Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Tiểu luận về đề tài: Quyết định hành chính trái thẩm quyền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.52 KB, 9 trang )

Bộ giáo dục và đào tạo
Học viện hành chính quốc gia

Lớp bồi dỡng chuyên viên quản lý hành chính nhà nớc

Tiểu luận
Tên đề tài: Quyết định hành chính trái thẩm quyền
Về vụ án hành chính một nông dân khởi kiện UBND xã Hoà Hiệp Trung Huyện Tuy Hoà - Tỉnh Phú Yên

Họ và tên: Lê thị Hơng Lan
Chức vụ: giảng viên
Đơn vị: Khoa Ngân hàng Tài chính
Trờng Đại học Kinh tế quốc dân

Hà nội, tháng 9 năm 2003


Tiểu luận
Quyết định hành chính trái thẩm quyền
Về vụ án hành chính một nông dân khởi kiện UBND xã Hoà Hiệp Trung Huyện Tuy Hoà - Tỉnh Phú Yên
I.

Tình huống

1. Hoàn cảnh ra đời của tình huống
Thực hiện chủ trơng của UBND Tỉnh Phú Yên thu hồi đất xây dựng Khu công
nghiệp (KCN) Hoà Hiệp theo thông báo số 181/TB-UB ngày 27/3/1999, ông
Sửu (sinh năm 1940) ở thôn Phú Hiệp I, xã Hoà Hiệp Trung, huyện Tuy Hoà
đã giao cho công ty liên doanh đầu t xây lắp Phú Yên đất vờn rừng do ông tự
khai hoang và đã đợc đền bù thiệt hại hoa màu 37.561.000đồng.
Ngày 14/6/2001, UBND xã Hoà Hiệp Trung ban hành thông báo không số về


việc giải toả huyến hành lang KCN Hoà Hiệp, tính từ tờng rào phía Tây Nam
mở rộng ra 10 mét. Lẽ ra theo quy định pháp luật về đất đai, việc giải toả thu
hồi đất vờn rừng do ông Sửu quản lý và sử dụng phải thực hiện bằng quyết
định của cơ quan nhà nớc có thẩm quyền. Nhng vì lợi ích chung, ông Sửu vẫn
chấp hành và đã đợc đền bù phát sinh thiệt hại hoa màu 3.825.000đồng.
Ngày 1 và 2/11/2001, UBND xã Hoà Hiệp Trung tổ chức cỡng chế tháo dỡ
toàn bộ lán trại của gia đình ông, đồng thời vận chuyển toàn bộ vật liệu xây
dựng về trụ sở xã quản lý từ đó. Sau khi bị cỡng chế, ông Sửu mới biết trớc đó
UBND xã Hoà Hiệp Trung đã ban hành các quyết định xử phạt vi phạm hành


chính số 48/QĐ-UB ngày 22-2-2001 và quyết định tháo dỡ lán trại xây dựng
trái phép số 186/QĐ-UB ngày 29-10-2001 nên đã gửi nhiều lợt đơn khiếu nại
đến các cấp chức năng có thẩm quyền. Ngày 19/7/2002 UBND xã Hoà Hiệp
Trung ban hành giải quyết khiếu nại số 76/QĐ-UB, nhng 17 ngày sau mới
tống đạt cho ông Sửu biết. Cũng từ đó vụ kiện hành chính phát sinh.
2. Diễn biến tình huống
22 năm về trớc, hộ gia đình ông Huỳnh Sửu đợc UBND huyện Tuy Hòa giao
đất vờn rừng 2,25 ha theo quyết định số 69/QĐ-UB ngày 11-12-1991, kèm
theo sổ lâm bạ số 15/91 có chứng thực của Hạt kiểm lâm, phòng nông nghiệp
huyện Tuy Hoà, UBND xã và HTX nông nghiệp Hoà Hiệp Trung. Với diện
tích rừng điều, phi lao, bạch đàn rộng lớn nh thế, thì việc xây dựng lán trại có
diện tích 142m2 để kết hợp chăn nuôi, bảo vệ và phòng cháy chữa cháy vờn
rừng là hoàn toàn hợp lý. Ngoài diện tích nêu trên, ông Sửu còn khai hoang tạo
lập một vờn rừng khai thác ở kế bên. Sau khi giao nộp phần đất vờn rừng tự
khai hoang, 2,25 ha do UBND huyện Tuy Hoà giao đất từ năm 1991 vẫn thuộc
quyền quản lý và sử dụng hợp pháp của gia đình ông Sửu. Sau khi biết đợc tình
tiết sự việc ông Sửu khởi kiện hai quyết định hành chính nêu trên, đồng thời
yêu cầu bồi thờng thiệt hại. Thế nhng Toà án nhân dân huyện Tuy Hoà chỉ thụ
lý giải quyết quyết định cỡng chế tháo dỡ lán trại xây dựng trái phép.

II. Phân tích và xử lý tình huống
1. Cơ sở lý luận
- Nghị định 04/CP ngày 10-1-1997 của Chính phủ qui định về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý, sử dụng đất đai.


- Thông t số 278-TT/ĐC ngày 7-3-1997 của Tổng cục địa chính hớng dẫn
thực hiện nghị định 04/CP.
- Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995
- Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính
2. Phân tích tình hình
Tại phiên toà sơ thẩm, đại diện UBND xã Hoà Hiệp Trung cho rằng các quyết
định xử phạt vi phạm hành chính và cỡng chế tháo dỡ lán trại xây dựng trái
phép đối với ông Huỳnh Sửu là đúng pháp luật; khi cỡng chế chính quyền xã
không thu giữ tài sản nào của ông Sửu, mà chỉ thu giữ 46 tấm tole, 12 cây đòn
tay tre, 37 cây đòn tay bạch đàn từ lán trại của con trai ông Sửu là Huỳnh Văn
Chởng. Còn hội đồng xét xử toán án nhân dân huyện Tuy Hoà nhận định: Hộ
gia đình ông Huỳnh Sửu đợc giao quyền sử dụng 2,25 ha đất vờn rừng theo
quyết định số 69 ngày 11-12-1991 của UBND huyện Tuy Hoà và có trách
nhiệm đa nhanh, đa hết diện tích đợc cấp vào quản lý sử dụng đất sản xuất
nông lâm kết hợp. Nhng ông Sửu xây dựng 142m2 lán trại, mái lợp tole, tờng
xây gạch, nền xi măng mà không xin phép chính quyền địa phơng, nên UBND
xã kiểm tra thực địa, lập biên bản vi phạm hành chính quyết định xử phạt vi
phạm hành chính số 48 ngày 22-2-2002 với hình thức phạt tiền 200.000 đồng,
buộc tháo dỡ công trình và trả lại hiện trạng nh ban đầu. Ông Sửu không chấp
hành nên ngày 29-10-2001, UBND xã Hoà Hiệp Trung ban hành quyết định cỡng chế tháo dỡ lán trại xây dựng trái phép số 186/QĐ-UB là đúng thủ tục.
Mặt khác toà sơ thẩm còn nhận định Tại điểm d, khoản 1, điều 15, Nghị định
04/CP của Chính phủ qui định UBND xã có thẩm quyền buộc phải trả lại mặt
bằng nh trớc khi vi phạm. Ngoài ra, tại điều 3 quyết định xử phạt vi phạm hành



chính số 48 ngày 22-2-2002 của UBND xã Hoà Hiệp Trung đã ghi rõ ông Sửu
đợc quyền khiếu nại trong hạn 10 ngày, quyết định này không giao cho ông
Sửu đợc vì ông Sửu cố tình lẩn tránh, nên UBND xã Hoà Hiệp Trung đã niêm
yết tại lán trại của ông theo đúng qui định pháp luật, nhng ông Sửu không
khiếu nại, do đó căn cứ luật khiếu nại tố cáo, đến nay ông Sửu không còn
quyền khiếu nại đối với quyết định tiếp theo của UBND xã Hoà Hiệp Trung ...
Từ nhận định trên, hội đồng xét xử toà án nhân dân huyện Tuy Hoà căn cứ
khoản 2, điều 11 và điểm a, khoản 1, điều 12 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các
vụ án hành chính tuyên xử: Bác yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Sửu, giữ
nguyên các quyết định số 186 và 48 của UBND xã Hoà Hiệp Trung.
3.Xử lý tình huống
Bất bình với phán quyết nêu trên, ngày 12-5-2003, ông Huỳnh Sửu đã gửi đơn
kháng cáo bản án sơ thẩm hành chính của toà án nhân dân huyện Tuy Hoà.
Rất nhiều câu hỏi đặt ra phía sau bản án sơ thẩm, cần phải đợc cấp phúc thẩm
làm rõ để phán quyết công minh. Cần phải khẳng định rằng 2,25 ha đất vờn
rừng do hộ gia đình ông Huỳnh Sửu quản lý và sử dụng hơn 20 năm qua là hợp
pháp. Tính hợp pháp đó đợc chứng minh bằng quyết định giao đất của UBND
huyện Tuy Hoà và Sổ lâm bạ có chứng thực của 4 cơ quan chức năng thẩm
quyền. Ngay cả hội đồng xét xử toà án nhân dân huyện Tuy Hoà và đại diện
UBND xã Hoà Hiệp Trung cũng phải thừa nhận nhà nớc giao đất vờn rừng cho
hộ gia đình ông Huỳnh Sửu để sản xuất nông lâm kết hợp. Theo đó, ông Sửu
xây dựng 142 m2 để chăn nuôi, kết hợp bảo vệ rừng, phòng cháy 2,25 ha vờn
rừng phi lao, điều bạch đàn ... là chuyện rất bình thờng và đúng mục đích. Các
chứng cứ tài liệu trong vụ án hồ sơ đều xác định đó là lán trại, thì can cớ gì
việc xây dựng lán trại phải xin phép chính quyền xã, ngợc lại hàng chục hộ gia
đình ở Hoà Hiệp Trung đang xâm chiếm hành lang an toàn đờng xắt, đờng bộ


để xây dựng nhà ở trái phép từ nhiều năm qua vẫn công nhiên tồn tại ngay trớc

tầm mắt các quan xã.
Tại toà, mặc dù đại diện UBND xã Hoà Hiệp Trung lý sự không thu giữ tài sản
của ông Sửu, nhng họ lại thừa nhận việc cỡng chế tháo dỡ lán trại của ông Sửu
theo quyết định 186/QĐ-UB ngày 29-10-2001 và đợc thực hiện xong từ ngày
1và 2-11-2001, trong khi đó nội dung quyết định cỡng chế nêu trên có chỉ định
Phần vật liệu thu hồi tập kết về UBND xã hoà. Nếu các quan xã thi hành
lệnh cỡng chế mà không thu giữ tài sản, tang vật vi phạm để bảo đảm thu nộp
tiền xử phạt vi phạm hành chính và khấu trừ chi phí cỡng chế thì rõ là vô trách
nhiệm, và chính họ phải có trách nhiệm chứng minh sau cuộc cỡng chế những
kẻ nào đã công nhiên chiếm đoạt tài sản của ông Sửu? Cái lý mà hội động
xét xử toà án nhân dân huyện Tuy Hoà viện dẫn là UBND xã Hoà Hiệp Trung
có thẩm quyền buộc ông Sửu phải khôi phục tình trạng đất nh trớc khi bị thay
đổi do vi theo qui định tại điểm d, khoản 1, điều 15, Nghị định 04/CP ngày
10-1-1997 của Chính phủ qui định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực quản lý, sử dụng đất đai. Thế nhng các quan toà tìm đâu ra điều luật nào
cho phép UBND cấp xã có quyền buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái
phép. Bởi theo qui định tại các điều 11, 27 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành
chính năm 1995 và điểm d, khoản 2, điều 15, Nghị định 04/CP nêu trên, thì
ngời có thẩm quyền là chủ tịch UBND cấp huyện. Mặt khác theo qui định tjai
điều 26, chơng 4, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995 phải do cá
nhân Chủ tịch UBND cấp xã ban hành không phải tập thể UBND xã. Đó là cha
nói đến nội dung biên bản vi phạm hành chính và quyết định xử phạt vi phạm
hành chính do UBND xã Hoà Hiệp Trung ban hành trái với qui định tại Thông
t số 278 TT/ĐC ngày 7-3-1997 của Tổng cục địa chính hớng dẫn thực hiện
Nghị định 04/CP của Chính phủ. Lạ thay, biên bản hiện trờng lập ngày 7-32003 cuả UBND xã Hoà Hiệp Trung cho thấy chính quyền xã đã niêm phong


quyết định tại nhà ông Sửu, nhng vẫn đợc quí toà cải chính để công nhận
UBND xã Hoà Hiệp Trung đã niêm yết tại lán trại của ông Sửu theo đúng
pháp luật. Trong khi họ thừa biết sự khác biệt giữa hai thuật ngữ hành chính

niêm yết và niêm phong. Càng lạ hơn khi ông Sửu khởi kiện hai quyết
định xử phạt vi phạm hành chính số 48 và quyết định cỡng chế số 186, nhng
sau đó lại tuyên xử bác yêu cầu của ông Sửu về việc khởi kiện hai quyết định
nêu trên.
3. Xử lý tình huống
Bản án sơ thẩm số 01/HCST ngày 9-5-2003 của toà án nhân dân huyện Tuy
Hoà tuyên xử Bác đơn khởi kiện của ông Huỳnh Sửu yêu cầu huỷ bỏ quyết
định cỡng chế số 186/QĐ-UB ngày29-10-2001 đồng thời giữ nguyên nội dung
quyết định xử lý vi phạm hành chính số 48/QĐ-UB ngày 22-2-2001 và quyết
định số 186/QĐ-UB ngày 29-10-2001 của UBND xã Hoà Hiệp Trung. Bất
bình nên ngời khởi kiện tiếp tục kháng cáo. Phiên toà phúc thẩm đợc diễn ra
vào ngày 30 và 31-7-2003 với phán quyết Bác toàn bộ nội dung đơn kháng
cáo của ông Huỳnh Sửu. Giữ nguyên quyết định của bản án số 01/HCST ngày
9-5-2003 của toà án nhân dân huyện Tuy Hoà.
Đằng sau hai bản án vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra và cần thiết phải có một bản
án giám đốc thẩm. Trớc hết cần thấy rằng, ông Huỳnh Sửu khởi kiện hai quyết
định xử lý vi phạm hành chính số 48 ngày 22-2-2001 và quyết định cỡng chế
số 186 ngày 29-10-2001 của UBND xã Hoà Hiệp Trung. Tuy nhiên, toà án
nhân dân huyện Tuy Hoà chỉ thụ lý một quyết định số 186, nhng lại tuyên xử
giữ nguyên hai quyết định 46 và 186. Tại bản án phúc thẩm số 06/HCPT
ngày 30 và 31-7-2003 của Toà án nhân dân tỉnh Phú Yên cũng ghi nhận mở


phiên toà công khai xét xử vụ án hành chính phúc thẩm khởi kiện quyết định
số 48/QĐ-UB ngày 22-2-2001, quyết định số 186/QĐ-UB ngày 29-10-2001.
Hành trình đi tìm công lý của Huỳnh Sửu vẫn ở phía trớc, ông Sửu đã gửi đơn
đến Hội đồng thẩm phán toà án nhân dân tối cao, Chánh toà hành chýnh toà
ánn nhân dân tối cao, Vi phạm hành chínhện trởng VKSND tối cao để khiếu
ạni và đề nghị xem xét lại hai bản án sơ thẩm hànhchính số 01/HCST ngày 95-2003 của toà án nhân dân huyện Tuy Hoà và bản án phúc thẩm số 06/HCPT
ngày 30 và 31-7-2003 của toà án nhân dân Tỉnh Phú Yên theo thủ tục giám

đốc thẩm.
II.

Kết luận

Với phơng hớng xây dựng Nhà nớc cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam là
nhà nớc của nhân dân, do dân, vì dân lấy liên minh giai cấp nông dân và tầng
lớp trí thức làm nền tảng do Đảng cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền
làm chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cơng xã hội, chuyên chính với mọi hành
động xâm phạm lợi ích của tổ quốc và của nhân dân. Luật pháp nhà nớc Việt
nam chúng ta luôn tôn trọng bảo vệ và phát uy quyền dân chủ của công dân
nhng nớc ta cũng cơng quyết xử lý nghiêm minh những kẻ lợi dụng quyền dân
chủ để gây rối làm phức tạp tình hình chính trị xã hội ảnh hởng tới lợi ích cộng
đồng. Giữa lúc cả nớc đã và đang triển khai thực hiện nghị quyết 08-NQ/TW
ngày 2-1-2001 của Bộ Chính trị về cải cách t pháp và Chỉ thị số 10/CT-TTg
ngay 19-3-2002 của Thủ tớng Chính phủ về một số nhiệm vụ trọng tâm trong
công tác t pháp thì với kiểu hành xử nh vậy, liệu đến bao giờ mới cải cách,
mong rằng toà án nhân dân tỉnh Phú Yên sẽ xem xét vụ án khách quan để phán
quyết công minh, thấu tình đạt lý.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1, Luật Dân sự
2. Nghị quyết 08NQ/TW ngày 2- 1 – 2001 của Bộ Chính trị
3. ChØ thÞ sè 10/CT-TTg ngay 19-3-2002 cña Thñ tíng ChÝnh phñ



×