Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Kinh nghiệm dạy môn lịch sử THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.5 MB, 26 trang )

Kinh nghiệm “Tăng cường tính trực quan qua khai thác kênh hình trong dạy học Lịch sử cấp THCS”

Môn : Lịch Sử

ĐỀ TÀI:
“TĂNG CƯỜNG TÍNH TRỰC QUAN QUA KHAI THÁC KÊNH HÌNH TRONG
DẠY HỌC LỊCH SỬ CẤP TRUNG HỌC CƠ SỞ ”.
A. MỞ ĐẦU
I. Đặt vấn đề:
1. Thực trạng của vấn đề đòi hỏi phải có giải pháp mới để giải quyết.
Trong dạy học lịch sử, phương pháp sử dụng kênh hình góp phần quan trọng trong
việc tạo biểu tượng cho học sinh, cụ thể hoá các sự kiện và khắc phục tình trạng “hiện đại
hoá” lịch sử của học sinh. Học sinh có thể suy nghĩ và tìm cách diễn đạt bằng lời nói chính
xác có kênh hình rõ ràng, cụ thể về bức tranh xã hội đã qua. Đồng thời, xuất phát từ chức
năng, nhiệm vụ, đặc trưng của bộ môn lịch sử và yêu cầu đổi mới giáo dục, cũng như thực
tiễn dạy học bộ môn, việc biên soạn sách giáo khoa trung học cơ sở có nhiều đổi mới về nội
dung và phương pháp. Sách giáo khoa lịch sử hiện nay được biên soạn không chỉ là tài liệu
giảng dạy của giáo viên mà cũng là tài liệu học tập ở lớp và ở nhà của học sinh theo định
hướng đổi mới. Kênh hình trong sách giáo khoa có nhiều loại: bản đồ, sơ đồ, hình vẽ, tranh
ảnh lịch sử. Mỗi loại có một phương pháp sử dụng riêng. Song tựu trung lại, kênh hình có
thể sử dụng trong việc dạy kiến thức mới, củng cố kiến thức đã học, ra bài tập về nhà trong
kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh. Riêng đối với những hình ảnh, tranh ảnh lịch
sử có hai dạng dùng để minh họa cho kênh chữ với tư cách nguồn cung cấp thông tin, kiến
thức cho người học.
Như vậy, việc đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp biên soạn lịch sử đã
nêu trên, đòi hỏi giáo viên và học sinh phải đổi mới phương pháp dạy học. Trong đó, giáo
viên với tư cách là người tổ chức, hướng dẫn, phát huy tính tích cực, độc lập của học sinh
trong quá trình học tập, cần nắm được những điểm mới của sách giáo khoa nói chung, hệ
thống kênh hình một nguồn kiến thức quan trọng trong sách giáo khoa nói riêng. Do vậy,khi
sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa lịch sử đòi hỏi giáo viên khi sử dụng phải linh hoạt,
sáng tạo. Giáo viên phải chuẩn bị chu đáo và nhất là phải có phương pháp phù hợp với từng


loại kênh hình ứng với từng kiểu bài lên lớp. Qua những năm trực tiếp giảng dạy môn lịch
sử trung học cơ sở theo tinh thần đổi mới, bằng những kinh nghiệm ít ỏi tích luỹ được tôi
mạnh dạng đưa ra kinh nghiệm : “Tăng cường tính trực quan qua khai thác kênh hình trong
dạy học lịch sử cấp trung học cơ sở”. Đề tài chỉ đưa ra những định hướng chung về phương
pháp và giới thiệu phương pháp sử dụng một số tranh ảnh đã được đưa vào sách giáo khoa.
Năm học : 2014 - 2015

Trang 1


Kinh nghiệm “Tăng cường tính trực quan qua khai thác kênh hình trong dạy học Lịch sử cấp THCS”

Môn : Lịch Sử

Tôi hy vọng những kinh nghiệm nhỏ này sẽ giúp ích phần nào cho giáo viên giảng dạy môn
lịch sử ở trường trung học cơ sở, giảm bớt khó khăn khi khai thác, sử dụng hệ thống kênh
hình trong sách giáo khoa.
* Ưu điểm
- Trong quá trình giảng dạy nhiều giáo viên đã kết hợp nhuần nhuyễn các đồ dùng
dạy học, khai thác một cách triệt để các đồ dùng và phương tiện dạy học như: hình ảnh, bản
đồ, phim đèn chiếu... Đồng thời sử dụng các phương tiện khá tinh tế, khéo léo và từng bước
ứng dụng công nghệ thông tin phù hợp trong dạy học lịch sử giúp học sinh khắc sâu, nhớ
kỹ, tái hiện những kiến thức đã học.
- Giáo viên đã tích cực hướng dẫn học sinh sử dụng sách giáo khoa và các phương
tiện dạy học khác để các em khám phá kiến thức về lịch sử. Đồng thời khi dạy giáo viên đã
phóng to hình ở sách giáo khoa hay tự làm thêm đồ dùng dạy học phục vụ cho bài giảng của
mình.
- Một số giáo viên tích cực tìm kiếm đồ dùng dạy học như lấy tài liệu, hình ảnh cụ
thể, sinh động ở trên mạng Internet về để đưa vào bài dạy góp phần nâng cao chất lượng giờ
dạy.

- Phần lớn học sinh biết quan sát hình ảnh, hình vẽ để rút ra kiến thức cần nắm, biết tự
mình rút ra nhận xét, đánh giá hay trình bày diễn biến khá trọn vẹn.
- Hầu hết học sinh đều tích cực thảo luận nhóm, trao đổi và bổ sung kiến thức cho
nhau nên đã đưa lại hiệu quả cao trong quá trình lĩnh hội kiến thức. Các em được giao
những công việc cụ thể, đa số hoàn thành tốt và học tập một cách độc lập, sáng tạo.
- Ở nhà nhiều học sinh cố gắng tự học theo nội dung mà giáo viên đã giao cho các
em. Đồng thời các em cũng tích cực sưu tầm tài liệu, tranh ảnh có liên quan đến bài học.
* Hạn chế :
- Vẫn còn một số ít giáo viên chưa mạnh dạn thay đổi phương pháp dạy học cho phù hợp
với từng tiết dạy nên chưa tích cực hóa hoạt động của học sinh nhằm giúp các em suy nghĩ
chiếm lĩnh và nắm vững kiến thức. Một bộ phận giáo viên vẫn còn sử dụng phương pháp dạy
học “ thầy nói trò nghe, thầy đọc trò chép ”.
- Một số giáo viên khi dạy giáo án điện tử chưa đưa được nhiều hình ảnh sinh động có
liên quan trong mỗi bài học vào tiết dạy do chưa tích cực khai thác các tư liệu, dữ liệu, hình
ảnh từ phương tiện công nghệ thông tin để gây hứng thú cho học sinh.

Năm học : 2014 - 2015

Trang 2


Kinh nghiệm “Tăng cường tính trực quan qua khai thác kênh hình trong dạy học Lịch sử cấp THCS”

Môn : Lịch Sử

- Một số giáo viên có sử dụng đồ dùng dạy học nhưng chưa khéo léo, chưa khai thác
triệt để. Giáo viên chưa hướng dẫn cho học sinh có phương hướng tiếp cận tranh, ảnh lịch
sử đạt hiệu quả cao, chưa chú ý rèn luyện cho học sinh các kỹ năng lịch sử quan trọng như :
Đọc, chỉ bản đồ, trình bày diễn biến trên lược đồ, phân tích các sự kiện và so sánh đánh giá
các sự kiện lịch sử. Trong một số bài dạy có vài hình ảnh minh họa thêm, giáo viên hướng

dẫn học sinh quan sát nhưng chưa nêu câu hỏi gợi mở để học sinh nhận xét, khai thác kênh
hình dễ dàng hơn.
- Khi sử dụng đồ dùng dạy học một số giáo viên chưa chú ý đúng mức đến việc phát
triển tư duy, rèn luyện ngôn ngữ cho học sinh. Khi sử dụng đồ dùng, giáo viên nêu ra câu
hỏi nhưng không hướng dẫn học sinh trả lời câu hỏi đó như thế nào vì không có câu hỏi gợi
mở vấn đề, hoặc một số tiết học giáo viên chỉ nêu vài ba câu hỏi và huy động học sinh khá,
giỏi trả lời, chưa có câu hỏi dành cho học sinh yếu, kém. - Một số giáo viên thỉnh thoảng
vẫn không khai thác triệt để phương tiện dạy học. Nếu bài dạy nào có đồ dùng (lược đồ,
bảng phụ…) ở trường thì sử dụng còn không thì “dạy chay”. Giáo viên không tự tìm kiếm,
làm thêm để phục vụ cho bài dạy. Do đó không gây hứng thú học tập, không có khả năng
phát triển tư duy hay các kỹ năng khác như kỹ năng đọc, chỉ bản đồ, phân tích các sự kiện…
- Một số học sinh chưa có ý thức học, chưa có sự đam mê môn học, một số bộ phận
học sinh không chuẩn bị bài mới ở nhà, không học bài củ, không làm bài tập đầy đủ, trên
lớp các em thiếu tập trung suy nghĩ. Cho nên, việc ghi nhớ các sự kiện, hiện tượng, nhân vật
lịch sử… còn yếu.
- Phần lớn học sinh chỉ được tiếp cận với những tấm bản đồ, những hình ảnh, những
tư liệu ở sách giáo khoa, còn những tư liệu lịch sử khác học sinh rất ít tiếp xúc và cũng
không hề tìm kiếm để khai thác nó. Một số học sinh ngoài việc làm bài tập và học ở nhà, các
em không sưu tầm thêm sách báo, những tranh ảnh, tài liệu liên quan đến bài học.
- Học sinh chưa có khả năng rèn luyện kĩ năng quan sát và vận dụng phương pháp
mô tả, nhận xét, tường thuật, phân tích, đánh giá, so sánh sau khi quan sát tranh ảnh, biểu
đồ, bản đồ, mô hình… Một số kỹ năng như sử dụng bản đồ, sử dụng tranh vẽ, lược đồ, kỹ
năng thu thập số liệu qua sách tham khảo ở một số học sinh còn hạn chế.
2. Ý nghĩa và tác dụng của giải pháp mới :
Khi sử dụng những kênh hình được trình bày với tư cách để minh họa cho kênh chữ
thì việc sử dụng chúng chỉ dừng lại ở việc nhằm minh họa làm cho nội dung bài giảng sinh
động, phong phú, đa dạng , hấp dẫn hơn. Giáo viên không sử dụng chúng trong củng cố bài

Năm học : 2014 - 2015


Trang 3


Kinh nghiệm “Tăng cường tính trực quan qua khai thác kênh hình trong dạy học Lịch sử cấp THCS”

Môn : Lịch Sử

hay trong kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh. Khi sử dụng những kênh hình loại
này, giáo viên không đặt vấn đề bằng các câu hỏi gợi mở để học sinh giải quyết vấn đề, giáo
viên cũng không nên cho học sinh đứng lên thuyết trình về nội dung của kênh hình đó, vì nó
vượt quá sức của các em. Giáo viên có thể giao nhiệm vụ cho học sinh về nhà tìm hiểu trước
nội dung của kênh hình để các em có biểu tượng ban đầu về các sự kiện, hiện tượng, nhân
vật lịch sử, thể hiện trong kênh hình. Tuy nhiên đây là một việc làm rất khó khăn đối với
học sinh vùng nông thôn, miền núi. Do vậy, khi giao nhiệm vụ cho học sinh, giáo viên phải
tuỳ vào từng điều kiện, hoàn cảnh học tập của học sinh để vận dụng cho phù hợp.
Giáo viên trong giờ giảng bài mới, vì điều kiện thời gian không cho phép nên giáo
viên chỉ tập trung giới thiệu, thuyết minh một số hình ảnh, tranh ảnh, tranh vẽ, còn những
hình ảnh khác, giáo viên chỉ nên dừng lại ở việc giới thiệu cho học sinh quan sát sơ lược vài
nét chính để học sinh nắm được biểu tượng ban đầu về chúng mà thôi. Tránh tình trạng ôm
đồm, hình vẽ nào, tranh ảnh nào cũng giới thiệu mô tả thì không đủ thời gian. Ví dụ như bài
33: Việt Nam trên đường đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội từ năm 1986 đến năm 2000. Đây
là bài có rất nhiều tranh, ảnh nếu tranh ảnh nào cũng khai thác kỹ sẽ không đủ thời gian.
Đây là một bài trong tổng số nhiều bài tương tự như vậy .
Nội dung thuyết minh kênh hình phải phong phú, sinh động hấp dẫn, kết hợp với lời
nói truyền cảm sẽ có sức thuyết phục cao đối với học sinh, tạo nên ở các em cảm xúc thực
sự, nội dung bài giảng cũng sinh động, hấp dẫn hơn, học sinh sẽ trở nên yêu thích học tập
môn lịch sử hơn.
Thông thường, kênh hình nói chung và hình vẽ, tranh ảnh nói riêng được trình bày với
tư cách là nguồn cung cấp thông tin, kiến thức được in kèm theo câu hỏi để học sinh tự làm
việc với sách giáo khoa dưới sự hướng dẫn của giáo viên nhằm rút ra những kiến thức Lịch

sử nhất định. Để sử dụng tốt trước hết giáo viên phải xác định rõ nội dung lịch sử được phản
ánh qua tranh ảnh. Tiếp theo giáo viên phải dự kiến và xác định phương pháp sẽ sử dụng
chúng trong từng bài cụ thể. Phương pháp sử dụng trong dạy học loại kênh hình này là giáo
viên hướng dẫn học sinh quan sát. Đầu tiên là quan sát tổng thể rồi mới quan sát chi tiết kết
hợp với miêu tả, phân tích, đàm thoại thông qua hệ thống câu hỏi gợi mở của giáo viên để
học sinh rút ra được những kết luận. Khi tìm hiểu nội dung kênh hình qua các câu hỏi gợi
mở giáo viên có thể tổ chức cho các em làm việc cá nhân, theo nhóm hoặc toàn lớp.

Năm học : 2014 - 2015

Trang 4


Kinh nghiệm “Tăng cường tính trực quan qua khai thác kênh hình trong dạy học Lịch sử cấp THCS”

Môn : Lịch Sử

Trong việc dạy học, dù là phương pháp truyền thống, cải cách hay đổi mới thì việc sử
dụng các phương tiện và đồ dùng dạy học là một vấn đề cần thiết, dù là môn khoa học tự
nhiên hay môn khoa học xã hội có sử dụng đồ dùng dạy học đều mang lại hiệu quả cao.
Phân môn Lịch sử là một bộ môn khoa học xã hội rất quan trọng trong nhà trường.
Nó giúp cho thế hệ trẻ hiểu được cội nguồn dân tộc, biết được quá khứ của tổ tiên. Từ
những hiện vật cụ thể, những sự kiện lịch sử, học sinh tự hào về truyền thống dân tộc, tiếp
theo, biết kế thừa và phát huy những tinh hoa của tổ tiên trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ tổ quốc ngày nay. Muốn làm sống dậy quá khứ của lịch sử, mỗi bài dạy ở trên lớp ngoài
việc cung cấp đầy đủ những kiến thức cơ bản cần phải sử dụng một cách hợp lý, khéo léo
các phương tiện và đồ dùng dạy học mới tái hiện được sự việc đã qua.
Với việc nghiên cứu đề tài này, tôi mong muốn sẽ góp phần giúp giáo viên tiến hành một
giờ dạy đạt hiệu quả cao hơn, học sinh tích cực hơn trong việc tiếp thu, lĩnh hội kiến thức
của bài học.

3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài :
Đề tài tập trung vào việc nghiên cứu giảng dạy và học tập với nội dung “Tăng
cường tính trực quan qua khai thác kênh hình trong dạy học lịch sử cấp trung học cơ
sở”.
Đối tượng nghiên cứu mà tôi áp dụng cho đề tài này là lớp 6A 1, 6A2, 6A3, 6A4, 6A5,
6A6, 6A7, 6A8, 6A9 của trường Trung học cơ sở tôi đang dạy (học kì I - năm học 2014 –
2015).
II. Phương pháp tiến hành :
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn có tính định hướng cho việc nghiên cứu, tìm giải pháp của
đề tài.
a. Cơ sở lý luận:
Như chúng ta đã biết, dạy học là một quá trình hoạt động nhận thức, con đường nhận
thức ngắn nhất thường đi theo con đường “từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và
từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn”.
Đồ dùng dạy học nếu được sử dụng tốt sẽ huy động được sự tham gia của nhiều giác
quan, sẽ kết hợp chặt chẽ được hai hệ thống tín hiệu với nhau, tai nghe mắt thấy tạo điều
kiện cho học sinh dễ hiểu, nhớ lâu, gây được những mối liên hệ thần kinh tạm thời khá
phong phú, phát triển ở học sinh năng lực chú ý, quan sát, hứng thú. Ngược lại, nếu sử dụng

Năm học : 2014 - 2015

Trang 5


Kinh nghiệm “Tăng cường tính trực quan qua khai thác kênh hình trong dạy học Lịch sử cấp THCS”

Môn : Lịch Sử

không đúng mức và bị lạm dụng thì dễ làm cho học sinh phân tán sự chú ý, không tập trung
vào các dấu hiệu cơ bản, chủ yếu và thậm chí hạn chế phát triển năng lực tư duy trừu tượng.

Đặc biệt, trong hướng dạy học mới hiện nay, “hướng tích cực hóa hoạt động học tập
của học sinh”, yêu cầu người giáo viên phải biết tạo điều kiện cho học sinh tự tìm tòi, khai
thác kiến thức, biết điều khiển hoạt động nhận thức của mình bằng các “phương tiện và đồ
dùng dạy học”. Chính vì thế mà “đồ dùng dạy học” đã trở thành một nhân tố khá quan trọng
trong hoạt động dạy học vì nó vừa là phương tiện giúp học sinh khai thác kiến thức, vừa là
nguồn tri thức đa dạng, phong phú.
b. Cơ sở thực tiễn :
Trong điều kiện hiện nay, học sinh các trường trường trung học cở sở đã sớm được
tiếp cận với những tranh vẽ, ảnh màu, mô hình y như thật,…Tuy vậy, đối với môn Lịch sử
học sinh ít có cơ hội tiếp xúc với nhiều phương tiện và đồ dùng dạy học khác nhau. Học
sinh chỉ tiếp cận với những tấm bản đồ, những hình ảnh, những tư liệu ở sách giáo khoa,
đồng thời ít được giải thích kĩ nội dung, và cũng ít hấp dẫn. Như chúng ta biết, do lịch sử là
hiện thực quá khứ nên học sinh không được trực tiếp tiếp xúc với các sự kiện, hiện tượng,
nhân vật, quá trình lịch sử. Mặt khác, do lịch sử là quá khứ gần hoặc xa và nội dung của
những thời đại xa xưa ấy lại có nhiều điều khác với thời đại hiện nay, nên học sinh không dễ
gì hình dung và cắt nghĩa được những gì đã từng xảy ra trước kia. Để giúp học sinh chủ
động, sáng tạo trong việc lĩnh hội kiến thức đồng thời nâng cao chất lượng giáo dục, người
giáo viên cần phải đổi mới phương pháp dạy học cho phù hợp với hướng dạy học “lấy học
sinh làm trung tâm”. Một trong những phương pháp đặc trưng của bộ môn Lịch sử là
phương pháp sử dụng phương tiện và đồ dùng dạy học trong giảng dạy.
Từ thực tế cho thấy chuẩn bị đồ dùng dạy học, làm dụng cụ trực quan, phương tiện
thiết bị dạy học là công tác rất khó khăn, rất công phu và rất tốn kém nhưng:
- Sử dụng đồ dùng dạy học như thế nào để đảm bảo tính trực quan.
- Sử dụng đồ dùng dạy học như thế nào để đạt hiệu quả cao trong giảng dạy lịch sử
lại là một vấn đề càng khó khăn hơn. Bởi vì, trong 10 chuẩn đánh giá của Bộ giáo dục và
đào tạo thì chuẩn thứ 6 “Sử dụng và kết hợp tốt các phương tiện thiết bị dạy học phù hợp
với nội dung kiểu bài lên lớp” được coi như bốn chuẩn bắt buộc mà người giáo viên cần
phải có để đạt một tiết dạy tốt. Đó cũng chính là vấn đề mà mỗi người giáo viên nói chung
và giáo viên lịch sử nói riêng đó và đang quan tâm hiện nay.


Năm học : 2014 - 2015

Trang 6


Kinh nghiệm “Tăng cường tính trực quan qua khai thác kênh hình trong dạy học Lịch sử cấp THCS”

Môn : Lịch Sử

2. Các biện pháp tiến hành, thời gian tạo ra giải pháp :
Tiến hành trên các thiết bị, đồ dung dạy học một cách hợp lý, chọn thời điểm cụ thể
trong tiết học để thực hiện một cách hiệu quả nhất.
* Cách khai thác, tiếp cận lịch sử qua tranh ảnh.
Trước hết giáo viên phải xác định nguồn gốc và thời điểm xuất hiện tài liệu. Có nghĩa
là nội dung xuất xứ của bức ảnh, bức tranh phản ảnh toàn diện hay một mặt, một khía cạnh
nào đó của lịch sử. Nội dung tranh ảnh phản ảnh sự kiện, hiện tượng, tiến trình lịch sử nào,
ở khía cạnh nào. Tranh hay ảnh gốc bao giờ cũng là tài liệu có giá trị bậc nhất.
Sau khi xác định nguồn gốc, thời điểm, ta có gợi ý cho học sinh nội dung và cách thể
hiện nội dung đó của tác giả qua tranh ảnh.
- Những nhân vật chính trong tranh ảnh họ là ai? Họ đại diện cho ai?...
- Tiếp theo nhằm giáo dục cho học sinh đi sâu vào nội dung tranh ảnh.
* Những kỹ năng khi khai thác tranh ảnh.
- Kỹ năng quan sát, nhận xét, mô tả, tường thuật, phân tích, nhận định, đánh giá.
* Các bước làm việc với đồ dùng trực quan tạo hình.
Bước 1: Cho học sinh quan sát tranh, ảnh để học sinh xác định một cách khái quát nội
dung tranh ảnh cần khai thác.
Bước 2 :Giáo viên nêu câu hỏi gợi mở, nêu vấn đề, tổ chức cho học sinh tìm hiểu nội
dung của tranh ảnh.
Bước 3 :Học sinh trình bày những kết quả tìm hiểu của mình về tranh ảnh, học sinh
khác bổ sung hoàn thiện.

Bước 4: Giáo viên nhận xét, bổ sung, học sinh trả lời và hoàn thiện nội dung khai thác
tranh ảnh cung cấp cho học sinh về kiến thức lịch sử.

B. NỘI DUNG
I. Mục tiêu :
* Nêu rõ nhiệm vụ của đề tài:
Cung cấp một số phương pháp để khai thác triệt để nội dung kiến thức kênh hình trong
sách giáo khoa lịch sử là biện pháp quan trọng để nâng cao chất lượng dạy học.
Giáo viên phải phân loại được các nhóm đồ dùng trực quan. Đâu là đồ dùng trực quan
hiện vật, đồ dùng trực quan tạo hình, đồ dùng trực quan quy ước. Bỡi có phân loại được các
nhóm đồ dùng trực quan này thì giáo viên mới lựa chọn được các phương pháp phù hợp để
khai thác và khi sử dụng mới linh hoạt và sáng tạo. Đồng thời để sử dụng tốt, giáo viên phải

Năm học : 2014 - 2015

Trang 7


Kinh nghiệm “Tăng cường tính trực quan qua khai thác kênh hình trong dạy học Lịch sử cấp THCS”

Môn : Lịch Sử

xác định rõ nội dung lịch sử được phản ánh qua đồ dùng trực quan.Phải dự kiến và xác định
sử dụng chúng trong từng bài cụ thể.
Giáo viên phải tổ chức, hướng dẫn, phát huy tính tích cực, độc lập của học sinh trong
quá trình quan sát, tìm hiểu nội dung lịch sử được phản ánh qua tranh, ảnh lịch sử. Muốn
vậy trong kế hoạch bài giảng của giáo viên phải có sự chuẩn bị chu đáo các thao tác, hệ
thống câu hỏi để nhằm phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh. Làm sao để
học sinh hiểu đồ dùng trực quan nhằm nâng cao chất lượng dạy học lịch sử, gây hứng thú
học tập cho học sinh. Nó là chiếc cầu nối giữa quá khứ và hiện tại.

* Để thực hiện tốt đề tài nghiên cứu bản thân phải thực hiện các nhiệm vụ:
- Nghiên cứu các tài liệu về “Phương pháp dạy học lịch sử”.
- Thao giảng, dự giờ đồng nghiệp, trao đổi rút kinh nghiệm qua từng tiết dạy.
- Nghiên cứu tài liệu gây hứng thú về dạy học lịch sử.
- Nghiên cứu tài liệu về phương pháp sử dụng các phương tiện và đồ dùng dạy học.
- Nghiên cứu kỹ sách giáo khoa, sách giáo viên Lịch sử.
- Kiểm tra đánh giá bài làm và kết quả của học sinh để từ đó có điều chỉnh và bổ sung
hợp lý.
II. Mô tả giải pháp của đề tài :
1. Thuyết minh tính mới :
Xin mạnh dạng nói rằng: Phương pháp sử dụng khi khai thác kênh hình của đề tài này rất
dễ thực thi đối với các đối tượng học sinh ở cấp THCS và đem lại hiệu quả cao.
a. Các loại kênh hình trong sách giáo khoa Lịch sử.
* Bản đồ, lược đồ lịch sử.
Bản đồ, lược đồ lịch sử nhằm xác định địa điểm của sự kiện trong thời gian và không
gian xác định. Đồng thời bản đồ lịch sử còn giúp học sinh suy nghĩ và giải thích các hiện
tượng lịch sử về mối quan hệ nhân quả, về tính quy luật và trình tự phát triển của quá trình
lịch sử, giúp các em củng cố ghi nhớ những kiến thức đã học
Về hình thức, bản đồ lịch sử không cần có nhiều chi tiết về các điều kiện tự nhiên mà
cần có nhiều kí hiệu, biên giới, quốc gia, sự phân bố dân cư, thành phố, vùng kinh tế, địa
điểm minh hoạ trên bản đồ phải đẹp, chính xác, rõ ràng.
Về nội dung, bản đồ chia ra làm hai loại chính; bản đồ tổng hợp và bản đồ minh hoạ.

Năm học : 2014 - 2015

Trang 8


Kinh nghiệm “Tăng cường tính trực quan qua khai thác kênh hình trong dạy học Lịch sử cấp THCS”


Môn : Lịch Sử

* Sơ đồ lịch sử :Sơ đồ nhằm cụ thể hoá nội dung, sự kiện bằng những hình học đơn giản,
diễn tả tổ chức một cơ cấu xã hội, một chế độ chính trị, mối quan hệ giữa các sự kiện lịch
sử.( Ví dụ sơ đồ “Bộ máy công xã Pa-ri 1871”.
* Hình vẽ lịch sử.
Hình vẽ có giá trị như một tư liệu lịch sử, cung cấp hiểu biết về tư liệu lịch sử.
* Tranh ảnh lịch sử.
Tranh ảnh lịch sử lấy chủ đề về lịch sử như chân dung các nhân vật lịch sử, quang cảnh
lịch sử nhằm tạo biểu tượng, khôi phục lại hình ảnh con người, đồ vật, biến cố, sự kiện một
cách cụ thể, sinh động và khá sát thực.
* Loại đồ dùng là vật có thật:
Loại đồ dùng này rất hiếm, nên các hiện vật có niên đại lịch sử càng xa thì sự sưu tầm
hiện vật này càng khó khăn. Đó là các mẫu vật về thời kỳ đồ đá: Rìu đá, dao đá, lưỡi cuốc
đá …và những đồ trang sức bằng đá. Các loại hiện vật bằng đồng như: Dao, lưỡi cày, lưỡi
cuốc, mũi tên đồng và một số đồ dùng sinh hoạt bằng đồng. Các hiện vật này ít khi giáo
viên có thể sưu tầm được. Tuy nhiên trong các bài lịch sử hiện đại cũng có thể sưu tầm được
mặc dù không phải là nhiều.
b. Phương pháp sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa lịch sử.
* Phương pháp sử dụng bản đồ, lược đồ, sơ đồ lịch sử.
Bản đồ, lược đồ, sơ đồ lịch sử là những kênh hình không thể thiếu được trong dạy học
lịch sử. Nhờ có bản đồ, lược đồ, sơ đồ mà học sinh có biểu tượng đúng đắn về hình ảnh địa
lí, địa điểm xảy ra sự kiện lịch sử. Vì vậy khi giảng bài, giáo viên có thể không trình bày tất
cả nội dung trong sách giáo khoa mà nên hướng dẫn học sinh nhận biết các sự kiện qua việc
quan sát bản đồ. Giáo viên có thể đặt ra câu hỏi cho học sinh, những câu hỏi mà chỉ có thể
đọc được bản đồ mới trả lời được.
Như vậy bản đồ, sơ đồ giúp học sinh có lựa chọn đúng đắn về không gian, hoàn cảnh
địa lí xảy ra sự kiện, ghi nhớ địa danh gắn liền với những đặc điểm điều kiện tự nhiên, cụ
thể hoá sự kiện lịch sử. Bản đồ còn góp phần phát triển óc quan sát, trí tưởng tượng, tư duy
và ngôn ngữ cũng như tính tích cực hoạt động của học sinh. Nhìn vào bất cứ bản đồ lịch sử

nào học sinh cũng thích nhận xét, phán đoán, hình dung những hiện tượng lịch sử được
phản ánh, suy nghĩ và diễn đạt bằng lời nói chính xác, rõ ràng, cụ thể những hiện tượng lịch
sử đã qua.
* Phương pháp sử dụng tranh ảnh, hình vẽ lịch sử.

Năm học : 2014 - 2015

Trang 9


Kinh nghiệm “Tăng cường tính trực quan qua khai thác kênh hình trong dạy học Lịch sử cấp THCS”

Môn : Lịch Sử

Tranh ảnh, hình vẽ lịch sử có ý nghĩa to lớn là nguồn kiến thức lịch sử, có tính giáo
dục tính cách, phát triển tư duy học sinh. Sử dụng tốt loại kênh hình này sẽ phát huy được
tính tích cực học tập của học sinh, tạo ra sự hứng thú trong quá trình nhận thức. Vì vậy khi
sử dụng tranh ảnh, hình vẽ, giáo viên cho học sinh quan sát tranh ảnh, hình vẽ tương ứng
với nội dung kiến thức có liên quan và đồng thời nên sử dụng câu hỏi miêu tả hoặc tường
thuật kiến thức lịch sử biểu hiện trong đó. Tuy nhiên cũng cần giành thời gian để học sinh
quan sát tranh ảnh, hình vẽ và động viên các em nói lên những suy nghĩ, nhận thức của
mình, qua quan sát ảnh, từ đó giáo viên uốn nắn, hướng dẫn học sinh nhận thức. Trong
những điều kiện có thể gợi ý, tạo ra các cuộc thảo luận, tranh luận của các em khi quan sát
một bức tranh hay hình vẽ nào đó.
Đối với các tranh ảnh về nhân vật lịch sử, chúng ta cần hướng cho học sinh khi quan
sát và tạo nên các biểu tượng về nhân vật. Giúp các em không chỉ ở việc miêu tả bề ngoài
(áo quần, hình dáng...) mà cần chú ý phân tích nội dung, tính cách, hành vi, vai trò của nhân
vật đó. Sử dụng chân dung phải nhằm mục đích giáo dưỡng, giáo dục. Đối với các nhân vật
chính diện cần khơi dậy ở các em lòng kính trọng, cảm phục, biết ơn với những cống hiến
cũng như tài trí của họ.

Đối với các nhân vật phản diện, giáo viên hướng cho học sinh nhận xét những biểu
hiện của tính gian ác, tham lam, xảo quyệt của nhân vật ấy, không nên để học sinh bị thu hút
về hình thức của nhân vật mà quên đó là nhân vật phản diện.
Trong khi sử dụng chân dung, giáo viên phải phân tích, giải thích, hướng dẫn cho học
sinh không những hiểu được vai trò của nhân vật lịch sử, qua đó các em tự đánh giá được
nhân vật đó.
* Phương pháp sử dụng loại đồ dùng là vật có thật :
Khi giảng dạy loại hiện vật này giáo viên cần nêu rõ hiện vật được tìm thấy ở địa
phương nào, nó thuộc loại hiện vật gì và thời kỳ nào của lịch sử.
- Giáo viên đưa hiện vật đến từng bàn để học sinh trực tiếp quan sát mẫu vật, tự tay
cầm nắm các mẫu vật ấy để tự mình rút ra nhận xét, đánh giá.
c. Khai thác một số tranh ảnh, hình vẽ, đồ dùng là vật có thật, bản đồ, lược đồ, sơ đồ
cụ thể.
Ví dụ 1: Giáo viên cho học sinh quan sát Hình1- Lâu đài và thành quách của lãnh chúa
trong bài: Sự hình thành và phát triển của xã hội phong kiến ở châu Âu (Bài 1- Lịch sử 7).

Năm học : 2014 - 2015

Trang 10


Kinh nghiệm “Tăng cường tính trực quan qua khai thác kênh hình trong dạy học Lịch sử cấp THCS”

Môn : Lịch Sử

Hình 1: Lâu đài và thành quách của lãnh chúa
Sau khi cho học sinh quan sát ảnh, giáo viên sẽ hướng cho các em quan sát toàn bộ
bức ảnh và sau đó gợi ý một số câu hỏi để giúp các em nhận thấy được cuộc sống xa hoa,
hào nhoáng của các lãnh chúa phong kiến trong các lãnh địa của mình với những câu hỏi
sau:

+ Quy mô của lãnh địa phong kiến như thế nào?
+ Theo em, những ai được sống trong các lãnh địa này?
+ Lãnh địa được xây dựng ở địa hình như thế nào?
+ Những bức tường thành và tháp canh được xây dựng để làm gì?
Sau khi hướng dẫn học sinh tập trung chú ý vào bức ảnh, giáo viên có thể tiến hành
miêu tả theo nội dung sau: Sang thế kỷ V, khi chế độ phong kiến ở Tây Âu đã hình thành và
phát triển thì những lâu đài như thế đã xuất hiện ngày càng nhiều. Mỗi lãnh chúa có một
hoặc nhiều lãnh địa để ở, tập trung rải rác ở mỗi nơi. Lãnh địa là khu vực đất đai khá rộng,
trong đó có cả ruộng đất trồng trọt, đồng cỏ, rừng núi, ao hồ, sông, đầm lầy...Bên cạnh lãnh
địa có lâu đài của quý tộc, có nhà thờ và thôn xóm của dân-những ngôi nhà tạm bợ, lụp xụp,
liêu xiêu. Lâu đài thường nằm ở trung tâm lãnh địa, được xây dựng trên mỏm đá cao, trông
xa như “tổ chim diều hâu trên đỉnh núi”. Tất cả các lâu đài có hào sâu và nhiều lớp thành đá
dày, cao bao bọc. Muốn vào lâu đài phải qua cầu bằng gỗ trên treo dây xích gang nặng trịch,
bắc qua hào sâu, vì vậy nên người ta gọi đó là “pháo đài bất khả xâm phạm”. Trong lâu đài
có phòng ở của lãnh chúa và gia đình, phòng tiếp khách và phòng ở của người tuỳ tùng.
Lãnh chúa được coi là những ông vua con, không bao giờ phải lao động. Công việc chính
của họ là luyện tập cung tên, luyện kiếm, cưỡi ngựa đi săn và tổ chức yến tiệc thâu đêm, nói
chung là sống rất xa hoa, phần nhiều trong số họ không biết chữ. Sau khi miêu tả xong giáo
Năm học : 2014 - 2015

Trang 11


Kinh nghiệm “Tăng cường tính trực quan qua khai thác kênh hình trong dạy học Lịch sử cấp THCS”

Môn : Lịch Sử

viên đặt câu hỏi: em có nhận xét gì về đời sống của lãnh chúa và nông nô trong lãnh địa?
Sau khi các em trả lời, giáo viên tổng kết lại.Từ đó học sinh có biểu tượng cụ thể về hai bức
tranh sinh động đối lập của hai giai cấp trong xã hội phong kiến châu Âu. Từ đó hình thành

khái niệm “lãnh chúa phong kiến” và “lãnh địa phong kiến”
Ví dụ 2: Giáo viên cho học sinh quan sát ảnh Cố Cung-Hình 9 trong bài Trung Quốc
thời phong kiến (Bài 4-Lịch sử 7).

Hình 9: Cố cung (Trung Quốc)
Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát ảnh và nêu câu hỏi để học sinh quan sát:
+ Nhận xét gì về tổng thể của Cố Cung?
+ Các cung điện ở đây được xây dựng có hình dáng như thế nào?.
Sau đó giáo viên miêu tả bức tranh theo nội dung sau: Cố Cung được xây dựng vào
năm 1406 (nằm ở trung tâm thủ đô Bắc Kinh) dưới triều đại nhà Minh. Từ khi Cố Cung
được hoàn thành đã có 24 vị hoàng đế lên ngôi chấp chính ở đây, trong đó nhà Minh là 14,
nhà Thanh là 10. Cố Cung là khu vực quần thể kiến trúc lớn có quy mô và giá trị nghệ thuật
cao. Được xây dựng trên một khuôn đất có diện tích 720 nghìn mét vuông, xung quanh có
tường bao quanh màu đỏ tím, cao 10 mét. Ven ngoài tường có hào rộng, bốn góc thành có
bốn cữa ra vào đối diện nhau: Ngọ Môn, Thần Ngọ Môn, Tây Hoa Môn và Đông Hoa Môn,
trong đó Ngọ Môn là cữa chính. Trước mặt Ngọ Môn là một quảng trường chính lớn có
sông Kim Thuỷ chảy ngang qua. Chính giữa có 5 cầu lớn có lan can bằng đá trắng. Toà nhà
ở chính giữa là điện Thái Hoà rộng 11gian có diện tích là 3.270 mét vuông. Điện có hai tầng
Năm học : 2014 - 2015

Trang 12


Kinh nghiệm “Tăng cường tính trực quan qua khai thác kênh hình trong dạy học Lịch sử cấp THCS”

Môn : Lịch Sử

lợp bằng ngói lưu li màu vàng. Đây là nơi Hoàng đế nhận chiếu khi mới lên ngôi, làm lễ
sinh nhật, lễ chúc mừng năm mới.Ngoài ra còn có điện Trung Hoà năm gian một tầng mái
nhọn, là nơi Hoàng đế nghỉ lúc hành lễ. Điện Bảo Hoà rộng năm gian và hai tầng mái là nơi

cử hành yến tiệc và đón khách. Trên trục giữa của nội đình là cung càn Thanh, điện Giáo
Thái, cung Khôn Ninh, là nơi ở và làm việc chính của Hoàng đế và Hoàng hậu. Cuối cùng là
Ngự Hoa Viên có diện tích 11.200 mét vuông trồng rất nhiều cây và hoa. Cuối cùng giáo
viên đặt câu hỏi cho học sinh: nhận xét gì về Cố Cung (về mặt kiến trúc). Sau khi cho học
sinh trả lời, giáo viện nhận xét kết quả trả lời của từng em và tổng kết lại. Qua đó, các em
phần nào hiểu được Cố Cung là công trình kiến trúc hoàn mĩ của Trung Quốc thời trung đại,
thể hiện óc thẩm mĩ, tài năng sáng tạo của người Trung Quốc xưa. Cố Cung cũng nói lên sự
xa hoa của các triều đại phong kiến Trung Quốc thời nhà Minh-Thanh.
Ví dụ 3: Giáo viên cho học sinh quan sát tranh khắc trên tường đá một lăng mộ ở Ai
Cập thế kỉ XIV TCN (Bài 4 - Lịch sử 6).

Hình 8: Tranh khắc trên tường đá một lăng mộ ở Ai Cập thế kỉ XIV TCN
Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát tranh và nêu câu hỏi để học sinh quan sát.
+Những hình ảnh khắc trên lăng mộ phản ảnh điều gì?
+Tại sao kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước lại phát triển ở các quốc gia cổ đại phương
Đông?
+Những thuận lợi và khó khăn của con người khi sinh sống ở lưu vực các con sông?
Sau đó giáo viên tiến hành mô tả bức tranh theo nội dung sau: đây là bức tranh miêu tả
tiến trình sản xuất nông nghiệp của cư dân Ai Cập thời cổ đại. Những bức phù điêu trên

Năm học : 2014 - 2015

Trang 13


Kinh nghiệm “Tăng cường tính trực quan qua khai thác kênh hình trong dạy học Lịch sử cấp THCS”

Môn : Lịch Sử

vách đá các hầm mộ, trên tường Kim tự tháp miêu tả sinh động các hoạt động, sinh hoạt đời

thường của con người. Trong đó có cả cảnh làm ruộng của người Ai Cập cổ xưa ở lưu vực
sông Nin. Chu kì lên - xuống của dòng sông Nin cũng là chu kì lao động của người ai Cập
cổ đại. Hằng năm vào khoảng từ tháng 11 đến tháng 2 năm sau, khi nước lũ sông Nin rút đi,
để lại những lớp phù sa màu mỡ, cũng lúc là bắt đầu mùa gieo hạt. Người ta dùng cày gỗ do
cừu kéo để làm đất, người tra hạt đi sau, tra vào các lỗ do chân cừu tạo nên hoặc dùng một
cọc gỗ tạo các lỗ cho một người tra hạt. Cảnh này được miêu tả khá rõ ở góc phần tư liệu
bên trái, phía trên của bức tranh. Đến mùa thu hoạch, cư dân dùng liềm cắt lúa cho vào sọt
do hai người khiêng. Toàn bộ nửa dưới bức tranh miêu tả nội dung này. Gặt hái xong, lúa
được đem về nhà đập, xảy hạt lép, phơi khô và cất giữ để ăn lần. Từ việc đọc và phân tích
bức tranh khắc đá này, kết hợp với những bức tranh khác, các nhà khoa học khẳng định: Ở
thế kỉ XIV TCN , kĩ thuật làm ruộng của người Ai Cập đã đạt đến trình độ cao. Vì vậy, năng
suất lao động tăng lên và đại bộ phận cư dân đã tham gia hoạt động sản xuất nông nghiệp –
nền kinh tế chủ đạo của cư dân Ai Cập cổ đại nói riêng và cư dân phương Đông nói chung.
Trước hết, giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát bức tranh, đồng thời giới thiệu cho
học sinh thấy những hình ảnh khắc trên tường đá lăng mộ không chỉ khẳng định giá trị về
mặt văn hoá mà còn là một nguồn tư liệu quý giá, giúp ta khôi phục lại lịch sử thế giới thời
cổ đại.
Ví dụ 4: Giáo viên cho học sinh quan sát Hình 41- Sơ đồ khu di tích thành Cổ Loa
( Bài 15 - Lịch sử 6).

Năm học : 2014 - 2015

Trang 14


Kinh nghiệm “Tăng cường tính trực quan qua khai thác kênh hình trong dạy học Lịch sử cấp THCS”

Môn : Lịch Sử

Hình 41 được sử dụng khi dạy mục 4 – Thành Cổ Loa và lực lượng quốc phòng.

Giáo viên hướng dẫn HS quan sát hình, nghiên cứu SGK và dựa cào chú giải của sơ đồ
H : Em hãy tìm xem thành Cổ Loa có mấy vòng thành ?
H : Cơ quan đầu não của nhà nước Âu Lạc đóng ở chỗ nào ?
( GV có thể cho HS làm việc cá nhân hoặc theo nhóm )
Sau khi HS trao đổi, GV yêu cầu mỗi nhóm cử đại diện lên bảng chỉ một vòng thành.
Tiếp đó GV có thể yêu cầu HS nhận xét về việc xây dựng công trình thành Cổ Loa và cách
bố trí của thành.
GV mô tả thêm, cụ thể 3 vòng trên sơ đồ.
+ Vòng thành nội : Hình chữ nhật, chu vi 1650m, cao 5m, mặt thành rộng 6->12m, chỉ
có 1 cửa mở về hướng Nam phía TB giữa 2 vòng trong và ngoài có gò Đông Bắn, Đồng
Chuông, Đồng Giáo,
+ Vòng thành trung : Là 1 vòng thành khép kín, có chu vi khoảng 6500m cách thành
nội không đều và không có hình dáng cân xứng, phía Nam và Đông gần nhau, phía Bắc và
Tây cách xa nhau.Thành có 5 cửa……..
+ Thành ngoại: Là 1 vòng khép kín, ko có hình dáng rõ rệt chu vi khoảng 8m, cao 8m,
chân thành rộng khoảng 12->20m, thành ngoại có thêm 3 cửa Bắc, Đông, và Tây Nam...
=>Các thành đều có hào bao quanh……
Sau đó GV kết luận : có thể nói tất cả những “chiến lũy”, “ụ đất phòng vệ” đó cùng
với ba vòng thành khép kín, kết hợp chặt chẽ với nhau đã tạo thành một công trình kiến trúc
thống nhất, một căn cứ quân sự mang tính chất phòng vệ vững chắc, phối hợp bộ binh với
thủy binh. Cách bố trí thành như vậy thể hiện trí tuệ tài giỏi của của con người thời đó. Khu
di chỉ này thực sự là một khu di tích lịch sử - văn hóa quý giá của dân tộc.
Ví dụ 5: Khi dạy chương trình Lịch sử lớp 6 Tiết 19- Bài 17: Cuộc khởi nghĩa Hai
Bà Trưng (năm 40). Mục 2: Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng bùng nổ: Chúng ta phải sử dụng
lược đồ “Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng” để khai thác kiến thức.

Năm học : 2014 - 2015

Trang 15



Kinh nghiệm “Tăng cường tính trực quan qua khai thác kênh hình trong dạy học Lịch sử cấp THCS”

Môn : Lịch Sử

Về lược đồ cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng: Trước tiên giáo viên khái quát lược đồ,
sau đó cho học sinh quan sát trả lời câu hỏi:
H. Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trường bùng nổ ở đâu ? Phát triển như thế nào ?
H. kết quả cuộc khởi nghĩa ra sao?
Sau khi HS nêu theo hiểu biết (chuẩn bị ở nhà)
-> GV hướng dẫn HS tập trình bày theo trình tự phát riển của cuộc khởi nghĩa và lần lượt
ghi bài theo diễn biến của cuộc khởi nghĩa.
Ví dụ 6 : Giáo viên cho học sinh quan sát Hình 46 – Lược đồ khu vực Đông Nam Á
cuối thế kỉ XIX (Bài 11- Lịch sử 8).

Năm học : 2014 - 2015

Trang 16


Kinh nghiệm “Tăng cường tính trực quan qua khai thác kênh hình trong dạy học Lịch sử cấp THCS”

Môn : Lịch Sử

Hình 46: Lược đồ khu vực Đông Nam Á cuốc thế kỉ XIX
Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát lược đồ và mời 1 hoặc 2 em học sinh chỉ trên
lược đồ các nước trong khu vực và quá trình những nước này biến thành thuộc địa và phụ
thuộc của các nước đế quốc.
Sau đó giáo viên tiến hành thuyết trình lược đồ theo nội dung sau : Đông Nam Á là
một khu vực rộng lớn, gồm 11 quốc gia trên lục địa và hải đảo, nằm trên đường giao thông

từ bắc xuống nam, từ đông sang tây, giàu tài nguyên khoáng sản, đông dân cư và có truyền
thống văn hoá lâu đời. Vì vậy, Đông Nam Á sớm trở thành mục tiêu xâm lược của thực dân
Phương Tây. Đến giữa thế kỉ XIX, khi các nước châu Âu và Bắc Mĩ căn bản hoàn thành các
cuộc cách mạng tư sản và cách mạng công nghiệp, đua nhau bành trướng thế lực, xâm
chiếm thuộc địa. Trong lúc đó, các nước Phương Đông nói chung, Đông Nam Á nói riêng,
chế độ phong kiến vẫn giữ vị trí thống trị, rơi vào cuộc khủng hoảng triền miên về chính trị,
kinh tế, xã hội. Nhân cơ hội đó, các nước thực dân Phương Tây đã mở rộng và hoàn thành
việc xâm lược các nước Đông Nam Á.

Năm học : 2014 - 2015

Trang 17


Kinh nghiệm “Tăng cường tính trực quan qua khai thác kênh hình trong dạy học Lịch sử cấp THCS”

Môn : Lịch Sử

+Ở In-đô-nê-xi-a, ngay từ thế kỉ XV, XVI, thực dân Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà
Lan đã có mặt và từng bước chiếm lĩnh thị trường. Đến giữa thế kỉ XIX, Hà Lan hoàn thành
việc xâm chiếm và thiết lập sự thống trị trên đất nước nghìn đảo này.
+Ở Phi-líp-pin bị thực dân Tây Ban Nha thống trị ngay từ giữa thế kỉ XVI. Sau cuộc
chiến tranh với Tây Ban Nha năm 1898, đế quốc Mĩ tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược
Phi-líp-pin (1899-1902) và biến quần đảo này thành thuộc địa của mình.
+Ở Miến Điện (nay là Mi-an-ma), thực dân Anh đã tiến hành 3 cuộc chiến tranh xâm
lược. Năm1885, Anh thôn tính Miến Điện và biến nước này thành một tỉnh của Ấn Độ
thuộc Anh.
+Ở Mã Lai (nay là Ma-lai-xi-a) sớm bị các nước tư bản nhòm ngó, can thiệp. Đến cuối
thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, Mã Lai trở thành thuộc địa của Anh.
+Ba nước Đông Dương : Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia là đối tượng xâm lược của thực

dân Pháp. Đến cuối thế kỉ XIX, Pháp đã hoàn thành quá trình xâm lược và bắt đầu thi hành
chính sách bóc lột, khai thác thuộc địa.
+Ở Xiêm (nay là Thái Lan) vào cuối thế kỉ XIX trở thành vùng tranh chấp giữa đế
quốc Anh và Pháp, nhưng với chính sách ngoại giao mềm dẻo, khôn khéo cũng như cuộc
cải cách toàn diện của các vua xiêm, đặc biệt là vua Ra-maV, nên Xiêm là nước duy nhất ở
Đông Nam Á giữ được độc lập tương đối về chính trị (mặc dù vẫn phụ thuộc về kinh tế đối
với các nước đế quốc).
Như vậy, đến cuối thế kỉ XIX, hầu hết các nước Đông Nam Á đều trở thành thuộc địa
(trừ Xiêm). Sự xâm lược và đô hộ của các nước đế quốc thực dân đã gây nên những chuyển
biến lớn trong xã hội ở các nước Đông Nam Á, đưa đến những phong trào đấu tranh mạnh
mẽ vì độc lập và tiến bộ xã hội.
Ví dụ 7 : Giáo viên cho học sinh quan sát Hình 22-Sóc sin, Ru-dơ-ven và Xta-lin tại
Hội nghị I-an-ta.(Bài 11-Lịch sử 9).

Năm học : 2014 - 2015

Trang 18


Kinh nghiệm “Tăng cường tính trực quan qua khai thác kênh hình trong dạy học Lịch sử cấp THCS”

SÔC-SIN
(ANH)

RU-DƠ-VEN
(MỸ)

Môn : Lịch Sử

XTA-LIN

(LIEÂN XOÂ)

Hình 22: (từ trái sang phải) Sơc-Sin, Ru-Dơ-Ven và Xta-Lin tại Hội nghị I-An-Ta
Đây là bức ảnh chụp ba nguyên thủ quốc gia của các cường quốc: Liên Xô, Mĩ và Anh
tại Hội nghị I-an-ta diễn ra từ ngày 4 đến 12/2/1945 tại lâu đài Li va di a gần thành phố I an
ta trên bán đảo Crưm (Liên Xô cũ – nay là thuộc Ucraina). Giáo viên giới thiệu bức ảnh và
cho học sinh quan sát, đặt câu hỏi gợi mở, định hướng để học sinh trả lời.
+Những nhân vật trong bức ảnh này là ai ?
+Họ đến Hội nghị I-an-ta để làm gì ?
+Những ai được tham gia và quyết định các vấn đề của Hội nghị ?
+Hội nghị này đã diễn ra như thế nào và kết quả ra sao ?
Giáo viên tập trung sự chú ý của học sinh vào bức ảnh và tiến hành miêu tả. Bức ảnh
chụp nguyên thủ của ba cường quốc Liên Xô, Mĩ, Anh tại Hội nghị quốc tế quan trọng nhất
trong chiến tranh thế giới thứ hai. Hội nghị được tổ chức trên bán đảo Crưm trong lâu đài Li
va di a gần thành phố I-an-ta, từ ngày 4 đến ngày 12/2/1945. Tham gia Hội nghị có Chủ tịch
Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô – Xta-lin, Tổng thống Mĩ Ru-dơ-ven và Thủ tướng Anh – Sớc
– sin. Trong ảnh là ba nguyên thủ quốc gia – ba nhân vật quan trọng của Hội Nghị, có vai
trò quyết định những nội dung chính của Hội nghị I-an-ta : Từ trái qua phải là Sớc-sin, Rudơ-ven và Xta-lin.

Năm học : 2014 - 2015

Trang 19


Kinh nghiệm “Tăng cường tính trực quan qua khai thác kênh hình trong dạy học Lịch sử cấp THCS”

Môn : Lịch Sử

Hội nghị I-an-ta được triệu tập khi chiến sự ở châu Âu sắp kết thúc. Lúc này, công
việc trọng tâm mà ba nguyên thủ quốc gia chú ý là tình hình thế giới sẽ được sắp xếp như

thế nào sau chiến tranh. Vì vậy, khuông khổ của Hội nghị diễn ra rất căng thẳng thể hiện
trên gương mặt của ba nguyên thủ, Tổng thống Mĩ Ru-dơ-ven và Thủ tướng Anh Sớc-sin vẻ
mặt tươi cười quay lại với nhau, Xta-lin vẻ mặt nghiêm nghị. Nhưng cuối cùng sau 9 ngày
tranh luận, cuối cùng Hội nghị đã nhất trí phân chia phạm vi ảnh hưởng của các nước và
khu vực sau chiến tranh như sau:
+Tại châu Âu, Liên Xô chiếm đóng và kiểm soát vùng Đông Âu, phía đông nước Đức
và đông Béc-lin ; vùng Tây Âu, phía tây nước Đức và tây Béc-lin thuộc phạm vi ảnh hưởng
của Mĩ và Anh.
+Tại châu Á, do việc Liên Xô nhận tham chiến đánh quân đội phát xít Nhật Bản, nên
Mĩ và Anh đã chấp nhận những yêu sách của Liên Xô là duy trì nguyên trạng Mông Cổ (tức
là tôn trọng nền độc lập của nước này), đồng ý trả lại cho Liên Xô phía nam đảo Xa-kha-lin,
trao trả cho Trung Quốc đất đai đã bị Nhật Bản chiếm đóng trước đây ( như Đài Loan, Mãn
Châu...), thành lập Chính phủ liên hiệp gồm Quốc dân đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc.
+Triều Tiên được công nhận là một quốc gia độc lập, nhưng tạm thời quân đội Liên
Xô và Mĩ chia nhau kiểm soát và đóng quân ở Bắc và Nam vĩ tuyến 38.
+Các vùng còn lại ở châu Á (như Đông Nam Á, Nam Á...) vẫn thuộc phạm vi ảnh
hưởng của các nước phương Tây như trước đây.
Như vậy, Hội nghị I-an-ta nhằm giải quyết các vấn đề có liên quan đến quyền lợi của
ba nước Liên Xô, Mĩ, Anh. Hội nghị đã đóng góp một vai trò tích cực trong việc giải quyết
vấn đề nước Đức, Nhật Bản và thành lập một tổ chức quốc tế sau chiến tranh (Liên hợp
quốc). Đồng thời Hội nghị cũng dẫn đến sự hình thành trật tự hai cực sau chiến tranh : “Trật
tự hai cực I-an-ta” do Mĩ và Liên Xô đứng đầu, sau đó tiến hành cuộc “chiến tranh lạnh”
(kéo dài từ 1947 đến 1989).
Qua quá trình giảng dạy, tôi áp dụng phương pháp này cho tất cả các đối tượng học
sinh từ lớp 6 đến lớp 9, tất cả các em học sinh đều ham thích và tiến bộ rõ rệt
Ví dụ 8 : Khi dạy bài 11. Những chuyển biến về xã hội (Lịch sử 6)
Mục 3: Bước phát triển mới về xã hội được nảy sinh như thế nào? Giáo viên hướng
dẫn học sinh quan sát hiện vật của thời kì văn hóa Đông Sơn (nếu không có thì phóng to
hình 31, 32, 33, 34 ở SGK).


Năm học : 2014 - 2015

Trang 20


Kinh nghiệm “Tăng cường tính trực quan qua khai thác kênh hình trong dạy học Lịch sử cấp THCS”

Môn : Lịch Sử

Giáo đồng Đông Sơn

Lưỡi liềm và dao găm

Lưỡi cày đồng
Sau đó đặt câu hỏi: Quan sát những mũi dao găm, lưỡi cày đồng, lưỡi liềm đồng, em
thấy chúng có hình dáng như thế nào? Dùng để làm gì? Qua đó em có nhận xét gì về kĩ
thuật đúc đồng thời kì này? Nó chứng tỏ điều gì? Sau khi học sinh quan sát, thảo luận giáo
Năm học : 2014 - 2015

Trang 21


Kinh nghiệm “Tăng cường tính trực quan qua khai thác kênh hình trong dạy học Lịch sử cấp THCS”

Môn : Lịch Sử

viên kết luận: Những công cụ trên thuộc thời kì Đông Sơn được phát hiện nhiều nơi thuộc
Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ. Công cụ có nhiều loại có thể là một công cụ dùng để cắt, chặt, săn
bắn cũng có thể là một thứ vũ khí. Đây là một biểu hiện của sự phát triển cao trong kĩ thuật
đúc đồng của cư dân Đông Sơn.

2. Khả năng áp dụng :
Áp dụng tốt ở mọi cơ sở trường học, phù hợp với trình độ chuyên môn của mỗi giáo
viên và điều kiện thực tế ở mọi vùng miền.
Chất lượng chuyên môn, khả năng lí luận của giáo viên sẽ được nâng cao qua nghiên
cứu, tìm tòi, học tập.
Mặc dù thời gian rất hạn chế song tôi đã vận dụng kinh nghiệm này vào các tiết dạy và
đạt được kết quả tương đối khả quan. Trước hết, bản thân tôi nhận thấy rằng những kinh
nghiệm này rất phù hợp với chương trình sách giáo khoa mới và với những tiết dạy theo
phương pháp đổi mới. Học sinh có hứng thú học tập hơn, tích cực chủ động sáng tạo để mở
rộng vốn hiểu biết, đồng thời cũng rất linh hoạt trong việc thực hiện nhiệm vụ lĩnh hội kiến
thức và phát triển kỹ năng. Không khí học tập sôi nổi nhẹ nhàng và học sinh yêu thích môn
học hơn. Như vậy, với các biện pháp và cách sử dụng về các loại đồ dùng dạy học như đã
nêu trên, tôi thấy kết quả của môn lịch sử thực sự tăng lên rõ rệt. Đại bộ phận học sinh đã
biết quan sát tranh ảnh, hình vẽ, lược đồ… để rút ra kiến thức cần nắm. Giờ học thu hút
được học sinh tập trung say mê về môn lịch sử với tỉ lệ cao.
3. Lợi ích kinh tế - xã hội :
Việc khai thác kênh hình trong sách giáo khoa lịch sử được coi là nguồn cung cấp kiến
thức lịch sử chính xác, quan trọng trong suốt quá trình dạy và học, bỡi vì nó cung cấp một
lượng thông tin đáng kể, là phương tiện trực quan có giá trị nhất khi dạy học lịch sử nó giúp
học sinh hiểu sâu hơn bản chất của sự kiện, biết vận dụng kiến thức vào trong trong quá
trình học tập, rèn luyện tốt kỷ năng thực hành trong quá trình khai thác kênh hình trong sách
giáo khoa.Vì vậy, giáo viên cần tích cực tìm tòi, sáng tạo và sưu tầm nhiều tranh ảnh có giá
trị trực quan để phục vụ cho bài giảng, giúp cho bài học lịch sử trở nên sinh động, hấp dẫn,
gây hứng thú học tập cho học sinh.
Khiêu gợi niềm hứng thú học tập cho học sinh, chủ động, tự tin trong tìm tòi và lĩnh
hội kiến thức, tự bộc lộ và phát triển khả năng tư duy sáng tạo. Từ đó say mê trong học tập
và biết trân trọng, yêu quý môn lịch sử.
• Kết quả nghiên cứu và thử nghiệm đề tài.

Năm học : 2014 - 2015


Trang 22


Kinh nghiệm “Tăng cường tính trực quan qua khai thác kênh hình trong dạy học Lịch sử cấp THCS”

Môn : Lịch Sử

Để khảo sát chất lượng và hiệu quả của đề tài “Tăng cường tính trực quan qua khai
thác kênh hình trong dạy học lịch sử cấp trung học cơ sở”.Tôi tiến hành thử nghiệm ở khối
lớp 6 (6A1, 6A2, 6A3, 6A4, 6A5, 6A6, 6A7, 6A8, 6A9 ) do tôi trực tiếp giảng dạy.
Kết quả

Học sinh vận dụng

Học sinh khắc sâu

Học sinh rèn kỹ năng

6A1
6A2
6A3
6A4
6A5
6A6
6A7
6A8
6A9

kiến thức

Tỉ lệ %
87%
84%
79%
84%
82%
89%
85%
87%
84%

sự kiện
Tỉ lệ %
92%
88%
81%
86%
84%
90%
87%
90%
89%

thực hành
Tỉ lệ %
89%
86%
83%
88%
81%

82%
84%
87%
85%

Lớp

Với kết quả này phần nào cho thấy hiệu quả việc sử dụng kênh hình trong dạy học có
tác dụng thiết thực, phù hợp với việc đổi mới phương pháp dạy học và đổi mới sách giáo
khoa cấp THCS.

C. KẾT LUẬN
Qua sự phân tích và thực nghiệm trên ta thấy đồ dùng trực quan tạo hình góp phần to
lớn nâng cao chất lượng dạy và học, gây hứng thú học tập cho học sinh. Do vậy, việc sử
dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử là một điều không thể thiếu được. Giáo viên
không chỉ chuẩn bị chu đáo về việc nắm vững nội dung các đồ dùng trực quan và nhất là
biết sử dụng, khai thác trong dạy học lịch sử. Từ những vấn đề trình bày trên, dễ thấy “giúp
học sinh tiếp cận với nội dung các kênh hình lịch sử cấp THCS” là phương pháp hữu hiệu
nhất và cần thiết với việc dạy học, giúp học sinh rèn luyện được các kỹ năng quan sát, nhận
thức đúng sự kiện lịch sử cụ thể. Nó vừa nhẹ nhàng vừa linh hoạt và sinh động, có thể áp
dụng được cho các đối tượng học sinh đem lại hiệu quả đáng kể.
Tóm lại, phương pháp trực quan giữ một vị trí quan trọng trong việc dạy học lịch sử
làm cho việc dạy học lịch sử được phong phú, sinh động, kích thích sự hứng thú trong học
tập và phát triển khả năng tư duy, bồi dưỡng tình cảm, tư tưởng cho học sinh. Nhận thức
này được quán triệt trong giáo viên và học sinh.
* Đề xuất, kiến nghị.
Đề xuất.

Năm học : 2014 - 2015


Trang 23


Kinh nghiệm “Tăng cường tính trực quan qua khai thác kênh hình trong dạy học Lịch sử cấp THCS”

Môn : Lịch Sử

Sử dụng đồ dung trực quan tạo hình trong dạy học lịch sử là một công việc cần thiết
và bắt buộc đối với mỗi giáo viên khi tham gia quá trình dạy học. Muốn làm tốt và có hiệu
quả việc này cần phải nắm vững lí luận về phương pháp dạy học theo tinh thần đổi mới hiện
nay.
Giáo viên phải luôn xác định vị trí, ý nghĩa, và vai trò của việc sử dụng đồ dùng trực
quan trong dạy học lịch sử nói chung và đồ dùng trực quan tạo hình nói riêng nó là chiếc
cầu nối giữa quá khứ với hiện tại.
Việc sử dụng đồ trực quan không phải chỉ được tiến hành trong những giờ thao giảng,
dạy minh họa mà phải được sử dụng thường xuyên liên tục. Muốn sử dụng và khai thác hết
nội dung lịch sử được phản ánh trong đồ dùng trực quan tạo hình thì giáo viên phải biết lựa
chọn phương pháp sử dụng hợp lí, có sự chuẩn bị công phu về kế hoạch bài dạy, nhất là
khâu tổ chức cho học sinh tìm hiểu, tiếp nhận kiến thức mới trên lớp. Muốn thiết kế được
tiết dạy có hiêụ quả, giáo viên phải tham khảo tài liệu có liên quan đến bài học, đọc kỹ
“Mục tiêu cần đạt, xác định kiến thức cơ bản, đồng thời căn dặn học sinh sưu tầm ở nhà
những thông tin về đồ dùng trực quan tạo hình”.
Như vậy, khai thác tranh ảnh lịch sử là một trong những cách tiếp cận lịch sử tốt, hiệu
quả giáo dục cao, nhưng lại không phải là một công việc đơn giản dễ thực hiện.
Kiến nghị.
Các nhà trường cần nghiêm túc chỉ đạo việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy
học lịch sử. Tránh tình trạng để đồ dùng được cấp nằm im lìm trong phòng thiết bị. Cán bộ
phòng thiết bị cần sắp xếp đồ dùng một cách khoa học tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên
đến lấy đồ dùng một cách thuận tiện.
Phòng giáo dục, Sở giáo dục cần tổ chức tập huấn cho giáo viên những kỹ năng,

phương pháp cần thiết về sử dụng đồ dùng trực quan nói chung và đồ dùng trực quan tạo
hình nói riêng đối với bộ môn lịch sử.
Sẽ không tránh khỏi những thiếu sót khi xây dựng đề tài dài – rộng và có tính xuyên
suốt một cấp học như thế này. Rất mong được lĩnh hội những ý kiến đóng góp, bổ sung của
ban giám định để đề tài được hoàn thiện và có cơ hội được nhân rộng cho các đồng nghiệp
được tham khảo và ứng dụng. Đó là điều mong muốn nhất khi xây dựng đề tài này.
Trên đây là một số ý kiến nhỏ giúp người giáo viên dạy lịch sử tiến hành giảng dạy
theo hướng đổi mới phương pháp. Mong rằng, nó sẽ là một trong muôn vàn ý kiến khác,

Năm học : 2014 - 2015

Trang 24


Kinh nghiệm “Tăng cường tính trực quan qua khai thác kênh hình trong dạy học Lịch sử cấp THCS”

Môn : Lịch Sử

góp phần vào quá trình đổi mới phương pháp dạy học môn lịch sử để góp phần nâng cao
chất lượng giảng dạy môn lịch sử ở trường THCS hiện nạy.
Tháng 12 năm 2014

Năm học : 2014 - 2015

Trang 25


×