ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------
TRẦN QUANG THÀNH
NGHIÊN CỨU ĐẶC TRƯNG NGỮ ÂM, TỪ VỰNG
CỦA MỘT SỐ THỔ NGỮ Ở HÀ NỘI, ỨNG DỤNG
TRONG VIỆC GIÁM ĐỊNH NHẬN DẠNG TIẾNG NÓI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Hà Nội-2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------
TRẦN QUANG THÀNH
NGHIÊN CỨU ĐẶC TRƯNG NGỮ ÂM, TỪ VỰNG
CỦA MỘT SỐ THỔ NGỮ Ở HÀ NỘI, ỨNG DỤNG
TRONG VIỆC GIÁM ĐỊNH NHẬN DẠNG TIẾNG NÓI
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60 22 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Vũ Kim Bảng
Hà Nội-2015
LỜI CẢM ƠN
Luận văn này được hoàn thành với sự giúp đỡ nhiệt tình của PGS.TS. Vũ
Kim Bảng. Em xin được bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới thầy.
Nhân đây, em xin chân thành cảm ơn toàn thể các thầy giáo, cô giáo, các
cán bộ trong Khoa Ngôn ngữ học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn, Đại học Quốc gia Hà Nội- những người đã dạy dỗ và giúp đỡ em trong
suốt thời gian qua.
Tôi cũng bày tỏ lòng biết ơn vô hạn tới gia đình, bạn bè và những người
thân yêu đã luôn sát cánh, tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập và
thực hiện luận văn.
Tuy đã có nhiều cố gắng nhưng luận văn khó tránh khỏi những hạn chế,
thiếu sót. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp và nhận xét của các thầy giáo,
cô giáo và các bạn để tôi có thể phát triển hướng nghiên cứu này ở cấp độ cao
hơn.
Hà Nội, ngày 25 tháng 6 năm 2015
Học viên
Trần Quang Thành
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kì công
trình nghiên cứu của tác giả nào khác.
Nếu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Ban Chủ nhiệm Khoa
Ngôn ngữ học và Ban Giám hiệu Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).
Hà Nội, ngày 25 tháng 6 năm 2015
Học viên
Trần Quang Thành
BẢNG CHÚ THÍCH KÍ HIỆU VIẾT TẮT
1. PNB: Phương ngữ Bắc
2. PNN: Phương ngữ Nam
3. PNT: Phương ngữ Trung
4. PÂ : phát âm
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, BIỂU ĐỒ, ĐỒ THỊ,
SƠ ĐỒ, HÌNH ẢNH PHỔ
Trang
BẢNG BIỂU
1. Bảng 1.1 Lược đồ âm tiết tiếng Việt
17
2. Bảng 1.2 Hệ thống phụ âm tiếng Việt
19
3. Bảng 1.3 Bảng biểu diễn các âm vị phụ âm đầu tiếng Việt
20
4. Bảng 1.4 Hệ thống nguyên âm tiếng Việt
21
5. Bảng 1.5 Bảng biểu diễn các nguyên âm tiếng Việt dưới dạng con chữ
21
6. Bảng 2.1 Bảng thống kê về sự biến đổi /l/-/n/ và /n/-/l/ theo hình thức
đọc bảng từ ở 5 xã
33
7. Bảng 2.2 Bảng thống kê về hiện tượng nhập thành một /z/-/ʐ/ ở 5 xã
34
8. Bảng 2.3 Bảng thống kê về hiện tượng nhập /ʈ/-/c/ ở 5 xã
35
9. Bảng 2.4 Bảng thống kê về hiện tượng nhập /ʂ/-/s/ ở 5 xã
37
10. Bảng 2.5 Bảng thống kê về hiện tượng phát âm /ɛ/ -> /ɛː/ ở 5 xã
38
11. Bảng 2.6 Bảng thống kê về hiện tượng phát âm /ɔ/ -> /ɔː/ ở 5
39
12. Bảng 2.7 Bảng thống kê về hiện tượng phát âm chưa đúng khác
40
13. Bảng 2.8 Bảng thống kê số lượng từ phát âm chưa đúng theo hình thức
phỏng vấn ở xã Kim Lũ- huyện Sóc Sơn
41
14. Bảng 2.9 Bảng thống kê số lượng từ phát âm chưa đúng theo hình thức
phỏng vấn ở xã Phương Đình- huyện Đan Phượng
43
15. Bảng 2.10 Bảng thống kê số lượng từ phát âm chưa đúng theo hình thức phỏng
vấn ở xã Ngọc Tảo- huyện Phúc Thọ
44
16. Bảng 2.11 Bảng thống kê số lượng từ phát âm chưa đúng theo hình thức phỏng
vấn ở xã Cát Quế - huyện Hoài Đức
45
17. Bảng 2.12 Bảng thống kê số lượng từ phát âm chưa đúng theo hình thức phỏng
vấn ở xã Canh Nậu- huyện Thạch Thất
47
18. Bảng 3.1 Bảng miêu tả hiện tượng phát âm “l” thành “n” theo hình thức phỏng
vấn ở xã Kim Lũ- huyện Sóc Sơn
50
19. Bảng 3.2 Bảng miêu tả hiện tượng phát âm “l” thành “n” theo hình thức phỏng
vấn ở xã Phương Đình- huyện Đan Phượng
53
20. Bảng 3.3 Bảng miêu tả hiện tượng phát âm “l” thành “n” theo hình thức phỏng
vấn ở xã Ngọc Tảo- huyện Phúc Thọ
56
21. Bảng 3.4 Bảng miêu tả hiện tượng phát âm “l” thành “n” theo hình thức phỏng
vấn ở xã Cát Quế - huyện Hoài Đức
59
22. Bảng 3.5 Bảng miêu tả hiện tượng phát âm “l” thành “n” theo hình thức phỏng
vấn ở xã Canh Nậu- huyện Thạch Thất
63
23. Bảng 3.6 Hệ thống phụ âm 4 xã thuộc 4 huyện Sóc Sơn, Đan Phượng,
Phúc Thọ, Thạch Thất
70
24. Bảng 3.7 Hệ thống phụ âm xã Cát Quế- huyện Hoài Đức
71
25. Bảng 3.8 Bảng miêu tả sự biến đổi nguyên âm /o/, /ɔ/ thành nguyên âm /ɔː/
74
26. Bảng 3.9 Bảng giá trị trung bình F1 và F2 (nguyên âm đơn)
của Vũ Kim Bảng
77
BIỂU ĐỒ
1. Biểu đồ 2.1 Biểu đồ về sự biến đổi /l/-/n/ và /n/-/l/ theo hình thức
đọc bảng từ ở 5 xã
33
2. Biểu đồ về hiện tượng nhập làm một các âm /z/-/ʐ/ ở 5 xã
35
3. Biểu đồ 2.3 Biểu đồ về hiện tượng nhập /ʈ/-/c/ ở 5 xã
36
4. Biểu đồ 2.4 Biểu đồ về hiện tượng nhập /ʂ/-/s/ ở 5 xã
37
5.Biểu đồ 2.5 Biểu đồ về hiện tượng phát âm kéo dài /ɛ/ -> /ɛː/ ở 5 xã
38
6. Biểu đồ 2.6 Biểu đồ về hiện tượng phát âm kéo dài /ɔ/ thành /ɔː/ ở 5 xã
40
7. Biểu đồ 3.1 Biểu đồ về hiện tượng lẫn lộn /l/ và /n/ ở 5 xã thuộc 5 huyện
ĐỒ THỊ
66
1. Đồ thị 3.1 Đồ thị hệ thống thanh điệu xã Kim Lũ- huyện Sóc Sơn
81
2. Đồ thị 3.2 Đồ thị hệ thống thanh điệu xã Phương Đình-huyện Đan Phượng
86
3. Đồ thị 3.3 Đồ thị hệ thống thanh điệu xã Ngọc Tảo-huyện Phúc Thọ
89
4. Đồ thị 3.4 Đồ thị hệ thống thanh điệu xã Cát Quế- huyện Hoài Đức
93
5. Đồ thị 3.5 Đồ thị hệ thống thanh điệu xã Canh Nậu-huyện Thạch Thất
97
SƠ ĐỒ
1. Sơ đồ 1.1 Sơ đồ về 3 tiêu chí khu biệt cho sáu âm vị thanh điệu
31
HÌNH ẢNH PHỔ
1. Hình ảnh phổ 3.1
66
2. Hình ảnh phổ 3.2
67
3. Hình ảnh phổ 3.3
68
4. Hình ảnh phổ 3.4
68
5. Hình ảnh phổ 3.5
69
6. Hình ảnh phổ 3.6
69
7. Hình ảnh phổ 3.7
76
8. Hình ảnh phổ 3.8
77
9. Hình ảnh phổ 3.9
78
10. Hình ảnh phổ 3.10
79
11. Hình ảnh phổ 3.11
79
12. Hình ảnh phổ 3.12
80
13. Hình ảnh phổ 3.13
80
14. Hình ảnh phổ 3.14
81
15. Hình ảnh phổ 3.15
82
16. Hình ảnh phổ 3.16
83
17. Hình ảnh phổ 3.17
83
18. Hình ảnh phổ 3.18
84
19. Hình ảnh phổ 3.19
84
20. Hình ảnh phổ 3.20
85
21. Hình ảnh phổ 3.21
86
22. Hình ảnh phổ 3.22
87
23. Hình ảnh phổ 3.23
87
24. Hình ảnh phổ 3.24
88
25. Hình ảnh phổ 3.25
88
26. Hình ảnh phổ 3.26
89
27. Hình ảnh phổ 3.27
90
28. Hình ảnh phổ 3.28
91
29. Hình ảnh phổ 3.29
91
30. Hình ảnh phổ 3.30
92
31. Hình ảnh phổ 3.31
92
32. Hình ảnh phổ 3.32
93
33. Hình ảnh phổ 3.33
94
34. Hình ảnh phổ 3.34
94
35. Hình ảnh phổ 3.35
95
36. Hình ảnh phổ 3.36
95
37. Hình ảnh phổ 3.37
96
38. Hình ảnh phổ 3.38
96
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết và mục tiêu của luận văn ................................................................... 1
2. Đối tượng, phạm vi và đóng góp mới của luận văn .................................................. 2
3. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................................... 3
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................ 3
5. Nguồn tư liệu và bố cục của luận văn ........................................................................ 5
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ CƠ SỞ LÝ THUYẾT CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN .......... 6
1.1 Một số nội dung về lịch sử vấn đề nghiên cứu .......................................................... 6
1.2 Ngôn ngữ toàn dân, phương ngữ và thổ ngữ ............................................................ 9
1.3 Từ và từ địa phương ................................................................................................. 13
1.4 Đặc điểm âm tiết và lược đồ (cấu trúc) âm tiết tiếng Việt..................................... 16
1.5 Đặc điểm của phụ âm, nguyên âm, thanh điệu tiếng Việt ..................................... 18
1.6 Chuẩn ngôn ngữ và một số hiện tượng lệch chuẩn trong tiếng Việt .................... 23
1.7 Giới thiệu tổng quan khu vực Hà Nội mới. Ý nghĩa và tính thời sự
của nghiên cứu này ................................................................................................... 25
1.8 Về khái niệm “tiếng Hà Nội” hay “giọng Hà Nội” ................................................. 27
1.9 Tiểu kết chương 1...................................................................................................... 30
CHƯƠNG 2. MÔ TẢ CÁC ĐẶC TRƯNG NGỮ ÂM- TỪ VỰNG
CỦA MỘT SỐ THỔ NGỮ Ở HÀ NỘI ......................................................... 32
...............................................................................................................................................
2.1 Mô tả theo hình thức ghi âm bảng từ ...................................................................... 32
2.2 Mô tả theo hình thức phỏng vấn.............................................................................. 41
2.3 Tiểu kết chương 2...................................................................................................... 48
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ ỨNG DỤNG
TRONG VIỆC GIÁM ĐỊNH NHẬN DẠNG TIẾNG NÓI ........................ 50
3.1 Phân tích các đặc trưng ngữ âm khác biệt của
một số thổ ngữ ở Hà Nội so với tiếng toàn dân ...................................................... 50
3.1.1 Khác biệt về phụ âm ................................................................................................ 50
3.1.2 Khác biệt về nguyên âm .......................................................................................... 71
3.1.3 Khác biệt về thanh điệu .......................................................................................... 78
3.2 Phân tích các đặc trưng từ vựng khác biệt của một số thổ ngữ ở Hà Nội so với
tiếng toàn dân ....................................................................................................................... 97
3.3 Tiểu kết chương 3.................................................................................................... 100
KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 101
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 107
PHỤ LỤC ............................................................................................................................ 110
....................................................................................................................................................
....................................................................................................................................................
....................................................................................................................................................
....................................................................................................................................................
....................................................................................................................................................
NGHIÊN CỨU ĐẶC TRƯNG NGỮ ÂM, TỪ VỰNG CỦA MỘT SỐ THỔ NGỮ Ở
HÀ NỘI, ỨNG DỤNG TRONG VIỆC GIÁM ĐỊNH NHẬN DẠNG TIẾNG NÓI
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết và mục tiêu của luận văn
1.1 Tính cấp thiết của luận văn
Ngày 1/8/2008, địa giới hành chính Hà Nội chính thức được mở rộng. Hà Nội
nằm trong số 17 thành phố, thủ đô có diện tích lớn nhất thế giới. Sau khi điều chỉnh
địa giới hành chính, hiện nay thành phố Hà Nội rộng 334.470 ha và dân số hiện tại là
6.232.940 người.
Hiện nay, những nghiên cứu về văn hóa, ngôn ngữ của Hà Nội mới còn ít. Có thể
nói, công trình nghiên cứu tiếng địa phương một số vùng trong khu vực Hà Nội mới,
cụ thể là Nghiên cứu các đặc trưng ngữ âm để phân biệt các thổ ngữ Hà Nội, ứng
dụng trong giám định nhận dạng tiếng nói là một trong những nghiên cứu đầu tiên
về ngôn ngữ của Hà Nội mới hiện nay. Công trình nghiên cứu này sẽ góp phần nhận
diện công dân thành phố thông qua giọng nói và phục vụ cho những ứng dụng của
ngôn ngữ học về mặt khoa học - hình sự. Trong hoạt động điều tra hình sự, việc thu
thập được giọng nói của đối tượng gây án hoặc những người có liên quan phục vụ
hoạt động giám định, trên cơ sở đó xác định đối tượng gây án, trách nhiệm hình sự có
ý nghĩa quan trọng, cần thiết. Hoạt động giám định nhận dạng giọng nói phụ thuộc
vào nhiều yếu tố như phương ngữ, ngữ âm, âm điệu, âm tiết, thổ ngữ vùng miền…của
mẫu so sánh cũng như âm thanh giọng nói thu thập được. Để nâng cao hiệu quả phục
vụ công tác giám định giọng nói cần thiết phải nghiên cứu, làm rõ các nội dung này.
Với nghiên cứu này, chúng tôi cũng muốn tìm hiểu về lời ăn tiếng nói, văn hóa của
một số nơi trong khu vực Hà Nội mới, qua đó tìm hiểu về nếp sống sinh hoạt, phong
tục tập quán của người Hà Nội hiện nay. Đây cũng sẽ là nguồn tư liệu quý giá giúp
các nhà nghiên cứu có thêm những kiến thức mới về Hà Nội hiện nay, đặc biệt là về
mặt ngôn ngữ, văn hóa.
1
1.2 Mục tiêu của luận văn
- Nghiên cứu đặc trưng âm vị đoạn tính của thổ ngữ ở các huyện Thạch Thất,
Sóc Sơn, Đan Phượng, Phúc Thọ, Hoài Đức - Hà Nội.
- Nghiên cứu đặc trưng của hệ thống thanh điệu (âm vị siêu đoạn tính) của thổ
ngữ ở các huyện Thạch Thất, Sóc Sơn, Đan Phượng, Phúc Thọ, Hoài Đức - Hà Nội.
- Nghiên cứu một số đặc điểm về từ vựng của thổ ngữ ở các huyện Thạch Thất,
Sóc Sơn, Đan Phượng, Phúc Thọ, Hoài Đức - Hà Nội.
- Nghiên cứu các tiêu chí phân vùng thổ ngữ ở Hà Nội mới mở rộng.
- Bước đầu thử nghiệm xây dựng hệ thống đặc trưng ngữ âm giúp giám định
nhanh thổ ngữ ở Hà Nội mới mở rộng.
2. Đối tượng, phạm vi và đóng góp mới của luận văn
2.1 Đối tượng, phạm vi
Đối tượng và phạm vi của luận văn là các đặc trưng ngữ âm và một số đặc
trưng từ vựng của thổ ngữ ở các huyện Thạch Thất, Sóc Sơn, Đan Phượng, Phúc Thọ,
Hoài Đức - Hà Nội.
2.2 Đóng góp mới của luận văn
2.2.1 Về mặt lí luận
- Đóng góp về lí thuyết vào việc nghiên cứu tiếng địa phương của các huyện
Thạch Thất, Sóc Sơn, Đan Phượng, Phúc Thọ, Hoài Đức.
- Góp phần nhỏ vào việc xây dựng lí luận, phương phương pháp nghiên cứu về
tiếng địa phương một số vùng trong khu vực Hà Nội mới theo góc độ ngôn ngữ học.
2.2.2 Về mặt thực tiễn
- Công trình nghiên cứu giúp xây dựng cơ sở dữ liệu về các đặc trưng ngữ âm- từ
vựng ở một số xã của các huyện các huyện Thạch Thất, Sóc Sơn, Đan Phượng, Phúc
Thọ, Hoài Đức - Hà Nội so với tiếng toàn dân.
- Việc mô tả và phân tích các đặc trưng ngữ âm khác biệt và một số đặc điểm về
từ vựng trong tiếng địa phương của người dân ở một số xã của các huyện các huyện
2
Thạch Thất, Sóc Sơn, Đan Phượng, Phúc Thọ, Hoài Đức - Hà Nội sẽ góp phần nhận
diện công dân ở các huyện đó thông qua giọng nói và phục vụ cho những ứng dụng
của ngôn ngữ học về mặt khoa học - hình sự, cụ thể là ứng dụng vào việc giám định
nhận dạng tiếng nói.
- Nghiên cứu có giá trị làm tư liệu tham khảo cho những người làm nghiên cứu
khoa học ở các bậc đào tạo khác nhau, giúp họ so sánh, đối chiếu với các khía cạnh
ngôn ngữ mà mình quan tâm.
- Nghiên cứu cũng có giá trị làm tư liệu cho việc dạy và học các kiến thức về thổ
ngữ Hà Nội hiện nay nói riêng và phương ngữ Bắc nói chung cho người học phương
ngữ tiếng Việt ở các bậc đào tạo khác nhau.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Chúng tôi đề ra các nhiệm vụ cụ thể như sau:
- Lập bảng từ (2000 từ) và lập bảng câu hỏi phỏng vấn phục vụ điều tra điền dã
thực địa.
- Điều tra điền dã, khảo sát, tìm hiểu, miêu tả các đặc điểm ngữ âm và từ
vựng của một số thổ ngữ ở Hà Nội.
- So sánh sự khác biệt về đặc điểm ngữ âm và từ vựng của một số thổ ngữ ở
Hà Nội so với tiếng phổ thông.
- Nghiên cứu thực nghiệm trên cơ sở các tư liệu thu được sau quá trình điều tra
điền dã thực địa (băng ghi âm đọc bảng từ và băng ghi âm phỏng vấn), dùng phần
mềm trên máy tính phân tích một số âm vị đoạn tính (nguyên âm, phụ âm) và âm vị
siêu đoạn tính (các thanh điệu) của thổ ngữ các huyện Thạch Thất, Sóc Sơn, Đan
Phượng, Phúc Thọ, Hoài Đức - Hà Nội để tìm ra đặc trưng ngữ âm của thổ ngữ các
huyện này.
- Nhận xét, đánh giá về đặc trưng ngữ âm- từ vựng của một số thổ ngữ ở Hà
Nội và ứng dụng vào trong việc giám định nhận dạng tiếng nói.
4. Phương pháp nghiên cứu
3
* Phương pháp chung
Luận văn này được thực hiện chủ yếu bằng phương pháp nghiên cứu điền dã
ngôn ngữ học và nghiên cứu ngữ âm thực nghiệm giám định tiếng nói. Trên cơ sở các
kết quả thu được sau quá trình điền dã, chúng tôi sử dụng phương pháp thu thập, lựa
chọn, thống kê, phân tích tư liệu để tìm hiểu, khảo sát, nhận định và phân tích các đặc
trưng ngữ âm và một số đặc điểm từ vựng của thổ ngữ ở các huyện Thạch Thất, Sóc
Sơn, Đan Phượng, Phúc Thọ, Hoài Đức - Hà Nội (nghiên cứu định lượng kết hợp với
nghiên cứu định tính ; nghiên cứu thực nghiệm bằng cách dùng máy đo để đo các âm
vị đoạn tính và siêu đoạn tính).
* Phương pháp cụ thể
- Phương pháp điền dã ngôn ngữ học: Để thực hiện phương pháp này, chúng tôi
đến từng huyện Thạch Thất, Sóc Sơn, Đan Phượng, Phúc Thọ, Hoài Đức - Hà Nội để
thực hiện việc ghi âm tiếng nói của người dân bằng bảng từ và bằng các câu phỏng
vấn. Với mỗi huyện, chúng tôi lựa chọn khảo sát 1 hoặc 2 xã có đặc trưng ngữ âm
khác biệt so với tiếng toàn dân. Sau đó, chúng tôi thực hiện các bước cụ thể sau:
+ Lập bảng thống kê các đơn vị từ, ngữ có sự phát âm khác biệt theo hình
thức phỏng vấn.
+ Dùng phần mềm trên máy tính để phân tích các âm vị đoạn tính và siêu
đoạn tính.
+ Mô tả, phân tích, đánh giá và nhận xét về các đơn vị ngôn ngữ mà người
dân địa phương có sự phát âm khác biệt so với tiếng toàn dân.
- Phương pháp nghiên cứu định lượng: Sau khi thu được các băng ghi âm người
dân đọc bảng từ và trả lời phỏng vấn ở các huyện nói trên, chúng tôi phân loại tư liệu
rồi thống kê số lượng, tính tỉ lệ % các đơn vị từ, ngữ có sự phát âm khác biệt theo
hình thức phỏng vấn. Các kết quả thống kê này sẽ giúp chúng tôi có bằng chứng, căn
cứ để thực hiện phân tích định lượng.
- Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm: Chúng tôi dùng phần mềm phân tích
ngữ âm chuyên dụng như: Praat, VoiceworkStation để phân tích các âm vị đoạn tính
và siêu đoạn tính trong phần tư liệu thu được ở các băng ghi âm để tìm ra một số sự
4
khác biệt. Từ đó, chúng tôi xây dựng tiêu chí nhận diện đặc trưng ngữ âm của thổ ngữ
các huyện đó.
- Phương pháp nghiên cứu định tính: Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu định
lượng và nghiên cứu thực nghiệm, chúng tôi dùng phương pháp nghiên cứu định tính
để đưa ra các nhận xét, đánh giá, bàn luận, lý giải về đặc trưng ngữ âm của thổ ngữ
các huyện Thạch Thất, Sóc Sơn, Đan Phượng, Phúc Thọ, Hoài Đức - Hà Nội, từ đó
ứng dụng vào việc giám định nhận dạng tiếng nói.
5. Nguồn tư liệu và bố cục của luận văn
5.1 Nguồn tư liệu chủ yếu là các băng ghi âm (+ phần gỡ băng ghi âm) và
phần tư liệu ghi tay của những người đi thực hiện ghi âm trực tiếp thổ ngữ ở các
huyện Thạch Thất, Sóc Sơn, Đan Phượng, Phúc Thọ, Hoài Đức - Hà Nội theo 2 hình
thức là ghi âm bằng bảng từ (khoảng 2000 từ, ngữ) và ghi âm theo hình thức phỏng
vấn.
Luận văn cũng sẽ tham khảo thêm các quan điểm của các giáo trình, công
trình nghiên cứu về phương ngữ tiếng Việt của các tác giả đi trước.
5.2 Bố cục của luận văn
Luận văn gồm các phần: mục lục, mở đầu, nội dung, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ
lục. Trong đó, phần Nội dung gồm có 3 chương:
Chương 1. Một số cơ sở lí thuyết có liên quan đến luận văn
Chương 2. Đặc trưng ngữ âm- từ vựng của một số thổ ngữ ở Hà Nội
Chương 3. Một số ứng dụng trong việc giám định nhận dạng tiếng nói
5
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ CƠ SỞ LÝ THUYẾT CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN
1.1 Một số nội dung về lịch sử vấn đề nghiên cứu
1.1.1 Ngoài nước
Hiện nay, đã có một số công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài về
tiếng Việt nói chung và về ngữ âm tiếng Việt nói riêng như: Emeneau, M.B. nghiên
cứu về ngữ pháp tiếng Việt (Studies in Vietnamese Grammar, 1951), Ferlus (1982),
Gordina, M.V., Bystrov, S.I. (Về giải thuyết âm vị học những nguyên âm đôi trong
tiếng Việt, 1961, tiếng Nga), Gordina, M.V., Bystrov, S.I. (Cơ cấu ngữ âm tiếng Việt,
1984, tiếng Nga), Mkhitarian, T.T. (Ngữ âm tiếng Việt, 1959, tiếng Nga), Haudricourt
A.G. (các bài nghiên cứu về ngữ âm tiếng Việt trên tạp chí tiếng Pháp, 1954,
1961)… Các tác giả nói trên đều có những nghiên cứu cụ thể về ngữ âm tiếng Việt.
Đặc biệt là, trong số đó còn có những tác giả có ý kiến cụ thể về việc phân vùng
phương ngữ tiếng Việt. “Chẳng hạn, H. Maspéro (1912) một học giả Pháp trong công
trình Nghiên cứu ngữ âm lịch sử tiếng Việt có ý kiến phân chia tiếng Việt ra thành hai
vùng: phương ngữ Bắc và phương ngữ Trung. Theo ông thì người Việt ở miền Nam là
người gốc ở miền Bắc mới vào sinh sống không lâu, do đó tiếng miền Nam về cơ bản
là giống phương ngữ Bắc cho nên có thể xếp chung một nhóm với phương ngữ Bắc.
Còn phương ngữ Trung thì đối lập với phương ngữ Bắc ở điểm còn giữ lại những nét
cổ xưa.” (theo [4, 87]). Trong khi đó, “hai nhà Việt ngữ học người Liên Xô M.V.
Gordina và I.S. Bystrôv (1970, 203-211) chủ yếu dựa vào hệ thống âm cuối cũng đã
chia tiếng Việt thành hai vùng phương ngữ (nhưng khác hai vùng H. Maspéro đã
chia), có ranh giới chạy qua phía Nam tỉnh Quảng Trị. Trong cuốn sách cơ cấu ngữ
âm tiếng Việt (1984, 192-195), hai tác giả trên có điều chỉnh chút ít, về cơ bản vẫn là
hai vùng trên nhưng thêm một vùng thứ ba là phương ngữ Huế có tính cách như một
vùng đệm” (theo [4, 88]). “Ngoài ra còn có ý kiến cho rằng không thể phân chia tiếng
Việt ra thành các vùng phương ngữ bởi vì nếu chúng ta khảo sát tiếng Việt từ Bắc vào
6
Nam thì sẽ thấy trạng thái chuyển tiếp từ vùng nọ sang vùng kia mà phương ngữ các
thành phố lớn như Hà Nội, Vinh, Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn có thể xem là tiêu biểu
(L.C, Thompson, 1965)” (theo [4, 90]).
Tuy nhiên, trong các tác giả trên, chưa có tác giả nào có một công trình nghiên
cứu sâu và cụ thể về thổ ngữ ở Hà Nội, đặc biệt là chưa có tác giả nào nghiên cứu về
thổ ngữ của Hà Nội mới. Những công trình của các tác giả nói trên chỉ cung cấp cơ sở
nền tảng cho những người nghiên cứu về phương ngữ nói chung, phương ngữ tiếng
Việt nói riêng để họ có thể tham khảo, tiến hành những nghiên cứu của riêng mình về
phương ngữ tiếng Việt. Từ đó, những người nghiên cứu đi sau có thể dựa vào các lí
thuyết về phương ngữ để nghiên cứu về các thổ ngữ trong các phương ngữ đó.
1.1.2 Trong nước
Ở Việt Nam có tác giả Đoàn Thiện Thuật đã nghiên cứu ngữ âm tiếng Việt
tương đối toàn diện về hệ thống phụ âm, hệ thống nguyên âm, hệ thống âm đệm, hệ
thống thanh điệu, các lý thuyết, giả thuyết về âm tiết, các phụ âm, nguyên âm, âm
đệm, thanh điệu…trong tiếng Việt. Những nội dung này đã được tác giả Đoàn Thiện
Thuật trình bày rất kĩ và rõ ràng trong công trình “Ngữ âm tiếng Việt” [33].
Bên cạnh đó, các khái niệm về phương ngữ xã hội, phương ngữ đã được
Nguyễn Văn Khang trình bày trong cuốn “Ngôn ngữ học xã hội- những vấn đề cơ
bản” [18].
Tuy thế, khái niệm phương ngữ và các vùng phương ngữ mới chỉ được nghiên
cứu một cách tương đối hệ thống, rõ ràng ở công trình của tác giả Hoàng Thị Châu
“Phương ngữ học tiếng Việt” [4]. Trong cuốn sách này, tác giả Hoàng Thị Châu cũng
có đưa ra khái niệm về thổ ngữ và một số vùng thổ ngữ của Việt Nam.
Ở Việt Nam cũng có một số tác giả đã nêu quan điểm về phân vùng phương
ngữ tiếng Việt của mình trong các bài trên tạp chí hoặc trong các công trình nghiên
cứu như: Phan Kế Bính (1914), Hoàng Phê (1963), Nguyễn Bạt Tụy (1950), Hoàng
Thị Châu (1963), Vương Hữu Lễ (1974), Nguyễn Kim Thản (1982). Trong số đó,
“Phan Kế Bính (1914; 1990, 316-324) tuy có ý kiến chia tiếng Việt ra làm ba vùng
ứng với Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ nhưng cũng nhấn mạnh tính chất trung gian
7
của nhóm phương ngữ ở Trung Bộ.” (theo [4, 88]). “Hoàng Phê (1963) trong khi phát
biểu ý kiến về vấn đề thống nhất và chuẩn hóa tiếng Việt cũng chỉ công nhận có hai
phương ngữ chủ yếu là tiếng miền Bắc, nơi có thủ đô Hà Nội và tiếng miền Nam, nơi
có thành phố Hồ Chí Minh, còn ở Trung Bộ là một chuỗi phương ngữ nhỏ có tính
chuyển tiếp” (theo [4, 88]).
Ý kiến chung của nhiều nhà nghiên cứu là chia tiếng Việt thành 3 vùng phương
ngữ lớn: phương ngữ Bắc, phương ngữ Trung và phương ngữ Nam. Tuy nhiên, có 2 ý
kiến hơi khác so với hầu hết các ý kiến đó là ý kiến của Nguyễn Kim Thản (1982) và
ý kiến của Nguyễn Bạt Tụy (1961). Tác giả “Nguyễn Kim Thản (1982) chia tiếng
Việt thành 4 vùng phương ngữ: phương ngữ Bắc (Bắc Bộ và một phần Thanh Hóa),
phương ngữ Trung Bắc (phía nam Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh, Bình Trị Thiên), phương
ngữ Trung Nam (từ Quảng Nam tới Phú Khánh) và phương ngữ Nam (từ Thuận Hải
trở vào). Trong khi đó, ông Nguyễn Bạt Tụy (1950) lúc đầu chia tiếng Việt thành 3
phương ngữ, nhưng về sau lại chia thành 5 phương ngữ: phương ngữ miền Bắc (Bắc
Bộ và Thanh Hóa), phương ngữ Trung Trên (từ Nghệ An đến Quảng Trị), phương
ngữ Trung Giữa (từ Thừa Thiên đến Quảng Ngãi), phương ngữ Trung Dưới (từ Bình
Định đến Bình Tuy) và phương ngữ Nam (từ Bình Tuy trở vào) (Nguyễn Bạt Tụy,
1961)” (theo [4, 89]).
Tuy đã có nhiều tác giả Việt Nam nghiên cứu về các vùng phương ngữ và phân
chia các vùng phương ngữ tiếng Việt nhưng các tác giả đi trước chưa nghiên cứu
nhiều về các vùng thổ ngữ ở Hà Nội. Khi mô tả phần vần tiếng Việt, trong đó hệ
thống nguyên âm có vai trò quan trọng nhất, các nhà khoa học phần lớn dựa vào
phương pháp cảm thụ, chủ quan: Hoàng Tuệ, Lê Cận và Cù Đình Tú 1962; Vương
Hữu Lễ, Hoàng Tuệ và Hoàng Minh 1975; Đoàn Thiện Thuật 1980…Tác giả Nguyễn
Hàm Dương 1962, Nguyễn Văn Ái 1973, 1974 bước đầu nghiên cứu hệ formant của
tiếng Việt nói chung nhưng lại không chỉ rõ được số cộng tác viên thuộc phương ngữ
nào. Riêng hệ thống thanh điệu gồm sáu thanh tiếng Hà Nội đã được nhiều tác giả sử
dụng phương pháp thực nghiệm để khảo sát và đạt được kết quả tốt: Lê Văn Lý 1948
(dùng Kymograph), Nguyễn Hàm Dương 1962 (dùng Intonograph); Hoàng Cao
8
Cương 1982 (dùng Glottograph); Phạm Hoàng Kỳ 1983, Vũ Kim Bảng 1984 và Vũ
Bá Hùng 1986 (đều dùng máy phân tích đa kênh). (theo [2])
Tuy thế, khi địa giới của Hà Nội được mở rộng như hiện nay thì chưa có bất cứ
một công trình nào nghiên cứu về đặc điểm của thổ ngữ Hà Nội mới, về các đặc trưng
ngữ âm- từ vựng để phân biệt các thổ ngữ của Hà Nội mới mở rộng. Do đó, cũng
chưa có công trình nào nghiên cứu về các thổ ngữ của Hà Nội được ứng dụng trong
giám định nhận dạng tiếng nói. Vì thế, chúng tôi có thể khẳng định đây là công trình
đầu tiên nghiên cứu các đặc trưng ngữ âm- từ vựng để phân biệt các thổ ngữ của
Hà Nội mới mở rộng, ứng dụng trong giám định nhận dạng tiếng nói. Đồng thời,
chúng tôi cũng dựa trên cơ sở lí thuyết của các công trình nghiên cứu của những tác
giả đi trước để tìm hiểu về các vùng phương ngữ tiếng Việt, đặc biệt là vùng phương
ngữ Bắc, từ đó khảo sát và nghiên cứu về các thổ ngữ Hà Nội thuộc phương ngữ Bắc.
1.2 Ngôn ngữ toàn dân, phương ngữ và thổ ngữ
1.2.1 Ngôn ngữ toàn dân
Theo tác giả Hoàng Thị Châu , “ngôn ngữ toàn dân được dùng làm ngôn ngữ
văn học” (vào thời kỳ tư bản phát triển và xã hội chủ nghĩa). “Đồng thời, khái niệm
ngôn ngữ văn học cũng thay đổi. Ngôn ngữ văn học là ngôn ngữ viết trong sách vở,
báo chí thuộc mọi lĩnh vực của văn hóa không phải chỉ bó hẹp vào các tác phẩm văn
học. Nó còn là ngôn ngữ nói trên sân khấu, điện ảnh, phát thanh, truyền hình trong
các hoạt động khoa học kỹ thuật, thương nghiệp, công nghiệp…” [4,53]
1.2.2 Phương ngữ
1.2.2.1 Khái niệm “phương ngữ”
Phương ngữ học là một bộ môn của ngôn ngữ học để nghiên cứu một hay
nhiều phương ngữ (dialect). Trong cuốn “Phương ngữ học tiếng Việt”, NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội năm 2004, giáo sư Hoàng Thị Châu cho rằng: “Trước đây, trong các
sách thường dùng thuật ngữ “phương ngôn” theo cách dùng của Trung Quốc. Nhưng
từ “phương ngôn” ở trong tiếng Việt đã được dùng để chỉ “tục ngữ ở địa phương”.
(Từ điển Văn Tân – Hà Nội, 1967) cho nên theo quan điểm của một số nhà nghiên
9
cứu thì dùng từ này dễ gây hiểu lầm. Từ “tiếng địa phương” cũng có thể dùng được
nhưng hình thức cấu tạo không mang tính chặt chẽ của thuật ngữ như từ “phương
ngữ”. Từ ngữ “thổ âm” hay “giọng địa phương chỉ nhấn mạnh khía cạnh ngữ âm hay
giọng địa phương” [4,29]. Trên cơ sở đó, giáo sư Hoàng Thị Châu cũng đưa ra quan
điểm về phương ngữ: “Phương ngữ là một thuật ngữ ngôn ngữ học để chỉ sự biểu
hiện của ngôn ngữ toàn dân ở một địa phương cụ thể với những nét khác biệt của nó
so với ngôn ngữ toàn dân hay với một phương ngữ khác”[4,29]. Chúng tôi sử dụng
quan điểm này của giáo sư Hoàng Thị Châu để làm cơ sở xác định, nghiên cứu
phương ngữ.
1.2.2.2 Vấn đề phân vùng phương ngữ tiếng Việt
H. Maspéro (1912) một học giả Pháp trong công trình Nghiên cứu ngữ âm lịch
sử tiếng Việt có ý kiến phân chia tiếng Việt ra thành hai vùng: phương ngữ Bắc và
phương ngữ Trung. Theo ông thì người Việt ở miền Nam là gốc ở miền Bắc mới vào
sinh sống không lâu, do đó tiếng miền Nam về cơ bản là giống phương ngữ Bắc cho
nên có thể xếp chung một nhóm với phương ngữ Bắc. Còn phương ngữ Trung thì đối
lập với phương ngữ Bắc ở điểm còn giữ lại những nét cổ xưa. (theo [4, 87]. Trong khi
đó, hai nhà Việt ngữ học người Liên Xô M.V. Gordina và I.S. Bystrôv (1970, tr. 203211) chủ yếu dựa vào hệ thống âm cuối cũng đã chia tiếng Việt thành hai vùng
phương ngữ (nhưng khác hai vùng H. Maspéro đã chia), có ranh giới chạy qua phía
Nam tỉnh Quảng Trị. Trong cuốn sách cơ cấu ngữ âm tiếng Việt (1984, tr. 192-195),
hai tác giả trên có điều chỉnh chút ít, về cơ bản vẫn là hai vùng trên nhưng thêm một
vùng thứ ba là phương ngữ Huế có tính cách như một vùng đệm (theo [4,88]). Ngoài
ra còn có ý kiến cho rằng không thể phân chia tiếng Việt ra thành các vùng phương
ngữ bởi vì nếu chúng ta khảo sát tiếng Việt từ Bắc vào Nam thì sẽ thấy trạng thái
chuyển tiếp từ vùng nọ sang vùng kia mà phương ngữ các thành phố lớn như Hà Nội,
Vinh, Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn có thể xem là tiêu biểu (L.C, Thompson, 1965) (theo
[4, 90]).
1.2.2.3 Giới thiệu đặc điểm ngữ âm 3 vùng phương ngữ Bắc, Trung, Nam
10
Về vấn đề phân vùng phương ngữ trong tiếng Việt thì có rất nhiều ý kiến khác
nhau. Tuy nhiên việc chia tiếng Việt thành 3 vùng phương ngữ: phương ngữ Bắc
(PNB), phương ngữ Trung (PNT), phương ngữ Nam (PNN) được nhiều tác giả đồng ý
hơn cả. Theo đó PNB dùng trong giao tiếp ở Bắc Bộ. Phương ngữ này là cơ sở hình
thành nên ngôn ngữ văn học. Phương ngữ Trung bao gồm các tỉnh Bắc Trung Bộ, từ
Thanh Hóa đến đèo Hải Vân. Đây là phương ngữ bảo lưu nhiều yếu tố cổ của tiếng
Việt. Phương ngữ Nam trải dài từ đèo Hải Vân cho đến cực Nam của tổ quốc, là một
phương ngữ mới được hình thành trong vòng 5 thế kỉ gần đây. Dưới đây là các đặc
điểm tổng quát của 3 vùng phương ngữ:
a. Những đặc điểm ngữ âm của phương ngữ Bắc.
- Hệ thống thanh điệu: có 6 thanh (sắc, nặng, huyền, hỏi, ngã, không) và có đối
lập từng đôi một về âm vực và thanh điệu.
- Hệ thống phụ âm đầu: có 20 âm vị, không có những phụ âm ghi trong chính
tả là s, r, gi, tr tức là không phân biệt s/x, r/d/gi, tr/ch.
- Hệ thống âm cuối: có đủ các âm cuối ghi trong chính tả.
PNB có thể chia làm 3 vùng nhỏ hơn:
* Phương ngữ vòng cung biên giới phía Bắc nước ta: Phần lớn người Việt ở
đây mới đến từ các tỉnh đồng bằng có mật độ cao như: Thái Bình, Nam Định, Ninh
Bình. Do quá trình cộng cư diễn ra trong thời gian gần đây nên ở vùng này không chia
manh mún thành nhiều thổ ngữ.
* Phương ngữ vùng Hà Nội và các tỉnh đồng bằng và trung du bao quanh Hà
Nội mang những đặc trưng tiêu biểu của phương ngữ Bắc.
* Phương ngữ miền hạ lưu sông Hồng và ven biển (Thái Bình, Nam Định,
Ninh Bình, Quảng Ninh) còn giữ lại cách phát âm khu biệt d với gi, r; s với x; tr với
ch mà ở PNB khác không có phân biệt nữa. Còn có nơi phát âm /ʈ/ thành “t” và “s”
thành “th”.
b. Những đặc điểm ngữ âm của phương ngữ Trung.
- Hệ thống thanh điệu: có 5 thanh, khác với hệ thống thanh điệu PNB cả về số
lượng lẫn chất lượng.
11
- Hệ thống phụ âm đầu: có 23 phụ âm đầu, hơn PNB 3 phụ âm uốn lưỡi [s, z, t]
chữ quốc ngữ ghi bằng s, r, tr. Trong nhiều thổ ngữ có 2 phụ âm bật hơi [ph, kh] thay
cho 2 phụ âm xát [f, x] trong PNB. PNT cũng gồm ba phương ngữ nhỏ khác nhau về
thanh điệu:
* Phương ngữ Thanh Hóa lẫn lộn thanh hỏi và thanh ngã (phát âm không phân
biệt), nhưng các thanh khác lại giống PNB.
* Phương ngữ vùng Nghệ Tĩnh không phân biệt thanh ngã với thanh nặng. Cả
5 thanh tạo thành một hệ thống thanh điệu khác với PNB, có độ trầm lớn hơn.
* Phương ngữ vùng Bình Trị Thiên không phân biệt thanh hỏi và thanh ngã.
Về mặt điệu tính, các thanh điệu lại giống với thanh điệu Nghệ Tĩnh. Tiêu biểu cho
PNT là giải phương ngữ từ Nghệ Tĩnh cho đến sông Bến Hải.
c. Những đặc điểm ngữ âm của phương ngữ Nam.
- Hệ thống thanh điệu: có 5 thanh, thanh ngã và thanh hỏi trùng làm một. Đây
là một hệ thống thanh điệu khác hệ thống thanh điệu của PNB, PNT.
- Hệ thống phụ âm đầu: có 23 phụ âm, có các phụ âm uốn lưỡi như PNT [s, z,
t] chữ viết ghi là s, r, tr. PNN cũng chia thành 3 vùng nhỏ:
* Phương ngữ Quảng Nam – Quảng Ngãi khác các nơi khác ở sự biến động đa
dạng âm a và âm ă trong kết hợp với các âm cuối khác nhau.
* Giải phương ngữ từ Quy Nhơn đến Bình Thuận mang những đặc tính chung
nhất của PNN.
* Phương ngữ Nam Bộ: đồng nhất các vần: -in, -it với -inh, -ich; -un,
-ut với
-ung, -uc. Có khuynh hướng lẫn lộn s/x và tr/ch như PNB.
Với công trình này, chúng tôi tập trung tìm hiểu tiếng địa phương một ở vùng
trong khu vực Hà Nội, là vùng mang những đặc trưng tiêu biểu của PNB.
1.2.3 Thổ ngữ
Trong cuốn “Phương ngữ học tiếng Việt”, tác giả Hoàng Thị Châu cũng đưa ra
quan điểm của mình về thổ ngữ: “Thổ ngữ hay phương ngữ đều là biến thể địa
phương của ngôn ngữ gồm một chùm những nét khu biệt phương ngữ, thổ ngữ này so
với các phương ngữ, thổ ngữ khác cũng như so với ngôn ngữ toàn dân.”[4, 232]
12
Hoàng Thị Châu cũng khẳng định: “Không nhất thiết hai thổ ngữ phải khác nhau
nhiều mà chỉ cần một vài nét khu biệt nhỏ cũng đủ để tự khẳng định mình và khu biệt
với nhau. Nếu xét như vậy, thì có thể nói, hầu hết các xã ở miền Bắc đều có thổ ngữ
riêng.” [4, 232] Cả phương ngữ và thổ ngữ đều được hình thành bởi các yếu tố về địa
lí (sự cách biệt về địa lí không gian), lịch sử và sự biến đổi bên trong của ngôn ngữ.
Tuy nhiên nếu như sự khác nhau giữa các phương ngữ là một chùm các yếu tố khác
biệt thì sự khác nhau giữa hai thổ ngữ chỉ cần một yếu tố khác biệt. Thổ ngữ tồn tại
lâu đời hơn phương ngữ, nó gắn bó mật thiết với đời sống cư dân của một thôn hay
một xã nào đó. Bởi lẽ trong quá trình ra đời và phát triển, thổ ngữ gắn liền với công
xã. Chính Mác đã nhận thấy điều này khi khẳng định mối liên hệ sâu sắc giữa thổ ngữ
với công xã trong công trình “Những hình thái xuất hiện trước khi có nền sản xuất tư
bản chủ nghĩa”: “ Thổ ngữ là sản phẩm của một công xã, cũng như nếu xét theo một
quan điểm nào đó, nó là bản thân sự tồn tại của công xã, là cách công xã tự biểu
hiện”[4, 232].
1.3 Từ và từ địa phương
1.3.1 Các quan điểm về từ
Hầu hết các nhà ngôn ngữ học thừa nhận từ là đơn vị cơ bản của ngôn ngữ
nhưng cho đến nay, vấn đề nhận diện và định nghĩa từ lại rất khó. F.de. Saussure đã
viết: “…từ là một đơn vị luôn luôn ám ảnh tư tưởng chúng ta như một cái gì đó trung
tâm trong toàn bộ cơ cấu ngôn ngữ, mặc dù khái niệm này khó định nghĩa”[9,21].
Hiện nay có trên 300 định nghĩa về từ. Trong các tài liệu ngôn ngữ học hiện đại có ba
khuynh hướng cơ bản trong việc miêu tả bản chất và những nguyên nhân định nghĩa
từ:
Từ chỉ được khảo sát theo quan điểm ngôn ngữ học một phần nào, còn việc
giải quyết nó là nhiệm vụ của các ngành triết học, lôgic, tâm lí học…Theo quan điểm
này, Ju. D. Apresjan đã coi những kiểu ý kiến khác nhau của từ là những đối tượng
của những khoa học khác nhau, trong đó có ngữ nghĩa học lôgic và ngôn ngữ học tâm
lí.
13
Từ được xác định một cách phiến diện từ một mặt nào đó của nó hoặc được
xác định một cách chung chung, không cụ thể. Theo đó, K. Buhker thiên về mặt ngữ
âm: “Các từ là những kí hiệu âm thanh của một ngôn ngữ được cấu tạo từ các âm vị
và có thể tạo thành trường”[9, 22]. Với E. Sapir thiên về mặt ngữ nghĩa: “Từ là một
đoạn nhỏ nhất có ý nghĩa hoàn toàn độc lập và bản thân có thể làm thành một câu tối
giản”[9, 22]. Còn V. Brondal thiên về mặt chức năng giao tiếp của từ: “Từ bao giờ và
ở đâu cũng phải là một yếu tố của thông báo”[9, 22]. Còn những định nghĩa sau đây
thì lại có tính chất chung chung, không cụ thể: “Từ là bất cứ âm nào của lời nói, trong
ngôn ngữ từ có một ý nghĩa khác với ý nghĩa của những âm cũng là từ khác” (F.F.
Fortunatov), “Từ không phải đơn giản là tổng số có tính số học của vật chất âm thanh
và ý nghĩa mà là một chính thể có tổ chức, một đơn vị kết cấu tính của vật chất âm
thanh và ý nghĩa”(W. Schmidt)[9, 23]. Những cách định nghĩa như vậy đều không
bao quát được đặc điểm cơ bản của từ, chúng chỉ có thể dùng làm những luận điểm
xuất phát khi nghiên cứu và miêu tả từ mà thôi.
Từ được khảo sát từ các mặt khác nhau nhưng chủ yếu nhấn mạnh các đặc
điểm của nó trong mỗi ngôn ngữ riêng biệt. Theo phương hướng này, người ta đã
khảo sát từ trong mỗi ngôn ngữ một cách đầy đủ và toàn diện về các mặt ngữ âm,
hình thái học, chức năng ngữ pháp… và mối tương quan của từ với khái niệm. Theo
S.E. Jakhontov thì các nhà nghiên cứu khác nhau đã dùng thuật ngữ từ để gọi những
hiện tượng khác nhau nhưng có quan hệ với nhau. Ít nhất có 5 quan niệm khác nhau
về cái được gọi là từ bao gồm: từ chính tả, từ từ điển học, từ ngữ âm, từ biến tố, từ
hoàn chỉnh. Với phạm vi của luận văn này, chúng tôi không nêu rõ các định nghĩa đối
với mỗi loại từ trên. Tuy nhiên có thể thấy các định nghĩa về “từ” này đều đúng bởi vì
chúng phản ánh những hiện tượng tồn tại khách quan trong ngôn ngữ, đều là các định
nghĩa của ngôn ngữ học đại cương bởi vì chúng xuất phát từ những sự kiện quan sát
được trong nhiều ngôn ngữ ở các loại hình khác nhau.
Từ là một bộ phận quan trọng của ngữ pháp học nói chung. Hiện nay ở Việt
Nam, các nhà nghiên cứu cũng đưa ra nhiều quan điểm khác nhau về từ. Theo tác giả
Đỗ Hữu Châu trong cuốn “Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt” thì: “Từ của tiếng Việt là
14