Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Chuyên đề hiện trạng ô nhiễm nguồn nước mặt do nước thải từ các làng nghề ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1022.64 KB, 29 trang )

Mục lục

SV: trần thu thủy

1


DANH MỤC VIẾT TẮT

BOD5
:

Nhu cầu oxy sinh hóa

COD:

Nhu cầu oxy hóa học

SS:

Chất rắn lơ lửng

CBNSTP:

Chế biến nông sản thực phẩm

N, P :

Nitơ, Photpho

Pb, Zn, Fe:



Chì, Kẽm, Sắt

TCCP:

Tiêu chuẩn cho phép

TCVN:

Tiêu chuẩn Việt Nam

BTNMT :

Bộ tài nguyên môi trường

SV: trần thu thủy

2


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Biểu đồ Phân bố các làng nghề theo vùng miền
1.2.2
Bảng

Trình độ kỹ thuật ở các làng nghề

1.2.3
Bảng 1.3 Các dạng chất thải trong nước theo loại hình sản xuất


Bảng

Đặc trưng nước thải tại các làng nghề CBNSTP

3.1.1
Bảng

Tổng lượng nước thải và bã thải từ sản xuất tinh bột

3.1.2
Bảng 3.2 Phân tích môi trường nước mặt tại các làng nghề tái chế kim loại

Bảng 3.3 Phân tích môi trường nước mặt tại các làng nghề ươm tơ
Bảng

Chất lượng nước thải sản xuất của làng nghề sơn mài Hạ Thái-Hà Tây

3.4.1

và Tương Bình Hiệp, Bình Dương

Bảng

Kết quả phân tích nước mặt tại thôn An Hoà

3.4.2

ĐẶT VẤN ĐỀ


SV: trần thu thủy

3


Việc phát triển làng nghề là một phần của công cuộc công nghiệp hoá - hiện
đại hoá nông nghiệp và nông thôn trong những năm đầu của thế kỷ 21. Phát triển
mạnh những ngành nghề truyền thống, đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm có giá trị
kinh tế cao, sử dụng được nhiều lao động địa phương là lợi thế của kinh tế làng
nghề. Đời sống nông dân ở nhiều vùng nông thôn trong cả nước đã khá lên từ sản
xuất nông nghiệp đồng thời với việc khôi phục và phát triển các làng nghề. Nhiều
làng nghề đã nêu được bài học về làm giàu ở nông thôn. Tuy nhiên chính những nơi
này đã và đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm môi trường mỗi, đặc biệt tình
trạng ô nhiễm nguồn nước mặt xung quanh các làng nghề đang ngày càng trở nên
trầm trọng. Nguồn nước ô nhiễm cũng chính là nguồn nước phục vụ cho nhu cầu
sản xuất và sinh hoạt của người dân trong làng, tạo ra một vòng xoắn luẩn quẩn mà
không chỉ có nguồn nước gánh chịu hậu quả, mà chính người dân đang đánh mất
sức khỏe của chính mình.
Nguyên nhân gây ô nhiễm nguồn nước chính là từ các tính chất đặc thù của
làng nghề như: quy mô nhỏ, công nghệ thủ công lạc hậu, phát triển không đồng bộ,
chủ yếu chịu sự chi phối của các thị trường kém ổn định, chạy đua theo lợi nhuận,
không nhiều kinh phí để đầu tư cho công tác xử lí nước thải thì việc xả nước thải ra
nguồn nước tự nhiên mang lại hiệu quả kinh tế. Và một thực tế nữa là do hiểu biết
của chính những người dân ở các làng nghề về tác động của hoạt động sản xuất đến
sức khoẻ bản thân và những người xung quanh còn hạn chế.
Nhận thức được vấn đề trên em xin thực hiện chuyên đề: “ hiện trạng ô nhiễm
nguồn nước mặt do nước thải từ các làng nghề ở Việt Nam” với mục tiêu:
1. Mô tả thực trạng ô nhiễm nguồn nước mặt do nước thải từ làng nghề ở Việt

Nam.

2. Một số giải pháp nhằm giảm tác động gây ô nhiễm nguồn nước xung quanh
các làng nghề.

SV: trần thu thủy

4


Chương 1

TỔNG QUAN

1. Nước và ô nhiễm nước
1.1.1. Khái niệm nguồn nước mặt

Tài nguyên nước mặt: Là nước phân bố trên mặt đất, nước trong các đại
dương, sông, suối, ao hồ, đầm lầy. Đặc điểm của tài nguyên nước mặt là chịu ảnh
hưởng lớn từ điều kiện khí hậu và các tác động khác do hoạt động kinh tế của con
người; nước mặt dễ bị ô nhiễm và thành phần hóa lý của nước thường bị thay đổi;
khả năng hồi phục trữ lượng của nước nhanh nhất ở vùng thường có mưa. Tổng
lượng dòng chảy sông ngòi trung bình hàng năm của nước ta bằng khoảng 847
km3, trong đó tổng lượng ngoài vùng chảy vào là 507 km3 chiếm 60% và dòng chảy
nội địa là 340 km3, chiếm 40%. Nếu xét chung cho cả nước, thì tài nguyên nước mặt
của nước ta tương đối phong phú, chiếm khoảng 2% tổng lượng dòng chảy của các
sông trên thế giới, trong khi đó diện tích đất liền nước ta chỉ chiếm khoảng 1,35%
của thế giới. Tuy nhiên, một đặc điểm quan trọng của tài nguyên nước mặt là
những biến đổi mạnh mẽ theo thời gian (dao động giữa các năm và phân phối
không đều trong năm) và còn phân bố rất không đều giữa các hệ thống sông và các
vùng. Tổng lượng dòng chảy năm của sông Mê Kông bằng khoảng 500 km3, chiếm
tới 59% tổng lượng dòng chảy năm của các sông trong cả nước, sau đó đến hệ

thống sông Hồng 126,5 km3 (14,9%), hệ thống sông Đồng Nai 36,3 km3 (4,3%),
sông Mã, Cả, Thu Bồn có tổng lượng dòng chảy xấp xỉ nhau, khoảng trên dưới 20
km3 (2,3 - 2,6%), các hệ thống sông Kỳ Cùng, Thái Bình và sông Ba cũng xấp xỉ
nhau, khoảng 9 km3 (1%), các sông còn lại là 94,5 km3 (11,1%). Một đặc điểm
quan trọng nữa của tài nguyên nước sông của nước ta là phần lớn nước sông
(khoảng 60%) lại được hình thành trên phần lưu vực nằm ở nước ngoài, trong đó
hệ thống sông Mê Kông chiếm nhiều nhất (447 km3, 88%). Nếu chỉ xét thành phần
lượng nước sông được hình thành trong lãnh thổ nước ta, thì hệ thống sông Hồng
SV: trần thu thủy

5


có tổng lượng dòng chảy lớn nhất (81,3 km3) chiếm 23,9%, sau đó đến hệ thống
sông Mê Kông (53 km3, 15,6%), hệ thống sông Đồng Nai (32,8 km3, 9,6%).

1.1.2.

Khái niệm ô nhiễm nước

Mỗi mục đích sử dụng cần có tiêu chuẩn và phương pháp đánh giá riêng về
mức độ phù hợp cho nhu cầu sử dụng. Để xem xét liệu nguồn nước có đạt yêu cầu sử
dụng cho từng mục đích hay không ta cần so sánh với tiêu chuẩn chất lượng nước
do các tổ chức chuyên môn quốc tế hoặc do nhà nước qui định. Trong các tiêu chuẩn
chất lượng nước người ta chọn lọc mét sè thông số lí, hóa, sinh đặc trưng. Mỗi một
thông số được qui định một giá trị tối đa cho phepsao cho có mặt của các tác nhân
đó trong nguồn nước ở nồng độ không gây ảnh hưởng tới sức khỏe con người, sự
phát riển của tôm cá, hoặc sự phát triển của cây trồng.
Cùng với sụ phát triỉen của loài người, con người đã và đang làm cho môi
trường nước bị ô nhiễm.Ô nhiễm môi trường nước được chia thành hai dạng: tự

nhiên và nhân tạo và được định nghĩa như là sù thay đổi chất lượng nước làm cho
nước độc hại và không sử dụng được. Theo luật Tài nguyên nước của nước CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM thì ô nhiễm nguồn nước là sự thay đổi tính chất
vật lý. Hóa học và thành phần sinh học của nước vi phạm tiêu chuẩn cho phép.
Sự ô nhiễm nước là sự có mặt của nhiều hay mét chất lạ trong môi trưòng
nước dù chất đó có độc hại hay không bới vì khi vượt quá ngưỡng chịu đựng của
sinh vật thì chất đó sẽ trở nên độc hại.
Ô nhiễm nước tự nhiên do các yếu tố tự nhiên( núi lửa, bão, lũ lụt) có thể
nghiêm trọng nhưng không thường xuyên và không phải là nguyên nhân chính gây
suy thoái chất lượng nước toàn cầu.
Ô nhiễm nhân tạo là nguyên nhân quan trọng và phổ biến nhất được phân
thành các loại:

SV: trần thu thủy

6




Ô nhiễm chất hữu cơ: đó là sự có mặt của các chất tiêu thụ ôxy trong nước. Các

chỉ tiêu để đánh giá ô nhiễm chất hữu cơ là: DO, BOD, COD
• Ô nhiễm các chất vô cơ: là có nhiều chất vô cơ gây ô nhiễm nước, tuy nhiên có
một số nhóm điển hình như: các loại phân bón chất vô cơ (là các hợp chất vô cơ
mà thành phần chủ yếu là cacbon, hydro và oxy, ngoài ra chúng còn chứa các
nguyên tố như N, P, K cùng các nguyên tố vi lượng khác), các khoáng axit, cặn,


các nguyên tố vết.

Ô nhiễm các chất phú dưỡng: phú dưỡng là sự gia tăng hàm lượng Nito,
Photpho trong nước nhập vào các thuỷ vực dẫn đến sự tăng trưởng của các thực
vật bậc thấp (rong, tảo,…). Nó tạo ra những biến đổi lớn trong hệ sinh thái
nước, làm giảm oxy trong nước. Do đó làm chất lượng nước bị suy giảm và ô



nhiễm.
Ô nhiễm do kim loại nặng và các hoá chất khác: thường gặp trong các thuỷ vực
gần khu công nghiệp, khu vực khai khoáng, các thành phố lớn. Ô nhiễm kim
loại nặng và các chất nguy hại khác có tác động rất trầm trọng tới hoạt động
sống của con người và sinh vật. Chúng chậm phân huỷ và sẽ tích luỹ theo chuỗi

thức ăn vào cơ thể động vật và con người.
• Ô nhiễm vi sinh vật: thường gặp ở các thuỷ vực nhận nước thải sinh hoạt, đặc
biệt là nước thải bệnh viện. Các loại vi khuẩn, ký sinh trùng, sinh vật gây bệnh
sẽ theo nguồn nước lan truyền bệnh cho người và động vật.
• Ô nhiễm nguồn nước mặt bởi dư lượng thuốc bảo vệ thực vật và phân bón hoá
học: trong quá trình sử dụng, một lượng lớn thuốc bảo vệ thực vật và phân bón
hóa học bị đẩy vào vực nước ruộng, ao, hồ, đầm,… Chúng sẽ lan truyền và tích
luỹ trong môi trường đất, nước và các sản phẩm nông nghiệp thâm nhập vào cơ
thể người và động vật theo chuỗi thức ăn.

Một số đặc điểm sự phát triển làng nghề tại Việt Nam

1.2.

1.2.1.

Các làng nghề chính ở Việt Nam


- Làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm và chăn nuôi: có số lượng
lớn,chiếm 20% tổng số làng nghề, phân bố khá đều trên cả nước, phần nhiều sử
dụng lao động lúc nông nhàn, không yêu cầu trình độ cao, hình thức sản xuất thủ
SV: trần thu thủy

7


công và gần như ít thay đổi về quy trình sản xuất so với thời điểm khi hình thành
nghề. Phần lớn các làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm nước ta là các làng
nghề thủ công truyền thống nổi tiếng như nấu ruợu, làm bánh đa, đậu phụ, miến
dong, bún…
- Làng nghề dệt nhuộm, ươm tơ, thuộc da: nhiều làng có từ lâu đời, có các sản
phẩm mang tính lịch sử, văn hoá, mang đậm nét địa phương. Những sản phẩm như
lụa tơ tằm, thổ cẩm, dệt may không chỉ là những sản phẩm có giá trị mà còn là
những tác phẩm nghệ thuật đuợc đánh giá cao. Quy trình sản xuất không thay đổi
nhiều, với nhiều lao động có tay nghề cao. Tại các làng nghề nhóm này, lao động
nghề thường là lao động chính.
- Làng nghề sản xuất vật liệu xây dựng và khai thác đá: hình thành từ hàng
trăm năm nay, tập trung ở những vùng có khả năng cung cấp nguyên liệu cơ bản
cho hoạt động xây dựng. lao động gần như thủ công hoàn toàn, quy trình công nghệ
thô sơ, tỷ lệ cơ khí hoá thấp, ít thay đổi.
- Làng nghề tái chế phế liệu: chủ yếu là các làng nghề mới hình thành, số lượng
ít nhưng lại phát triển nhanh về quy mô và loại hình tái chế (chất thải, kim loại,
giấy, nhựa, vải đã qua sử dụng. Đa số các làng nghề tái chế nằm ở phía Bắc, công
nghệ sản xuất được cơ khí hoá một phần.
- Làng nghề thủ công mỹ nghệ: bao gồm các làng nghề gốm, sành sứ, thuỷ tinh
mỹ nghệ, sơn mài, làm nón, dệt chiếu, thêu ren. Đây là nhóm làng nghề chiếm tỷ
trọng lớn về số lượng (gần 40% tồng số làng nghề), có truyền thống lâu đời, sản

phẩm có giá trị cao, mang đậm nét văn hoá, và đặc điểm địa phương, dân tộc. Quy
trình sản xuất gần như không thay đổi, lao động thủ công, nhưng đòi hỏi tay nghề
cao, chuyên môn hoá, tỉ mỉ và sáng tạo.
- Các nhóm ngành khác: bao gồm các làng nghề chế tạo nông cụ thô sơ như cày
bừa, cuốc xẻng, mộc gia dụng, đóng thuyền, làm quạt giấy, dây thừng, đan vó, đan
lưới… Những làng nghề nhóm này xuất hiện từ lâu, sản phẩm phục vụ trực tiếp cho
nhu cầu sinh hoạt và sản xuất của địa phương. Lao động phần lớn là thủ công với số
lượng và chất lượng ổn định.
SV: trần thu thủy

8


1.2.2.

Phân bố làng nghề trên cả nước

Với các chỉ tiêu đã đề ra, cho nay, Việt Nam có khoảng 2017 làng nghề, thuộc 11
nhóm ngành nghề khác nhau, trong đó gồm 1,4 triệu hộ tham gia sản xuất (cả hộ
kiêm), thu hút hơn 11 triệu lao động. Nhiều tỉnh có số lượng các làng nghề lớn như
Hà Tây (cũ) với 280 làng nghề, Bắc Ninh (187), Hải Dương (65), Hưng Yên (48)… với
hàng trăm ngành nghề khác nhau, phương thức sản xuất đa dạng. Tuy nhiên, sự
phân bố và phát triển các làng nghề lại không đồng đều trong cả nước. Các làng nghề
ở miền Bắc phát triển hơn ở miền Trung và miền Nam, chiếm gần 70% số lượng các
làng nghề trong cả nước (1594 làng nghề), trong đó tập trung nhiều nhất và mạnh
nhất là ở vùng đồng bằng sông Hồng. Miền Trung có khoảng 111 làng nghề, còn lại ở
miền Nam hơn 300 làng nghề [Hiệp Hội làng nghề Việt Nam, 2009].

Biểu đồ 1.2.2 : phân bố các làng nghề theo vùng miền
1.2.3. Đặc điểm của làng nghề làm gia tăng ô nhiễm môi trường

- Quy mô sản xuất nhỏ, phần lớn ở quy mô hộ gia đình (chiếm 72% cơ sở sản

xuất)
- Nếp sống tiểu nông của người chủ sản xuất nhỏ có nguồn gốc nông dân đã
ảnh hưởng mạnh đến sản xuất tại làng nghề, làm tăng mức độ ô nhiễm môi
-

trường.
Quan hệ sản xuất mang đặc thù của quan hệ gia đình, dòng tộc, làng xã.
Công nghệ sản xuất và thiết bị phần lớn ở trình độ lạc hậu, chắp vá.
Vốn đầu tư của các cơ sở sản xuất tại các làng nghề thấp, khó có điều kiện
phát triển và đổi mới công nghệ theo hướng thân thiện với môi trường.

- Trình độ lao động chủ yếu là lao động thủ công, học nghề, văn hoá thấp nên

hạn chế nhận thức đối với công tác bảo vệ môi trường. Phần lớn kỹ thuật công nghệ của làng nghề còn lạc hậu, chủ yếu vẫn sử dụng các thiết bị thủ
công, bán cơ khí hoặc đã đã được cải tiến một phần không đảm bảo tiêu chuẩn
kỹ thuật và điều kiện làm việc cho người lao động. Công nghệ sản xuất đơn
giản (đôi khi còn lạc hậu)
-

Nhiều làng nghề chưa quan tâm đến xây dựng hạ tầng kỹ thuật cho bảo vệ
môi trường.

SV: trần thu thủy

9


Bảng 1.2.3: Trình độ kỹ thuật ở các làng nghề

ĐVT: %

Trình độ kỹ thuật

Thủ công, bán cơ

Chế biến nông,
lâm, thuỷ sản

Thủ công mỹ
nghệ và vật
liệu xây dựng

Các ngành
dịch vụ

Các
ngành
khác

61.51

70.69

43.90

59.44

38.49


29.31

56.10

40.56

0

0

0

0

khí
Cơ khí
Tự động hoá

(Nguồn: Đề tài KC 08 – 09, 2005)
Thấy trình độ kĩ thuât làng nghề chủ yếu là thủ công, học nghề chiếm 60- 70%,
không có làng nghề nào áp dụng tự động hóa, dây truyền hiện đại, cơ khí chiếm
khoảng 30-40% nhưng chủ yếu kĩ thuật lạc hậu. Đây là một trong những yếu tố gây
nhiễm môi trường làng nghề.

1.3.

Đặc điểm ô nhiễm môi trường trong các làng nghề.
1.3.1. Ô nhiễm môi trường làng nghề nói chung
Các chất thải phát sinh từ nhiều làng nghề đã và đang làm suy thoái môi


trường nghiêm trọng, tác động trực tiếp đến sức khoẻ người dân và ngày càng trở
thành vấn đền bức xúc. Ô nhiễm môi trường làng nghề có một số đặc điểm sau:


Ô nhiễm môi trường làng nghề là dạng ô nhiễm phân tán trong phạm vi một khu

vực (nông thôn, làng, xã…). Do quy mô sản xuất nhỏ, phân tán, đan xen với khu sinh
hoạt nên đây là loại hình ô nhiễm khó quy hoạch và kiểm soát.


Ô nhiễm môi trường tại làng nghề mang đậm nét đặc thù của hoạt động sản

xuất theo ngành nghề và loại hình sản phẩm và tác động trực tiếp đến môi trường
nước, đất, khí trong khu vực.
SV: trần thu thủy

10




Ô nhiễm môi trường tại các làng nghề thường khá cao tại khu vực sản xuất và

ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ của người lao động.

1.3.2.

Ô nhiễm môi trường nước
Khối lượng và đặc trưng nước thải sản xuất ở các làng nghề phụ thuộc chủ


yếu vào công nghệ và nguyên liệu dùng trong sản xuất. Chê biến lương thực, thực
phẩm, chăn nuôi, giết mổ gia súc, gia cầm, ươm tơ, dệt nhuộm… là những ngành sản
xuất có nhu cầu nước rất lớn và cũng xả thải ra khối lượng lớn nước thải với mức
độ ô nhiễm hữu cơ cao đến rất cao. Ngược lại, một số ngành như tái chế, chế tác kim
loại, đúc đồng, nhôm… nhu cầu nước không lớn nhưng nước thải bị ô nhiễm các
chất rất độc hại như các hoá chất axit, muối kim loại, xyanua và các kim loại nặng
như Hd, Pb, Cr, Zn, Cu…
-

Các làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm, chăn nuôi và giết mổ: khối lượng
nước thải sản xuất rất lớn với thải lượng các chất ô nhiễm hữu cơ cao

-

Các làng nghề dệt nhuộm, ươm tơ, thuộc da: nước thải sản xuất có độ màu cao,
chứa nhiều hoá chất, độ muối cao.

-

Các làng nghề tái chế phế liệu: nước thải sản xuất chứa nhiều hoá chất độc hại

-

Các làng nghề thủ công mỹ nghệ: nước thải sản xuất của một số làng nghề sơn mài
và mây tre đan chứa nhiều loại hoá chất độc.

-

Các làng nghề thủ công mỹ nghệ: nước thải sản xuất của một số làng nghề sơn mài
và mây tre đan chứa nhiều loại hoá chất độc.


Bảng 1.3: các dạng chất thải trong nước theo loại hình sản xuất
Loại hình sản xuất

SV: trần thu thủy

Các dạng chất thải trong môi trường nước

11


1. Chế biến lương thực, BOD, COD, chất rắn lơ lửng, tổng N, Tổng P,
thực phẩm, chăn nuôi, giết Coliform
mổ
2. Dệt nhuộm, ươm tơ, BOD, COD, độ màu, Tổng N, hoá chất, thuốc tẩy, Cr 6+
thuộc da

(thuộc da)

3. Thủ công mỹ nghệ, thêu BOD, COD, chất rắn lơ lửng, độ màu, dẫu mỡ công
ren

nghiệp

- Gốm sứ
- Sơn mài, gỗ mỹ nghệ, chế
tác đá.
4. Tái chế
- Tái chế giấy


- pH, BOD5, COD, tổng N, tổng P, độ màu

- Tái chế kim loại

- COD, dầu mỡ, CN-, kim loại

- Tái chế nhựa

- BOD, COD, tổng N, tổng P, dẫu mỡ, độ màu

5. Vật liệu xây dựng, khai Chất rắn lơ lửng, Si, Cr
thác đá
(trích nguồn: Báo cáo môi trường quốc gia năm 2008)

1.4. Ô nhiễm môi trường làng nghề tác động đến sức khoẻ cộng đồng
Ô nhiễm môi trường làng nghề làm gia tăng tỷ lệ người mắc bệnh đang lao động
và sinh sống tại chính làng nghề đó. Tỷ lệ này đang có xu hướng tăng trong những
năm gần đây.
Theo các nghiên cứu của Viện BHLĐ, sức khỏe dân cư tại các làng nghề tái
sinh kim loại là có nhiều vấn đề nhất. Kết quả điều tra sức khỏe tại làng tái sinh chì
Đông Mai (Hưng Yên) cho Triệu chứng chủ quan về hô hấp (tức ngực, khó thở)
chiếm 65,6%, suy nhược thần kinh chiếm 71,8%, đa khớp mãn chiếm 46,9%, tỷ lệ
hồng cầu giảm chiếm 19,4%, tỷ lệ HST giảm chiếm 44,8% (kết quả về tỷ lệ hồng cầu
SV: trần thu thủy

12


và HST thông qua xét nghiệm máu và ALA niệu cho 32 đối tượng trong làng) và 5
trường hợp nhiễm độc chì (trong đó có 3 trẻ em). Tại làng nghề Văn Môn: Bệnh

đường hô hấp chiếm 64,4%, suy nhược thần kinh 54,5%, bệnh ngoài da 23,1%. Tại
làng nghề Vân Mai, Bắc Ninh: Bệnh đường hô hấp chiếm 44,4%, bệnh da liễu 68,5%,
bệnh đường ruột 58,8%. Trong một nghiên cứu của Viện BHLĐ năm 2005, điều tra
về tình hình mắc bệnh trong vòng 2 tháng gần nhất, 17,73% đối tượng trả lời rằng
mình có bị ốm trong thời gian đó. Trong số mắc bệnh nhiều nhất là các bệnh về
đường hô hấp (viêm họng: 30,56%, viêm phế quản: 25%), sau đó là các bệnh cơ
xương khớp (đau khớp xương: 15,28%, đau dây thần kinh: 9,72%), thấp hơn là các
bệnh về mắt (11,11%), bệnh về tiêu hóa, bệnh về da, v.v. Theo những người bị bệnh,
50,8% cho rằng bệnh mà mình mắc có liên quan đến công việc, 33,3% khác cho là
không liên quan đến công việc và 15,9% không biết là bệnh mà mình mắc có liên
quan đến công việc hay không.

Tại các làng nghề truyền thống, cơ sở hạ

tầng còn thấp kém, mặt bằng sản xuất chật chội và tổ chức sản xuất thiếu khoa học.
Điều kiện và môi trường lao động rất đáng lo ngại, NLĐ thường xuyên phải tiếp xúc
với bụi, nhiệt, hóa chất; nguy cơ tai nạn lao động cao và thiếu phương tiện bảo vệ cá
nhân. Môi trường sống đang có nguy cơ bị ô nhiễm do chất thải sản xuất không
được xử lý mà thải trực tiếp vào môi trường xung quanh, gây ô nhiễm không khí,
nước và đất. Sức khỏe NLĐ và dân cư đang bị đe dọa do ô nhiễm môi trường [4].

Chương 3

SV: trần thu thủy

13


HIỆN TRẠNG Ô NHIỄM NGUỒN NƯỚC MẶT DO NƯỚC
THẢI TẠI LÀNG NGHỀ VIỆT NAM

Hiện nay, tình trạng phổ biến của các hộ, cơ sở sản xuất nghề ở nông thôn là sử
dụng ngay diện tích ở làm nơi sản xuất. Khi quy mô sản xuất tăng lên hoặc sử dụng
thiết bị, hóa chất đã làm cho môi trường sống bị ô nhiễm nặng nề, nhất là ở các làng
nghề tái chế phế liệu và chế biến thực phẩm. Cho đến nay, phần lớn nước thải tại các
làng nghề đều thải thẳng ra ngoài không qua bất kỳ khâu xử lý nào. Đây chính là
nguyên nhân khiến cho tình trạng ô nhiễm nguồn nước tại các làng nghề ngày càng tồi
tệ hơn.
3.1.

Ô nhiễm nguồn nước mặt tại làng nghề chế biến nông sản thực
phẩm
Vấn đề ô nhiễm nước tại các làng nghề chế biến nông sản thực phẩm ngày càng

trầm trọng. Chế biến nông sản thực phẩm là loại hình sản xuất có nhu cầu lớn về sử
dụng nước và đồng thời cũng thải ra một lượng nước không nhỏ. Nước thải của các
làng nghề này có đặc tính chung là rất giàu chất hữu cơ, dễ phân huỷ sinh học . Tùy
theo quy trình chế biến, nước thải chế biến nông sản thực phẩm có BOD 5 lên tới
2500 - 5000mg/l, COD 13300 - 20000mg/l (nước tách bột đen trong sản xuất tinh
bột sắn). Nước thải cống chung của các làng nghề này đều vượt quy chuẩn cho phép
từ 5 - 32 lần[2]. Theo khảo sát thực trạng môi trường sản xuất thạch dừa khô tại
phường 7, tx Bến Tre, tỉnh Bến Tre của

. kết quả phân tích các thông số ô nhiễm

đặc trưng nhất bao gồm pH, DO, COD, BOD5, SS, NTổng, PTổng, Coliform trong nước thải
của các cơ sở sản xuất thạch dừa tại phường 7 so sánh với cột B của QCVN
24:2009/BTNMT đều vượt qua tiêu chuẩn cho phép như chỉ số COD gấp 40-160 lần
tiêu chuẩn, BOD gấp 40 lần, chỉ số SS, Nitơ, photpho, coliform gấp gần 10 lần tiêu
chuẩn cho phép[6].
Theo “Đánh giá hiện trạng ô nhiễm môi trường phục vụ phát triển bền vững làng

nghề chế biến thực phẩm Dương Liễu, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội” sản xuất
tinh bột là nghề tạo ra một khối lượng thải rất lớn. Để tạo ra một tấn tinh bột sắn thành
SV: trần thu thủy

14


phẩm cần 2 tấn sắn củ, đồng thời tạo ra 0,9 tấn bã, rác thải và 13 m 3 nước thải. Tương
tự như vậy với một tấn tinh bột dong thành phẩm cũng cần tới 3,3 tấn dong củ, đồng
thời thải ra 2 tấn bã, rác thải và 41 m3 nước. Lượng thải này chiếm tới 88% rác thải và
96% tổng lượng nước thải trong sản xuất của toàn xã[5]
Bảng 3.1.2. Tổng lượng nước thải và bã thải từ sản xuất tinh bột làng nghề
Dương Liễu.
Tinh bột sắn
Năm

Tinh bột dong

Sản

Rác thải

Nước

Sản

Rác thải

lượng


rắn

thải

lượng

rắn

(tấn)

(tấn)

3

(m )

(tấn)

(tấn)

Nước thải
(m3)

2005

60.000

54.000

780.000


17.000

34.000

697.000

2008

70.000

63.000

910.000

20.000

41.300

820.000

Toàn bộ nước thải từ sản xuất được thải trực tiếp vào hệ thống mương
nước của xã rồi chảy vào sông Nhuệ, sông Đáy, hai nhánh sông lớn nhất của
toàn khu vực Hoài Đức hàng năm phải hứng chịu hàng triệu m 3 nước thải với
màu đen sẫm, mùi hôi chua nồng nặc, kèm theo đó hàm lượng huyền phù vượt
quá TCCP hàng chục lần, BOD, COD vượt quá TCCP hàng chục, hàng trăm lần.
Nhất là hàm lượng vi khuẩn rất lớn, là nguyên nhân ủ mầm bệnh cho chính làng
nghề và các vùng lân cận. Kết quả phân tích một số mẫu nước tại làng nghề năm
2009 cho thấy tất cả các chỉ tiêu đều vượt quá TCCP, hàm lượng BOD, COD, SS và
coliform đều rất cao. Hàm lượng BOD và COD trong nước thải trước các hộ sản xuất

tinh bột sắn, dong, lọc tinh bột vượt quá TCCP từ 60 đến 113 lần; hàm lượng SS gấp
từ 2 đến 4 lần; N tổng, P tổng gấp từ 2 đến 5 lần; đặc biệt lượng coliform vượt quá
TCCP từ 50 đến 100, đến 180 lần.
Trong cuốn làng nghề Việt Nam và môi trường, GS.TS. Đặng Kim Chi cũng
đã cảnh báo: Các làng nghề chê biến nông sản thực phẩm, nhất là các làng nghê sản
SV: trần thu thủy

15


xuất tinh bột, nấu rượu, nuôi và giết mổ gia súc có độ ô nhiễm rất cao. Định mức
nước thài cho 1 tấn sản phẩm là 60 - 100 m3, với tải trọng BOD5 - 380-400 kg/tấn
sản phẩm, COD = 600 - 650 kg/tấn sản phẩm. Kêt quả khảo sát cũng cho thấy 100%
làng nghề sản xuất chế biến nông sản thực phẩm thuộc loại ô nhiễm nặng. Mức độ ô
nhiễm nguồn nước thải CBNS được thể hiện qua bảng 3.1.1
Bảng 3.1.1: Đặc trưng nước thải tại các làng nghề CBNSTP
Chỉ
tiêu

Đơn vị

Phú
Đô- Hà
Nội

Vũ hội,
Thái
Bình

Quang

Minh,
Kiến
Xương
,
T.Bình

Thôn
Đoài,
Bắc
Ninh

Tân
Độ, Hà
Tây

Phong
Lộc
Nam
Định

Quang
Bình,
Kiến
Xương

TCVN
59451995
(cột B)

Nhiệ

t độ

ºC

27,7

26,3

27,5

26,5

-

25

27,5

40

PH

-

6,1

7,09

5,3


3,7

-

4,7

5,1

5,5-9

SS
COD
BOD
N
P
Coli
form

mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
MPN/1
00ml

414
2967
1850
20,9

2,79
-

198
1880
1040
27,5
0,78
-

1434
1421
1008
27
14
26.10

2671
2993
2003
121
39
37.10

266
3868
1700
1002
44,2
-


1206
976
642
32
4,2
13. 104

1764
1080
1271
67
23
21. 104

100
100
50
60
6
104

4

4

(Theo cuốn làng nghề Việt Nam và môi trường- Đặng Kim Chi)
3.2.

Ô nhiễm nguồn nước mặt tại làng nghề tái chế

Làng nghề tái chế phế thải gồm: tái chế giấy, tái chế kim loại, tái chế nhựa ..., là

một ngành mới được hình thành tuy nhiên trong những năm qua đã phát triển khá
nhanh. Ở các làng này ô nhiễm môi trường nước diễn ra khá nghiêm trọng do đặc điểm
sử dụng nhiều nước. Trong quá trình rửa sạch chất thải, nước thải mang theo khá nhiều
các tạp chất làm ô nhiễm môi trường.
 Làng nghề làm giấy: Đối với các làng nghề làm giấy, ô nhiễm nguồn nước là vấn đề

cơ bản do nước thải từ các phân xưởng xeo giấy, nấu bột giấy không qua xử lý
mang theo một hàm lượng lớn các chất hữu cơ phân hủy từ nguyên liệu, các hóa
chất sử dụng như xút, lignin, nước javen, phèn kép, phẩm màu, nhựa thông... Các kết
SV: trần thu thủy

16


quả khảo sát tại hai làng nghề Phong Khê và Phú Lâm (Bắc Ninh) cho thấy, hàm
lượng cặn lơ lửng vượt TCVN 5942-1995 từ 5-10 lần và BOD vượt 6- 12 lần, NH3
vượt 3-7 lần, ngoài ra các chỉ tiêu khác như pH, DO và coliform cũng vượt TCCP [4]
Kết quả nghiên cứu của TS.Đặng Kim Chi tại làng nghề tái chế giấy Dương Ổ
(Bắc Ninh) nước có hàm lượng COD là 630 - 1260 mg/l vượt quá tiêu chuẩn cho phép
từ 2 - 12 lần, ngoài ra hàm lượng Phenol rất cao (0.2 mg/l) vượt tiêu chuẩn cho phép
10 lần. Ở làng nghề tái chế kim loại nước thải của quá trình tẩy rửa và mạ kim loại
chứa bụi kim loại, bụi silicat, rỉ sắt, dầu mỡ, hoá chất axit, xút, các kim loại như: Cr 2+,
Pb2+..., gây ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước.
 Nước thải của các cơ sở mạ ở các làng nghề hầu hết không được xử lý và thải thẳng

ra mương thoát nước của làng gây ô nhiễm nặng nề môi trường nước, đất. Ví dụ ở
làng nghề Phùng Xá (Hà Tây), nồng độ Crom, Fe, Mn, xyanua trong nước thải cao
hơn TCVN 5945-1995 từ 1,1 - 700 lần, nồng độ CN- ở trong hai mẫu nước giếng

khơi của làng và nhà dân vượt TCVN 5944 -1995 từ 3 - 6 lần. Nước thải của quá
trình tẩy dũa ở xã Quang Trung (Nam Định) hiện nay không được kiểm soát chặt
chẽ, các hộ thải bỏ không an toàn xuống mương làng gây chết hoa màu và động vật
dưới nước. Nồng độ dầu mỡ, khoáng, sắt, Clo dư trong nước thải cao hơn TCVN
5945-1995.

SV: trần thu thủy

17


 Làng nghề tái chế kim loại (nhôm, chì, đồng, kẽm): Đây là loại hình làng nghề gây ô
nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng nhiều nhất do công nghệ lạc
hậu và không có các giải pháp kiểm soát ô nhiễm Nước mặt và đất tại các làng nghề
này cũng bị ô nhiễm nặng, hàm lượng kim loại nặng (ví dụ như chì) vượt TCCP nhiều
lần, thậm chí còn xuất hiện hàm lượng xianua đáng kể, làm cho các loài thủy sinh
không thể tồn tại trong nước ao hồ tại làng Đồng Mai (Hà Tây) và Văn Môn (Hưng
Yên)[4]. Trên báo Thương mại số 35, 2003 có bài viết “Xám xịt làng chì” đã viết: Làng
nghề tái chế Đông Mai có 200 hộ tham gia sản xuất, 25 lò nấu chì, tiêu thụ 16-18 tấn
ắcquy hỏng/ngày, thu 8-10 tấn chì, thải ra 500kg bụi chì và từ 7-8 vỏ bình ắcquy và
axít H2SO4..Ao và nước giếng có hàm lượng chì trung bình 0,77mg/l, vượt tiêu chuẩn
cho phép 15 lần, đặc biệt ao đãi chì và đổ xỉ hàm lượng 3,278mg/l, vượt tiêu chuẩn
cho phép 65 lần. Trong bèo chứa 430,3mg chì/kg, rau muống 168,15mg chì/kg tại ao
chứa nước thải pha ắcquy. Gây ảnh hưởng lớn đến sức khỏe người dân: 100% người
lao động nhiễm bụi chì, hàm lượng chì trong nước tiểu là 0,25-0,56mg/l (đối với người
bình thường khoảng 0,06mg/l), hàm lượng chì trong máu người lao động là 135mg/l,
48 trẻ em bị dị tật, 97 trẻ em bị viêm phổi, thiếu máu, xanh xao, tỷ lệ người mắc bệnh
thần kinh, bại liệt não, lao phổi cao hơn các nơi khác từ 2-3 lần
Tái chế kim loại Đa Hội, Bắc Ninh tái chế nhôm chì Văn Môn sử dụng nhiều
than, củi, dầu FO DO làm lượng chất thải theo nguồn nước có nhiều tạp chất và ion

kim loại, riêng thép vượt TCCP tới 93 lần, Zn 4,7 lần, dầu mỡ 2,77 lần, Pb vượt 24
lần… Nước thải chảy vào mương đổ vào làm cho dòng sông trở nên đen kịt, đặc quánh
[4].

Tại làng tái chế kim loại Đa Hội khi tái chế thép hoạt động ngày và đêm, thải ra

môi trường gần 3,5 tấn rác thải công nghiệp, chủ yếu là phế liệu loại, vẩy sắt, vụn
sắt, đất cát, bao bì, xỉ than… đổ ra các ao hồ, bờ đê và mặt sông. Do công việc tôi
thép đòi hỏi nhiệt độ cao, nên toàn bộ lượng nước thải của Đa Hội ước tính bằng
hàng ngàn m3/ngày đêm, có nhiệt độ từ 40 – 50 0C, mang theo nhiều cặn sắt, thép
đồng, man-gan và váng dầu mỡ cũng được xả trực tiếp ra các kênh mương, cánh
đồng, càng làm cho nhiều diện tích canh tác bị ô nhiễm nặng [3].

SV: trần thu thủy

18


Dưới đây là kết quả phân tích môi trường nước mặt tại một số làng nghề tái chế
kim loại trong cuốn Làng nghề Việt Nam và môi trường (bảng 3.2)
Bảng 3.2. phân tích môi trường nước mặt tại các làng nghề tái chế kim loại

(Theo cuốn Làng nghề Việt Nam và môi trường-Đặng Kim Chi)
Từ bảng nhận thấy nguồn nước mặt tại các làng nghề tái chế kim loại đang có
dấu hiệu ô nhiễm, đặc biệt các kim loại nặng như chì, kẽm là các kim loại có tác hại
lớn đến sức khỏe, từ nguồn nước mặt các kim loại nặng sẽ nhiễm vào nước sinh hoạt
và rau quả, cây trồng được tưới nguồn nước này. Nước mặt tại làng nghề Xuân Tiến Nam Định có hàm lượng Pb 2+ lán gấp 2 lần TCCP, hàm lượng Zn vượt TCCP 0,6
mg/l.
3.3.


Ô nhiễm nguồn nước mặt tại làng nghề dệt nhuộm, ươm tơ

Ổ nhiễm do nưốc thải là vấn đề môi trường lớn nhất đối với các làng nghề dệt
nhuộm. Đây là ngành sử dụng nhiều nước, nhiêu hóa chất thuốc nhuộm, bên cạnh
đó các cơ sở thường nhỏ lẻ, sản xuất đan xen với nơi ở, nhận thức về bảo vệ môi
trường của người lao động chưa cao nên ô nhiễm do nước thải làng nghề dệt
nhuộm ngày càng trở nên nghiêm trọng
Để tẩy trắng sản phẩm, lượng hoá chất dùng để sản xuất cho 100m vải cần
SV: trần thu thủy

19


khoảng 0,25 kg Javen, 0,2 kg silicat, 0,2 kg H 2O2. Phẩm màu công nghiệp dùng để
nhuộm hấp xuất phát từ nhiều nguồn khác nhau, người dân làm nghề không nắm được
thành phần, độc tính của thuốc nhuộm. Nguồn thải làng nghề dệt nhuộm, ngoài nước
thải có thành phần thông thường như: các chất hữu cơ, NH 3, NO2-, PO3-, còn có một
lượng lớn các hoá chất là thành phần thuốc nhuộm (trong đó có một số hợp chất rất
độc với con người và môi trường sinh thái như các hợp chất diazô), các chất màu làm
cho nước nhiễm màu. Thông thường lượng thuốc nhuộm đi cùng nước thải chiếm tới
25%. Làng nghề ươm tơ: sản xuất 1kg kén tơ cần sử dụng 1,5 kg than, 0, 08 kg củi, 01
tạ kén sử dụng 1m3 nước, chất thải phát sinh từ sản xuất tơ tằm, nước thải có chứa các
chất hữu cơ, nitơ, tơ sợi vì thế nước thải dễ phân huỷ làm ô nhiễm nguồn nước mặt và
gây mùi khó chịu tại khu vực làng nghề

[1].

Theo kết quả nghiên cứu Đặng Kim Chi

nước mặt tại làng ươm tơ đang bị ô nhiễm ( bảng 3.3)

Bảng 3.3. phân tích môi trường nước mặt tại các làng nghề ươm tơ

(Theo cuốn Làng nghề Việt Nam và môi trường-Đặng Kim Chi)
Từ bảng ta thấy nguồn nước mặt tại các làng nghề ươm tơ, dệt lụa đều thay đổi
tính chất vượt qua tiêu chuẩn cho phép, đặc biệt tại các nguồn nước ao diện tích nhỏ
lưu thông nguồn nước khác ít như nước ao tại làng nghề Cổ Chất-Nam Định : COD,
SV: trần thu thủy

20


BOD cao gấp 10 lần TCCP, PH, nhiệt độ, độ màu, Amoni đều cao hơn nhiều lần so
với tiêu chuẩn, và với nguồn nước khác, làm tiêu diệt hệ sinh thái dưới nước, nồng độ
chất hữu cơ cao tạo môi trường thuận lợi cho vi khuẩn gây bệnh phát triển.
3.4.

Ô nhiễm nguồn nước mặt tại các làng nghề thủ công mỹ nghệ, thêu ren
Nhu cầu nước của loại hình làng nghề này nhỏ, các làng nghề này hiện tượng ô

nhiễm môi trường nước diễn ra ít nghiêm trọng như các làng nghề chế biến NSTP và
các làng nghề tái chế. Nước cần nhiều cho sản xuất sơn mài, mạ bạc.
 Làng nghề thủ công mỹ nghệ

Trong số 1450 làng nghề thủ công trong cả nước, số lượng các làng nghề thủ
công mỹ nghệ là cao nhất chiếm 618 làng. Các loại thủ công mỹ nghệ chính bao gồm:
-Mây tre đan, thêu ren, sản phẩm cói, đồ gỗ mỹ nghệ, sơn mài
-Gốm sứ mỹ nghệ
-Các sản phẩm khác
Đối với môi trường nước, loại hình gây ô nhiễm nghiêm trọng nhất là các làng
nghề sơn mài và chạm bạc. Lượng nước tiêu thụ tuy không lớn nhưng có chứa hàm

lượng chất ô nhiễm rất cao. Tại làng nghề sơn mài Hạ Thái (Hà Tây) hàm lượng COD,
BOD và SS đều cao hơn tiêu chuẩn cho phép từ 1,8 đến 3,5 lần. Đối với làng nghề
chạm bạc, nước thải từ công nghệ mạ có sử dụng nhiều hoá chất như axít H 2SO4,
HNO3, các muối thuỷ ngân, muối bạc, xianua. Sự có mặt của các hoá chất này làm cho
nước thải mạ bạc có độ pH thấp, hàm xianua, kẽm, thuỷ ngân cao hơn tiêu chuẩn cho
phép. Cũng như hầu hết các làng nghề khác, nguồn nước thải này được hoà lẫn vào
nguồn nước thải sinh hoạt và thải ra theo hệ thống mương chung.
Trong cuốn làng nghề Việt Nam và môi trường, GS.TS. Đặng Kim Chi: Kết quả
phân tích cho thấy nước thải sản xuất sơn mài có BOD5, COD và SS lớn, nước thải
của làng nghề mạ bạc có chứa hàm lượng lớn các kim loại nặng. Độ pH thấp (pH =
5,1) do trong quá trình mạ phải sử dụng một lượng lổn axit (H 2S04). Hàm lượng
xianua (CN ) là 1,75 mg/1 (gấp 1,5 TCCP), hàm lượng Zn 2+: 4,2 mg/1 (gấp 2,1 lần
TCCP). Sự ô nhiễm nước thải do sản xuất sơn mài thể hiện qua Bảng 3.4.1 chất
lượng nước thải sản xuất của làng nghề sơn mài Hạ Thái-Hà Tây và Tương Bình
Hiệp, Bình Dương.[2]
SV: trần thu thủy

21


Bảng 3.4.1: Chất lượng nước thải sản xuất của làng nghề sơn mài Hạ Thái-Hà
Tây và Tương Bình Hiệp, Bình Dương

(Theo cuốn Làng nghề Việt Nam và môi trường-Đặng Kim Chi)
 Làng nghề thêu ren

Tại các làng nghề thêu ren, nước được sử dụng cho việc giặt là sản phẩm
được thải trực tiếp ra nguồn nước mặt tự nhiên. Theo nghiên cứu “hiện trạng môi
SV: trần thu thủy


22


trường làng nghề thêu ren An Hòa, Thanh Hà, Hà Nam” th.sĩ Phạm Văn Thành- Đại
học nông nghiệp Hà Nội. Các tiêu chuẩn các chất trong nước của một số hộ sản xuất
đều vượt xa mức cho phép. Hàm lượng COD cao hơn tiêu chuẩn loại B theo QCVN 14:
2008/BTNMT từ 1,56 - 1, 64 lần, nồng độ amoni cao gấp 1,5 – 2, 1 lần. Chảy vào mương
tiêu thoát nước ngoài nước thải công nghiệp từ các cơ sở giặt là còn có nước thải sinh hoạt,
chăn nuôi của các hộ dân cư trong làng. Tại mương tiêu thoát nước, nồng độ các chất dinh
dưỡng cao: Amoni cao gấp gần 4 lần tiêu chuẩn thải loại B theo QCVN 14: 2008/BTNMT.
Mức độ ô nhiễm chất hữu cơ là: COD cao gấp 1, 74 lần và BOD cao gấp 1, 2 lần tiêu chuẩn
loại B theo tiêu chuẩn thải QCVN 14: 2008/BTNMT. Nguồn nước mặt trong làng chủ yếu là
các ao, hồ. Hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như sinh hoạt của nhân dân đã ảnh hưởng nhiều
đến chất lượng môi trường nước mặt tại làng An Hoà .Kết quả phân tích nước ao trong làng cho
thấy đều không đạt tiêu chuẩn loại B1 theo QCVN 08:2008/BTNMT, không đủ tiêu chuẩn để
cấp nước cho sinh hoạt cũng như nuôi trồng thuỷ sản . Vấn đề cung cấp nước sạch cho sinh hoạt
và sản xuất của nhân dân trong làng gặp nhiều khó khăn do nguồn nước đang bị ô nhiễm. Kết
quả phân tích chất lượng nước mặt được thể hiện ở bảng 4.13 sau:[1]
Bảng 3.4.2 : Chất lượng nước mặt tại khu vực thôn An Hòa

Đơn vị

QCVN 08
-2008/BTNM
T

M1

M2


M3

M4

M5

B1
pH

-

5,5 - 9

8,3

6,5

6,3

7,5

8,3

Ô xy hoà tan
(DO)

mg/l

>4


1,6

1,2

2,6

1,4

1,5

COD

mg/l

30

41

48

40,2

43

45,
7

BOD

mg/l


15

20,6

23,4

19,2

22,
3

21,
4

Florua (F-)

mg/l

1,5

0,02

0,5

1,02

0,0
3


0,9
7

Sắt (Fe)

mg/l

1,5

2,4

4

1,4

2,1

2,6

SV: trần thu thủy

23


NH+4 (tính theo
N)

mg/l

0,5


16,3

8

15,3

14,
5

12,
3

Coliform

MPN/100
ml

7500

5861

5433

6464

522
3

576

5

Ghi chú: M1: Cạnh đình làng Thôn An Hoà - Thanh Hà
M2: ao nhà bà Hợi, An Hoà - Thanh Hà
M3: ao nhà ông Phạm Văn Tạo - An Hoà - Thanh Hà
M4: ao nhà ông Nguyễn Đình Trung - An Hoà - Thanh Hà
M5: ao nhà ông Nguyễn Viết Dũng - An Hoà - Thanh Hà
Các kết quả phân tích cho thấy nước trong ao có hàm lượng chất hữu cơ COD
cao gấp 1,34 - 1, 6 lần, BOD cao gấp 1,28 - 1, 56 lần, hàm lượng sắt cao hơn 0,5-2,5
mg/l và amoni gấp 30 lần tiêu chuẩn loại B1 theo QCVN 08:2008/BTNMT.
3.5.

Ô nhiễm nguồn nước mặt tại các làng nghề vật liệu xây dựng

Sản xuất vật liệu xây dựng như làng nghề sản xuất vôi, nung gạch, khai thác đá. Các
làng nghề này chủ yếu gây ô nhiễm không khí, đất do tạo ra nhiều khí thải, bụi và chất
thải rắn.
3.6.

Một số hình ảnh ô nhiễm nguồn nước tại làng nghề

Mương của làng nghề bị ô nhiễm

SV: trần thu thủy

24


Hình ảnh người dân sống chung với nguồn
nước ô nhiễm


KẾT LUẬN VÀ GIẢI PHÁP
1.

kết luận

- Sự phát triển của các làng nghề có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế xã hội

hiện nay ở nông thôn. Tuy nhiên, chúng ta cần phải quan tâm đến những hệ quả xấu từ
việc sản xuất và phát triển của các làng nghề tác động lên môi trường nói chung và
nguồn nước mặt nói riêng tại các làng nghề đang bị đe dọa nghiêm trọng. Từ các
nghiên cứu đã nêu ra ở trên đã thể hiện mức độ ô nhiễm nguồn nước nghiêm trọng
do nước thải từ các làng nghề, hầu hết các làng nghề đều có mức độ ô nhiễm khá
cao COD, BOD5 đều vượt TCCP, đặc biệt nguồn nước tại làng tái chế kim loại và làng
nghề chế biến nông sản thực phẩm có mức độ ô nhiễm nặng nề nhất do tính chất
sản xuất sử dụng nhiều nước và thải ra lượng nước thải lớn. Nguồn nước tại làng
tái chế kim loại có nồng độ các kim loại nặng ( chì, kẽm, mangan...) vượt qua TCCP,
nước thải trong tái chế giấy có chứa nồng độ hóa chất tẩy rửa ( sút, phenol, dầu
mỡ...) gây hại cho người động vật. Nguồn nước tại các làng nghề CBNSTP chứa
nhiều chất hữu cơ gây phân hủy trong nước tiêu diệt hệ sinh vật, nước bốc mùi hôi
thối, môi trường hữu cơ thuận lơi cho vi khuẩn gây bệnh.

SV: trần thu thủy

25


×