Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

Vẻ đẹp người hà nội của các tác phẩm văn xuôi viết về hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (501.62 KB, 122 trang )

MỤC LỤC

MỤC LỤC.........................................................................................................2
LỜI CẢM ƠN...................................................................................................3
LỜI CAM ĐOAN.............................................................................................4
MỞ ĐẦU...........................................................................................................5
NỘI DUNG.....................................................................................................12
CHƯƠNG I: VỊ TRÍ CỦA HÀ NỘI TRONG LÒNG ĐẤT NƯỚCVÀ VỊ
TRÍ CỦA BẢN SẮC NGƯỜI HÀ NỘI TRONG TỔNG THỂ VẺ ĐẸP
CỦA THỦ ĐÔ................................................................................................12
CHƯƠNG II:VẺ ĐẸP ĐA DẠNG TRONG CHIẾN ĐẤU VÀ ĐỜI
THƯỜNG CỦA NGƯỜI HÀ NỘI................................................................34
2.2.1: Người Hà Nội trong sinh hoạt vật chất.............................................................52

TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................122

Trang 2


LỜI CẢM ƠN
Luận văn được hoàn thành nhờ sự chỉ bảo giúp đỡ tận tình của thầy giáo
TS. Nguyễn Văn Nam, em xin gửi tới thầy lời cảm ơn chân thành, sâu sắc.
Xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo đã tạo điều kiện giúp đỡ em
trong quá trình làm luận văn này.
Hà Nội, Ngày 10 tháng 11 năm 2015
Học Viên
Nguyễn Thị Duyên

Trang 3



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được
ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Hà Nội, Ngày 10 tháng 11 năm 2015
Học Viên
Nguyễn Thị Duyên

Trang 4


MỞ ĐẦU
I.

Lý do chọn đề tài
Ở nước nào cũng vậy, Thủ đô là một đề tài rất quen thuộc trong văn

học. Những nhà văn lớn của một nước ít nhiều vẫn viết về “Trái tim lớn” của
nước đó. Hà Nội- Thủ đô từ xưa đến nay vẫn là đề tài được giới văn nghệ sĩ
giành nhiều tâm huyết và giấy mực nhất. Như nhà văn Nguyễn Tuân đã từng
nói: “Hà Nội đáng để chúng ta viết, còn nhiều điều để viết”. Mà khi đi càng
sâu, càng nhiều về Hà Nội ta lại khám phá được nhiều vẻ đẹp của con người
nơi đây. Vẻ đẹp của người Hà Nội được các nhà văn thể hiện rõ nét qua các
tác phẩm như: “Sống mãi với Thủ đô ” của Nguyễn Huy Tưởng; Tùy bút “Hà
Nội ta đánh Mỹ giỏi” của Nguyễn Tuân; “ Miếng ngon Hà Nội” và “ Thương
nhớ mười hai” của Vũ Bằng; “ Hà Nội 36 phố phường ” của Thạch Lam …
Lâu nay, nói về người Hà Nội, người ta thường nhớ đến hai câu thơ :
“Chẳng thơm cũng thể hoa nhài/ Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”.
Hình ảnh người Hà Nội luôn gắn với vẻ đẹp văn hóa truyền thống của mảnh
đất Thủ đô nghìn năm văn hiến với những đặc thù riêng.

Sống trên mảnh đất là nơi hội tụ, tích hợp các luồng văn hóa, người Hà
Nội có điều kiện thẩm thấu, chắt lọc và tỏa sáng vẻ đẹp phẩm cách, tâm hồn.
Cái thanh, cái đẹp của người Hà Nội thể hiện ở giọng nói phát âm chuẩn mực,
nhẹ nhàng; cách phục sức giản dị nho nhã; lối giao tiếp khiêm nhường, mến
khách; cách ăn uống thanh cảnh, điềm đảm “Ngọn giá cắn đôi” nhưng không
kém phần tinh túy, sành điệu làm ra bao món ăn nổi tiếng, trở thành đặc sản
chốn kinh kỳ như phở, bún thang, chả cá, cốm vòng… Hà Nội còn mang vẻ
đẹp truyền thống của văn hóa, văn học đậm nét Thăng Long nơi hội tụ mặc
khách bốn phương, với những địa danh nổi tiếng đã đi vào thơ văn nhiều thế
hệ.
Trang 5


“Ăn Bắc, mặc kinh” - câu ngạn ngữ chỉ nét đẹp trong trang phục của
người kinh đô Thăng Long với dấu ấn Hà thành cổ kính và thanh lịch. Và
người Hà Nội rất tự hào với sự vinh danh ấy, đặc biệt là những cô gái ở 36
phố phường thuở xưa.
Trải qua tiến trình lịch sử, cách ăn mặc của người Hà Nội cũng có sự
thay đổi theo mỗi thời đại, nhưng vẫn giữ được nét văn hóa của vùng Thăng
Long- Hà Nội nghìn năm văn hiến.
Người Hà Nội có văn hóa mặc rất đặc trưng. Họ mặc đẹp, cái đẹp của
sự nền nã, kín đáo chứ không phô trương, lòe loẹt. Nét văn hóa đặc trưng này
luôn được họ gìn giữ ngay cả trong thời chiến tranh thiếu thốn, những năm
bao cấp khó khăn hay trước cơn lốc của thời kỳ mở cửa. Mỗi thời kỳ lại có
những trang phục riêng nhưng tất cả đều tuân theo “mẫu số chung”: đó là sự
thanh lịch.
Trải qua quá trình lịch sử dựng nước, giữ nước với bao thăng trầm và
biến động nhưng những phẩm chất tốt đẹp và giá trị tinh thần bền vững vẫn in
đậm trong lối sống của người Thăng Long- Hà Nội đó là:
Người Hà Nội giàu lòng tự trọng bắt nguồn từ ý thức dân tộc, trân

trọng và tự hào về truyền thống vẻ vang của tổ tiên, ông cha trong lịch sử
dựng nước và giữ nước, cũng như trong quá trình cách mạng và kháng chiến.
Người Hà Nội luôn luôn trân trọng và tự hào về những chiến thắng lẫy lừng
chống ngoại xâm trên đất “rồng bay”.
Người Hà Nội giàu lòng nhân ái, khoan dung, yêu chuộng hòa bình.
Lòng nhân ái của người Hà Nội vốn đã co nguồn gốc sâu xa từ chính cuộc
sống, sinh hoạt và đấu tranh lâu dài của dân tộc. Đây là bản chất, đồng thời là
hệ quả tất yếu của một đất nước đã buộc phải dành đến hơn một nửa thời gian
lịch sử của mình để đối phó với chiến tranh.

Trang 6


Người Hà Nội giàu nghị lực, trung thực, thắng thắn và giàu lòng
nghĩa khí. Người dân ở các vùng của đất nước đưa nghề thủ công về Hà Nội,
tạo thành 36 phố phường sầm uất. Nghị lực của người Hà Nội còn được thể
hiện ở con đê ngăn lũ sông Hồng đắp suốt chiều dài lịch sử ngàn năm xây
dựng đô thành.
Người Hà Nội giàu óc thực tế, sáng tạo và nhạy cảm với cái mới. Do
hoàn cảnh đô thị hội tụ người bốn phương nên khách quan đòi hỏi người Hà
Nội có đầu óc thực tế, thể hiện ở các mặt: xem xét tính toán trong làm ăn để có
cái lợi nhiều. “Khéo tay hay làm, đất lề kẻ chợ” là câu ngạn ngữ quen thuộc ca
ngợi tài hoa, sáng tạo của những người thợ thủ công kinh thành, Người Hà
Nội xưa và nay có khả năng thích nghi rất nhanh, rất nhạy cảm, khá năng động
và không ngại tiếp nhận những cái mới và tìm tòi, cải tiến, sáng tạo thành cái
của mình. Điều này thể hiện trong các công trình kiến trúc, văn hóa, trong việc
du nhập các luồng tư tưởng tôn giáo, không chỉ tiếp xúc giao lưu với các nền
văn hóa phương Bắc mà cả với nền văn hóa phương Tây…
Người Hà Nội trọng học thức, chuộng cái đẹp. Chính vì Hà Nội là nơi
hội tụ và đỉnh cao của nền văn hóa dân tộc, nên vùng đất và con người Thăng

Long cũng là nơi có tinh thần ham học và quý trọng tri thức. Do sống trong
môi trường của đô thành, lại có học vấn khá nên nên người Hà Nội cảm nhận
được vẻ đẹp từ thiên nhiên, cảnh quan môi trường, kiến trúc nghệ thuật, thích
thưởng ngoạn những nơi thiên nhiên đẹp, những bức tranh đẹp.
Nói đến vẻ đẹp của người Hà Nội là nói đến nếp sống thanh lịch hay:
Lịch sử, tinh tế trong cách ứng xử, giao tiếp, xử lý các mối quan hệ một cách
mềm mại, uyển chuyển mà hiệt quả cao. Sự thanh lịch của người Hà Nội được
thể hiện qua từng lời nói. Cái thanh, cái đẹp của tiếng nói Hà Nội ở chỗ chuẩn
xác, mẫu mực cho cả nước. Họ biết nếu mình tôn trọng người khác mềm
mỏng mà không thớ lớ, tài hoa mà không khoe khoang, biết rộng mà không
Trang 7


làm cao, biết “ Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Con gái Hà Nội giữ
“Công, dung, ngôn, hạnh” giữ đủ nét e lệ, dịu dàng, ý tứ, từ dáng đứng, bước
đi, nụ cười, ánh mắt, thân mật nhưng không sàm sỡ, tế nhị mà không gò bó.
Phụ nữ phải biết khâu vá, thêu thùa, nấu ăn. Trong ăn uống của người Hà Nội
thể hiện nét thanh lịch ở trình độ thẩm mỹ cao, sự tinh tế trong công việc chế
biến thức ăn. Chính chất sành điệu trong ăn uống ấy mà người Hà Nội đã sáng
tạo nhiều món ăn nổi tiếng trở thành đặc sản Hà thành như: Phở, bún thang,
bún ốc, chả cá, bánh cuốn Thanh trì, chè kho, cốm vòng, bánh tôm Hồ Tây…
Người Hà Nội đã nâng ăn uống thành một nghệ thuật ẩm thực. Món ăn mặn,
ngọt, chua, cay đều vừa độ, gia vị đầy đủ, nước chấm, nước canh khéo chế.
Bữa ăn ngon từ cách xếp mâm, bày đĩa, lên cỗ. Người Hà Nội ăn lấy ngon để
nhớ mãi chứ không ăn lấy no căng bụng. Vào mâm họ biết trọng già, quý trẻ,
nhường món ngon tiếp cho khác, cách ăn cũng từ tốn, thong thả, rượu uống
từng ngụm, không dốc cả cốc to, không làm ầm ĩ.
Trong làm lụng, người Hà Nội cần cù, chịu khó, làm nghề gì thì học
đến nơi, đến chốn, có ý thức chịu trách nhiệm về sản phẩm làm ra. “Khéo tay,
hay nghề” là câu ca tụng đất trăm nghề chốn kinh kỳ. Ở đây không có chỗ cho

thợ kém mà phải là thợ cả, thợ đầu đàn mới đủ sức cạnh tranh và phục vụ lớp
người sành tiêu dung, biết của tốt, lại giàu có.
Người Hà Nội coi trọng gia đình, gia phong bởi đó là một cái nôi tạo
dựng các thế hệ tương lai cho đất nước. Cha mẹ, ông bà luôn là tấm gương
mẫu mực cho con cái noi theo. Các cụ già có thú chơi tao nhã như: Uống trà,
chơi cờ, nuôi cá, dưỡng tâm, nuôi chim dưỡng tính, nuôi lan cân bằng sinh
thái, tạo môi trường xanh, sạch, đẹp cho nhà, cho phố, cho thủ đô…
Hà Nội cũng là nơi sinh ra rất nhiều nhà văn, nhà thơ tài năng. Như
trong lời bài viết cho cuốn: “Sống mãi với Thủ đô” (tiểu thuyết của Nguyễn
Huy Tưởng) in ra 1961, nhà văn Nguyễn Tuân từng đưa ra một nhận xét
Trang 8


chung: “Hình như hầu hết danh nhân, anh hùng cổ kim nước ta đều là những
con người Hà Nội”. Cũng là một điều đúng khi mọi người bảo rằng thủ đô là
nơi kết tinh mọi phong vị nhân tài của một dân tộc đời này qua đời khác.
Hà Nội là nơi người ta có thể học hỏi dễ dàng; những người ở Huế,
Sài Gòn ra chơi đều khâm phục Hà Nội về những cửa hàng sách. Người ta
khen Hà Nội là nơi mà nhiều thiếu niên ham muốn Quốc Văn, dễ học, dễ khảo
cứu, dễ tìm tòi…
Vì vậy, người Hà Nội chúng ta không phải người đô thị lạnh lùng, cô
độc, “Đèn nhà ai nhà ấy rạng” mà ngược lại, luôn quan tâm, chu đáo với nhau
cả khi “Tối lửa tắt đèn” lẫn trong cuộc sống thường ngày. Trọng tình là giá trị
truyền thống trong nền văn hóa mang đậm tính cộng đồng của người Hà Nội.
Và thái độ ân cần, niềm nở trong giao tiếp chính là một nét đẹp của văn hóa
người Hà Nội.
Điểm lại một cách có hệ thống các công trình bài viết nghiên cứu về
Hà Nội nói chung, về vẻ đẹp người Hà Nội trong các tác phẩm văn xuôi nói
riêng, chúng tôi thấy hầu như các tác giả mới dừng lại ở việc khẳng định
những giá trị văn hóa truyền thống, tình yêu với thủ đô Hà Nội chứ chưa ai đi

sâu vào nghiên cứu một vấn đề rất độc đáo trong các tác phẩm văn xuôi viết
về người Hà Nội, đó là: Vẻ đẹp của người Hà Nội trong các áng văn.
Chính vì “Khoảng trống” đó chưa được chú ý lấp đầy là lí do, điều
kiện để chúng tôi thực hiện đề tài: Vẻ đẹp của người Hà Nội qua văn xuôi viết
về Hà Nội. Hy vọng đề tài này sẽ góp một tiếng nói khẳng định những giá trị
truyền thống lịch sử của đất nghìn năm văn hiến, bên cạnh đó là những con
người tài hoa đã góp phần làm cho đất nước ngày một phồn vinh, thịnh vượng,
đưa đất nước đi lên sánh vai với các cường quốc năm châu. Và trong giới hạn
bài viết này chúng tôi xin đi vào phân tích một số tác phẩm tiêu biểu như:“ Hà
Nội 36 phố phường ” của Thạch Lam; “Thú ăn chơi người Hà Nội” của Băng
Trang 9


Sơn; “ Miếng ngon Hà Nội” và “ Thương nhớ mười hai” của Vũ Bằng;, “Sống
mãi với Thủ đô ” của Nguyễn Huy Tưởng; Tùy bút “Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi”
của Nguyễn Tuân…
III.

Mục đích, ý nghĩa của đề tài
Mục đích của đề tài là tìm hiểu vẻ đẹp của người Hà Nội trong các

tác phẩm văn xuôi viết về Hà Nội. Từ đó có thể đánh giá một cách chân thực
hơn về con người Hà Nội qua các thời đại. Dù sống ở thời nào, hoàn cảnh nào
người Hà Nội vẫn toát lên nét thanh lịch và khí phách kiên cường, sự anh
dũng vốn có của mình. Qua đó ta thấy được tình yêu thủ đô cũng như con
người nơi đây của các nhà văn.
IV.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


1.

Đối tượng nghiên cứu
Vẻ đẹp người Hà Nội của các tác phẩm văn xuôi viết về Hà Nội.

2.

Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung khảo sát các tác phẩm: “ Hà Nội 36 phố phường ”

của Thạch Lam; “Thú ăn chơi người Hà Nội” của Băng Sơn; “ Miếng ngon Hà
Nội” và “ Thương nhớ mười hai” của Vũ Bằng; “Sống mãi với Thủ đô ” của
Nguyễn Huy Tưởng; Tùy bút “Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi” của Nguyễn Tuân…
V.

Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này chúng tôi đề ra một số nhiệm vụ sau:
Tìm hiểu những nét đẹp của người Hà Nội trong thời chiến và thời bình
Trong quá trình tìm hiểu vẻ đẹp của người Hà Nội ta thấy được tình

yêu, sự gắn bó với thủ đô cũng như con người nơi đây của các văn nghệ sĩ.
VI.

Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu

văn học chính như:
Phương pháp lịch sử - xã hội
Trang 10



Phương pháp tiếp cận hệ thống
Phương pháp so sánh văn học
Phương pháp tiếp cận văn hóa học
Phương pháp tiếp cận thi pháp học
Ngoài ra người viết cũng thường xuyên sử dụng các thao tác khoa học như thống
kê, phân loại, so sánh, đối chiếu ....
VII.

Ý nghĩa việc nghiên cứu

Thấy được vẻ đẹp của người dân Hà Nội có gì đó rất chung với vẻ đẹp
của người dân Việt Nam, nhưng có gì đó cũng rất riêng nên mới tạo nên sự
độc đáo.

Trang 11


NỘI DUNG
CHƯƠNG I: VỊ TRÍ CỦA HÀ NỘI TRONG LÒNG ĐẤT NƯỚCVÀ VỊ
TRÍ CỦA BẢN SẮC NGƯỜI HÀ NỘI TRONG TỔNG THỂ VẺ ĐẸP
CỦA THỦ ĐÔ
1.1: Hà Nội – nơi kế thừa và tụ hội văn hóa các thời đại
Thăng Long – Hà Nội – thủ đô hơn 1000 năm tuổi từ lâu đã trở thành
biểu tượng cho các giá trị văn hóa của dân tộc, là niềm tự hào của mỗi người
dân Việt Nam. Nằm trong vùng tam giác châu thổ sông Hồng có đất đai màu
mỡ, trù phú, nơi đây sớm trở thành trung tâm chính trị và tôn giáo ngay từ
những buổi đầu của lịch sử Việt Nam. Khi quyết định chọn vùng đất này làm
kinh đô, Lý Thái Tổ đã khẳng định nơi đây “thật là chốn hội tụ trọng yếu của
bốn phương đất nước, cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”.

Marcel Proust cho rằng: “Khi đến một thành phố nào đó ta thường tìm
kiếm một tâm hồn”. Quả đúng như thế, khi đến với Thăng Long – Hà Nội,
chúng ta sẽ cảm nhận được tâm hồn của thành phố, không phải qua sự lộng
lẫy, giàu sang mà qua vẻ đẹp rất riêng và bản sắc văn hóa đặc trưng của nó,
như lời ca đầy hùng tráng của cố nhạc sĩ Nguyễn Đình Thi: “Đây là hồn núi
sông ngàn năm”. Với phong cách thiên nhiên ưu đãi, có sông, có núi, có hồ, có
cây cối phong phú đa dạng, khí hậu bốn mùa thay đổi, Hà Nôi luôn khiến cho
bất cứ ai cũng phải xao lòng bởi cảnh sắc nơi đây. Mùa xuân đầy sức sống với
những sắc hoa tươi thắm của Nhật Tân, Quảng Bá. Mùa hạ sôi động với tiếng
ve râm ran trên những cây phượng rực trời hoa đỏ. Mùa đông ngập ngừng với
những cơn gió lạnh lẫn với những cơn mưa lá bay đầy trời. Và không đâu có
mùa thu trên mặt hồ Gươm hay mặt hồ Tây kèm theo cái lạnh se lòng của gió
thu mơn trớn, với hương hoa sữa nồng nàn và những “cây cơm nguội vàng,
cây bàng lá đổ” làm nôn nao cả lòng người.
Trang 12


Bên cạnh vẻ đẹp của thiên nhiên, phố cổ cũng làm nên tâm hồn của Hà
Nội. Đây là một trong những kiến trúc độc đáo, mang đậm bản sắc dân tộc
Việt, có sắc thái đặc trưng của một khu dân cư sản xuất chủ yếu là nghề thủ
công truyền thống. Nơi đây diễn ra đồng thời nhiều hoạt động trong đời sống
hằng ngày của cư dân đô thị như: sinh sống, bán hàng, sản xuất, lễ hội, nghỉ
ngơi…Tất cả nhũng điều đó tạo nên nét riêng của thủ đô hoa lệ. Cùng với khu
phố cổ, những ngõ nhỏ, phố nhỏ chính là niềm yêu của người ở lại và là nỗi
nhớ của những người phải xa mảnh đất này.
Tròn 1000 năm trước, Đức Lý Thái Tổ đã đưa ra một quyết định lịch
sử: dời đế đô từ Hoa Lư về Đại La, lập nên “thượng đô kinh sư mãi mãi muôn
đời” - Thăng Long - Hà Nội. Trong Chiếu dời đô, đức vua khai sáng triều Lý
đã cho thấy rõ một tầm nhìn vượt thời đại khi Người nói rõ việc thiên đô là
“cốt để mưu nghiệp lớn, chọn chỗ ở giữa, làm kế cho con cháu muôn đời”.

Người đã “xem khắp nước Việt” để chọn ra “nơi thắng địa”, “chỗ tụ hội quan
yếu của bốn phương”, “được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông
tây, tiện nghi núi sông sau trước” làm kinh đô mới của nước Đại Việt. Kể từ
đó, Thăng Long - Hà Nội đã trở thành trung tâm đầu não chính trị, hành chính,
kinh tế, văn hóa của cả nước, nơi lắng hồn núi sông, nơi kết tinh, tỏa sáng và
lan rộng những giá trị tốt đẹp nhất của nền văn minh - văn hiến Đại Việt - Việt
Nam.
Với ý nghĩa là thủ đô của nước Việt Nam, trong lịch sử cũng như hiện
tại, Thăng Long - Hà Nội là nơi tiêu biểu cho cả nước, là nơi hội tụ, kết tinh
những giá trị và truyền thống tốt đẹp nhất của dân tộc. Vì vậy nói đến những
giá trị cốt lõi trong nền tảng văn minh, văn hiến của Thăng Long - Hà Nội thì
trên một mức độ nào đó cũng có nghĩa là nói đến những giá trị cốt lõi của toàn
dân tộc Việt Nam. Mặt khác, với tính cách là một không gian văn hóa - lịch sử

Trang 13


cụ thể, Thăng Long - Hà Nội cũng có những giá trị, những sắc thái và truyền
thống văn hóa riêng.
Hệ giá trị và các truyền thống văn hóa của Thăng Long - Hà Nội đã
được đề cập đến trong khá nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học
Việt Nam và nước ngoài. Có thể nhấn mạnh một số giá trị cốt lõi nhất, tiêu
biểu cho truyền thống văn minh - văn hiến của Thủ đô và của toàn dân tộc
Việt Nam.
Thứ nhất, “yêu nước” chính là giá trị cốt lõi, là yếu tố nền tảng của nền
văn minh - văn hiến Việt Nam nói chung và của Thăng Long - Hà Nội nói
riêng
Với tính cách là đế đô - thủ đô, Thăng Long - Hà Nội từ 1000 năm nay
luôn luôn là biểu tượng ngời sáng của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, của tinh
thần đấu tranh anh dũng chống giặc ngoại xâm và cũng là biểu trưng cho tính

thống nhất và khối đại đoàn kết dân tộc. Đây là nơi đã ghi dấu những chiến
công oai hùng, hiển hách nhất trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc và
chống giặc ngoại xâm. Những chiến công lẫy lừng gắn với các địa danh lịch
sử như Chương Dương, Hàm Tử, Tây Kết, Đông Bộ đầu, Đông Quan, Đống
Đa và gần đây nhất là trận “Điện Biên Phủ trên không” là những mốc son chói
lọi trong lịch sử oai hùng của dân tộc.
Tinh thần yêu nước và tính chất biểu trưng cho đại nghĩa dân tộc trong
tảng nền văn hiến - văn minh của Thăng Long - Hà Nội không chỉ ngời sáng
lên trong những trang sử vàng đấu tranh chống ngoại xâm, loại trừ nội phản
mà còn chủ yếu được thể hiện trong vai trò của chốn đế đô - nơi hội tụ ý chí,
tình cảm và niềm tin của toàn cộng đồng dân tộc. Với tính cách là trung tâm
đầu não chính trị - hành chính, kinh tế - văn hóa, sự tồn tại, thịnh suy, hưng
vong của Thăng Long - Hà Nội tượng trưng cho sự phồn thịnh, hưng vong của
xã tắc muôn đời. Vì vậy, mọi động thái diễn biến trong đời sống của đô thị
Trang 14


này mật thiết liên quan đến vận mệnh toàn dân tộc. Đó chính là nét riêng có
của Thăng Long - Hà Nội với tính cách là con tim, là khối óc của cả nước.
Giá trị cốt lõi thứ hai trong cơ tầng văn minh, văn hiến Thăng Long Hà Nội cần được nhấn mạnh và phát huy chính là truyền thống trọng hiền, coi
trọng tài năng và trí tuệ.
Với vị thế trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả nước, Thăng
Long - Hà Nội là nơi tụ hội của nhân tài bốn phương. Một mặt, thực tế này có
phần bắt nguồn từ truyền thống trọng hiền, thượng hiền của các triều đại quân
chủ Việt Nam. Mặt khác, truyền thống này cũng xuất phát từ nhu cầu phát
triển tự thân của Thăng Long - Hà Nội. Những dòng chữ khắc trên tấm bia
tiến sĩ năm 1442, rằng “Hiền tài là nguyên khí quốc gia. Nguyên khí thịnh thì
thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn”.
Không chỉ là nơi tuyên ngôn cho chính sách trọng hiền của một triều đại quân
chủ mà chính là sự đúc kết một kinh nghiệm lịch sử lớn và là sự khẳng định

một giá trị cốt lõi, hằng xuyên của truyền thống văn hiến Thăng Long - Hà
Nội.
Nhìn xuyên suốt chiều dài lịch sử 1000 năm, có thể thấy hầu như những
nhân tài kiệt xuất nhất của đất nước đều đã từng hội tụ về mảnh đất Nghìn
năm văn vật này. Đó không chỉ là những nhân tài xuất chúng trong các lĩnh
vực chính trị, quân sự mà còn là những nhà khoa học, nhà văn hóa tài danh lỗi
lạc. Bên cạnh đó là đội ngũ hết sức đông đảo thợ thủ công, những nghệ nhân
với đầu óc sáng tạo phi thường và với những bàn tay vô cùng khéo léo, tinh
xảo. Tất cả đã cùng làm nên một Thăng Long - Hà Nội trí tuệ, sâu lắng và hào
hoa.
Đây chính là cơ sở quan trọng chắp cánh cho Hà Nội và cả nước trong
kỷ nguyên mới của thời đại cách mạng khoa học công nghệ, toàn cầu hóa và
kinh tế tri thức. Ngày nay, Hà Nội đã trở thành thành phố đại học, thành trung
Trang 15


tâm khoa học công nghệ quan trọng bậc nhất cả nước. Truyền thống thượng
hiền, trọng dụng nhân tài phải thực sự biến thành những chủ trương, những
giải pháp thực tiễn để làm cho Hà Nội tiếp tục xứng đáng là nơi tụ hội của
nhân tài bốn phương và là biểu tượng của trí tuệ Việt Nam.
Giá trị cốt lõi thứ ba trong cơ tầng văn minh - văn hiến của Thăng Long
- Hà Nội là nhân văn, nhân ái, khoan hậu, dung hòa.
Đây cũng là truyền thống, là đạo lý lớn của toàn dân tộc được kết tinh
trong lịch sử dựng nước và giữ nước lâu dài, nhưng không rõ ở đâu giá trị,
truyền thống và đạo lý đó lại tỏa sáng và hiện thị rõ ràng như tại không gian
văn hóa Thăng Long - Hà Nội. Tinh thần nhân ái, nhân văn, khoan hậu, dung
hòa thấm đẫm trong từng kế sách trị quốc, an dân của các bậc minh quân, hiền
nhân qua nhiều triều đại, cô đọng trong lời căn dặn thiết tha của Trần Hưng
Đạo “khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc”, lấy đó làm “thượng sách để
giữ nước”; đó cũng là cội rễ của đạo trị nước, như Ức Trai đã chỉ ra: “việc

nhân nghĩa cốt ở yêu dân”, bậc minh quân “phải để lòng nơi nhân nghĩa, coi
nhân nghĩa là chỗ đứng của mình”, phải “yêu nuôi muôn dân, để chốn xóm
thôn không còn tiếng oán giận buồn than”.
Đến thời đại Hồ Chí Minh, truyền thống nhân văn, nhân ái, khoan hòa
càng được phát huy và cụ thể hóa trong từng chính sách, từng việc làm của
Đảng và Nhà nước, của chính quyền nhân dân theo nguyên tắc đã được Chủ
tịch Hồ Chí Minh quán triệt: “Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì
có hại cho dân phải hết sức tránh”.
Giá trị cốt lõi thứ tư và cũng là một nét văn hóa đặc trưng của người
Thăng Long - Hà Nội là hào hoa, thanh lịch trong lối sống, trong ứng xử hằng
ngày.
Trải qua lịch sử hàng ngàn năm, nhân dân ta ở mọi miền, mọi vùng của
Tổ quốc đã chung đúc nên những thuần phong mỹ tục, những nét đẹp văn hóa
Trang 16


trong lối sống, trong phép đối nhân xử thế và trong sinh hoạt cộng đồng. Là
nơi tụ hội quan yếu của bốn phương, Thăng Long - Hà Nội đã luôn mở rộng
lòng mình đón nhận những tinh hoa văn hóa được những dòng người từ mọi
vùng quê, mọi ngả đường đất nước mang chuyển về bằng những phương tiện
và phương thức khác nhau, trong những thời điểm và hoàn cảnh khác nhau.
Từ rất sớm, Thăng Long - Hà Nội cũng đã trở thành một đầu mối giao lưu
quốc tế quan trọng nhất của cả nước, qua đó những tinh hoa văn hóa Đông Tây đã được tiếp thu, thẩm thấu có chọn lọc, đồng thời những giá trị và thế
ứng xử dân tộc có điều kiện tiếp xúc, giao lưu, cọ xát và sàng lọc. Cuối cùng,
những gì còn đọng lại, được lựa chọn để trở thành nét, thành diện mạo, lối
sống và phép ứng xử ở “đất kinh kỳ” phải là những cái hay, cái đẹp, cái tinh
túy tiêu biểu nhất nhưng lại hết sức giản dị, dung hòa. Đó chính là nét hào
hoa, thanh lịch riêng có của đất và người Thăng Long - Hà Nội.
Trong những thời điểm và những hoàn cảnh nhất định, do tác động của
những nhân tố cụ thể nào đó mà những dáng nét hào hoa, dung dị của Thăng

Long - Hà Nội bị va đập, biến dạng, lu mờ, thậm chí chỉ còn lại như những
hoài niệm “lối xưa xe ngựa hồn thu thảo - nền cũ lâu đài bóng tịch dương”.
Lại có lúc dường như vẻ hào hoa, thanh lịch vốn có của Hà Nội bị đe dọa
nghiêm trọng bởi những sự gấp gáp, xô bồ, lai căng của thời kỳ kinh tế thị
trường và mở cửa hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, điều gì đã và đang xảy ra với
Hà Nội cũng là những gì đã và đang xảy ra với cả nước và với thủ đô của
nhiều nước trên thế giới. Càng tự hào bao nhiêu về truyền thống văn minh văn hiến của dân tộc, tự hào về truyền thống và những nét đẹp hào hoa, thanh
lịch của Thủ đô, chúng ta càng phải có trách nhiệm đầy đủ hơn với những giá
trị truyền thống ấy trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế hiện nay. Đường lối văn hóa của Đảng nhằm xây dựng một nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc chính là kim chỉ nam đối với
Trang 17


Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Hà Nội nói riêng và nhân dân cả nước nói
chung trong việc thực hiện những giải pháp thực tiễn để phát huy cao độ
những tinh hoa văn hóa truyền thống, tiếp thu có chọn lọc những thành tựu
văn minh hiện đại của nhân loại, đưa văn minh - văn hiến Việt Nam lên tầm
cao mới của thời đại.
Thứ năm, tiên phong, hiện đại, đổi mới chính là một trong những giá trị
cốt lõi được chung đúc, kết tinh trong cơ tầng văn hiến của Thăng Long - Hà
Nội
Đức Lý Thái Tổ chính là người đã phát hiện ra thế đất “rồng bay” của
thủ đô Hà Nội. Trải qua 1000 năm, Thăng Long - Hà Nội đã và vẫn luôn xứng
đáng với vị thế rồng bay của mình. Từ đầu thế kỷ XI đến đầu thế kỷ XIX,
Thăng Long là biểu tượng rực rỡ, tiêu biểu nhất của kỷ nguyên văn minh Đại
Việt. Trong thời đại Hồ Chí Minh, tính tiên phong của Hả Nội ngày càng được
phát huy và tỏa sáng. Chính tại nơi đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc
bản Tuyên ngôn độc lập lịch sử khai sinh ra nước Việt Nam mới, khai sáng
nền dân chủ cộng hòa. Cũng tại nơi đây, quân và dân Thủ đô đã anh dũng

đương đầu với thực dân Pháp với tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
Cũng chính Hà Nội là nơi đã đập tan ý chí xâm lăng của Mỹ trong trận Điện
Biên Phủ trên không oai hùng. Tiếp đó, Hà Nội lại là nơi khơi nguồn cho ánh
sáng trí tuệ của công cuộc Đổi mới, mở đường cho công cuộc chấn hưng dân
tộc và hội nhập quốc tế.
Những giá trị cốt lõi trên đây không tồn tại tách biệt nhau, mà ngược lại
cùng hòa quyện, tạo nên bản sắc và cơ tầng văn minh - văn hiến của đất và
người Thăng Long - Hà Nội trong suốt 1000 năm qua và tiếp tục là bệ đỡ tinh
thần, là yếu tố dẫn đường và quy tụ sức mạnh tổng hợp của Thủ đô trong thiên
niên kỷ mới.

Trang 18


Đến đây ta có thể khẳng định rằng: Thăng Long- Hà Nội là nơi hội tụ
tinh hoa các thời đại, là nơi định đô bậc nhất của Đế vương muôn đời (Chiếu
dời đô của Đức vua Lý Công Uẩn), là nơi có sự phát triển sớm nhất sự nghiệp
giáo dục của cả nước, nơi có trường Đại học đầu tiên, nơi thường xuyên tổ
chức các cuộc thi tuyển người tài cao, học rộng. Người Thăng Long- Hà Nội
có nhu cầu cao về phát triển trí tuệ, phát triển tài năng và trong thực tế con
người nơi đây đã bao đời nay chứng tỏ các khả năng đó. Và trong suốt chiều
dài lịch sử hình thành và phát triển đô thị Thăng Long- Hà Nội, người Hà Nội
đã kế thừa và phát huy nếp sống thanh lịch cũng như truyền thống yêu nước
của cha ông ta. Người Hà Nội, luôn ý thức được vai trò quan trọng của mình
là người đại diện cho dân tộc, điều đó gợi lên lòng tự hào sâu sắc, là nguồn
động viên, khuyến khích họ tu dưỡng bồi đắp những phẩm cách đẹp đẽ để
xứng đáng là người dân của thủ đô ngàn năm văn hiến. Đây là những phẩm
chất tốt đẹp tiêu biểu cho người Hà Nội nói riêng và con người Việt Nam mọi
thế hệ nói chung.
1.2: Hà Nội – nơi giao lưu và tụ hội văn hóa cả nước.

Với vai trò là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của cả nước hàng
ngàn năm, Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội đã là trung tâm giao lưu của các
nền văn hóa, tiếp nhận tinh hoa văn hóa từ mọi nơi và lan tỏa ngược lại ra các
nơi khác. Văn hóa Hà Nội vì thế là tổng hòa các yếu tố giao lưu, hội nhập,
dung hòa, tiếp biến một cách cởi mở, linh hoạt, để tạo nên bản sắc Thăng
Long – Hà Nội, một vùng đất “hội thủy, hội nhân và hội tụ văn hóa vô cùng
phong phú và đa dạng”.
Thăng Long - Hà Nội là nơi hội tụ nhân tài, hội tụ nghề hay, người dân
khắp nơi trong nước tìm đến sinh sống. Tới kinh đô, họ mang theo tinh hoa
quê hương góp cho Hà Nội nhưng đồng thời mang theo tập quán kẻ quê. Hà
Nội như cái sàng, sàng lọc, gom nhặt từ những cái đẹp nhỏ nhất của bốn
Trang 19


phương để làm giàu thêm vốn văn hoá cho mình, gạt bỏ những gì không thích
hợp rồi định hình, định tính, định vị cái thanh lịch cũng như toả sáng văn hoá
thủ đô đi các nơi. Nét đặc trưng của văn hoá Hà Nội là nêu gương nếp sống để
người “tứ chiếng” về cư trú noi theo.
Theo các nhà sử học, Hà Nội còn có tên dân gian là Kẻ Chợ. Danh từ
Kẻ Chợ vốn có nghĩa là nơi họp chợ. Là nơi họp chợ nên nơi đây thường là
chốn hội tụ các ngành nghề thủ công, mỹ nghệ, để đáp ứng nhu cầu của thị
trường. Vì vậy danh từ Kẻ chợ vốn có thể dùng để gọi bất cứ thành thị nào.
Thế nhưng từ lâu, danh từ chung ấy đã chuyển biến thành danh từ riêng để gọi
Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội. Kẻ chợ ở bên bờ sông Nhị, sông Tô, sông
Kim Ngưu luôn luôn nhộn nhịp “trên bến dưới thuyền” với biết bao đặc sản
được chuyên chở về đây. Bở thế, Thăng Long – Hà Nội cũng là nơi hội tụ của
những món ngon vật lạ, của những gì tinh túy nhất của khắp các vùng miền,
nơi được dân gian xếp lại “thứ nhất Kinh kì, thứ nhì phố Hiến”. Hà nội có
nhiều thức quà nức danh khắp chốn như: Phở, bún chả, bún thang, bánh tôm,
xôi lúa…Nhiều đặc sản địa phương đã đi vào tục ngữ, ca dao: “Cốm Vòng,

gạo tám Mễ Trì/Tương bần, húng Láng còn gì ngon hơn”. “Dưa La, húng
Láng, nem Bảng, tương Bần/ Nước mắm Vạn Băn, cá rô Đầm Sét”, “Bánh
cuốn Thanh Trì, bánh dì (dày) Quán Gánh”. Nhiều tên phố còn gắn với đặc
sản nổi tiếng như chả cá Lã Vọng, bánh cốm Hàng Than, bánh trung thu Hàng
Đường… Điều đặc biệt trong văn hóa ẩm thực Hà Nội là coi trọng giá trị tinh
thần trong cách thưởng thức cũng như nét đẹp giao tiếp trong ăn uống.
Không chỉ trong lĩnh vực văn hóa ẩm thực mà trong các lĩnh vực như
trang phục, giao tiếp, ứng xử…Người Hà Nội cũng toát lên cốt cách thanh
lịch. Sự tế nhị, lịch lãm, tự tin của người Hà Nội được gói gọn trong câu ca:
“Chẳng thơm cũng thể hoa nhài/ Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”.
Kẻ Chợ là nơi hội tụ người tứ xứ, do đó cũng là nơi chung đúc tiếng nói của
Trang 20


bốn phương, rồi qua sàng lọc tự nhiên đã lắng đọng những gì tinh túy nhất,
tiêu biểu nhất, hợp lí nhất. Thăng Long – Hà Nội là nơi hội tụ, tích hợp các
luồng văn hóa để rồi thẩm thấu, chắt lọc và toả sáng. Vì thế, mảnh đất đại linh
nhân kiệt này đã hun đúc nên những khí phách, những tinh hoa của dân tộc.
Có một câu hỏi đặt ra ở đây là: Vì sao Hà Nội lại có sức hấp dẫn và thu
hút mọi nhân tài quy tụ về đây sinh sống? Để lý giải cho câu hỏi này chúng tôi
xin đưa ra một vài số liệu sau:
Hà Nội ở tọa độ địa lý thuận lợi về nhiều mặt, với kinh độ 105 087 đông
và 21005 bắc. Phía Bắc có dải Tam Đảo cách trung tâm Hà Nội khoảng 50km
nơi hội tụ các dãy núi và thung lũng. Che chở phía Tây và Tây nam là dải Ba
Vì, mở đường đi sâu vào các miền thượng đạo xuyên suốt miền Trung đất
nước. Thiên nhiên Hà Nội phong phú, tươi đẹp, nơi hội tụ núi - sông - hồ; khí
hậu ấm áp, thuận hòa; đầu mối giao thông thuận lợi. Sau 1000 năm, Hà Nội
ngày nay và Thăng Long xưa tuy khác nhau nhiều về địa lý, tự nhiên nhưng
những điểm ưu việt của điều kiện địa lý và tự nhiên của Thăng Long vùng với
những ưu thế mới sau khi mở rộng vẫn tạo ra những thế mạnh cho Hà

Nội. Thứ nhất, với diện tích 3.344 km2, cơ cấu đất đai đa dạng - vừa có đất
bằng phẳng, cao ráo, nằm trên đồng bằng mầu mỡ, vừa có vùng bán sơn địa,
vùng rừng núi, hệ sinh thái động thực vật phong phú, thuận lợi cho phát triển
kinh tế. Thứ hai, vị thế trung tâm của Hà Nội, đầu mối giao thương, lại nằm
bên con sông lớn, khiến cho giao thông với các địa phương khác dễ dàng,
thuận tiện. Từ Hà Nội đi các thành phố, thị xã của Bắc Bộ cũng như của cả
nước rất dễ dàng bằng cả đường ô tô, đường sắt, đường thủy, đường hàng
không. Thêm nữa, với cảnh sắc tươi đẹp và con người thanh lịch, Hà Nội là
nguồn cảm hứng sáng tạo thơ ca, nhạc, họa, tạo nên sức hút du khách bốn
phương…. Đó là những yếu tố thuận lợi gắn bó chặt chẽ Hà Nội với cả nước

Trang 21


và tạo điều kiện để Hà Nội giao lưu, hội nhập quốc tế, khu vực, tham gia vào
quá trình phát triển năng động của vùng Đông Nam Á - Thái Bình Dương.
Đồng thời với những lợi thế về điều kiện tự nhiên, Hà Nội có nhiều
ngành nghề truyền thống có giá trị kinh tế và văn hóa cao; những giá trị truyền
thống và các thành tựu văn hóa nếu được phát huy đầy đủ, hiệu quả, sẽ chuyển
hóa trực tiếp thành các tác nhân kinh tế cho quá trình phát triển.
Với tư cách là thủ đô, Hà Nội có một số thuận lợi cơ bản trong phát
triển kinh tế - xã hội; Hà Nội được Đảng, Nhà nước chỉ đạo, tập trung đầu tư
về mọi mặt trong quá trình xây dựng và phát triển; có điều kiện thuận lợi trong
việc tiếp cận những thành tựu khoa học công nghệ và tinh hoa văn hóa thế
giới, giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề kinh tế - xã hội phát sinh có
liên quan trong quá trình toàn cầu hóa, hội nhập khu vực và quốc tế.
Là nơi đặt trụ sở các cơ quan lãnh đạo của Trung ương Đảng, Quốc hội,
Chính phủ, các đoàn thể xã hội, Thủ đô cũng là nơi diễn ra các đại hội đại biểu
toàn quốc của Đảng, các kỳ họp Quốc hội, được trực tiếp tiếp thu các nghị
quyết, đường lối, sách lược đối nội và đối ngoại cho từng giai đoạn xây dựng

và chiến đầu bảo vệ Tổ quốc. Hà Nội cũng là nơi đặt đại sứ quan của nhiều
quốc gia trên thế giới và diễn ra các hoạt động ngoại giao quan trọng. Hàng
trăm tờ báo và tạp chí, hàng nghìn đầu sách mới của gần 40 nhà xuất bản
Trung ương phát hành khắp cả nước, ra cả nước ngoài, làm phong phú đời
sống văn hóa của nhân dân và giới thiệu hình ảnh Việt Nam với bạn bè thế
giới.
Hà Nội là nơi tập trung nguồn nhân lực chất lượng cao, phần lớn các
chuyên gia đầu ngành đang công tác, nghiên cứu khoa học và giảng dạy ở Thủ
đô. Ngoài ra còn có nhiều tổ chức doanh nghiệp hoạt động trong các ngành
công nghệ hiện đại, tiên tiến. Nếu thu hút nguồn lực chất xám của nhà khoa
học, các bộ, ngành trung ương, các viện nghiên cứu, các trường đại học trên
Trang 22


địa bàn thì sẽ có được lợi thế to lớn so với các tỉnh, thành phố khác trong cả
nước.
Hà Nội đã và sẽ giữ vai trò là trung tâm kinh tế lớn nhất ở Bắc Bộ, trung
tâm kinh tế lớn của cả nước có sức hút và khả năng lan tỏa rộng lớn, tác động
trực tiếp tới quá trình phát triển của vùng Bắc Bộ và cả nước. Với dân số hơn
6,5 triệu người, Hà Nội là một thị trường lớn, đồng thời có khả năng khai thác
thị trường rộng lớn của vùng và của cả nước để sản xuất, tiêu thụ sản phẩm
công, nông nghiệp và dịch vụ.
Hà Nội trước đây được xây dựng, phát triển trên nền tảng vững chắc của
quá khứ với Cổ Loa - Thăng Long - Hà Nội, và sau khi mở rộng, có thêm
phần đất của 4 xã Lương Sơn - Hòa Bình, huyện Mê Linh - Vĩnh Phúc và toàn
bộ tỉnh Hà Tây - vùng đất của trấn Sơn Tây và đất Sơn Nam cổ xưa. Đó là
những địa danh tiêu biểu cho lịch sử hàng ngàn năm văn hiến của dân tộc Việt
Nam, nơi các tầng văn hóa, các di tích lịch sử - văn hóa có mật độ dày đặc.
Tinh hoa của trí tuệ và tài năng lao động, sáng tạo của người Thăng Long - Hà
Nội, qua 1000 năm còn kết tinh và tỏa sáng trong các di sản văn hóa vật thể,

phi vật thể với 1270 làng nghề, 5200 di tích các loại, trong đó gần 1000 di tích
được xếp hạng quốc gia, quốc gia đặc biệt, nổi bật là Hoàng thành Thăng
Long, Văn miến - Quốc Tử giám, Ca trù, Hội Gióng được UNESCO công
nhận là di sản văn hóa thế giới. Di sản văn hóa phong phú, giàu có đã tạo nên
bản sắc độc đáo của văn hiến, văn hóa Thăng Long, văn hóa Xứ Đoài vang
danh cả nước. Tầm cao và chiều sâu trong đời sống tinh thần; vẽ đẹp, sức thu
hút, cảm hóa và lan tỏa của Thủ đô chính là tinh hoa văn hóa được tích bồi
trong 1000 năm lịch sử. Đó là nguồn tài nguyên vô giá, là nguồn lực nội sinh
đặc biệt mà Hà Nội phải gìn giữ, phát triển, phát huy trên con đường đi tới văn
minh, hiện đại.

Trang 23


Chủ thể trực tiếp xây dựng, bảo vệ kinh đô - thủ đô, sáng tạo và thụ
hưởng những giá trị văn hóa, văn hiến độc đáo và giàu có trên mảnh đất nghìn
năm là cộng đồng người Thăng Long - Hà Nội. Là đầu não chính trị - hành
chính quốc gia, Kinh đô - thủ đô bao giờ cũng là nơi tiêu biểu cho ý chí độc
lập, tự do, tự lực, tự cường, cho khí phách, bản lĩnh, trí tuệ và quyết tâm chính
trị của quốc gia, dân tộc trên con đường phát triển. Là Tổng hành dinh cơ quan
lãnh đạo cao nhất đất nước, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục,
kinh tế, giao thương quốc tế, Thăng Long - Hà Nội luôn luôn là địa bàn thu
hút, tập hợp những lực lượng tinh túy nhất trong cộng đồng dân tộc; là nơi thử
thách, phát hiện, đào luyện, sàng lọc nhân tài. Đó chính là những cơ sở để
hình thành ở kinh đô - thủ đô một cộng đồng xã hội có chất lượng cao, trong
đó phẩm chất chính trị, tài năng, và tính tích cực xã hội là những tố chất nổi
trội. Hiện nay, Hà Nội có dân số 6,5 triệu người - một nguồn nhân lực dồi dào,
trong đó có hàng vạn cán bộ lãnh đạo, quản lý các cơ quan trung ương và
thành phố; có hàng trăm tướng lĩnh, hàng vạn sĩ quan cấp tá, hàng vạn cán bộ
trung cao cấp qua các thời kỳ cách mạng; hàng chục vạn trí thức, văn nghệ sĩ

có trình độ và tâm huyết, công nhân bậc cao, thợ lành nghề, doanh nhân giỏi,
sinh viên tài năng; hàng chục vạn đảng viên sinh hoạt tại Đảng bộ Hà Nội và
các đảng bộ trực thuộc Trung ương. Đây là nguồn lực quan trọng và quí giá
nhất, là lợi thế duy nhất có của Hà Nội cần phải được đánh giá và phát huy tốt
nhất trong thời kỳ mới.
1000 năm qua, các thế hệ người Thăng Long - Hà Nội ngày càng nhận
thức đầy đủ, sâu sắc hơn về sử dụng, phát huy ngày càng hiệu quả các nguồn
lực phục vụ công cuộc xây dựng, bảo vệ kinh đô - thủ đô và để lại cho các thế
hệ hôm nay những bài học lịch sử quí giá. Đó là bài học nhận thức đúng vai
trò, vị trí của Thăng Long - Hà Nội để hoạch định chính xác kế sách phát
triển, bảo vệ kinh đô - thủ đô; bài học về nhận thức và phát huy đồng bộ, toàn
Trang 24


diện các nguồn lực tổng hợp; bài học về khai thác, sử dụng gắn liền với gìn
giữ, bồi đắp các nguồn lực; bài học về xây dựng con người, cộng đồng và đội
ngũ lãnh đạo, quản lý có tâm, có tầm và có tài sử dụng, phát huy các nguồn
lực để phát triển bền vững Thăng Long - Hà Nội. Một thiên niên kỷ đã đi qua,
song những bài học lịch sử đó vẫn vẹn nguyên giá trị, và đó cũng chính là
hành trang không thể thiếu để Hà Nội vững bước vào tương lai.
Về giáo dục, mảnh đất Kinh kỳ chính là nơi hội tụ, tôi luyện, là môi
trường giáo dục lý tưởng cho các văn nhân, nho sinh, sĩ tử của cả nước bởi nơi
đây tập trung nhiều trường học cả công và tư, cũng là nơi tổ chức những khoa
thi quan trọng của các triều đại phong kiến. Ngay từ những thế kỷ đầu của nhà
nước quân chủ chuyên chế, giáo dục Thăng Long - Hà Nội đã tồn tại song
hành cả hai hình thức: nhà nước và dân gian. Cơ sở giáo dục văn hóa chính
thống và quan trọng nhất chính là Quốc Tử Giám, được xây dựng từ năm
1070. Cho đến đầu thế kỷ XIX, khi nhà Nguyễn chuyển Văn Miếu - Quốc Tử
Giám vào Huế thì Thăng Long - Hà Nội vẫn là trung tâm giáo dục - văn hóa
thu hút đông đảo các giới trí thức, nho sinh. Ngoài giáo dục nhà nước, giáo

dục nho học dân gian cũng rất phát triển ở Thăng Long - Hà Nội với một số
trường, lớp học tư, dân lập nổi danh khi nho sinh đỗ đạt cao qua các kỳ thi.
Trên nền “đất học” Thăng Long đã nổi lên những làng khoa bảng nức tiếng cả
nước như Đông Ngạc, Tả Thanh Oai, Hạ Yên Quyết (Từ Liêm), Nguyệt Áng
(Thanh Trì), Phú Thị (Gia Lâm), Thượng Yên Quyết…
Về Văn học, Thủ đô Hà Nội là nơi hội tụ của các văn nghệ sĩ đến từ
mọi miền Tổ quốc khi mà tài năng nghệ của họ còn ở thời kỳ nhen nhúm.
Không phải đâu khác, chính bầu không khí cũng như truyền thống ngàn năm
văn hiến của thủ đô đi kích thích, bồi bổ tâm hồn họ, nâng cao nhận thức xã
hội cho họ để rồi khi tài năng nghệ thuật ấy thực sự trưởng thành, họ đã thể

Trang 25


hiện tình yêu đối với “người mẹ thứ hai” của mình bằng những tác phẩm đầy
tâm huyết.
Qua các tài liệu văn học sử cũng như qua các hồi ức, kỷ niệm của
các nhà văn, và chủ yếu là qua chuyện trò trực tiếp với các nhà văn đang sống,
ta thấy họ luôn dành tình cảm thiêng liêng của mình với Hà Nội. Vì đây là nơi
họ học nghề, trưởng thành dần về nghề nghiệp. Nhưng quan trọng hơn, đây là
nơi họ có dịp tiếp xúc với các vấn đề quan trọng của đời sống xã hội, từ đó
xác định cho mình một hướng viết đúng đắn. Có những nhà văn chưa viết gì
trực tiếp về Hà Nội, nhưng vẫn có thể nói cùng với Hà Nội mà mình đã trưởng
thành.
Từ thời phong kiến, xã hội Việt Nam phát triển thoi thóp suốt
đêm trường trung cổ, không đủ tạo ra được những thành thị lớn, nhưng một
nhóm tri thức chuyên nghiệp đã hình thành từ đây. Trong cái đêm ròng đen tối
đó, giữa bao nhiêu làng xóm bịt bùng, Hà Nội vẫn luôn luôn là một thứ đốm
sáng, ảnh hưởng toả rộng ra các vùng lân cận. Từ cuối đời Trần, ngôi trường
bên sông Tô của Chu Văn An, đã là một thứ “Trung tâm đào tạo trí thức”. Về

sau dưới triều Lê, hoặc sang đầu triều Nguyễn, bao nhiêu nhà trường của ông
đồ Cao Huy Giảng (thân sinh ra Cao Bá Quát) vẫn giữ được nhịp sinh hoạt
đều đặn, tiếng bình văn sang sảng của Bùi Huy Bích, Nguyễn Văn Siêu… nổi
tiếng một thời, khiến nhiều gia đình từ các làng xóm xa xôi cũng cố gửi con
cái đến học, và trong giới “nhất quỷ nhì ma thứ ba học trò” đó, không thiếu
những người sau này ở lại với lịch sử văn học.
Đầu thế kỷ XX, Hà Nội tiếp tục đóng vai trò trung tâm của văn hoá,
giáo dục cả nước, học sinh người các tỉnh khác về học ở Hà Nội càng nhiều.
Một vai trò khác mà thủ đô có được trong cuộc đời của nhiều nhà văn: sau khi
đã học hành đầy đủ ở quê nhà, họ lên Hà Nội lập nghiệp; ba mươi sáu phố
phường vừa là môi trường mở ra cho họ “kiếm sống” , vừa là “những trường
Trang 26


×