Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.91 KB, 23 trang )

Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội
Quyết định hình phạt là việc Toà án lựa chọn hình phạt buộc người bị kết án phải chấp
hành. Toà án lựa chọn loại hình phạt nào, mức phạt bao nhiêu, phải tuân theo những quy
định của Bộ luật hình sự.
Quyết định hình phạt là hoạt động tư duy của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân ngay sau
khi đã xác định tội danh đối với hành vi phạm tội, nếu định tội là tiền đề, là cơ sở cho
việc quyết định hình phạt, thì quyết định hình phạt là kết quả cuối cùng của hoạt động xét
xử. Quyết định hình phạt chính xác có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động xét xử
của Toà án. Để quyết định hình phạt chính xác, đúng pháp luật, ngoài việc định tội chính
xác, Toà án còn phải tuân theo những nguyên tắc, những căn cứ về quyết định hình phạt
đã được quy định trong Bộ luật hình sự. Ngoài ra, Toà án còn phải xem xét cân nhắc đến
tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của từng địa phương, yêu cầu của việc đấu tranh phòng
ngừa và chống tội phạm và các yếu tố khác có liên quan đến việc quyết định hình phạt.
Cũng như đối với người phạm tội đã thành niên, khi quyết định hình phạt đối với người
chưa thành niên phạm tội, Toà án cũng phải căn cứ vào vào quy định của Bộ luật hình sự,
cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân
người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự. (Điều 45 Bộ
luật hình sự)
1. Căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự
Căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự, tức là phải căn cứ vào các quy định của cả
phần chung và phần các tội phạm của Bộ luật hình sự có liên quan đến tội phạm mà
người bị kết án đã phạm. Vì vậy, chỉ quyết định hình phạt khi đã có đủ căn cứ xác định
một người đã phạm vào một tội mà Bộ luật hình sự quy định, tức là phải định tội trước
rồi mới quyết định hình phạt sau. Khi đã xác định được tội danh cho mọt hành vi phạm
tội, thì phải xác định tội phạm đó được quy định ở điều khoản nào của Bộ luật hình sự, từ
đó đối chiếu với các quy định của phần chung và phần tội phạm xem có những quy định
nào có liên quan đến tội phạm do người bị kết án thực hiện hay không ? Ví dụ: Khi đã
1


xác định Nguyễn Công H 17 tuổi, phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có tổ chức, thuộc


trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 139 Bộ luật hình sự, khi quyết định hình
phạt Toà án phải căn cứ vào Điều 20 Bộ luật hình sự quy định về phạm tội có tổ chức để
xác định vai trò của Nguyễn Công H trong vụ án là người tổ chức, người thực hành,
người xúi dục hay người giúp sức, đồng thời phải căn cứ vào Điều 53 Bộ luật hình sự quy
định về quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm.
Đối với người chưa thành niên phạm tội ngoài các quy định của Bộ luật hình sự như đối
với người đã thành niên, thì còn phải căn cứ vào các quy định đối với người chưa thành
niên phạm tội tại Chương X (từ Điều 68 đến Điều 77 Bộ luật hình sự ).
Theo quy định tại Chương X của Bộ luật hình sự thì khi quyết định hình phạt đối với
người chưa thành niên phạm tội Toà án cần chú ý môt số vấn đề sau:
Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa
sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. Do đó nếu có phải
áp dụng hình phạt đối với họ cũng chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm,
phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. Nguyên tắc này đòi hỏi Toà
án phải lựa chọn loại hình phạt và mức hình phạt sao cho thể hiện được yêu cầu là nhằm
giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích
cho xã hội
Căn cứ để áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội là tính chất của
hành vi phạm tội, những đặc điểm về nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa. Cần chú
ý là yêu cầu của việc "phòng ngừa" chứ không phải yêu cầu của việc "chống" tội phạm.
Khi xét xử, nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với người chưa thành
niên phạm tội, thì Toà án áp dụng một trong các biện pháp tư pháp (không phải là hình
phạt) như: Giáo dục tại xã, phường, thị trấn từ một năm đến hai năm đối với người chưa
thành niên phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng hoặc đưa vào trường giáo
dưỡng từ một năm đến hai năm đối với người chưa thành niên phạm tội, nếu thấy do tính
2


chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội, do nhân thân và môi trường sống của người đó
mà cần đưa người đó vào một tổ chức giáo dục có kỷ luật chặt chẽ.

Nếu người được giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc người được đưa vào trường giáo
dưỡng đã chấp hành một phần hai thời hạn do Toà án quyết định và có nhiều tiến bộ, thì
theo đề nghị của tổ chức, cơ quan, nhà trường được giao trách nhiệm giám sát, giáo dục,
Toà án có thể quyết định chấm dứt thời hạn giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc thời
hạn ở trường giáo dưỡng.
Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội. Khi
áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội cần hạn chế áp dụng hình phạt
tù. Khi xử phạt tù có thời hạn, Toà án cho người chưa thành niên phạm tội được hưởng
mức nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đã thành niên phạm tội tương ứng.
Không áp dụng hình phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội ở độ tuổi từ đủ 14
tuổi đén dưới 16 tuổi.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội.
a. Đối với hình phạt cảnh cáo,
Khi áp dụng hình phạt cảnh cáo đối với người chưa thành niên phạm tội, Toà án phải căn
cứ vào quy định tại Điều 29 Bộ luật hình sự, chỉ áp dụng hình phạt cảnh cáo đối với
người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng
chưa đến mức miễn hình phạt. Bởi lẽ, không có quy định riêng về việc áp dụng hình phạt
cảnh cáo đối với người chưa thành niên phạm tội, nên theo quy định tại Điều 68 Bộ luật
hình sự Toà án vẫn phải căn cứ vào Điều 29 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, đối với người
chưa thành niên phạm tội nên mở rộng việc áp dụng hình phạt cảnh cáo nếu đủ điều kiện
quy định tại Điều 29 Bộ luật hình sự.
b. Đối với hình phạt tiền

3


Toà án chỉ được áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính và cũng chỉ đối với người chưa
thành niên phạm tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu người đó có thu nhập hoặc có tài
sản riêng.
Bộ luật hình sự năm 1999 đã có hiệu lực pháp luật gần 7 năm, nhưng vẫn còn một số

trường hợp người chưa thành niên phạm tội trước ngày Bộ luật hình sự năm 1999 có hiệu
lực pháp luật nhưng sau ngày Bộ luật hình sự năm 1999 mới bị phát hiện mà thời hiệu
truy cứu trách nhiệm hình sự vẫn còn, thì khi áp dụng hình phạt đối với họ, Toà án nên
cần phải chú ý một số vấn đề có liên quan đến hiệu lực về thời gian, cũng như Nghị quyết
số 32/1999/QH10 ngày 21-12-1999 của Quốc hội để tránh những sai lầm không đáng có.
Bộ luật hình sự năm 1985 không quy định người chưa thành niên phạm tội bị áp dụng
hình phạt tiền, nên phải coi đây là trường hợp điều luật quy định một hình phạt mới, nên
không được áp dụng đối với những hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 01 tháng
7 năm 2000 mà sau thời điểm đó mới bị phát hiện, đang bị điều tra, truy tố, xét xử 11.
Khi áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính đối với người chưa thành niên phạm tội,
cần xác định tuổi của người bị kết án, chỉ sau khi có đủ căn cứ xác định người bị kết án
đủ 16 tuổi mới được áp dụng hình phạt tiền, nếu còn nghi ngờ về tuổi của người bị kết án
và không có tài liệu gì khác để xác định tuổi thật của người bị kết án thì không được áp
dụng hình phạt tiền đối với họ.
Sau khi đã xác định chính xác người chưa thành niên đã đủ 16 tuổi, thì bước tiếp theo là
phải xác định xem người bị kết án có thu nhập hoặc có tài sản riêng hay hay không ?
Việc xác định này phải được thể hiện bằng văn bản của các cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền và phải được lưu trong hồ sơ vụ án. Thu nhập và tài sản riêng của người đủ 16 tuổi
đến dưới 18 tuổi phải đủ để thi hành khoản tiền phạt mà Toà án quyết định. Nếu thu nhập
hoặc tài sản riêng của người bị kết án không đủ để thi hành khoản tiền phạt hoặc không
đáng kể, thì Toà án không được áp dụng hình phạt tiền đối với họ. Vì là hình phạt, nên
tuyệt đối không được buộc cha mẹ người bị kết án phải nộp thay khoản tiền phạt như đối
với trường hợp Toà án buộc người chưa thành niên bồi thường thiệt hại.
4


Mức tiền phạt mà Toà án áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội không được
quá một phần hai (1/2) mức tiền phạt mà điều luật quy định. Ví dụ: Đặng Thanh H (17
tuổi) bị kết án về tội buôn lậu thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 153 Bộ luật
hình sự có khung hình phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, nếu Toà án

chọn hình phạt tiền là hình phạt chính thì chỉ được phạt Đặng Thanh H từ năm triệu động
đến năm mươi triệu đồng.
Khi xác định mức tiền phạt cụ thể, Toà án căn cứ vào tính chất và mức độ nghiêm trọng
của tội phạm được thực hiện, để quyết định một mức tiền phạt như đối với người đã
thành niên phạm tội, sau đó chia đôi số tiền phạt đó để quyết định mức tiền phạt đối với
người chưa thành niên phạm tội. Ví dụ: Bùi Quốc D (khi phạm tội 17 tuổi 5 tháng) bị kết
án về tội buôn bán hàng cấm theo quy định tại khoản 1 Điều 155 Bộ luật hình sự có
khung hình phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu động. Giả thiết Bùi Quốc D
là người đã thành niên thì sẽ bị phạt tiền 8 triệu đồng nhưng vì D là người chưa thành
niên nên mức tiền phạt mà Toà án áp dụng đối với D là 4 triệu động.
c. Đối với hình phạt cải tạo không giam giữ
Khi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người chưa thành niên phạm tội,
Toà án cũng phải căn cứ vào quy định tại Điều 31 Bộ luật hình sự về cải tạo không giam
giữ, đó là: Hình phạt cải tạo không giam giữ được áp dụng từ sáu tháng đến ba năm đối
với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật hình sự quy
định mà đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú rõ ràng, nếu xét thấy không
cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội. Tuy nhiên, đối với người chưa thành
niên phạm tội khi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ chỉ cần điều kiện có nơi
thường trú rõ ràng, vì theo quy định tại Điều 73 Bộ luật hình sự thì, khi áp dụng hình phạt
cải tạo không giam giữ đối với người chưa thành niên phạm tội, thì không khấu trừ thu
nhập của người đó nên việc xác định người phạm tội có nơi làm việc ổn định là không
cần thiết, mà chỉ cần xác định người phạm tội có nơi thường trú rõ ràng là được.

5


Cũng theo quy định tại Điều 73 Bộ luật hình sự thì, thời hạn cải tạo không giam giữ đối
với người chưa thành niên phạm tội không quá một phần hai (1/2) thời hạn mà điều luật
quy định. Ví dụ: Trần Công V (16 tuổi 8 tháng) phạm tội "trộm cắp tài sản" quy định tại
khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự có hình phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm, nếu

Toà án áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với Trần Công V thì thời gian cải
tạo không giam giữ không được quá một năm, sáu tháng (18 tháng).
Tương tự như đối với hình phạt tiền, khi xác định thời hạn cụ thể, Toà án căn cứ vào tính
chất và mức độ nghiêm trọng của tội phạm được thực hiện, để quyết định một thời hạn
như đối với người đã thành niên phạm tội, sau đó chia đôi để quyết định thời hạn đối với
người chưa thành niên phạm tội. Ví dụ: Vũ Văn M (khi phạm tội 17 tuổi 9 tháng) bị kết
án về tội “vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” theo quy
định tại khoản 1 Điều 108 Bộ luật hình sự có khung hình phạt cải tạo không giam giữ đến
hai năm. Giả thiết Vũ Văn M là người đã thành niên thì sẽ bị phạt cải tạo không giam giữ
là 18 tháng, nhưng vì M là người chưa thành niên nên mức hình phạt cải tạo không giam
giữ mà Toà án áp dụng đối với M là 9 tháng.
Điều luật quy định ở đây phải hiểu là điều luật quy định về hình phạt cải tạo không giam
giữ đối với từng tội phạm cụ thể chứ không phải là điều luật quy định về hình phạt cải tạo
không giam giữ (Điều 31 Bộ luật hình sự). Đa số các tội phạm có quy định hình phạt cải
tạo không giam giữ, nhà làm luật thường quy định đến ba năm. Tuy nhiên, cũng có một
số trường hợp nhà làm luật chỉ quy định hình phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm
như: Điều 94-Tội giết con mới đẻ; Điều 96-Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ
chính đáng; Điều 102-Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến
tính mạng; Điều 103-Tội đe doạ giết người; Điều 106-Tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng; Điều
108-Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; Điều 121Tội làm nhục người khác; Điều 122-Tội vu khống; Điều 123-Tội bắt, giữ hoặc giam
người trái pháp luật.v.v… Lại có trường hợp nhà làm luật chỉ quy định hình phạt cải tạo
không giam giữ đến một năm như: Điều 105-Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
6


cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh; Điều 110-Tội
hành hạ người khác; Điều 125-Tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện
tín của người khác; Điều 126-Tội xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử của công
dân.v.v…

d. Đối với hình phạt tù có thời hạn
Khi áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người chưa thành niên phạm tội, Toà án cần
phải cân nhắc kỹ xem có nên áp dụng hình phạt tù đối với họ hay không ? Chỉ áp dụng
hình phạt tù đối với người chưa thành niên khi thấy không thể áp dụng được các loại hình
phạt khác đối với họ. Đây cũng là một nguyên tắc quyết định hình phạt đối với người
chưa thành niên phạm tội. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử các Thẩm phán ít chú ý đến
nguyên tắc này, nên thường áp dụng hình phạt tù hoặc cho hưởng án treo, mặc dù người
phạm tội có đủ điều kiện được áp dụng các loại hình phạt khác không phải là hình phạt
tù.
Khi buộc phải áp dụng hình phạt tù đối với người chưa thành niên phạm tội, Toà án phải
tuân theo các quy định sau:
- Đối với người chưa thành niên khi phạm tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, nếu điều
luật được áp dụng có quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt
cao nhất được áp dụng không quá mười tám (18) năm tù. Ví dụ: Võ Hữu B (17 tuổi 5
tháng) phạm tội "giết người" thuộc trường hợp tại khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự có
quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, Toà án chỉ được phạt Võ Hữu B mức hình
phạt tối đa là 18 năm tù. Nếu điều luật được áp dụng quy định là hình phạt tù có thời hạn,
thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư (3/4) mức phạt tù mà điều
luật quy định. Ví dụ: Võ Minh Q (16 tuổi 10 tháng) phạm tội "bắt cóc nhằm chiếm đoạt
tài sản" thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự có khung hình
phạt từ năm năm đến mười hai năm tù, Toà án chỉ được phạt Võ Minh Q mức hình phạt
tối đa là chín năm tù.

7


- Đối với người chưa thành niên khi phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu điều
luật được áp dụng có quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt
cao nhất được áp dụng không quá mười hai (12) năm tù. Ví dụ: Nguyễn Anh T (15 tuổi 9
tháng) phạm tội "cướp tài sản" thuộc trường hợp tại khoản 4 Điều 133 Bộ luật hình sự có

quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, Toà án chỉ được phạt Nguyễn Anh T mức
hình phạt tối đa là 12 năm tù. Nếu điều luật được áp dụng quy định là hình phạt tù có thời
hạn, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá một phần hai (1/2) mức phạt tù
mà điều luật quy định. Ví dụ: Đặng Quốc H (14 tuổi 10 tháng ) phạm tội "lửa đảo chiếm
đoạt tài sản" thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 139 Bộ luật hình sự có khung
hình phạt từ bảy năm đến mười lăm năm tù, Toà án chỉ được phạt Đặng Quốc H mức
hình phạt tối đa là bảy năm sáu tháng tù.
- Trường hợp người chưa thành niên phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại
khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự và được Toà án áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự thì việc
quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt sẽ phức tạp hơn. Đây cũng
là vẫn đề thực tiễn xét xử nhiều Toà án lúng túng “sợ” vi phạm Điều 47 Bộ luật hình sự
nên lại áp dụng một cách máy móc. Ví dụ: A mới 15 tuổi 8 tháng bị rủ rê lôi kéo cùng với
một số người khác phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thuộc trường hợp quy định tại
khoản 3 Điều 139 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ bảy năm đến mười lăm năm tù.
Do A có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 đáng được khoan hồng lẽ
ra hình phạt đối với với A chỉ đáng 1 năm tù, nhưng vì Điều 47 Bộ luật hình sự quy định:
“Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà
điều luật đã quy định nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật”,
mà khung hình phạt liền kề của khoản 3 Điều 139 là khoản 2 Điều 139 có mức hình phạt
từ 2 năm đến 7 năm tù, nên Toà án “không dám” phạt A dưới 2 năm tù. Một số trường
hợp Toà án cấp sơ thẩm áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt liền
kề thì bị Viện kiểm sát kháng nghị với lý do vi phạm Điều 47 Bộ luật hình sự và không ít
trường hợp Toà án cấp phúc thẩm lại chấp nhận kháng nghị tăng hình phạt đối với bị cáo
chỉ vì lý do vi phạm Điều 47 Bộ luật hình sự.
8


Việc áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự để quyết định dưới mức thấp nhất của khung hình
phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, về nguyên tắc vẫn phải bảo đảm đúng quy
định của Điều 47. Tuy nhiên, đối với người chưa thành niên phạm tội, Toà án phải căn cứ

vào các quy định tại Điều 74 Bộ luật hình sự. Để bảo đảm việc quyết định dưới mức thấp
nhất của khung hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội vừa đúng với Điều 47
Bộ luật hình sự vừa bảo đảm quy định tại Điều 74 Bộ luật hình sự, Toà án cần tiến hành
các bước sau:
Trước hết, Toà án coi như họ là người đã thành niên để quyết định một mức hình phạt cụ
thể sau đó căn cứ vào quy định tại Điều 74 Bộ luật hình sự để xác định mức hình phạt cụ
thể đối với người chưa thành niên phạm tội theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự. Ví
dụ: Hoàng Văn C 16 tuổi 10 tháng phạm tội trộm cắp tài sản thuộc trường hợp quy định
tại khoản 3 Điều 138 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ bảy năm đến mười lăm năm
tù; do C có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy đinh tại Điều 46 Bộ luật hình sự nên được Toà án
áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự để áp dụng hình phạt quy định tại khoản 2 của Điều 138
Bộ luật hình sự. Giả thiết C là người đã thành niên thì sẽ bị phạt 2 năm tù, nhưng vì C là
người chưa thành niên nên C chỉ bị phạt 1 năm 6 tháng tù (2 x 3 : 4 = 1 năm 6 tháng).
Mặc dù mức hình phạt 1 năm 6 tháng tù dưới mức thấp nhất của khung hình phạt quy
định tại khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự nhưng vẫn không vi phạm Điều 47 Bộ luật
hình sự.
Tóm lại, căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự để quyết định hình phạt đối với người
chưa thành niên phạm tội là cơ sở, là tiền đề cho việc có áp dụng hay không áp dụng hình
phạt, nếu áp dụng thì áp dụng loại hình phạt nào, mức hình phạt là bao nhiêu. Căn cứ vào
các quy định của Bộ luật hình sự là căn cứ vào từng hành vi phạm tội cụ thể, của người
phạm tội cụ thể đôi chiếu với quy định của Bộ luật hình sự để áp dụng điều khoản nào
cho phù hợp với hành vi phạm tội. Bộ luật hình sự chỉ quy định có tính chất nguyên tắc,
dự kiến nếu có một hành vi nguy hiểm cho xã hội xảy ra và hành vi đó có thể giống
(tương tự) với dự kiến của Bộ luật hình sự thì được áp dụng các quy định của Bộ luật

9


hình sự để xử lý. Đây là đặc điểm cơ bản của pháp luật hình sự đối với các nước theo luật
thành văn.

Căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự khi quyết định hình phạt còn được thể hiện
ở chỗ, Toà án chỉ được áp dụng một trong các hình phạt chính đã được quy định tại
khoản 1 Điều 28 Bộ luật hình sự, riêng hình phạt trục xuất chỉ áp dụng đối với người
nước ngoài, không áp dụng đối với công dân Việt Nam. Đối với người chưa thành niên
Toà án không được áp dụng hình phạt bổ sung quy định tại khoản 2 Điều 28 Bộ luật hình
sự đối với họ. Khi áp dụng hình phạt, Toà án phải áp dụng đúng khung hình phạt, đúng
loại hình phạt và không được phạt cao hơn mức cao nhất của khung hình phạt đã quy
định. Việc áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt phải tuân theo quy định tại
Điều 47 Bộ luật hình sự.
Căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự là một căn cứ quan trọng nhất, thể hiện
nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa khi quyết định hình phạt, quyết định hình phạt mà
không căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự sẽ làm cho bản chất của hình phạt
thay đổi, mục đích của hình phạt không đạt được, dẫn đến những sai lầm nghiêm trọng
trong việc áp dụng pháp luật; bản án mà Toà án tuyên chẳng những không đúng pháp luật
mà còn không được dư luận đồng tình gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng khác.
2. Cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội
Nói chung, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội đã được nhà
làm luật xác định để làm căn cứ phân loại tội phạm; tính chất và mức độ nguy hiểm cho
xã hội của hành vi phạm tội còn là căn cứ xác định khung hình phạt cho từng tội phạm.
Tuy nhiên, cùng một loại tội phạm, cùng một khung hình phạt nhưng do những yếu tố
khác nhau nên tổ chức, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cũng khác nhau. Ví dụ:
A và B đều phạm tội "trộm cắp tài sản" thuộc trường hợp quy định tại điểm e khoản 2
Điều 138 Bộ luật hình sự (chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới
hai trăm triệu đồng) nhưng A chiếm đoạt 100 triệu đồng, còn B chiếm đoạt 150 triệu

10


đồng. Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau thì mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi do B thực hiện nguy hiểm hơn cho xã hội hơn hành vi của A.

Do kỹ thuật lập pháp, nên trong từng điều khoản của Bộ luật hình sự nhà làm luật quy
định nhiều tình tiết là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt khác nhau trong cùng
một khung hình phạt. Ví dụ: khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự nhà làm luật quy định 6
tình tiết (từ a đến g) là tình tiết định khung hình phạt, nên tính chất, mức độ nguy hiểm
của hành vi phạm tội cũng phụ thuộc vào việc người phạm tội có ít hoặc nhiều tình tiết
dịnh khung hình phạt quy định tại các điểm từ a đến g khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự.
Ví dụ: Đều là phạm tội theo khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự nhưng A thuộc trường hợp
tái phạm nguy hiểm và hành hung tẩu thoát còn B chỉ thuộc trường hợp hành hung để tẩu
thoát thì tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi do A thực hiện nguy hiểm
hơn hành vi do B thực hiện.
Thực tiễn xét xử, khi luận tội cũng như khi nhận xét để áp dụng hình phạt đối với một bị
cáo, Kiểm sát viên và Hội đồng xét xử thường chỉ chú ý đến nhân thân người phạm tội,
đến các tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ chứ ít thấy có bản luận tội hoặc bản án
phân tích được tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhiều
bản luận tội hoặc bản án chỉ nêu một câu có tính chất chung chung "hành vi phạm tội của
bị cáo là nguy hiểm cho xã hội" còn nguy hiểm như thế nào, mức độ nguy hiểm ra sao thì
không nêu được. Do không đánh giá được tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội, nên có nhiều trường hợp bản luận tội của Kiểm sát viên hoặc bản án
của Toà án đã nêu được hết các tình tiết về nhân thân người phạm tội, về các tình tiết tăng
nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nhưng quyết định hình phạt vẫn không chính
xác (quá nặng hoặc quá nhẹ).
Như vậy, tĩnh chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội phụ thuộc vào nhiều yếu tố
nhưng có thể khái quát lại ta thấy các yếu tố ảnh hưởng đến tính chất, mức độ nguy hiểm
của hành vi phạm tội bao gồm:

11


Trước hết, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội phụ thuộc vào
tất cả các yếu tố cấu thành tội phạm, bởi vì tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội,

nếu hành vi đó tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội
không đáng kể, thì không phải là tội phạm (khoản 4 Điều 8 Bộ luật hình sự). Căn cứ vào
tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhà làm luật chia tội phạm
ra làm bốn loại: Tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm
trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Ngay trong một loại tội phạm, do tính chất và
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cũng khác nhau, nên mức hình phạt
trong một khung hình phạt cũng khác nhau. Ví dụ: Đều là tội nghiêm trọng, nhưng tội
"vô ý làm chết người" quy định tại khoản 1 Điều 98 Bộ luật hình sự có khung hình phạt
tù từ sáu tháng đến năm năm, còn tội "vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề
nghiệp hoặc quy tắc hành chính" quy định tại khoản 1 Điều 99 Bộ luật hình sự lại có
khung hình phạt tù từ một năm đến sáu năm. Nếu cùng một khung hình phạt, nhưng tính
chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội khác nhau thì mức hình phạt
cũng phải khác nhau. Ví dụ: Một người mẹ vì hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà vứt bỏ
đứa con mới đẻ dẫn đến đứa trẻ chết, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội khác với
người mẹ giết con mới đẻ bằng cách bóp cổ đứa trẻ chết. Căn cứ vào tính chất mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội khi quyết định hình phạt chính là căn cứ vào
tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội trong cùng một khung hình
phạt, vì nếu xác định khung đúng khung hình phạt tức là đã xác định sai pháp luật, là đã
không căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, khi cân nhắc tính chất
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, cần phải xem xét một cách toàn diện
các yếu tố có liên quan đến tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
Tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội phụ thuộc vào tính chất
quan trọng của khách thể bị xâm phạm, vào hành vi phạm tội và hậu quả do hành vi
phạm tội gây ra, vào lỗi, mục đích, động cơ của người phạm tội, vào các tình tiết có liên
quan đến nhân thân của người phạm tội. Tuy nhiên trong phạm vi cân nhắc tính chất mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội khi quyết định hình phạt chủ yếu cân nhắc
12


các yêu tố thuộc về hành vi, hậu quả, lỗi, động cơ, mục đích, còn yếu tổ thuộc về khách

thể đã được xác định để phân loại tội phạm thành các chương khác nhau. Riêng các tình
tiết có liên quan đến nhân thân người phạm tội đã được quy định là một căn cứ khi quyết
định hình phạt (sẽ phân tích ở phần sau).
Khi cân nhắc tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội trong một
khung hình phạt là cân nhắc đến cách thức thực hiện tội phạm của người phạm tội. Ví dụ:
Cùng là hành vi dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản, nhưng nếu hành vi dùng vũ lức có
tính chất quyết liệt thì tính chất nguy hiểm cao hơn trường hợp hành vi dùng vũ lực
không có tính chất quyết liệt; tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm
tội trong một khung hình phạt còn phụ thuộc vào thời gian, không gian nơi xảy ra tội
phạm; phụ thuộc vào động cơ múc đính phạm tội của người phạm tội, nếu động cơ mục
đích không phải là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt; phụ thuộc vào thiệt hại gây
ra cho xã hội nều mức thiệt hại khác nhau đều được quy định trong một khung hình phạt.
Ví dụ: A gây thương tích cho B có tỷ lệ thương tật là 31%, còn C gây thương tích cho D
có tỷ lệ thương tật là 50%. Tuy cùng phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2
Điều 104 Bộ luật hình sự, nhưng tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội của C nguy hiểm hơn A.
Tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội trong một khung hình phạt
còn phụ thuộc vào tính chất và mức độ lỗi của hành vi phạm tội do người phạm tội thực
hiện. Cùng là lỗi cố ý, nhưng nếu là lỗi cố ý trực tiếp thì nguy hiểm hơn lỗi cố ý gián
tiếp; cùng là lỗi cố ý trực tiếp, nhưng sự quyết tâm phạm tội của người phạm tội cao nguy
hiểm hơn người không có ý thức quyết tâm phạm tội đến cùng; cùng là vô ý thì vô ý vì
quá tự tin nguy hiểm hơn lỗi vô ý vì cẩu thả. Ngoài ra còn có thể xem xét đến các hình
thức lỗi khác để đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội
như: cố ý có chủ mưu nguy hiểm hơn cố ý đột xuất; cố ý xác định nguy hiểm hơn cố ý
không xác định.
3. Căn cứ vào nhân thân người phạm tội
13


Nhân thân người phạm tội là toàn bộ các yếu tố về tự nhiên và xã hội có liên quan đến

người phạm tội bao gồm: Tuổi đời, tình trạng sức khoẻ, nghề nghiệp, trình độ văn hoá,
trình độ chuyên môn, quá trình công tác, thành tích, kỷ luật, lịch sử bản thân, hoàn cảnh
gia đình... Các yếu tố về thân thân người phạm tội được thể hiện trong lý lịch bị can và
các tài liệu khác có liên quan đến nhân thân người phạm tội. Theo quy định của Bộ luật
tố tụng hình sự thì các yếu tố về nhân thân của người phạm tội phải được các cơ quan tiến
hành tố tụng thu thập đầy đủ trong hồ sơ vụ án và phải được thể hiện trong hồ sơ vụ án
như là một tài liệu chính thức. Bản kết luận điều tra của cơ quan điều tra, bản cáo trạng
của Viện kiểm sát và bản án của Toà án phải ghi đầy đủ các yếu tố về nhân thân của
người phạm tội, vì đây là một trong những căn cứ quyết định hình phạt, thiếu nó việc
quyết định hình phạt sẽ không chính xác, không bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật.
Trong một số trường hợp, các yếu tố về nhân thân người phạm tội đã được nhà làm luật
quy định là yếu tố loại trừ trách nhiệm hình sự, yếu tố miễn hình phạt, yếu tố định tội,
định khung hình phạt hoặc quy định là tình tiết tăng nặng hoặc tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự như: Người phạm tội từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu
trách nhiệm hình sự về các tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đắc biệt nghiêm trọng
(khoản 2 Điều 12); người mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận
thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự
mà chỉ bị áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh (khoản 1 Điều 13); người không tố giác
tội phạm là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm
tội chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự trong trường hợp không tố giác các tội xâm phạm an
ninh quóc gia hoặc các tội khác đặc biệt nghiêm trọng quy định tại Điều 313 của Bộ luật
hình sự (khoản 2 Điều 22); Không phạt tử hình hoặc tù chung thân đối với người phạm
tội chưa đủ 18 tuổi; không áp dụng hình phạt tiền đối với người chưa đủ 16 tuổi (khoản 5
Điều 69); không phạt tử hình đối với phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng
tuổi khi phạm tội hoặc khi xét xử (Điều 35); chỉ có người mẹ giết con mới đẻ mới là chủ
thể của tội giết con mới đẻ (Điều 94); chỉ có người đã thành niên mới là chủ thể của tội
giao cấu với trẻ em và tội dâm ô với trẻ em (Điều 115, 116); người phạm tội tái phạm,
hoặc tái phạm nguy hiểm là tình tiết định khung hình phạt của nhiều tội phạm hoặc là
14



tình tiết tăng nặng khi quyết định hình phạt; người phạm tội là người có thành tích xuất
sắc trong sản xuất, chiến đấu, hoạc tập hoặc công tác là tình tiết giảm nhẹ khi quyết định
hình phạt.v.v...
Tuy nhiên, trong trường hợp các yếu tố về nhân thân người phạm tội chưa được quy định
là yếu tố định tội, định khung hình phạt hoặc quy định là tình tiết tăng nặng hoặc tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, thì khi quyết định hình phạt, Toà án phải xem xét để áp
dụng một hình phạt cho tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Xem xét, cân nhắc
nhân thân người phạm tội để làm căn cứ quyết định hình phạt chủ yếu xem xét các yếu tố
về nhân thân không phải là tình tiết tăng nặng hoặc tình tiết giảm nhẹ, không phải là yếu
tố định tội hay định khung hình phạt. Vì vậy, khi xem xét nhân thân người phạm tội với ý
nghĩa là một căn cứ để quyết định hình phạt, Toà án phải xem xét cả mặt tốt, mặt xấu,
đồng thời phải đánh giá được khả năng phát triển nhân cách của họ, khả năng cải tạo
cũng như các vấn đề ảnh hưởng đến quá trình cải tạo họ trở thành người có ích cho xã
hội. Trong bản án phải phản ảnh được nội dung các yếu tố về nhân thân của người phạm
tội ngoài những trường hợp mà Bộ luật hình sự đã quy định mà Toà án làm căn cứ quyết
định hình phạt.
Đối với người chưa thành niên phạm tội các yếu tố thuộc về nhân thân là căn cứ vô cùng
quan trọng để Toà án cân nhắc khi quyết định hình phạt. Cũng như đối với người đã
thanh niên, các đặc điểm về nhân thân cũng phụ thuộc vào các đặc điểm gắn liền với cuộc
đời của họ. Tuy nhiên, đối với người chưa thành niên phạm tội thì các yếu tố như độ tuổi,
trình độ văn hoá, lịch sử bản thân và hoàn cảnh gia đình là những yêu tố có ý nghĩa trực
tiếp đến hành vi phạm tội của họ. Vì vậy, khi căn cứ vào nhân thân để quyết định hình
phạt đối với người chưa thành niên phạm tội ngoài các cần chú ý:
Thứ nhất, người tiến hành tố tụng mà trong trường hợp này là Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân phải là người có những hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục
cũng như về hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm của người chưa thành niên. Hội

15



thẩm nhân dân tham gia phiên toà sơ thẩm xét xử người chưa thành niên phạm tội nhất
thiết phải là giáo viên hoặc là cán bộ Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
Thứ hai, khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cần cân nhắc các yếu tố có liên quan
đến hành vi phạm tội của người chưa thành niên như:
Về độ tuổi, ngoài quy định của Điều 12 Bộ luật hình sự về tuổi chịu trách nhiệm hình sự
thì trong độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau thì
thì tuổi càng nhỏ hình phạt phải càng nhẹ.
Về trình độ văn hoá cũng là yếu tố ảnh hưởng đến hành vi phạm tội của người chưa thành
niên. Người có học, nhận thức về tính nguy hiểm cho xã hội khác với người không được
đi học. Đối vối người phạm tội là người chưa thành niên ở độ tuổi thiếu niên mà không
được đi dễ bị mua chuộc, lôi kéo.
Lịch sử bản thân của người chưa thành niên có liên quan đáng kể đến hành vi phạm tội
cuả họ. Một đứa trẻ mồ côi bị bỏ rơi, sông lang thang, bụi đời, đã vi phạm pháp luật
nhiều lần dễ bị lôi kéo vào con đường phạm tội hơn một đứa trẻ có bố mẹ, được nuôi dạy
tử tế.
Hoàn cảnh gia đình của người chưa thành niên là một yếu tố quan trọng có ảnh hưởng
trực tiếp đến hành vi phạm tội của họ. Một đứa trẻ sống trong một gia đình có truyền
thống, có giáo dục, bố mẹ, ông bà là công dân tốt khác với một đứa trẻ sống thiếu tình
thương của cha mẹ và người thân như: bố mẹ ly hôn, bố hoặc mẹ phạm tội phải đi tù hoặc
phải sống trong một gia đình bố mẹ lục đục, mâu thuẫn, sống ích kỷ không quan tâm đến
con cái.v.v…
Nếu vụ án có đồng phạm thì cần xác định xem người chưa thành niên phạm tội có bị
người khác xúi dục hay không, nếu người xúi dục lại là người đã thành niên thì cần pahỉ
căn cứ vào các yếu tố trên để cân nhắc khi quyết định hình phạt đối với họ.

16


Các yêu tố trên ảnh hưởng trực tiếp đến tâm sinh lý của người chưa thành niên và nó

cũng là những yếu tố mà Toà án phải cân nhắc thật kỹ khi quyết định hình phạt đối với
họ.
4. Căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
Theo quy định tại Điều 45 Bộ luật hình sự, thì khi quyết định hình phạt, Toà án không chỉ
căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân
người phạm tội, mà còn phải căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm
hình sự. Như vậy, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự cũng là một
trong những căn cứ quyết định hình phạt.
Nếu các yếu tố nào làm thay đổi mức độ của hành vi phạm tội theo hướng ít nghiêm
trọng hơn, thì gọi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, còn những yếu tố nào làm
thay đổi mức độ của hành vi phạm tội theo hướng nghiêm trọng hơn, thì gọi là tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Các tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự trong một vụ án cụ thể và đối
với người phạm tội cụ thể chỉ làm cho tội phạm thay đổi mức độ nguy hiểm trong vụ án
đó và cũng chỉ làm cho tội phạm thay đổi mức độ nguy hiểm trong phạm vi một cấu
thành chứ không làm thay đổi tích chất của tội phạm ấy.
Trước hết, nó chỉ là những tình tiết cụ thể có liên quan đến vụ án đang giải quyết, nói lên
mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm nhiều hay ít. Nếu các tình tiết đó không liên
quan gì đến vụ án đang xem xét thì không phải là tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách
nhiệm hình sự. Ví dụ: bị cáo bị truy tố về tội giết người, nhưng trước đó bị cáo đã bị xử
phạt hành chính về hành vi vi phạm các quy định về an toàn giao thông đường bộ thì
không được coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo về tội giết người.
Các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự có tính chất ổn định về số
lượng và nội dung. Tất nhiên, sự ổn định này chỉ là tương đối. Trong quá trình phát triển
của xã hội nếu xuất hiện những tình tiết làm thay đổi mức độ nguy hiểm cho xã hội của
17


tội phạm sẽ được bổ sung sao cho phù hợp với tình hình xã hội trong tưng thời kỳ. Ví dụ:
Bộ luật hình sự năm 1985 chưa quy định tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp;

phạm tội có tính chất côn đồ; xâm phạm tài sản của Nhà nước”. Khi chưa được bổ sung
vào Bộ luật hình sự, thì Toà án không được tuỳ tiện thêm vào những tình tiết mà Bộ luật
hình sự không quy đinh để tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Tuy
nhiên, đối với tình tiết giảm nhẹ thì Tòa án có thể coi những tình tiết khác ngoài những
tình tiết đã được quy định trong Bộ luật hình sự là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự,
nhưng phải nói rõ lý do và tình tiết đó chỉ có ý nghĩa đối với trường hợp phạm tội cụ thể
mà Toà án đang xem xét, và nói chung nó cũng chỉ là cá biệt. Trong quá trình thực hiện
nếu thấy tình tiết nào không còn phù hợp nữa thì cũng sẽ được sửa đổi, bổ sung khi sửa
đổi Bộ luật hình sự.
Các tình tiết có nội dung khác nhau, nên mức độ tăng, giảm trách nhiệm hình sự cũng
khác nhau. Ví dụ: tái phạm nguy hiểm khác tái phạm về mức độ tăng nặng. Trong một
tình tiết, mức độ tăng, giảm trách nhiệm hình sự cũng khác nhau nếu như nó được xem
xét với hành vi phạm tội khác nhau hoặc với người phạm tội khác nhau. Ví dụ: trong thời
gian đang chấp hành hình phạt tù mà phạm tội do cố ý, mức độ tăng nặng hơn phạm tội
do vô ý.
Mỗi tình tiết chỉ có ý nghĩa áp dụng đối với một hoặc một số hành vi phạm tội; hoặc đối
với một số người phạm tội chứ không thể áp dụng đối với tất cả các tội phạm hoặc đối
với tất cả người phạm tội. Ví dụ: tình tiết "phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh
thần do hành vi trái pháp luật của người khác gây ra" chủ yếu áp dụng đối với các tội giết
người, cố ý gây thương tích.
Đối với tình tiết tăng nặng, người phạm tội phải thấy trước hoặc có thể thấy trước, thì
mới được áp dụng đối với họ. Nếu có lý do họ không thấy được trước hoặc không thể
thấy được trước thì dù tình tiết đó có xảy ra họ cũng không thể chịu trách nhiệm. Ví dụ:
một người đã gây thương tích cho một phụ nữ có thai, nhưng họ hoàn toàn không biết
nạn nhân đang có thai, thì họ không bị coi là phạm tội đối với phụ nữ có thai.
18


Cũng như đối với người đã thành niên phạm tội, khi quyết định hình phạt đối với người
chưa thành niên phạm tội Toà án cũng phải căn cứ vào các tình tiết tăng nặng và tình tiết

giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, có một số tình tiết nếu là người đã thành niên
phạm tội thì không được áp dụng nhưng đối với người chưa thành niên thì lại được áp
dụng. Ví dụ: Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự thì chỉ người
phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả thì mới được coi là
tình tiết giảm nhẹ, nhưng đối với người chưa thành niên phạm tội thì bố, mẹ, người thân
của người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả cũng
được coi là tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Ngược lại, có
những tình tiết đối với người đã thành niên phạm tội thì được áp dụng còn đối với người
chưa thành niên phạm tội thì không được áp dụng, nhất là đối với các tình tiết tăng nặng.
Ví dụ: tình tiết tái phạm, tái phạm nguy hiểm thì không được áp dụng đối với người chưa
thành niên chưa đủ 16 tuổi, vì theo quy định tại khoản 6 Điều 69 Bộ luật hình sự thì “án
đã tuyên đối với người chưa thành niên phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi, thì không tính để
xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm”. Tuy chưa có hướng dẫn, nhưng theo chúng
tôi, các tình tiết tăng nặng như: “lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội; phạm tội đối
với trẻ em; phạm tội đối với người lệ thuộc mình về mặt công tác; xúi giục người chưa
thành niên phạm tội”. Ngoài ra, việc xác định các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội còn phải căn cứ vào tâm sinh
lý của người chưa thành niên ở các lứa tuổi khác nhau để xác định mức độ tăng nặng
hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với họ. Ví dụ: Nếu các tình tiết của vụ án như
nhau thì, người mới hơn 14 tuổi phạm tội do bị cưỡng bức, đe doạ mức độ giảm nhẹ phải
nhiều hơn người gần 16 tuổi.
Thạc sỹ: Đinh Văn Quế

Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội
Quyết định hình phạt với người chưa thành niên phạm tội là trường hợp đặc biệt.
Tính chất đặc biệt của trường hợp này là ở chổ hình phạt được quy định nhẹ hơn so với
19


người đã thành niên phạm tội có các tình tiết khác tương đương và mức giảm nhẹ phụ

thuộc vào mức tuổi của người phạm tội. Sở dĩ người chưa thành niên được hưởng chính
sách giảm trách nhiệm Hình sự của Nhà nước khi có hành vi phạm tội vì họ có những đặc
điểm đặc biệt về nhân thân.
Người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất, tâm sinh lí,
chưa thể nhận thức đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà mình thực
hiện. Nhận thức của họ thường non nớt, thiếu chính chắn và đặc biệt họ dễ bị kích động,
lôi kéo bởi những người xung quanh, nếu ở môi trường xấu và không được chăm sóc giáo
dục chu đáo, người chưa thành niên dễ bị ảnh hưởng thói hư tật xấu dẫn đến phạm pháp.
Bên cạnh đó, so với người đã thành niên ý thức phạm tội của người chưa thành niên nói
chung chưâ sâu sắc, họ dể tiếp thu sự giáo dục của xã hội, nhà trường cũng như gia đình
để từ bỏ con đường phạm tội. Do vậy, không thẻ coi người chưa thành niên phải chịu
trách nhiệm Hình sự giống như người đã thành niên. Chính vì thế, hình phạt áp dụng với
người chưa thành niên phạm tội phải nhẹ hơn so với người đã thành niên.
Khi quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, trước hết tòa án
phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
Việc sử lí hành vi phạm tội của người chưa thành niên chủ yếu nhằm giáo dục,
giúp đỡ họ sữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội.
Người chưa thành niên có thể được miễn truy cứu trách nhiệm Hình sự nếu người
đóphạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây thiệt hại không lớn, có nhiều tình
tiết giảm nhẹ và được gia đình cơ quan tổ chức nhận giám sát giáo dục.
Việc truy cứu trách nhiệm Hình sự người chưa thành niên phạm tội và áp dụng
hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ tính
chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm của nhân thân và yêu cầu của việc phòng
ngừa tội phạm. Nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với người chưa
thành niên phạm tội thì tòa án áp dụng một trong các biện pháp tư pháp là giáo dục tại xã,
phường, thị trấn hoặc đưa vào trường giáo dưỡng.
Đối với người chưa thành niên phạm tội thì không sử phạt tù trung thân hoặc tử
hình, không áp dụng các hình phạt bổ sung, không áp dụng hình phạt tiền đối với người
chưa thành niên phạm tội ở độ tuỏi từ 14 đến dưới 16 tuổi. Khi xử phạt tù có thời hạn,
Tòa án cho người chưa thành niên phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng

đối với người thành niên đã phạm tội tương ứng.
Án đã tuyên đối với người chưa thành niên phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi không
được tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.
Theo quyết định của BLHS năm 1999, việc quyết định hình phạt được tiến hành
như sau:
+ Đối với phạt tiền: Nếu như BLHS năm 1985 trước khia chưa quy định áp dụng
phạt tiền đối với người chưâ thành niên phạm tội thì BLHS năm 1999 đã quy định phạt
tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với người chưa thành niên phạm tội nếu họ ở độ
20


tuổi từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi và họ có thu nhập hoặc có tài sản riêng. Quy định mới này
nhằm hạn chế việc áp dụng hình phạt tù đối với người chưa thành niên đồng thời việc áp
dụng phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội trong trường hợp này vẫn đảm bảo
được mục đích của hình phạt.
Mức phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội không vượt qúa 1/2 mức
phạt tiền mà điều luật quy định.
+ Đối với hình phạt cải tạo không giam giữ: BLHS năm 1999 quy định giới hạn
hình phạt áp dụng cho người thành niên phạm tội không vượt quá 1/2 thời hạn và điều
luật quy định. Đồng thời, do người chưa thành niên hầu như chưa có thu nhập hoặc tài
sản riêng nên BLHS năm 1999 đã không khấu trừ thu nhập của họ khi bị kết án.
+ Đối với hình phạt tù có thời hạn: BLHS năm 1999 đã phân hóa người chưa
thành niên ra làm hai đối tượng là người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi và người từ đủ 14
tuổi đến dưới 16 tuổi với đường lối xử lí khác nhau. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi
thì được xử lí nhẹ hơn người từ đủ 16 tuổi đến 18 tuổi. Trong từng đối tượng cụ thể nói
trên, nhà làm luật tách thành hai trường hợp ( trường hợp quy định hình phạt tù chung
thân, tử hình và trường hợp điều luật quy định hình phạt tù có thời hạn ) tương ứng với
mức hình phạt khác nhau phù hợp với độ tuổi của người thành niên cũng như yêu cầu đấu
tranh phòng chống tội phạm. Quy định này thể hiện sự tiến bộ về chất của BLHS năm
1999 khi quy định về quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội. Cụ

thể, Điều 74 quy định như sau:
“1. Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được
áp dụng quy định hình phạt tù và chung thân hoặc tử hình thì mức hình phạt cao nhất
được áp dụng không vượt quá 18 năm tù; nếu là tù có thờ hạn thì mức hình phạt cao nhất
được áp dụng không quá 3/4 mức phạt tù có thời hạn.
2. Đối với người từ đủ 14 tuổi đến 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp
dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình thì mức hình phạt cao nhất được áp
dụng không quá 12 năm tù: nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp
dụng không quá 1/2 mức phạt tù mà điều luật quy định”
Đối với trường hợp người chưa thành niên phạm nhiều tội, có tội thực hiện trước
khi đủ 18 tuổi, có tội thực hiện sau khi đủ 18 tuổi thì việc tổng hợp hình phạt được áp
dụng như sau:
Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người đó chưa đủ 18 tuổi thì hình phạt
không được vượt quá mức hình phạt cao nhất quy định tại Điều 74 Bộ luật này ( Khoản 1
Điều 75)
Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người đó đã đủ 18 tuổi thì hình phạt chung
ấp dụng như đối với người đã thành niên phạm tội ( Khoản 2 Điều 75)
Thực tiễn vận dụng điều 75 BLHS năm 1999 cho thấy nãy sinh vấn đề cần giải
quyết, đó là việc xác định tội nặng nhất. Thực tiễn xét xử đã xác định tội nặng nhất là tội
có mức hình phạt tối đa của khung hình phạt cao nhất cao hơn. Trong trường hợp có mức
21


hình phạt tối đa bằng nhau thì thì tội nặng hơn là tội có mức hình phạt khởi điểm khung
hình phạt cao nhất cao hơn. Cách xác định này một lần nữa được khẳng định tại Thông tư
số 01/98 TANDTC – VKSNDTC – BNV ngày 02/1/1998. Tuy nhiên, có những trường
hợp không thể xác định được tội nặng nhất nếu hình phạt tối đa của khung hình phạt cao
nhất của hai tội ngang bằng nhau và cao nhất cũng ngang bằng nhau. Trong khoa học luật
Hình sự hiện nay có nhiều ý kiến khác nhau . Ý kiến thứ nhất cho rằng:“Cơ sở để xác
định tội nặng nhất trong các tội mà người chưa thành niên đã phạm là căn cứ và hình phạt

cụ thể mà tòa án đã tuyên cho từng tội. Tội nào có hình phạt cao nhất thì đó là tội nặng
nhất trong các tội mà người chưa thành niên đã phạm”. Ý kiến thứ hai cho rằng “ Trường
hợp không thể xác định được tội nặng nhất nếu hình phạt tối đa của khung hình phạt cao
nhất là hai tội bằng nhau và hình phạt khởi điểm của khung có hình phạt cao nhất cũng
bằng nhau thì trường hợp này tội nặng hơn là tội có hình phạt tối đa của khung hình phạt
nhẹ nhất cao hơn. Nếu hình phạt tối đa của khung hình phạt nhẹ nhất bằng nhau thì tội
nặng hơn là tội có hình phạt khởi điểm của khung hình phạt nhẹ nhất cao hơn.”
Chúng tôi cho rằng ý kiến thứ nhất tuy có ưu điểm là đơn giản hóa việc vận dụng
khái niệm tội nặng hơn trong thực tế nhưng không hợp lí vì không thể coi tội trộm cắp tài
sản nặng hơn tội giết người nếu ở trường hợp cụ thể, người phạm tội trộm cắp tài sản bị
phạt 10 năm tù, còn ở tội giết người, bị cáo chỉ bị phạt có 7 năm tù. Theo chúng tôi, ý
kiến thứ hai hợp lí hơn nhưng chưa đủ để giải quyết những vướng mắc còn lại. Cụ thể là
nếu hình phạt tối đa và hình phạt tối thiểu của khung hình phạt có hình phạt nhẹ nhất
bằng nhau thì việc xác định tội nặng hơn sẽ như thế nào? Theo chúng tôi, nếu tội nào có
quy định hình phạt bổ sung thì tội đó nặng hơn. Tuy nhiên, nếu cả hai tội đều quy định
hình phạt bổ sung thì tội nặng hơn sẽ là tội có khác thể quan trong hơn.
Quá trình vận dụng Điều 74 vào thực tiễn còn gặp nhiều vướng mắc khác. Đó là
do hạn chế về kỉ thuật lập pháp. Cụ thể là Điều 74 quy định : “ …nếu điều luật được áp
dụng có quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình” hoặc “ … không quá 3/4 mức
phạt tù mà điều luật quy” hoặc… “ không quá 1/2 mức phạt tù mà điều luật quy
định”. Bởi vì, điều luật quy định về tội phạm cụ thể có thể có một hoặc nhiều khung hình
phạt trong khi đó Điều 74 chỉ dùng từ chung chung là “ điều luật” mà không chỉ rõ khung
hình phạt bị áp dụng. Mặt khác, cần hiểu rằng nhà làm luật quy định giảm nhẹ hình phạt
cho người thành niên phạm tội so với trong cùng một khung hình phạt ( trong điều kiện
các tình tiết khác tương đương ). Do đó, quy định chung chung như trên dễ gây hiểu
nhầm và vận dụng không thống nhất. Ví dụ: Bị cáo E phạm tội cướp tài sản theo khoản 1
Điều 133 BLHS năm 1999, khi phạm tội bị cáo tròn 15 tuổi. Với quy định chưa rõ như
trên của Điều 74, bởi vì, tội cướp tài sản có quy định hình phạt tù chung thân, tử hình.
Nếu vận dụng khoản 2 đoạn 1 Điều 74 thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng cho bị
cáo không quá 12 năm tù trong khi đó mức cao nhất của khoản 1 Điều 133 chỉ là 10 năm

tù ( thấp hơn mức 12 năm tù ) vả mặc dù đã áp dụng Điều 74 nhưng hình phạt tuyên cho
bị cáo tuyên cho bị cáo có thể còn cao hơn cả trong trường hợp chưa giảm nhẹ hình phạt
cho bị cáo. Trong trường hợp nếu hiểu đúng tinh thần của Điều 74 thì phải vận dụng đoạn
2 khoản 2 Điều 74 thì mới đúng vì bị cáo E phạm tội theo Điều 133 khoản 1 và điều 133
khoản 1 quy định hình phạt áp dụng cho bị cáo là tù có thời hạn. Trường hợp này mức
22


hình phạt cao nhất mà tòa án tuyên cho bị cáo không quá 5 năm tù – không quá 1/2 mức
cao nhất của khoản 1 Điều 133. Như vậy, nếu áp dụng đoạn 2 khoản 2 Điều 74 thì hình
phạt áp dụng cho bị cáo rõ ràng được giảm nhẹ hơn hẳn so với người đã thành niên phạm
tội.
Mặt khác, cách diễn đạt “ mức hình phạt cao nhất không quá 18 năm tù” hoặc
“ không quá 3/4 mức phạt tù”… của Điều 74 là còn chưa rõ nên có thể gây ra nhiều cách
hiểu khác nhau.
Cách hiểu thứ nhất cách hiểu phổ biến hiện nay là BLHS đã khống chế mức tối đa
của khung hình phạt được phép áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội trong sự
so sánh với người đã thành niên phạm tội và BLHS đã không khống chế mức tối thiểu.
Mức hình phạt cao nhất mà người chưa thành niên chấp hành phải thấp hơn mức hình
phạt cao nhất áp dụng cho người đã thành niên.
Các hiểu thứ hai cho rằng mặc dù Điều 74 quy định như trên nhưng thực chất điều
luật này vẫn còn khống chế mức hình phạt tối đa và mức tối thiểu quy định cho người đã
thành niên.
Chúng tôi cho rằng để các quy định về quyết định hình phạt đối với người chưa
thành niên phạm tội được áp dụng có hiệu quả trong thực tế, Điều 74 BLHS hiện hành
cần khắc phục kịp thời những hạn chế đã phân tích ở trên để các quy định này thực sự là
công cụ hữu hiệu của Nhà Nước trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm./.
TS. Dương Tuyết Miên - Giảng viên Khoa Luật Hình Sự Trường ĐH Luật Hà
Nội
Theo: Tạp chí Luật Học số 4 (2002)


23



×