai Mai, Nguyễn Đình Thi, Cù Huy Cận, Xuân Diệu... đã đi theo cách mạng ngay từ
những ngày đầu độc lập, sẵn sàng chịu đựng những thử thách khó khăn, gian khổ, hy
sinh trong kháng chiến chống thực dân, đế quốc, đóng góp tài năng, trí tuệ cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc, dành độc lập, tự do cho đất nƣớc. Ngay cả trong Chính
phủ lâm thời năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã mời các nhân sĩ trí thức
không phải là đảng viên Đảng Cộng sản tham gia và giữ những trọng trách nhƣ:
Huỳnh Thúc Kháng, Phan Kế Toại, Phan Anh,...
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt ra vấn đề nhân tài và kiến quốc ngay sau khi
chính quyền nhân dân đƣợc thiết lập trên cả nƣớc. Ngƣời đặc biệt coi trọng nhiệm vụ
giáo dục ở bậc đại học để đào tạo nhân tài phục vụ kháng chiến kiến quốc. Việc thành
lập Ban Văn khoa Đại học theo Sắc lệnh số 45/SL là một sự kiện quan trọng trong
việc đào tạo ĐNTT mới. Ban Văn khoa Đại học có nhiệm vụ đào tạo giáo sƣ bậc
trung học, và nâng cao nền văn học Việt Nam cho xứng đáng với một nƣớc độc lập
để theo kịp các nƣớc tiên tiến trên toàn cầu. “Quyết định của Chủ tịch Hồ Chí Minh
về thành lập Văn khoa Đại học theo Sắc lệnh số 45/SL ngày 10-10-1945 là một sự
kiện trọng đại đánh dấu một mốc son lịch sử ra đời của trƣờng đào tạo bậc Đại học
cho Khoa học Nhân văn, nay là Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Việt Nam”
[32]. Ngƣời kêu gọi những ngƣời trí thức có tài năng hãy mang tinh thần hăng hái của
mình ra giúp nƣớc nhà. Theo Ngƣời cán bộ trí thức phải trung thành với mục đích
cách mạng “giữ cho nƣớc nhà đƣợc độc lập, nòi giống đƣợc tự do” [40, tr.505] và
“không đƣợc tự kiêu, không có cái bệnh làm quan cách mạng, phải siêng năng: siêng
nghe, siêng thấy, siêng đi, siêng nghĩ, siêng nói, siêng làm” [40, tr.38].
Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về trí thức đƣợc thể hiện tập trung ở một số điểm sau.
Một là, trí thức là lực lƣợng và động lực không thể thiếu trong công cuộc bảo
vệ và xây dựng đất nƣớc. Trí thức cách mạng Việt Nam mang trong mình tinh thần
10
dân tộc. Ngƣời khẳng định sự tham gia của trí thức là nhân tố quan trọng góp phần
quyết định thành công của cách mạng: “Cách mạng rất cần trí thức và chính ra chỉ có
cách mạng mới biết trọng trí thức” [39, tr.33].
Vì vậy phải thực sự coi trọng, sử dụng trí thức một cách đúng đắn. Đối với trí
thức ngƣời lãnh đạo phải xử sự một cách có lý, có tình. Ngƣời nói: “Phải trọng nhân
tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một ngƣời có ích cho công việc chung của chúng ta” [42,
tr.313].
Hai là, Hồ Chí Minh nhấn mạnh vấn đề dân chủ đối với trí thức. Theo ngƣời
đối với trí thức thì vấn đề tự do, dân chủ phải đƣợc đặt lên hàng đầu. Không có tự do,
dân chủ sẽ không có những công trình khoa học, những tác phẩm có giá trị, không có
dân chủ, tƣ duy của trí thức sẽ bị bó hẹp, không có dân chủ, nói và viết sẽ trở thành
một thứ minh họa, sao chép khô khan…
Ba là, Ngƣời quan tâm đến vai trò cá nhân của ngƣời trí thức. Ngƣời rất trân
trọng những nhân sĩ, trí thức yêu nƣớc, thƣơng dân, những ngƣời suốt đời gắn bó với
lá cờ đại nghĩa của dân tộc. Muốn thể hiện vai trò của cá nhân, thì ngƣời trí thức cần
phải đi vào đời sống xã hội, bởi theo Ngƣời, “trí thức đọc sách chƣa phải là trí thức”,
muốn “thành trí thức hoàn toàn thì phải đem cái trí thức đó áp dụng vào thực tế”[42,
tr.275]. Điều quan trọng là mỗi cá nhân trí thức phải biết đặt lợi ích của dân tộc lên
trên lợi ích cá nhân.
Bốn là, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến công tác bồi dƣỡng cán bộ trí
thức. Ngƣời muốn tạo ra một lớp cán bộ trí thức có trình độ văn hóa, lối sống văn
hóa, chuyên môn nghiệp vụ giỏi, khả năng lãnh đạo, quản lý tốt. Ngƣời coi vấn đề
huấn luyện, đào tạo cán bộ, dạy và học là công việc rất lớn, rất quan trọng của Đảng
và Nhà nƣớc. Ngƣời nói: “Đảng phải nuôi dạy cán bộ, nhƣ ngƣời làm vƣờn vun trồng
những cây cối quý báu” [42, tr.313].
Năm là, Ngƣời yêu cầu các cấp lãnh đạo phải biết lựa chọn những ngƣời tài
đức để động viên, bồi dƣỡng, trọng dụng họ. Theo Tƣ tƣởng của Hồ Chí Minh, vấn
đề lựa chọn cán bộ, lựa chọn ngƣời tài đức để dùng vào những việc quan trọng là
trách nhiệm, lƣơng tâm của những ngƣời lãnh đạo và làm công tác nhân sự.
11
Sáu là, Ngƣời đƣa ra yêu cầu với Đảng, Chính phủ phải có chính sách cụ thể
để sử dụng trí thức. Ngƣời nhấn mạnh đào tạo phải đi đôi với sử dụng. Đây là hai
công việc phải đi liền với nhau.
Bảy là, Ngƣời cho rằng trí thức phải gắn bó với giai cấp công nhân, giai cấp
nông dân và nhân dân lao động, tạo thành liên minh công, nông, trí để cùng nhau xây
dựng và bảo vệ đất nƣớc.
Tám là, khi xét vấn đề trí thức, Ngƣời cho rằng phải xét trên hai bình diện. Đó
là sự quan tâm của Đảng và Nhà nƣớc với trí thức và sự tự thân rèn luyện của trí
thức.
Một số quan điểm chung về trí thức.
Đại từ điển tiếng Việt định nghĩa: “Trí thức là ngƣời chuyên làm việc lao động
trí óc” [28, tr. 1705].
Từ điển Chủ nghĩa cộng sản khoa học, nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, xuất bản
năm 1986 cho rằng: “Trí thức - Tập đoàn xã hội, bao gồm những ngƣời chuyên làm
nghề lao động trí óc phức tạp và có học vấn chuyên môn cần thiết cho ngành lao động
đó” [50, tr. 360].
Từ điển Tiếng Việt do Viện ngôn ngữ học biên soạn và phát hành năm 1997,
Hoàng Phê chủ biên cho rằng: “Trí thức là ngƣời chuyên làm việc bằng trí óc và có
tri thức chuyên môn cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp của mình” [51, tr. 999].
Từ sự phân tích những đặc trƣng cơ bản của trí thức, PGS.TS Đàm Đức
Vƣợng và PGS.TS Nguyễn Viết Thông xác định: “Họ là ngƣời lao động trí
óc, có trình độ phát triển về trí tuệ, có hiểu biết sâu về một lĩnh vực chuyên
môn, có năng lực sáng tạo, nhạy bén với cái mới” [52, tr.25].
Bƣớc vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nƣớc trong xu thế hội nhập
quốc tế, vai trò của trí thức đƣợc nâng lên một tầm cao mới. Theo tác giả
Nguyễn Đắc Hƣng, “trong xã hội hiện đại, khoa học ngày càng phát triển, đội
ngũ trí thức sẽ đóng vai trò là lực lƣợng sản xuất trực tiếp thứ nhất…Ngƣời trí
thức Việt Nam phải ý thức đƣợc vai trò của mình trong cộng đồng nhân loại mà
tích cực dấn thân vào hoạt động khoa học mang tầm thế giới” [34, tr.27-28].
Nhìn chung, các định nghĩa về trí thức nói trên đều cho thấy có những điểm
12
chung, thống nhất, đó là xác định nội hàm khái niệm trí thức đều dựa trên cơ sở đặc
trƣng là lao động trí óc và trình độ học vấn, chuyên môn cao của ngƣời trí thức.
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về trí thức và đội ngũ trí thức:
Vận dụng sáng tạo quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin và quán triệt Tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh về trí thức, Đảng khẳng định: “Trí thức là những
ngƣời lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất
định, có năng lực tƣ duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo
ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội” [26, tr.81].
Đây là lần đầu tiên, Đảng đƣa ra quan niệm về trí thức với sự nhất quán
trongviệc đánh giá cao vai trò của trí thức, thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Đảngđối
với lực lƣợng cách mạng quan trọng này.
1.1.2.Khái quát nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về trí thức và xây
dựng đội ngũ trí thức trong từng thời kỳ cách mạng
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi thành lập cho tới nay về công
tác xây dựng ĐNTT là một quá trình liên tục, từ những nhận định, đánh giá còn hạn
chế, chủ quan, các đƣờng lối chính sách còn riêng lẻ đến nhận định mang tính khách
quan, các đƣờng lối, chính sách đã mang tính hệ thống.
Ngay từ khi thành lập, Đảng ta đã có những nhận định quan trọng về vị trí và
vai trò của ĐNTT trong sự nghiệp cách mạng. Trong các văn kiện Chánh cƣơng vắn
tắt của Đảng, Sách lƣợc vắn tắt của Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo đƣợc
thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định trí thức là bộ
phận trong lực lƣợng quần chúng cách mạng dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Trong Sách lƣợc vắn tắt có nêu rõ: “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tƣ sản, trí
thức, trung nông, thanh niên, Tân Việt,.v.v. để kéo họ đi về phe vô sản giai cấp” [15,
tr.3].
Trong quá trình lãnh đạo, xuất hiện một số chủ trƣơng về tầng lớp trí thức
không phù hợp với thực tế khi coi trí thức là lực lƣợng phản cách mạng nhƣ trong
Chủ trƣơng thanh Đảng của Xứ ủy Trung Kỳ (1930–1931) đã nêu “thanh trừng trí,
phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”[16, tr.157]. Chủ trƣơng coi nhẹ tầng lớp trí
thức của Đảng kéo dài trong nhiều năm, suốt từ tháng 12 năm 1930 đến tháng 3 năm
13
1935, Đảng không có bất cứ một chủ trƣơng nào đề cập đến vai trò của tầng lớp trí
thức đối với cách mạng. Phải cho đến năm 1935, chủ trƣơng tập hợp tầng lớp trí thức
đứng về phe cách mạng mới đƣợc Đảng đề cập đến. Chính vì vậy trong thời kỳ Mặt
trận dân tộc dân chủ Đông Dƣơng 1936–1939, Đảng đã lôi cuốn đông đảo tầng lớp trí
thức tham gia vào phong trào quần chúng đấu tranh. Trong Đề cƣơng văn hóa Việt
Nam 1943 nêu rõ đƣờng lối xây dựng nền văn hóa Việt Nam mang tính dân tộc, khoa
học và đại chúng, xác định văn hóa là một mặt trận đấu tranh, chống chính sách văn
hóa nô dịch của thực dân và văn hóa phong kiến. Đó là kim chỉ nam định hƣớng cho
trí thức con đƣờng đi tới trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc dƣới sự lãnh đạo
của Đảng, trí thức đã tham gia đấu tranh trên mặt trận văn hóa, đóng góp trực tiếp vào
thắng lợi chung của dân tộc trong Cách mạng Tháng Tám 1945.
Sự quan tâm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà nƣớc về đào tạo ĐNTT ngay từ
khi nƣớc Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời thông qua việc khai giảng lại các trƣờng
đại học có sẵn và mở thêmBan Văn khoa Đại học...để đào tạo ra ĐNTT cách mạng
phục vụ sự nghiệp đấu tranh và bảo vệ đất nƣớc. ĐNTT đƣợc đào tạo, bồi dƣỡng và
sử dụng có hiệu quả trong trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu
nƣớc. Vai trò và vị trí của ĐNTT cách mạng đƣợc Đảng nhận định lên một bƣớc mới.
Tại Đại hội lần thứ II của Đảng (họp từ ngày 11 đến ngày 19 tháng 2 năm 1951, tại
xã Vinh Quang huyện Chiêm Hóa tỉnh Tuyên Quang) vấn đề trí thức đã đƣợc giải
quyết một cách cơ bản. Trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
II của Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày đã nêu rõ quan điểm, tƣ tƣởng của
Đảng về vấn đề trí thức: “Về thành phần, Đảng Lao động Việt Nam sẽ kết nạp những
công nhân, nông dân, lao động trí óc thật hăng hái, thật giác ngộ cách mạng” [18,
tr.37]. Trong Chính sách của Đảng Lao động Việt Nam đối với trí thức in trên báo
Nhân dân ngày 29–8–1957, Đảng chỉ rõ trí thức là một vốn quý của dân tộc. Không
có trí thức hợp tác với công nông thì cách mạng không thể thành công và sự nghiệp
một nƣớc Việt Nam mới sẽ không hoàn thành đƣợc.
Trong những năm 1954–1957, nền giáo dục miền Bắc bƣớc đầu đƣợc tổ chức,
sắp xếp và phát triển. Các trƣờng đại học, trung học chuyên nghiệp ở Hà Nội do Bộ
Giáo dục trực tiếp quản lý đã trở thành trung tâm đào tạo cán bộ khoa học, sinh viên
14
và trí thức cho cả nƣớc. Kể từ năm 1955 trở đi, một số trƣờng đại học mở cửa trở lại
và thành lập thêm những trƣờng đại học, cao đẳng mới: Đại học Tổng hợp, Đại học
Bách Khoa, Đại học Nông nghiệp… Hệ thống các trƣờng đại học và cao đẳng này đã
góp phần đắc lực vào đào tạo ĐNTT bậc cao phục vụ sự nghiệp cách mạng XHCN ở
miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.Các Văn kiện của
Đại hội III đều nhấn mạnh đến việc xây dựng và phát triển KH-KT một cách có trọng
điểm, đi theo từng bƣớc vững chắc, đi sâu vào nghiên cứu khoa học ứng dụng: “Cần
có kế hoạch dài hạn và toàn diện đào tạo và bồi dƣỡng một đội ngũ lớn mạnh bao
gồm hàng vạn cán bộ chuyên môn về khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và khoa
học xã hội. Những cán bộ này không chỉ thông thạo trình độ chuyên môn mà phải có
phẩm chất chính trị tốt, một lòng một dạ phục vụ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa cộng sản; họ không những phải có năng lực độc lập nghiên cứu mà
còn phải biết kết hợp với đông đảo quần chúng lao động trong công tác khoa học”
[20, tr.554].
Trong giai đoạn 1961–1965, công tác đào tạo đại học và chuyên nghiệp đƣợc
mở rộng với quy mô lớn. Đến năm học 1964 – 1965, nƣớc ta đã có 16 trƣờng đại học
với tổng số 26.100 sinh viên học tập, 128 trƣờng trung học với 95.400 học sinh. Đến
năm 1975, miền Bắc có 41 trƣờng, phân hiệu đại học, gấp 10,3 lần so với năm 1955.
Năm học 1974 – 1975, các trƣờng tuyển mới 12.025 sinh viên gấp 18,5 lần so với
năm 1955 – 1956. Tổng số sinh viên sinh viên đƣợc đào tạo là 55.701 ngƣời, gấp 47
lần so với năm học 1955 – 1956 [6; 70]. Sau ngày đất nƣớc thống nhất năm 1975, cả
nƣớc có 57 trƣờng đại học, 186 trƣờng trung học chuyên nghiệp và 53 viện nghiên
cứu khoa học [33, tr.251].
Trong đƣờng lối cách mạng miền Nam, Đảng chú trọng công tác vận động trí
thức nhằm mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất vì mục tiêu hòa bình, độc lập, thống
nhất đất nƣớc. Thực hiện tuyên bố của Mặt trận tại Đại hội lần thứ nhất, trí thức
miền Nam đã cùng các tầng lớp nhân dân tiếp tục theo đuổi mục tiêu đấu tranh giành
độc lập dân tộc, bảo vệ tự do, dân chủ cho nhân dân. Tháng 4 – 1964, Đại hội giáo
dục toàn miền Nam lần thứ nhất đƣợc tổ chức và đã bầu Ban Chấp hành Trung ƣơng
Hội gồm 31 vị giáo sƣ do giáo sƣ Lê Văn Huấn là Chủ tịch. Phong trào đấu tranh
15
chính trị của thanh niên học sinh, sinh viên, trí thức phát triển mạnh mẽ với nhiều
hình thức phong phú đa dạng.
Suốt 30 năm đấu tranh cách mạng, phẩm chất cao quý và tài năng của trí thức
dân tộc dƣới sự lãnh đạo của Đảng đƣợc ngời sáng. Trong cuộc trƣờng chinh vĩ đại vì
mục tiêu độc lập tự do: “Chẳng những công nhân, nông dân là gốc cách mạng, đƣợc
huy động đông đảo vào trận tuyến đấu tranh, mà tuyệt đại bộ phận các tầng lớp trí
thức của dân tộc, từ nhà khoa bảng cao cấp dƣới chế độ phong kiến đến các trí thức
nổi tiếng đƣợc đào tạo dƣới thời Pháp thuộc, những giáo sƣ, học giả, bác sĩ, kỹ sƣ,
các nhà văn, nhà giáo, nhà báo, nhà thơ đều hăng hái đứng dƣới lá cờ cứu nƣớc của
Bác Hồ” [48, tr.339].
Cùng với công nhân và nông dân, trí thức yêu nƣớc và tiến bộ đã trở thành
những thành phần xã hội nền tảng của mặt trận dân tộc và chế độ dân chủ nhân dân.
Họ đã là một bộ phận của khối đại đại đoàn kết toàn dân tộc, mà nền tảng là khối liên
minh công – nông – trí.
Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc đã mở ra trang sử
vàng cho lịch sử dân tộc, đất nƣớc thống nhất và quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội IV của Đảng (họp từ ngày 14 đến ngày 20 -12 – 1976 tại Hà Nội)
đánh giá cao những hoạt động của đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật và cán bộ
quản lý có trình độ trên đại học, đại học, trung học chuyên nghiệp. Đại hội đánh
giá khá cao đội ngũ trí thức: “Trí thức giữ vai trò ngày càng quan trọng trong xây
dựng và phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học và kỹ thuật” [21, tr.598].
Đặc biệt, Đại hội IV đã đặt vấn đề một cách nghiêm túc về việc sử dụng trí
thức đã làm việc dƣới chế độ cũ ở miền Nam: “Giúp anh chị em chóng trở thành
những ngƣời trí thức xã hội chủ nghĩa” [21, tr.598] và “Về phần anh chị em trí thức,
cần khắc phục những nhƣợc điểm nhƣ chủ quan, tự mãn, xa rời quần chúng, xa rời
sản xuất, đánh giá không đúng mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể” [21, tr.599].
Trên nền tảng quan điểm đó, công tác đào tạo, bồi dƣỡng đội ngũ trí thức đƣợc
thực hiện trên tinh thần đổi mới trong hệ thống giáo dục quốc dân, theo Nghị quyết số
14/NQ/TW ngày 11–1–1979 của Bộ Chính trị về cải cách giáo dục, tiếp đó ngày 204-1981, Bộ Chính trị Trung ƣơng Đảng ra Nghị quyết 37 về “chính sách khoa học và
16
kỹ thuật”, đề cập toàn diện nhiệm vụ, mục tiêu, chính sách khoa học, kỹ thuật,
nguyên tắc, phƣơng châm lãnh đạo của Đảng. Nghị quyết cũng nhấn mạnh khoa học
xã hội phải góp phần làm rõ cơ sở khoa học của việc xây dựng và cải tạo xã hội chủ
nghĩa, góp phần xây dựng đƣờng lối chính sách của Đảng và Nhà nƣớc….
Cùng với Nghị quyết 37, Nhà nƣớc đã xác định 76 chƣơng trình tiến bộ khoa
học, kỹ thuật trong kế hoạch 5 năm (1981 – 1985). Đại hội V của Đảng (họp từ ngày
27 đến ngày 31 – 3 – 1982, tại Hà Nội) tiếp tục tƣ tƣởng của Đại hội IV là đẩy mạnh
công tác khoa học, kỹ thuật. Trong 5 năm, kể từ Đại hội IV đến Đại hội V, số lƣợng
trí thức tăng thêm 78%. Tính đến thời điểm năm 1982, cả nƣớc hiện có trên 260
nghìn cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học, trên đại học. Để phát huy đƣợc vai trò của
trí thức, khoa học phát triển, tổ chức và quản lý trở thành vấn đề quan trọng. Vì vậy,
Hội đồng Bộ trƣởng đã có Nghị định số 51/HHĐBT, ngày 17-5-1983, nhấn mạnh:
Kết hợp chặt chẽ KH-XH, KH-TN và KH-KT, tập trung lực lƣợng vào mục tiêu trọng
điểm, tạo ra sức mạnh tổng hợp góp phần tích cực tổ chức lại sản xuất, đổi mới hệ
thống quản lý khoa học. Đó là những định hƣớng, là cơ sở pháp lý rất quan trọng để
xây dựng và phát huy mạnh mẽ vai trò, vị trí của trí thức dân tộc trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ đất nƣớc. Trong 5 năm, kể từ Đại hội IV đến Đại hội V, số lƣợng trí
thức tăng thêm 78%. Tính đến thời điểm năm 1982, cả nƣớc hiện có trên 260 nghìn
cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học.
Bƣớc sang thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nƣớc ngày càng coi trọng vai trò và
vị trí chính trị, xã hội của các hội trí thức, quan tâm xây dựng và phát triển các hội.
Dƣới sự lãnh đạo của Đảng, các hội từng bƣớc kiện toàn tổ chức và đổi mới hoạt
động, bảo đảm tính chất là những tổ chức chính trị - xã hội, nghề nghiệp độc lập,
đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nƣớc. Đại hội VI của Đảng
đã ghi dấu mốc đổi mới toàn diện, trong đó, đã mở ra cho trí thức một hƣớng đi mới,
thể hiện vấn đề dân chủ đối với trí thức, “Đối với trí thức, điều quan trọng nhất là bảo
đảm quyền tự do sáng tạo. Đánh giá đúng năng lực và tạo điều kiện đƣợc sử dụng
đúng và phát triển. Phá bỏ những quan niệm hẹp hòi, không thấy tầng lớp trí thức
ngày nay là những ngƣời lao động xã hội chủ nghĩa, đƣợc Đảng giáo dục và lãnh đạo,
ngày càng gắn bó chặt chẽ với công nhân, nông dân” [12, tr.115].
17
Bƣớc sang Đại hội VII của Đảng, thành phần trí thức trong Đại hội chiếm đa
số nhƣ trong 1176 đại biểu tham dự có 158 ngƣời là phó tiến sĩ, tiến sĩ, giáo sƣ cấp I,
II. Số ngƣời đã qua đào tạo lý luận chính trị và quản lý kinh tế: 840 ngƣời chiếm
71,42%, trong đó đạt trình độ lý luận cao cấp là 257 ngƣời, chiếm tỷ lệ 21,85 %, đạt
trình độ lý luận trung cấp: 461 ngƣời, chiếm tỷ lệ 39,2%; đã qua đào tạo quản lý kinh
tế: 152 ngƣời, chiếm tỷ lệ 12, 93 %. Điều đó chứng tỏ trình độ trí thức trong Đảng đã
đƣợc nâng lên rất nhiều so với những năm trƣớc đó, phản ánh quá trình nỗ lực học
tập của các đảng viên. Văn kiện Đại hội đánh giá cao những đóng góp của giới trí
thức trong công cuộc đổi mới đất nƣớc. Trí thức là là lực lƣợng chủ yếu thúc đẩy sự
phát triển của khoa học và công nghệ.Việc đề cao vai trò, vị trí của trí thức cũng đƣợc
khẳng định trong Cƣơng lĩnh xây dựng đất nƣớc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội: “Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, vai trò của giới trí thức đã quan
trọng, trong xây dựng chủ nghĩa xã hội vai trò của giới trí thức ngày càng quan trọng.
Giai cấp công nhân nếu không có đội ngũ trí thức của mình và bản thân công – nông
không đƣợc nâng cao kiến thức, không dần dần đƣợc trí thức hóa thì không thể xây
dựng xã hội chủ nghĩa đƣợc” [13, tr.70].
Đại hội VIII của Đảng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đánh dấu mốc phát triển
mới trong tiến trình phát triển của nƣớc ta, quyết định những vấn đề liên quan đến
vận mệnh dân tộc và tƣơng lai của đất nƣớc. Đây là Đại hội mở đầu thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH. Đại hội tiếp tục khẳng định phát triển giáo dục và đào tạo cùng với khoa
học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là khâu đột phá trong tiến trình CNH, HĐH.
Từ quan điểm: “Lấy việc phát huy nguồn lực con ngƣời làm yếu tố cơ bản cho sự
phát triển nhanh và bền vững” [14, tr.85].
Đại hội VIII đã xác định một nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp CNH, HĐH
là: “Xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ vững mạnh. Phát hiện, bồi
dƣỡng và trọng dụng nhân tài trong các lĩnh vực khoa học và công nghệ, văn hóa
nghệ thuật, quản lý kinh tế - xã hội và quản trị sản xuất kinh doanh, đáp ứng nhu cầu
trƣớc mắt và chuẩn bị cho bƣớc phát triển cao hơn sau năm 2000” [14, tr.38].
Hội nghị Trung ƣơng 2, khóa VIII, ra Nghị quyết số 02–NQ/HNTW, ngày 24 –
12 – 1996 đã ra Nghị quyết“Về định hƣớng chiến lƣợc phát triển giáo dục – đào tạo
18