Tải bản đầy đủ (.docx) (92 trang)

XU HƯỚNG ỨNG DỤNG MẠNG XÃ HỘI ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP BÁN LẺ CỦA VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (787.38 KB, 92 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
---------***--------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
XU HƯỚNG ỨNG DỤNG MẠNG XÃ HỘI ĐỐI VỚI CÁC
DOANH NGHIỆP BÁN LẺ CỦA VIỆT NAM

Hà Nội, tháng 12 năm 2012


MỤC LỤC


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt

Ý nghĩa tiếng Anh

Ý nghĩa tiếng Việt

B2B

Business to Business

Doanh nghiệp tới doanh nghiệp

B2C

Business to Customer



Doanh nghiệp tới khách hàng

CNTT

Công nghệ thông tin
Công nghệ thông tin – truyền

CNTT-TT

thông

DN
FMCG

Doanh nghiệp
Fast Moving Consumer Goods

GDĐT
GRDI

Mặt hàng tiêu dùng nhanh
Giao dịch điện tử

Global Retail Development Index

MXH

Chỉ số phát triển bán lẻ chung
Mạng xã hội


PR

Public Relations

Quan hệ công chúng

ROI

Return on Investment

Tỉ lệ hoàn vốn đầu tư

SEO

Search Engine Optimization

Tối ưu hóa công cụ tìm kiếm

TMĐT
WTO

Thương mại điện tử
World Trade Organization

Tổ chức thương mại thế giới

DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
Tên
Biểu đồ 1.1


Nội dung
Tỉ lệ phần trăm độ tuổi người dùng mạng xã hội tại Mỹ

Trang
18


Biểu đồ 1.2
Biểu đồ 1.3
Bảng 1.2

Tỉ lệ phần trăm độ tuổi người dùng mạng xã hội tại Châu Âu
Tỉ lệ phần trăm cho những lý do mà mọi người chấp nhận kết nối
bạn bè trên mạng xã hội
Thống kê hoạt động các Sàn giao dịch TMĐT đã được xác nhận

19
20
28

đăng ký năm 2011
Biểu đồ 1.4

Tỷ lệ các chức năng của website

30

Biểu đồ 2.1


Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá

35

thực tế phân theo thành phần kinh tế từ năm 2009 đến năm 2011
Cơ cấu tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Biểu đồ 2.2

theo giá thực tế phân theo ngành kinh doanh qua từ năm 2009 đến

36

năm 2011
Biểu đồ 2.3

Chỉ số niềm tin người tiêu dùng Việt Nam

37

Biểu đồ 2.4

Mức độ thay đổi hành vi mua sắm của người tiêu dùng theo ngành

39

hàng do ảnh hưởng của lạm phát
Biểu đồ 2.5

Những yếu tố chính góp phần vào tăng trưởng của doanh nghiệp


40

Biểu đồ 2.6

Tỉ lệ doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam sử dụng MXH

43

Biểu đồ 2.7

Tỉ lệ phần trăm doanh nghiệp sử dụng các mạng xã hội tại Việt Nam

45

Biểu đồ 2.8

Tỉ lệ doanh nghiệp sử dụng phân bố theo số lượng MXH

47

Hình 2.1

Các nút chức năng kết nối với MXH tích hợp trên website của

51

doanh nghiệp
Hình 2.2

Trang fanpage của một doanh nghiệp bán lẻ của Việt Nam


52

Hình 2.3

Mẫu sự kiện được tổ chức trên mạng xã hội

52

Hình 2.4

Video quảng cáo trên MXH Youtube

53

Hình 3.1

Mô hình tiếp thị qua mạng xã hội dành cho doanh nghiệp lớn

85

Hình 3.2

Mô hình tiếp thị qua mạng xã hội dành cho các chiến dịch ngắn

86

hạn



Hình 3.3

Mô hình tiếp thị qua mạng xã hội dành cho startup

87


6

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Sự ra đời và phát triển của Internet đã kéo theo sự xuất hiện của một hình thức
kinh doanh mới cùng với những lợi ích mà hình thức này đem đến cho các doanh
nghiệp cũng như người tiêu dùng. Đó chính là thương mại điện tử. Thương mại điện tử
làm thay đổi cách kinh doanh của các doanh nghiệp, giúp nâng cao hiệu quả kinh
doanh, giảm chi phí và tăng sức cạnh tranh... Bên cạnh đó, thương mại điện tử cũng
giúp người tiêu dùng có thể tiết kiệm thời gian và chi phí mua sắm mà vẫn tiếp cận
được với nguồn thông tin phong phú, đa dạng của các mặt hàng. Chỉ cần một chiếc
máy tính hay bất kỳ thiết bị điện tử nào có kết nối Internet là người tiêu dùng đã có thể
lựa chọn và so sánh các loại hàng hóa, dịch vụ ở mọi nơi trên thế giới chỉ qua một vài
cú nhấp chuột.
Có nhiều cách để doanh nghiệp và người tiêu dùng gặp gỡ nhau tạo tiền đề cho
việc thực hiện các giao dịch mua bán hàng hóa trong môi trường Internet. Các website
riêng của doanh nghiệp, các sàn giao dịch B2B, B2C liên tiếp được mở ra để đăng tải
các thông tin, hình ảnh về sản phẩm giúp khách hàng dễ dàng tìm kiếm, lựa chọn các
mặt hàng cũng như tìm hiểu thông tin doanh nghiệp. Trong vài năm trở lại đây, một mô
hình tương tác trực tuyến mới đã ra đời và không ngừng phát triển một cách mạnh mẽ,
không chỉ tạo nên một môi trường mới để người dùng Internet toàn cầu giao lưu, chia
sẻ với nhau mà cũng nhanh chóng trở thành một trong những phương thức hữu ích để

các doanh nghiệp bán hàng cũng như quảng bá các sản phẩm dịch vụ. Đó chính là
mạng xã hội. Mạng xã hội đã thực sự thay đổi cách con người giao tiếp với nhau. Ở đó,
mọi người tự do thể hiện những tâm trạng, trạng thái của họ, đưa ra quan điểm về một
vấn đề nào đó được quan tâm hay bộc lộ các sở thích, nhu cầu của họ. Sự tương tác
mạnh mẽ trên mạng xã hội giúp con người kết nối bền chặt hơn khiến các thông tin
được lan tỏa với một tốc độ chóng mặt trên toàn cộng đồng. Đây cũng chính là những
cơ sở để các doanh nghiệp đưa ra những chiến lược kinh doanh, quảng bá thương hiệu
cũng như các sản phẩm mà doanh nghiệp cung cấp.


7

Trên thế giới đã bắt đầu xuất hiện các thuật ngữ ám chỉ các hoạt động liên quan
đến việc ứng dụng mạng xã hội trong kinh doanh của các doanh nghiệp chẳng hạn như
social media (truyền thông xã hội), content marketing (marketing nội dung)… Không ít
các doanh nghiệp nước ngoài đã mở các chiến dịch truyền thông rầm rộ trên các trang
mạng xã hội nhằm thu hút sự chú ý của đông đảo cộng đồng mạng và đã dành được
những thành công không nhỏ từ những lợi ích mà mạng xã hội đem lại. Đó là lượng
người dùng khổng lồ đang không ngừng tăng lên, sự tiết kiệm chi phí, tốc độ lan tỏa
thông tin nhanh chóng… Tuy nhiên, ở Việt Nam, đây có thực sự là một trào lưu kinh
doanh của các doanh nghiệp mà nhất là các doanh nghiệp bán lẻ trong nước? Với khả
năng nắm bắt nhanh nhạy các xu thế Internet trên thế giới, các mạng xã hội nước ngoài
đã thâm nhập vào Việt Nam cùng với sự ra đời của các mạng xã hội trong nước đã
nhanh chóng thu hút được lượng người dùng đông đảo và cho thấy những tiềm năng,
lợi ích kinh tế có thể đem đến cho các doanh nghiệp Việt Nam như những gì mà mạng
xã hội mang lại cho các doanh nghiệp nước ngoài.
Vậy đối với các doanh nghiệp bán lẻ của Việt Nam, mạng xã hội đã được khai
thác ở mức độ như thế nào? Các doanh nghiệp thực sự bắt kịp xu thế của thế giới hay
chưa? Những thuận lợi, khó khăn nào mà các doanh nghiệp bản lẻ của Việt Nam gặp
phải khi triển khai ứng dụng mạng xã hội trong kinh doanh? Những nghiên cứu về các

vấn đề trên sẽ được làm trình bày trong bài khóa luận này với đề tài: “Xu hướng ứng
dụng mạng xã hội đối với các doanh nghiệp bán lẻ của Việt Nam".
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích của đề tài:
Trên cơ sở nghiên cứu tình hình ứng dụng mạng xã hội trong kinh doanh của các
doanh nghiệp bán lẻ của Việt Nam, đề tài chỉ ra những lợi ích mà mạng xã hội đem đến
cho các doanh nghiệp cũng như các khó khăn mà doanh nghiệp gặp phải khi ứng dụng
hình thức kinh doanh mới này và đề xuất các giải pháp nhằm phát huy hiệu quả việc
ứng dụng mạng xã hội trong kinh doanh, tiếp thị của các doanh nghiệp bán lẻ Việt
Nam.


8

Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Tìm hiểu những vấn đề cơ bản về tình hình phát triển các mạng xã hội và hoạt động

kinh doanh trong ngành bán lẻ tại Việt Nam
- Nghiên cứu, phân tích tiềm năng phát triển của các mạng xã hội và việc ứng dụng
vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc ứng dụng mạng xã hội trong

kinh doanh của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu:
-

Những vấn đề cơ bản về mạng xã hội.

Tiềm năng phát triển của các mạng xã hội trong và ngoài nước.
Tình hình ứng dụng mạng xã hội trong kinh doanh, tiếp thị của các doanh nghiệp

-

bán lẻ của Việt Nam.
Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động ứng dụng mạng xã hội trong kinh doanh của
các doanh nghiệp Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu:

-

Về mặt nội dung: Khóa luận tập trung nghiên cứu tình hình ứng dụng các mạng xã
hội chính, có lượng người dùng lớn tại Việt Nam trong hoạt động kinh doanh, tiếp

-

thị của các doanh nghiệp bán lẻ của Việt Nam.
Về mặt thời gian: Những tư liệu, số liệu được dẫn chiếu trong đề tài là những tư
liệu, số liệu được tập hợp từ năm 2009 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu

-

Thu thập và xử lý thông tin từ các tài liệu liên quan đến đề tài bằng tiếng Việt và

-

tiếng Anh từ các sách, văn bản luật, tạp chí, luận văn và Internet.
Phân tích, so sánh, đánh giá các dữ liệu có được.

Quan sát, thống kê để thu thập số liệu.
5. Kết cấu của đề tài

Ngoài lời nói đầu, danh mục viết tắt, danh mục bảng biểu, đồ thị, kết luận, danh
mục tài liệu tham khảo và phụ lục nội dung của khóa luận gồm có 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về mạng xã hội và hoạt động bán lẻ tại Việt Nam


9

Chương 2: Tình hình ứng dụng mạng xã hội đối với các doanh nghiệp bán lẻ của
Việt Nam
Chương 3: Giải pháp nhằm phát huy hiệu quả việc ứng dụng mạng xã hội trong
kinh doanh của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam
Do đây là một đề tài tương đối mới về một lĩnh vực còn đang trong giai đoạn
phát triển ở Việt Nam, thời gian nghiên cứu và hiểu biết còn hạn chế nên khóa luận khó
tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được những nhận xét, đóng góp ý
kiến chân thành, tích cực từ phía quý thầy cô và các bạn.


10

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ MẠNG XÃ HỘI VÀ HOẠT ĐỘNG BÁN LẺ TẠI
VIỆT NAM
1.1. Khái niệm chung về mạng xã hội
1.1.1. Khái niệm mạng xã hội

Khoản 14, điều 1, Nghị định 97/2008/NĐ- CP về Quản lý, cung cấp, sử dụng
dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet quy định: “Dịch vụ mạng xã hội trực
tuyến là dịch vụ cung cấp cho cộng đồng rộng rãi người sử dụng khả năng tương tác,

chia sẻ, lưu trữ và trao đổi thông tin với nhau trên môi trường Internet, bao gồm dịch
vụ tạo blog, diễn đàn (forum), trò chuyện trực tuyến (chat) và các hình thức tương tự
khác.”
Theo Wikipedia, “mạng xã hội, hay gọi là mạng xã hội ảo, (Tiếng Anh: social
network) là dịch vụ nối kết các thành viên cùng sở thích trên Internet lại với nhau với
nhiều mục đích khác nhau không phân biệt không gian và thời gian.”
Loại hình mạng xã hội diễn ra hoàn toàn trên môi trường Internet. Bất cứ nơi
đâu và bất cứ thời gian nào có thể truy cập mạng thì con người cũng có thể tham gia
vào các mạng xã hội. Mạng xã hội cung cấp nhiều ứng dụng miễn phí cho người sử
dụng như chat, e-mail, chia sẻ hình ảnh, video, file, blog, link… Chính vì vậy, người
dùng cá nhân thường sử dụng mạng xã hội để kết nối bạn bè, thể hiện bản thân, chia sẻ
các sở thích, mối quan tâm… Đối với người dùng là doanh nghiệp, mạng xã hội cũng
là một công cụ để doanh nghiệp đó quảng bá sản phẩm, thăm dò ý kiến, nắm bắt nhu
cầu, sở thích của khách hàng, tìm kiếm đối tác kinh doanh.
Theo một khái niệm khác, mạng xã hội là một loại ứng dụng Internet giúp kết
nối bạn bè, các đối tác kinh doanh hay các cá nhân với những sở thích cụ thể thông qua
việc cung cấp các dịch vụ miễn phí như trình diễn ảnh, e-mail, viết blog và sử dụng các
công cụ khác (Efraim Turban, 2010, tr.14).
Với các dịch vụ được cung cấp miễn phí như vậy trên mạng xã hội, các cư dân
mạng đã hoàn toàn thay đổi sự kết nối với nhau trong môi trường Internet. Đối với
phần đông những người tham gia vào mạng xã hội thì hình thức này thậm chí còn trở
thành một phần quan trọng, khó có thể tách rời trong đời sống ảo hằng ngày của hàng
trăm triệu thành viên toàn thế giới. Dịch vụ mạng xã hội cung cấp giúp cho các thành
viên có thể dễ dàng tìm kiếm bạn bè, đối tác kinh doanh của mình nhờ vào các gợi ý


11

dựa trên các thông tin cá nhân (tuổi tác, quê quán, nơi ở, e-mail…), sở thích (mua sắm,
nghe nhạc, xem phim, thần tượng ca sĩ, diễn viên, thể thao, du lịch…), lượng bạn bè

chung, sự tham gia các nhóm, hội… Trên mạng xã hội, người sử dụng có thể cơ hội
được thể hiện cái Tôi của mình, có thể đưa ra tiếng nói riêng thông qua việc viết các
dòng trạng thái (status), blog (notes) hay cùng bạn bè thảo luận về một vấn đề được xã
hội quan tâm. Nhờ vào đó, các thành viên mạng xã hội có thể hiểu thêm về nhau và các
doanh nghiệp từ đó có thể nắm bắt thêm nhu cầu, thái độ, xu hướng, thị hiếu của khách
hàng để đưa ra các chiến lược kinh doanh, tiếp thị hợp lý.
1.1.2.

Lịch sử mạng xã hội
Tuy mới thực sự bùng nổ trong khoảng 10 năm trở lại đây nhưng những nhân tố

đầu tiên hình thành nên các mạng xã hội đã nhen nhóm từ những năm 70 của thế kỷ
trước.
Năm 1971: Email đầu tiên trên thế giới có nội dung “QWERTYUIOP” được gửi
đi giữa hai máy tính đặt cạnh nhau đánh dấu bước đi đầu tiên cho sự giao tiếp giữa con
người với nhau trong môi trường Internet và là nền móng để phát triển nên các mạng
xã hội như ngày nay.
Năm 1978: Hệ thống Trao đổi dữ liệu (Bulletin Board System hay BBS) được ra
đời. Hệ thống này được đăng tải trên các máy tính cá nhân, yêu cầu người dùng phải
quay số qua modem của máy chủ, trao đổi thông tin qua đường điện thoại tới những
người dùng khác. Đây là hệ thống đầu tiên cho phép người dùng truy cập và tương tác
với nhau dù tốc độ rất chậm bởi chỉ duy nhất một người dùng có thể sử dụng trong một
thời điểm. Một năm sau đó, phiên bản trình duyệt web đầu tiên được xây dựng với việc
sử dụng bảng thông tin Usenet. Usenet được tạo ra bởi Jim Ellis và Tom Truscott, cho
phép người dùng đăng các bài báo, bài viết dưới dạng “tin tức”. Sự khác nhau giữa
Usenet và các hệ thống trao đổi dữ liệu và diễn đàn là nó không chịu sự quản lý, kiểm
duyệt của admin hay server trung tâm nào. Đó là hệ thống diễn đàn mở mà người dùng
có thể thảo luận, đưa ra quan điểm về những vấn đề trong cuộc sống. Hiện nay, có một
số diễn đàn hiện đại hoạt động với ý tưởng tương tự như Usenet là Yahoo! Groups và
Google Groups.



12

Năm 1988, phiên bản đầu tiên của các tin nhắn tán gẫu tức thời ra đời với dưới
dạng liên lạc cấp tốc qua Internet (Internet Relay Chat, viết tắt là IRC). IRC được dựa
trên nền tảng Unix, sử dụng để chia sẻ các file, đường link theo hình thức mạng ngang
hàng và liên lạc giữa mọi người với nhau.
Năm 1994, Geocities, một trong những mạng xã hội đầu tiên trên Internet được
giới thiệu ra công chúng. Mạng xã hội này hướng tới cho phép người dùng tạo ra các
website của riêng mình, chia thành các “cities” dựa trên nội dung website.
Năm 1995, TheGlobe.com được giới thiệu, mang đến cho người dùng khả năng
tương tác với những người có cùng sở thích và cùng bàn luận về các vấn đề trong cuộc
sống.
Năm 1997, phần mềm AOL Instant Messenger và SixDegrees.com ra đời. Đây
là năm mà các tin nhắn tán gẫu tức thời trở nên phổ biến và cũng là lần đầu tiên người
dùng có thể tạo profile riêng và kết nối với bạn bè.
Năm 2002, Friendster xuất hiện như một mạng xã hội tiên phong và mang đến
một trào lưu mới tại Mỹ. Ba tháng đầu tiên, mạng xã hội này đã thu hút 3 triệu thành
viên tham gia, cứ 126 người sử dụng Internet thì có một người ghi danh làm thành viên
của mạng xã hội này.
Năm 2003, sự ra mắt của trang mạng xã hội MySpace đã đánh dấu sự bùng nổ
của loại hình tương tác trực tuyến này trên toàn thế giới. Được coi là bản sao của
Friendster nhưng MySpace đã có sự đầu tư kỹ lưỡng từ công nghệ cho tới việc quảng
bá dù được lập trình và giới thiệu tới công chúng chỉ trong 10 ngày. Trang này đã
nhanh chóng thu hút được nhiều người tham gia, thậm chí cả các thành viên của
Friendster.
Tiếp theo đó, các trang mạng xã hội khác như Classmates.com, LinkedIn và
Tribe.net cũng bắt đầu xuất hiện và trở thành một trong những website mạng xã hội
phổ biến nhất trong lịch sử Internet.

Năm 2004, Mark Zuckerberg ra mắt TheFacebook khi còn ngồi trên ghế trường
đại học Havard với mục đích giúp kết nối, liên lạc giữa các sinh viên trong trường. Tuy
nhiên, với sự phát triển không ngờ, TheFacebook, sau đó đã được đổi tên thành
Facebook, đã vượt ra khỏi phạm vi trường học và trở thành mạng xã hội trực tuyến có
tốc độ phát triển nhanh nhất trên thế giới. Dựa trên nền tảng lập trình Facebook


13

Platform, các thành viên của Facebook có thể tự tạo ra các ứng dụng mới cho các nhân
cũng như người dùng khác. Điều này đã đóng góp không nhỏ cho sự thành công vượt
bậc của trang mạng xã hội này.
Năm 2006, tiểu blog Twitter được ra mắt công chúng và nhanh chóng chiếm
được sự yêu thích của người dùng khi mạng xã hội này cung cấp sự tiện lợi đến không
ngờ cho những ai muốn chia sẻ, cập nhật các trạng thái của mình với bạn bè trên
Internet.
Năm 2008, mạng xã hội Facebook bắt đầu phát triển với tốc độ chóng mặt,
nhanh chóng vượt qua MySpace trở thành website mạng xã hội hàng đầu trên thế giới
về cả tiêu chí lượng người dùng lẫn số lượng truy cập.
Từ đó cho tới nay, các mạng xã hội trên thế giới nói chung cũng như các mạng
xã hội của từng quốc gia nói riêng đã không ngừng được ra đời và ngày càng có những
tính năng được cải tiến, thu hút lượng người dùng lớn tham gia. Sự phát triển không
ngừng của các mạng xã hội cũng đã đi cùng sự gia tăng của các hình thức quảng cáo,
chiến lược marketing giới thiệu sản phẩm, mua bán hàng hóa thông qua loại hình tương
tác trực tuyến đầy tiềm năng này, mở ra cho các doanh nghiệp nhiều cơ hội kinh doanh
mới.
1.1.3.
Các mạng xã hội phổ biến trên thế giới và Việt Nam
1.1.3.1. Các mạng xã hội phổ biến trên thế giới
1.1.3.1.1. Facebook


Facebook hiện đang là mạng xã hội chiếm giữ ngôi vị số một trên thế giới về
lượng người dùng và số lượng truy cập. Facebook được thành lập vào năm 2004 với
tên gọi ban đầu là Facemash, một phiên bản Hot or Not của trường đại học Harvard.
Ngay sau đó, trang mạng xã hội này được Mark Zuckerberg đổi tên thành
TheFacebook ra đời nhằm phục vụ cho việc liên lạc, trao đổi thông tin giữa các sinh
viên trong trường. Sau một tháng ra mắt, hơn một nửa sinh viên trường đại học
Harvard đã đăng ký làm thành viên của TheFacebook. Với những thành quả thu được
không ngờ, Mark Zuckerberg đã cùng những người bạn của mình mở rộng phạm vi
hoạt động ra bên ngoài khuôn viên trường đại học. TheFacebook sau đó được bỏ bớt
chữ “The” và tên miền chính trở thành Facebook.com. Facebook nhanh chóng thu hút


14

nhiều người sử dụng hơn nữa. Sau 10 tháng ra mắt, mạng xã hội này đã đạt mốc 1 triệu
người dùng.
Những năm tiếp theo cũng chứng kiến nhiều bước tiến lớn của Facebook khi số
lượng thành viên tăng nhanh chóng mặt kéo theo đó là sự thay đổi của trang mạng xã
hội này nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu hàng triệu người tham gia như vậy thông qua
việc cải tiến không ngừng nền tảng ứng dụng Facebook Platform. Hàng loạt các tính
năng mới được Facebook tung ra như MarketPlace, FB event, Facebook chat,
Facebook Fanpage…
Năm 2008, mạng xã hội này đạt mốc 100 triệu người dùng, có mặt trên nhiều
quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới với 21 ngôn ngữ khác nhau. Một mốc quan
trọng đối dành cho các doanh nghiệp đó là tháng 10/2007, Facebook đã đưa Facebook
Ads vào hoạt động khi ký hợp đồng quảng cáo với Microsoft, mở ra một phương thức
quảng cáo mới cho hoạt động kinh doanh nhằm đem sản phẩm của các doanh nghiệp
tiếp cận tới hàng triệu người trên thế giới tại cùng một thời điểm.
Năm 2009, số lượng người dùng Facebook lần lượt phá vỡ các mốc 200 triệu và

300 triệu. Tháng 2 năm 2010, con số đó tăng lên 400 triệu người và nhanh chóng chạm
mốc 500 triệu người vào cuối năm đó. Tại thời điểm này, năm 2012, Facebook đã sở
hữu số lượng thành viên là hơn 1 tỉ người (Jason Keath, 2012).
Twitter
Twitter là một dạng micro-blog có khả năng cập nhật tin tức, trạng thái của

1.1.3.1.2.

người dụng một cách nhanh chóng do việc giới hạn số lượng ký tự trên mỗi tin nhắn.
Qua đó, các thành viên có thể theo dõi các nội dung được cập nhật từ một người khác
bằng cách “follow” (theo đuôi) người đó. Người khác cũng có thể theo đuôi bạn và
được gọi là “follower”. Mỗi “bài viết” trên Twitter được đăng tải theo thời gian thực
nhưng chỉ được gói gọn trong 140 ký tự. Người dùng sẽ đăng các mẫu thông tin ngắn
gọn này dưới dạng các “tweet” ngay trên website chính thức của Twitter hay thông qua
các thiết bị di động. Tin nhắn Tweet đầu tiên trên thế giới đã được Jack Dorsey gửi đi
vào ngày 21/3/2006, cũng theo đó đánh dấu sự ra đời của trang mạng xã hội hàng đầu
hiện nay. Chính sự ngắn gọn và khả năng lan truyền nhanh, Twitter nhanh chóng chiếm
được sự yêu thích từ phía người dùng.


15

Hiện nay, mỗi ngày đều có hàng triệu tin nhắn Tweet được gửi đi và nhờ đó
Twitter trở thành một trong những công cụ marketing xã hội vô cùng hiệu quả. Nhiều
doanh nghiệp, ca sĩ, ngôi sao điện ảnh trên thế giới và ngay cả tổng thống Mỹ Barack
Obama đã sử dụng Twitter như một công cụ tích cực, hiệu quả để quảng bá hình ảnh,
kết nối tới khách hàng, người hâm mộ.
LinkedIn
LinkedIn là trang mạng xã hội được Reid Hoffman thành lập vào tháng 12 năm


1.1.3.1.3.

2002. Đây là trang mạng xã hội định hướng kinh doanh mà ở đó các thành viên đa
phần là các doanh nghiệp và những người đang có nhu cầu tìm kiếm việc làm.
LinkedIn đem đến cho người dùng các nhiều dịch vụ như dịch vụ tuyển dụng, quảng
cáo, tạo hồ sơ nhằm thu hút sự chú ý của các nhà tuyển dụng… Chính vì vậy mà trang
mạng xã hội này luôn được các nhà lãnh đạo doanh nghiệp để mắt tới để tìm kiếm
những ứng viên đủ năng lực cho các vị trí trong công ty và cả những đối tác cho doanh
nghiệp đó.
MySpace
MySpace là một trang mạng xã hội tương tác cho phép người dùng viết blog,

1.1.3.1.4.

email, chia sẻ, lưu trữ hình ảnh, video, âm nhạc, tạo hồ sơ cá nhân, lập nhóm. Sau khi
ra đời, MySpace nhanh chóng thu hút được nhiều sự quan tâm từ phía người dùng nhất
là giới trẻ nên phát triển rất nhanh, mỗi tuần thường có tới 500 nghìn thành viên mới và
từng là website tiếng Anh phổ biến thứ 4 trên thế giới. Các nhạc sĩ và nhà làm phim
thường sử dụng trang mạng xã hội này để đăng những bản nhạc, ca khúc và các đoạn
phim ngắn lên trên hồ sơ cá nhân của họ. Đó là lí do để các bạn trẻ tìm đến MySpace
để tìm kiến những chương trình âm nhạc, chiếu phim lớn nhất trên thế giới. Thời điểm
phát triển cực thịnh của MySpace là trong những năm 2007 và 2008, nhưng sau đó
trang này lại nhanh chóng bị Facebook vượt lên cả về số lượng người dùng và lượt truy
cập.
1.1.3.2. Các mạng xã hội phổ biến của Việt Nam
1.1.3.2.1. Zing Me


16


Zing Me là mạng xã hội thuộc sở hữu của công ty Viangame, được ra đời vào
tháng 6 năm 2009. Đây là mạng xã hội đầu tiên ở Việt Nam ứng dụng công nghệ web
theo thời gian thực. Zing Me cũng chú trọng tới các tính năng cơ bản của các mạng xã
hội như trò chuyện trực tuyến, chia sẻ hình ảnh, file, nhạc, tạo nhóm, viết blog. Độ tuổi
trung bình của thành viên trên Zing Me tương đối thấp, đa phần là giới trẻ, học sinh,
sinh viên. Mạng xã hội thuần Việt này luôn sánh ngang với tầm ảnh hưởng của
Facebook tại Việt Nam, thậm chí có những thời điểm vượt lên so với Facebook để trở
thành mạng xã hội có số lượng người dùng lớn nhất Việt Nam. Hiện nay, số lượng
thành viên trên Zing Me là 8,2 triệu thành viên (We Are Social, 2011)
1.1.3.2.2.

Go.vn
Go.vn là mạng xã hội của Tổng Công ty Truyền thông đa phương tiện

VTC, được ra mắt phiên bản thử nghiệm với địa chỉ www.goonline.vn vào ngày 19
tháng 5 năm 2010. Đây là mạng xã hội đầu tiên ở Việt Nam được ra đời do Nhà nước
“đặt hàng” với mong muốn tạo ra một mạng xã hội thuần Việt mang những nội dung
lành mạnh và bổ ích cho cộng đồng, thu hút được sự tham gia của đông đảo thành viên
mạng Việt Nam cũng như cạnh tranh thông tin với các mạng xã hội nước ngoài. Mạng
xã hội Go.vn có nội dung chủ yếu tập trung vào giao tiếp, giải trí, giáo dục và tương tác
với người dùng được phân ra thành nhiều chuyên mục như goEdu, myGo, goBlogs,
goMobile cung cấp rất nhiều tư liệu về các lĩnh vực liên quan từ các bài giảng, công cụ
soạn bài điện tử, các phương pháp học tập cho tới các bài hát có bản quyền, video, hình
ảnh, game giải trí… giúp cư dân mạng Việt Nam thực sự có một sân chơi thuần Việt và
bổ ích.
1.1.4.

Đặc điểm của mạng xã hội
Đặc điểm đầu tiên và dễ nhận thấy nhất của mạng xã hội đó là sự tương tác


trong môi trường mạng, một môi trường ảo mà sự tiếp xúc, giao tiếp giữa con người
với nhau đều thông qua các thiết bị điện tử, di động. Với mạng xã hội, người dùng có
được các hình thức để giao tiếp, trao đổi, chia sẻ với nhau những quan điểm, sở thích
cá nhân, cùng nhau bàn bạc, giải quyết về một vấn đề. Đôi khi có những người dùng sử
dụng mạng xã hội như một công cụ để bày tỏ những suy nghĩ, tâm trạng, trạng thái


17

nhất thời của họ tại một thời điểm để tất cả các bạn bè của họ nhận biết được họ đang
như thế nào. Minh chứng rõ nhất cho sự tương tác rất cao của mạng xã hội đó là việc
chia sẻ những tin tức, sự kiện đã, đang và sẽ diễn ra trong một nhóm, lớp, tổ chức,
quốc gia hay cả thế giới. Chúng ta đã không còn xa lạ gì với sự kiện Nhật Bản bị
những cơn động đất, sóng thần dữ dội tấn công vào ngày 11 tháng 3 năm 2011. Khi
những tin tức, video đầu tiên về sự việc trên được đưa lên mạng thì ngay lập tức trong
chiều hôm đó, hơn 16000 video liên quan đến trận động đất và sóng thần đã được đăng
lên Youtube và nhanh chóng được chia sẻ trên các trang mạng xã hội khác, thu hút
được sự quan tâm của hầu khắp cư dân trên toàn thế giới. Chính sự tương tác mạnh mẽ
này cũng là một ưu thế lớn để các tổ chức, doanh nghiệp nắm bắt được thị hiếu, xu
hướng của khách hàng và đưa ra những chiến lược kinh doanh, marketing hợp lý, sáng
tạo, thu hút sự quan tâm từ đông đảo thành viên trên các mạng xã hội.
Đặc điểm thứ hai liên quan đến vấn đề chi phí trên mạng xã hội. Không khó để
nhận thấy việc gia nhập vào một mạng xã hội đối với một cá nhân hay một tổ chức đều
hầu như không mất một khoản chi phí nào vì các mạng xã hội đều cho phép người
dùng đăng ký và sử dụng miễn phí các ứng dụng cơ bản sẵn có trên các trang này. Từ
đây, các cá nhân hay tổ chức đã có cơ hội tiếp cận với một lượng thông tin dồi dào và
tương đối đáng tin cậy để đem lại cho mình những thông tin cần thiết, chất lượng và
hữu ích tùy theo mục đích sử dụng sau khi biết sàng lọc chúng một cách hợp lý. Điều
này sẽ rất quan trọng đối với các doanh nghiệp khi muốn tìm hiểu thị hiếu của khách
hàng, xu hướng sử dụng các sản phẩm, dịch vụ như thế nào trong thời gian tới hay

nghiên cứu để phát hiện khách hàng tiềm năng, đối thủ trực tiếp hay tiềm tàng… mà
không mất đến quá nhiều chi phí so với các hình thức điều tra, nghiên cứu truyền thống
khác.
Qua mạng xã hội, các mối quan hệ được thiết lập nhanh chóng và dễ dàng hơn
bất kỳ hình thức nào. Một người ở ngoài thế giới thực có tới vài trăm cho đến một
nghìn người bạn có thể coi là nhiều và sẽ mất nhiều năm để họ có thể làm quen được
với một số lượng bạn bè đông đảo như vậy. Tuy nhiên, điều này không còn là khó khăn
khi chúng ta tham gia vào mạng xã hội. Trong môi trường này, người dùng ban đầu sẽ
kết nối với những người bạn gần gũi nhất với họ nhưng những mối quan hệ khác sẽ


18

nhanh chóng được phát triển. Nhờ vào sự kết nối đơn giản mà những người có số
lượng bạn bè lên tới hàng nghìn trong một thời gian ngắn gia nhập mạng xã hội đã
không còn là một điều xa lạ. Điều đáng nói ở đây là việc các doanh nghiệp có thể tận
dụng những tính năng, ưu thế lớn đó của mạng xã hội để thiết lập nên những mối quan
hệ thân thiết với các khách hàng của mình. Dựa trên những gì thu thập được ở các
mạng xã hội, doanh nghiệp sẽ biết mình cần phải cải thiện những gì để đáp ứng những
nhu cầu của khách hàng, thực hiện chăm sóc khách hàng theo một phương thức ít tốn
kém và bám sát với thị hiếu chung của mỗi cá nhân. Từ đó, niềm tin của khách hàng
vào doanh nghiệp sẽ được nâng cao, giúp việc kinh doanh ngày càng phát triển hơn.
Ngoài những đặc điểm mang tính chất tích cực thì mạng xã hội cũng có một số
mặt còn hạn chế mà các cá nhân, doanh nghiệp cần chú trọng.
Vấn đề đầu tiên đó là vấn đề về thông tin cá nhân của người dùng trong mạng xã
hội. Khi đã tham gia vào mạng xã hội, người dùng sẽ phải cung cấp một số thông tin cá
nhân cơ bản và trong quá trình sử dụng mạng xã hội vào các mục đích cá nhân, người
dùng có thể tiết lộ nhiều hơn nữa những thông tin riêng của mình. Điều này đồng nghĩa
với việc họ cũng phải đối mặt với nguy cơ bị lợi dụng các thông tin cá nhân đã được
đăng tải lên đó. Với nhiều mục đích khác nhau, những thông tin đó sẽ được sử dụng

vào những việc làm với ý đồ không tốt, gây nên nhiều phiền toái, rắc rối, thậm chí là
nguy hiểm cho người dùng, ảnh hưởng trực tiếp tới lợi ích cá nhân của mỗi thành viên.
Một đặc điểm nữa đó là mạng xã hội thường tiêu tốn quá nhiều thời gian của
người dùng. Những nghiên cứu gần đây cho thấy nhiều người trẻ có triệu chứng bị
“nghiện” mạng xã hội. Một lượng thời gian đáng kể trong ngày thường được tiêu tốn
vào việc cập nhật tin tức, bàn tán, nói chuyện với bạn bè trên mạng xã hội. Khi việc
làm này diễn ra liên tục, triền miên thì sẽ dẫn đến việc người dùng lãng phí thời gian và
xao nhãng công việc, học tập, xa rời các mối quan hệ và giao tiếp trong thế giới thực.
Mặc dù không phải ai cũng gặp phải sự mất cân đối này khi tham gia vào mạng xã hội
nhưng với một bộ phận các cá nhân đang ở trong tình trạng này thì cũng đủ để thấy
được một trong số những hệ lụy không tốt mà mạng xã hội đã đem lại cho thế giới loài
người.


19

Về cơ bản, mạng xã hội cũng là một website và như vậy cũng sẽ gặp phải những
vấn đề mà một website thông thường sở hữu mà quan trọng hơn hết là vấn đề về bảo
mật thông tin. Những thông tin cá nhân của bạn nếu không được cài đặt ở chế độ riêng
tư thì không những bạn bè của bạn mà ngay cả bạn của bạn bè bạn và thậm chí một
người không quen biết nào đó cũng có thể thấy hết những thông tin đó. Sự chia sẻ
thông tin với một xã hội mở như vậy thì dù có cẩn thận đến mức nào thì cũng không có
một sự đảm bảo chắc chắn nào ở việc chúng chỉ được chia sẻ tới những đối tượng tin
cậy. Ngoài ra, những sự việc làm rò rỉ mật khẩu người dùng của các công ty cung cấp
mạng xã hội cũng không phải hiếm khi xảy ra và chính là minh chứng rõ nhất cho thấy
các vấn đề liên quan đến bảo mật thông tin cá nhân trên mạng xã hội vẫn còn nhiều kẽ
hở và bất cập.
Như vậy, cũng như những dịch vụ khác được khai thác và triển khai trên nền
Internet, mạng xã hội cũng có những ưu và nhược điểm nhất định. Rất dễ để nhận thấy
những ưu điểm mà mạng xã hội đem lại cho những người sử dụng mạng và cách mà

mạng xã hội thay đổi thói quen sử dụng Internet của đông đảo thành viên đã và đang
tham gia vào các trang mạng này. Còn những nhược điểm của mạng xã hội lại phần lớn
kế thừa từ những nhược điểm vốn có của các dịch vụ trên nền tảng web và cần phải có
những biện pháp khắc phục để các doanh nghiệp có thể khai thác lợi thế của mạng xã
hội để phát triển việc kinh doanh hiện tại.
1.1.5. Tình hình phát triển của các mạng xã hội trên thế giới và Việt Nam
Mạng xã hội đang trở thành một trào lưu đối với một phần đông những người sử
dụng Internet.
Theo điều tra của công ty Vinalink, Việt Nam đã có 20/28 loại hình mạng xã hội
trên thế giới. Trong Top 100 mạng xã hội lớn nhất Việt nam, có 90 MXH là của Việt
nam và 10 MXH là của doanh nghiệp nước ngoài. Tuy nhiên, 10 mạng xã hội của nước
ngoài phủ tới 83% lượng người dùng Internet của Việt Nam và 90 mạng xã hội của
Việt Nam phủ tới 75% lượng người dùng Việt Nam. Như vậy có thể thấy rằng, các
mạng xã hội trong và ngoài nước đang có một sức hút rất lớn đối với cộng đồng sử
dụng Internet của nước ta. Xu thế này đang ngày càng phát triển, không chỉ ở Việt Nam


20

mà ngay cả trên thế giới, những con số sau sẽ cho thấy rõ hơn về tình hình phát triển
mạng xã hội trên thế giới và Việt Nam (Tuấn Hà, 2012).
Về số lượng người dùng
Theo một vài số liệu thống kê, 80% số người sử dụng Internet đã từng dùng các
tiện ích của khoảng 500 mạng xã hội trên thế giới và hàng nghìn trang web có chức
năng như một mạng xã hội.
Với hơn 7 tỉ người đang có mặt trên thế giới vào thời điểm hiện tại thì 2 tỉ người
trong số đó đã và đang sử dụng Internet. Trong 2 tỉ người đó thì hơn 1 tỉ người là thành
viên của các trang mạng xã hội. Mỗi ngày có hơn 600 triệu người đăng nhập vào các
tài khoản mạng xã hội của mình.
Theo đó, Facebook đang là mạng xã hội dẫn đầu về lượng người dùng trên toàn

thế giới. Nếu coi Facebook là một quốc gia thì đây là quốc gia có lượng dân số đông
thứ 3 thế giới sau Trung Quốc và Ấn Độ. Số lượng người dùng lớn nhất của mạng xã
hội này tập trung chủ yếu tại khu vực Bắc Mỹ, một phần Nam Mỹ, Châu Âu, Bắc Phi
và Australia với khoảng 800 triệu tài khoản. Tại Việt Nam, Facebook và Zing Me đang
là mạng xã hội có lượng người dùng lớn nhất.
Một số thống kê của công ty Insites Consulting cho thấy, tính đến tháng 3 năm
2011, tỉ lệ phần trăm dân số sử dụng Internet tại Châu Âu là 58,3%, Mỹ là 77,3%,
Australia là 80,2%; trong đó 73% người dùng Internet ở Châu Âu sử dụng ít nhất 1
mạng xã hội, các con số này ở Mỹ và Australia lần lượt là 76% và 67% (Steven Van
Belleghem, 2011). Như vậy, có thể thấy tỉ lệ người tham gia vào một mạng xã hội ở các
nước trên thế giới là rất cao, trung bình trên 70% lượng người sử dụng Internet. Cùng
với đó, mỗi người cũng đều tham gia trung bình gần 2 mạng xã hội/1 người. Đó là
những con số rất ấn tượng cho thấy sức hấp dẫn của các mạng xã hội đối với những
người sử dụng Internet là như thế nào.
Theo số liệu comScore nghiên cứu về truyền thông xã hội Việt Nam năm 2011
thì trong số những người sử dụng Internet tại Việt Nam thì có 87,5% người dùng đã và
đang sử dụng mạng xã hội. Mạng xã hội được sử dụng nhiều nhất là Zing Me, chiếm
44,6% (ComScore, Inc., 2011).


21

Báo cáo mới nhất của WeAreSocial, công ty quảng cáo và kỹ thuật số của
Singapore, phân tích xu hướng kỹ thuật số tại thị trường Việt Nam cho biết, trong số
hơn 90 triệu người dân Việt Nam:
• Có khoảng 31 triệu người sử dụng Internet, tương đương với 34% dân số. Con số này
cao hơn cả tỉ lệ trung bình toàn cầu là 33%. Số người dùng Internet tại Việt Nam tăng
5% trong năm 2012
• Ước tính có khoảng 129 thuê bao di động, tương đương 139% dân số
• Có 19 triệu người sử dụng Internet trên di động, tương đương 21% dân số

• 95% người dân Việt Nam có độ tuổi từ 15 đến 24 truy cập Internet
• 73% người dùng Internet tại Việt Nam có độ tuổi dưới 35
• 66% người dùng Internet Việt Nam sử dụng Internet mỗi ngày.
Hơn nữa, 28% cư dân Internet Việt Nam có một tài khoản Facebook trong khi
27% có một tài khoản Zing. Mỗi 3 giây lại có một người dùng Việt Nam gia nhập
Facebook. 24% người sử dụng Internet Việt Nam có một tài khoản Youtube.
Thay đổi mạnh mẽ nhất trong bối cảnh kỹ thuật số tại Việt Nam trong năm nay
là sự thay đổi sức mạnh truyền thông xã hội. 12 tháng trước mới chỉ có 2,9 triệu người
sử dụng Facebook tại Việt Nam thì hiện đã có hơn 8,5 triệu người dùng – tăng trưởng
hơn 200%. Theo dữ liệu thống kê từ Facebook, lượng người dùng tại Việt Nam đã tăng
500.000 trong hai tuần đầu tháng 10/2012.
Cùng với đó, Zing Me, một sản phẩm mạng xã hội của Việt Nam cũng nằm
trong top dẫn đầu về lượng người dùng với con số 8,2 triệu tài khoản (We Are Social,
2011).
Về độ tuổi người dùng
Các cuộc điều tra của nhiều tổ chức trên thế giới đều cho thấy độ tuổi người
dùng mạng xã hội đều rất đa dạng nhưng tập trung phần lớn vào độ tuổi trẻ.


22

Biểu đồ1.1: Tỉ lệ phần trăm độ tuổi người dùng mạng xã hội tại Mỹ (Đơn vị:%)
(Nguồn: Neilsen (2011,) State of the Media: The Social Media Report Q3 2011 )
Từ biểu đồ trên, có thể thấy, người dùng mạng xã hội tại Mỹ có độ tuổi từ 25
đến 34 chiếm tỉ lệ cao nhất. Tỉ lệ cao tiếp theo tập trung vào những người có độ tuổi 18
đến 24 và 35 đến 44. Đây đều là những người thuộc lớp dân số trẻ, do còn đi học, đi
làm nên có nhiều cơ hội tiếp xúc với Internet, nhanh chóng tiếp cận với những trào lưu
mới trên thế giới nên phần lớn đều đăng ký các tài khoản mạng xã hội. Tỉ lệ phần trăm
độ tuổi người dùng mạng xã hội tại Châu Âu cũng cho thấy những con số tương tự.


Biểu đồ 1.2: Tỉ lệ phần trăm độ tuổi người dùng mạng xã hội tại Châu Âu
(Đơn vị:%)
(Nguồn: Steven Van Belleghem (2011), Social Media around the World 2011)
Không khác nhiều so với Mỹ, lượng người sử dụng mạng xã hội ở Châu Âu tập
trung chủ yếu ở độ tuổi từ 15 đến 54 mà cao nhất là tỉ lệ người từ 15 đến 24 tuổi – độ
tuổi của học sinh, sinh viên. Điều này cho thấy, thành viên của các trang mạng xã hội
trên thế giới đa phần thuộc lớp người trẻ tuổi. Lớp tuổi này bao gồm những người được
tiếp xúc nhiều với Internet, thậm chí đều có trình độ hiểu biết từ khá trở lên về Internet
và nhiều trong số những thành phần thuộc về môi trường mạng ví dụ như mạng xã hội,
mua sắm trực tuyến…
Tại Việt Nam, xu hướng độ tuổi truy cập vào các trang mạng xã hội lại thiên về
tầng lớp có độ tuổi nhỏ hơn. Theo số liệu từ ComScore năm 2011, đa số người dùng
mạng xã hội tại Việt Nam có độ tuổi từ 15 đến 34, chiếm 71% (ComScore, Inc., 2011)
Kết quả từ Zing Me cũng cho thấy những con số tương tự về độ tuổi người dùng
hai mạng xã hội lớn nhất ở Việt Nam là Zing Me và Facebook. Theo đó, lượng người


23

truy cập Facebook nhiều nhất có độ tuổi từ 18 đến 24 chiếm tới 52%. Con số tương tự
này ở mạng xã hội Zing Me là 39%. Độ tuổi này tập trung chủ yếu vào đối tượng học
sinh, sinh viên, những người trẻ tuổi và năng động.
Về xu hướng người dùng mạng xã hội
Lý do chính khiến mọi người kết nối với nhau là những người dùng đã có những
mối quan hệ nhất định ở ngoài thế giới thực. Cụ thể như đó là những bạn bè, người
thân, đồng nghiệp hay những người có cùng bạn bè với nhau. Họ kết nối với nhau để
cùng chia sẻ thông tin và kết nối với những người bạn mới. Biểu đồ dưới đây cho thấy
tỉ lệ phần trăm cho những lý do mà mọi người chấp nhận kết nối bạn bè trên mạng xã
hội.
Biểu đồ 1.3: Tỉ lệ phần trăm cho những lý do mà mọi người chấp nhận kết nối bạn

bè trên mạng xã hội (Đơn vị: %)
(Nguồn: Insites Cousulting (2011), Social Media around the World 2011)
Như vậy, mọi người kết nối với nhau trên mạng xã hội đều dựa trên cơ sở những
mối quan hệ ngoài đời thực như bạn bè, đồng nghiệp, bạn của bạn… Điều này cho thấy
được nhu cầu của mọi người về sự kết nối nhiều hơn, nhanh hơn và tiện lợi hơn với
bạn bè, người thân thông qua các mạng xã hội. Nhờ môi trường tốt như vậy mà mọi sự
chia sẻ làm tăng sự gắn bó giữa các mối quan hệ cũng được cải thiện, tạo đà cho sự
tham gia ngày càng nhiều của lượng người sử dụng mạng xã hội.
Tất cả những con số thống kê trên đây cho thấy, mạng xã hội đang có sức thu
hút rất lớn đối với rất nhiều người sử dụng Internet trên toàn thế giới và cả ở Việt Nam
ở nhiều độ tuổi khác nhau và mức độ tăng trưởng rất nhanh. Điều này tạo ra một môi
trường đầy tiềm năng để các doanh nghiệp kinh doanh nói chung và doanh nghiệp bán
lẻ nói riêng để tiếp cận và khai thác.
1.2. Khái quát chung về hoạt động bán lẻ
1.2.1. Khái niệm hoạt động bán lẻ

Khoản 8, Điều 3, Nghị định 23/2007/NĐ- CP của Chính phủ quy định: “Bán lẻ
là hoạt động bán hàng hóa trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng.”
Hoạt động bán lẻ đã hình thành từ rất lâu đời cùng với sự phát triển của lịch sử
loài người. Trải qua quá trình lâu dài như vậy, các nhà bán lẻ đã rút ra những kinh


24

nghiệm riêng để nâng cao hiệu quả hoạt động bán hàng, trong đó tập trung chủ yếu vào
các vấn đề sau:
- Phát triển thị trường mục tiêu: Không chỉ đơn thuần là đưa sản phẩm đến tay
người tiêu dùng cuối cùng mà các nhà bán lẻ cũng cần đưa được các sản phẩm của họ
đến đúng đối tượng khách hàng. Do đó việc xác định thị trường mục tiêu sẽ giúp nhà
bán lẻ biết được chính xác phân khúc khách hàng thực sự cần đến sản phẩm của mình

và từ đó tập trung các hoạt động marketing để giới thiệu sản phẩm tới các đối tượng
đó. Việc nghiên cứu thị trường bên cạnh tìm ra được nhu cầu của khách hàng đối với
sản phẩm, dịch vụ còn giúp nhà bán lẻ xác định quy mô thị trường, nâng cao chất
lượng sản phẩm, dịch vụ của mình hơn và có được những chiến lược kinh doanh hợp
lý.
- Cải tiến các sản phẩm, dịch vụ được cung cấp: Các sản phẩm, dịch vụ đưa tới
tay người tiêu dùng cần được nhà bán lẻ chú trọng không chỉ về hình thức, chất lượng
mà còn cả những dịch vụ kèm theo như dịch vụ bán hàng, bảo hành, giao hàng… Nhà
bán lẻ nghiên cứu thị trường không để chỉ trả lời câu hỏi khách hàng cần gì, số lượng
như thế nào, thời điểm nào là thích hợp để tung ra, khả năng thanh toán của khác hàng
ra sao mà việc này còn đòi hỏi doanh nghiệp phải tạo ra và nâng cao chất lượng các sản
phẩm, dịch vụ sao cho thỏa mãn nhu cầu khách hàng nhất. Từ đó xác định được những
yêu cầu cho chất lượng cùng các thiết kế sao cho phù hợp nhất với chiến lược sản
phẩm của doanh nghiệp mình. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng sẽ biết cách để nâng cao
các dịch vụ bán hàng và sau bán để khách hàng có được sự thỏa mãn tối đa với các sản
phẩm, dịch vụ doanh nghiệp cung cấp.
- Điều chỉnh và quyết định giá cả: Để có được chính sách giá hợp lý, doanh
nghiệp cần xác định được mục tiêu kinh doanh và trả lời câu hỏi rằng chính sách này
đưa ra nhằm giúp doanh nghiệp tồn tại, tối đa hóa lợi nhuận, tăng thị phần hay để thu
hồi vốn nhanh… Chọn cho mình một hướng đi cụ thể sẽ giúp nhà bán lẻ có được chính
sách giá riêng, rõ ràng, phù hợp với chiến lược tổng quát của mình. Tuy nhiên, người
bán lẻ cũng phải điều chỉnh giá hợp lý so với thị trường chung, biết cách định giá khác
nhau cho các nhóm sản phẩm khác nhau.


25

- Xúc tiến bán hàng: Để khách hàng biết tới sản phẩm, dịch vụ mà mình cung
cấp, doanh nghiệp bán lẻ cần phải quảng cáo và sử dụng các công cụ, phương tiện
truyền thông khác nhau để giới thiệu các sản phẩm đó. Bán hàng trực tiếp, quảng cáo,

đưa ra các chương trình khuyến mại… chính là những công cụ để các nhà bán lẻ thu
hút sự chú ý từ phía khách hàng. Bên cạnh các hình thức quảng cáo trên truyền hình,
báo, tạp chí, các doanh nghiệp bán lẻ hiện nay đã có xu hướng sử dụng nhiều hơn các
công cụ khác như quảng cáo trên Internet trong các website hay thông qua các diễn
đàn, mạng xã hội…
- Xây dựng chính sách phân phối sản phẩm: Đây cũng là một yếu tố quan trọng
để doanh nghiệp có thể đưa sản phẩm tới tay khách hàng một cách thuận tiện và thành
công nhất. Nhà bán lẻ cần đảm bảo có một chính sách phân phối hợp lý để khách hàng
tiếp cận với sản phẩm, dịch vụ với điều kiện thuận lợi nhất, phù hợp với tính chất các
sản phẩm của mình, tiết kiệm chi phí tối đa cho doanh nghiệp. Vì vậy, doanh nghiệp
bán lẻ cần phải thân trọng khi quyết định lựa chọn địa điểm kinh doanh cùng với các
kênh phân phối khác để thu hút khách hàng đến với sản phẩm, dịch vụ của mình.
1.2.2. Các hình thức bán lẻ
Có thể nói, lựa chọn cách thức bán hàng phù hợp cũng góp phần cho thành công của
doanh nghiệp bán lẻ khi muốn đưa các sản phẩm của mình tới tay người tiêu dùng.
Trên thế giới hiện nay đã xuất hiện rất nhiều hình thức, thể loại bán lẻ đa dạng từ
truyền thống cho tới việc mở rộng lên môi trường Internet.
1.2.2.1. Hình thức bán lẻ không qua cửa hàng
1.2.2.1.1. Bán hàng trực tiếp

Hình thức này xuất phát từ những người bán rong cách đây nhiều thế kỷ khi họ
đem các sản phẩm của mình trực tiếp giới thiệu tới mọi người họ gặp. Các sản phẩm
được cung cấp bởi những người bán lẻ trực tiếp thường là các hàng hóa tiêu dùng thiết
yếu như: mỹ phẩm, thực phẩm hay các sản phẩm tiêu dùng thiết yếu khác. Hình thức
bán hàng trực tiếp này có ưu điểm là tiết kiệm chi phí thuê mặt bằng, cửa hàng. Người
bán có thể tiếp xúc trực tiếp với khách hàng, vì vậy nắm bắt được nhu cầu của từng
khách hàng về các sản phẩm mình cung cấp, ghi nhận những phản hồi trực tiếp của họ
để từ đó cả thiện sản phẩm phù hợp với nhu cầu người tiêu dùng.



×