Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Tổ chức dạy học các tác phẩm văn xuôi lãng mạn (Ngữ văn 11) theo phương pháp loại hình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (834.51 KB, 99 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

NGUYỄN BÍCH THỦY

TỔ CHỨC DẠY HỌC CÁC TÁC PHẨM
VĂN XUÔI LÃNG MẠN (NGỮ VĂN 11)
THEO PHƢƠNG PHÁP LOẠI HÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN

HÀ NỘI – 2015

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

NGUYỄN BÍCH THỦY

TỔ CHỨC DẠY HỌC CÁC TÁC PHẨM
VĂN XUÔI LÃNG MẠN (NGỮ VĂN 11)
THEO PHƢƠNG PHÁP LOẠI HÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN

CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP DA ̣Y HỌC
(BỘ MÔN NGỮ VĂN)
Mã số: 60 14 01 11
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. ĐOÀN ĐỨC PHƢƠNG



HÀ NỘI – 2015

2


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luâ ̣n văn , tôi đã nhâ ̣n đươ ̣c rấ t nhiề u sự quan tâm , giúp
đỡ. Nhân dip̣ này , tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đế n quý Thầ y giáo, Cô
giáo của Trường Đại học Giáo dục , Đa ̣i ho ̣c Quố c gia Hà Nô ̣i đã nhiê ̣t tiǹ h
giảng dạy và tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả trong thời gian học tập.
Tôi xin bày tỏ lòng biế t ơn chân thành, sâu sắ c tới PGS. TS. Đoàn Đƣ́c
Phƣơng - người thầ y đã tâ ̣n tiǹ h hướng dẫn , giúp đỡ tôi trong suốt quá triǹ h
làm và hoàn thiện luận văn này.
Xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô, những đồng nghiệp đang giảng dạy
tại trường THPT Sơn Tây - Hà Nội đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá
trình triển khai đề tài. Qua đây, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn gia đình, người
thân và bạn bè đã dành cho tôi sự quan tâm khích lệ và chia sẻ trong suốt thời
gian học tập và nghiên cứu.
Mặc dù có nhiều cố gắng, nhưng luận văn khó tránh khỏi thiếu sót. Tôi
rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của các thầy cô giáo và
các bạn đồng nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, Ngày 10 tháng 11 năm 2015
Tác giả

Nguyễn Bích Thủy

i



DANH MỤC TƢ̀ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Viết tắt

Viết đầy đủ

CNTT

Công nghệ thông tin

DH

Dạy học

DHTPVC

Dạy học tác phẩm văn chương

GV

Giáo viên

GS

Giáo sư

HS

Học sinh


Nxb

Nhà xuất bản

PGS

Phó giáo sư

SGV

Sách giáo viên

SGK

Sách giáo khoa

STK

Sách tham khảo

STT

Số thứ tự

TB

Trung bình

THPT


Trung học phổ thông

TS

Tiến sĩ

XHPK

Xã hội phong kiến

VN

Việt Nam

ii


MỤC LỤC
Trang
Lời cảm ơn ...............................................................................................

i.... .

Danh mục viết tắt ........................................................................................ . . ii
Mục lục ..................................................................................................... ... iii
Danh mục các bảng .................................................................................... . v
MỞ ĐẦU .................................................................................................... . 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI...........

11


1.1. Cơ sở lý luận của đề tài ............................................................................11
1.1.1. Khái lược về các phương pháp dạy học văn ........................................11
1.1.2. Lý thuyết về loại hình và phương pháp loại hình .................................13
1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài .........................................................................16
1.2.1. Thực trạng dạy học kiểu bài tác phẩm văn xuôi lãng mạn ở
THPT ...............................................................................................................16
1.2.2. Những khó khăn của giáo viên và học sinh khi dạy học bài tác
phẩm văn xuôi lãng mạn. .................................................................................20
Chƣơng 2: TỔ CHỨC DẠY HỌC CÁC TÁC PHẨM VĂN XUÔI
LÃNG MẠN THEO PHƢƠNG PHÁP LOẠI HÌNH.................................23
2.1. Yêu cầu vận dụng dạy học theo phương pháp loại hình ..........................23
2.1.1. Loại hình đề tài và kiểu phản ánh hiện thực ..........................................23
2.1.2. Loại hình cốt truyện và diễn trình cốt truyện ........................................37
2.1.3. Loại hình nhân vật và tính cách nhân vật ..............................................43
2.1.4. Khái quát loại hình tác phẩm văn xuôi lãng mạn ....................................55
2.2. Thiết kế giáo án tác phẩm văn xuôi lãng mạn Chữ người tử tù theo
phương pháp loại hình.............................................................................................56
Chƣơng 3: THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM ....................................................77
3.1. Mục đích và yêu cầu thực nghiệm ............................................................77
3.2. Đối tượng, địa bàn và thời gian thực nghiệm ...........................................77
3.3. Nội dung và tiến trình thực nghiệm ..........................................................78

iii


3.3.1. Nội dung thực nghiệm ..........................................................................78
3.3.2.Tiến trình thực nghiệm ...........................................................................78
3.3.3. Kết quả thực nghiệm, nhận xét đánh giá ...............................................80
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ. .......................................................... ...86

1. Kết luận .................................................................................................... ...86
2. Khuyến nghị..................................................................... ....................... ...87
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................... ...89
PHỤ LỤC .................................................................................................. ...91

iv


DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 1.1. Tổng hợp từ 15 giáo viên trường THPT Sơn Tây - Hà Nội
và 10 giáo viên trường THPT Xuân Khanh - Sơn Tây - Thành phố
17
Hà Nội. .................................................................................................................
Bảng 1.2. Tổng hợp 150 phiếu của HS Trường THPT Sơn Tây và
THPT Xuân Khanh- Thành phố Hà Nội. ........................................................
19
Bảng 3.1. Tổng hợp kết quả (tính ra %) của lớp thực nghiệm và lớp
đối chứng .........................................................................................................
79
Bảng 3.1: Bảng khảo sát lực học ban đầu của học sinh. .................................
80
Bảng 3.2: Tổng hợp kết quả (tính ra %) của lớp thực nghiệm và lớp
đối chứng. ........................................................................................................
81

v


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
1.1. Những năm qua nền giáo dục Việt Nam đã đạt được những thành tựu
quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển, song thực tế còn chưa theo
kịp được sự phát triển của thời đại, chưa đáp ứng với yêu cầu các ngành nghề
trong xã hội. Học sinh, sinh viên tốt nghiệp còn hạn chế về năng lực tư duy
sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng thích ứng với nghề nghiệp, khả năng tự
lập nghiệp. Những yếu kém này được bắt nguồn từ hoạt động dạy và học ở
trong nhà trường. Vì thế, để nâng cao chất lượng giáo dục ở nước ta cần thiết
phải thay đổi cách dạy và cách học.
Môn văn là môn học chính trong chương trình phổ thông có vai trò
trọng yếu trong chiến lược đào tạo con người. Dạy học nói chung và học văn
nói riêng, không thể không chú ý đến chủ thể của hoạt động ấy, đặc biệt là
người học. Điều này liên quan mật thiết đến phương pháp dạy học. Tuy nhiên,
thực trạng dạy học văn ở nhà trường phổ thông hiện nay chưa đáp ứng được
yêu cầu mới. Không ít giáo viên, dù đã có ý thức về đổi mới phương pháp dạy
học nhưng cũng chỉ dừng lại bên lề của sự thử nghiệm, tìm kiếm mô hình trên
lí thuyết sách vở, tình trạng học nhồi nhét, kiến thức nặng nề và kém sáng tạo.
Chương trình giáo dục còn theo lối truyền thống xa xưa mang nặng kiểu “hàn
lâm, kinh viện” chưa chú trọng đến tính sáng tạo, năng lực thực hành và
hướng nghiệp cho học sinh. Sự chuyển biến chậm chạp trong việc đổi mới
phương pháp dạy học văn đã làm hạn chế rất nhiều chất lượng giáo dục. Để
nhanh chóng nâng cao chất lượng bộ môn văn ở trường phổ thông đáp ứng
yêu cầu của thời đại mới đòi hỏi quan niệm dạy và học phải có sự chuyển biến
thực thụ, đổi mới một cách đồng bộ trong mọi khâu của quá trình giáo dục.
1.2. Đầu thế kỷ XX, khi “luồng gió Phương Tây thổi tới”, nó đã tạo nên một
cuộc “biến thiên” lớn nhất trong tiến trình lịch sử Văn học Việt Nam. Văn học
thời kỳ này đã kế thừa tinh hoa của truyền thống văn học dân tộc, khép lại sau
lưng mình cả mười thế kỉ văn học để mở ra phía trước một thời kỳ mới với

1



nhiều hiện tượng, nhiều xu hướng văn học ra đời và số lượng tác giả và tác
phẩm phát triển với tốc độ vũ bão. Mỗi xu hướng văn học đều có sự khác biệt
về đề tài, khuynh hướng tư tưởng, quan điểm nghệ thuật… tạo nên tính đa
dạng, phong phú, phức tạp của văn học. Đóng góp cho văn học hiện đại Việt
Nam thời kỳ này không thể không kể đến những tác phẩm Văn xuôi lãng
mạn. Từ trước tới nay đã có nhiều tác giả nghiên cứu và áp dụng dạy tác
phẩm văn xuôi lãng mạn bằng những phương pháp khác nhau, nhưng chưa có
tác giả nào đề cập đến phương pháp loại hình.
1.3. Nói đến phương pháp loại hình là nói đến phương pháp nghiên cứu
những hiện tượng văn học “có chung những đặc trưng cơ bản nào đó” nhằm
xác định vị trí, ý nghĩa đồng thời nhận dạng cấu trúc của chúng trong một hệ
thống. Đây là chìa khoá để phân loại các hiện tượng văn học trên cơ sở của
việc chứng minh các nhóm hiện tượng giống nhau theo một tiêu chuẩn nhất
định. Đối với văn xuôi lãng mạn Việt Nam, dạy học theo phương pháp loại
hình giúp học sinh hiểu được những giá trị đích thực của từng tác phẩm trong
sự vận động và phát triển của nền văn học. Ưu điểm cơ bản của phương pháp
này là nó giúp chúng ta nắm bắt các hiện tượng trong mối quan hệ tổng thể,
bao quát, xác định chủng loại của cái cá thể, hiểu được quy luật phát triển của
các hiện tượng văn học.
1.4. Thực tế giảng dạy và học tập cho thấy phương pháp dạy học tác phẩm
văn xuôi lãng mạn ở THPT, giáo viên còn lúng túng, chưa tìm ra hướng đi
thật sự hiệu quả. Trong tiết học giáo viên chưa truyền được “lửa” cho học
sinh. Vì thế, việc tìm ra cách thức tổ chức dạy học phù hợp cho từng tác phẩm
văn học là điều rất cần thiết. Dạy học tác phẩm văn xuôi lãng mạn trong
chương trình Ngữ văn 11 cụ thể là tác phẩm Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân)
và Hai đứa trẻ (Thạch Lam) đã có nhiều nhà nghiên cứu và thực nghiệm về
cách tiếp cận tác phẩm theo các phương pháp khác nhau, nhưng chủ yếu mới
chỉ khai thác những giá trị nội dung, nghệ thuật cũng như phong cách của nhà

văn ở từng tác phẩm riêng biệt mà chưa chú ý đến đặc trưng loại hình của tác

2


phẩm, chưa đặt nó trong hệ thống để so sánh với những hiện tượng văn học
khác để hiểu đặc trưng của văn xuôi lãng mạn. Vì thế, tôi nghiên cứu đề tài:
Tổ chức dạy học các tác phẩm văn xuôi lãng mạn (Ngữ văn 11) theo phương
pháp loại hình với hy vọng góp một phần vào việc nâng cao hiệu quả giờ dạy
học tác phẩm văn chương.
2. Lịch sử nghiên cứu
2.1. Những nghiên cứu phương pháp dạy học văn
Về các phương pháp dạy học văn đã có các nhà nghiên cứu về nhiều
phương pháp như: phương pháp diễn giảng, phương pháp đàm thoại, phương
pháp đọc hiểu nghệ thuật, phương pháp dạy học nêu vấn đề, phương pháp đọc
sáng tạo, phương pháp gợi tìm, phương pháp nghiên cứu, phương pháp tái
tạo, phương pháp trực quan, phương pháp dạy học ngoại khóa…
Dạy học tác phẩm văn chương theo phương pháp diễn giảng, phương
pháp gợi tìm...có công trình của tác giả Phan Trọng Luận như: Phương pháp
dạy học văn (Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội 1998); Phân tích tác phẩm văn
học trong nhà trường (1977); Cảm thụ văn học - giảng dạy văn học (1983);
Mấy vấn đề lí luận về đổi mới phương pháp dạy học tác phẩm văn chương ở
nhà trường phổ thông ( 2003); Văn chương bạn đọc sáng tạo (2011); Phân
tích, bình giảng tác phẩm văn học 11 (Nxb Giáo dục Việt Nam, 2003); Xã hội
– Văn học – Nhà trường (1996); Văn học trong nhà trường nhận diện, tiếp
cận đổi mới (Nxb Đại học Sư phạm, 2007); Phương pháp dạy học văn (Nxb
Đại học Sư phạm, 2008); Dạy học giảng văn ở trường phổ thông trung học
của Nguyễn Đức Ân ( Nxb tổng hợp Đồng Tháp); Hoàng Ngọc Hiến, Tập bài
giảng nghiên cứu văn học (1996); Nhóm tác giả trường ĐHSP Hà Nội I: Nhà
văn và tác phẩm trong trường phổ thông (Nxb Đa ̣i ho ̣c Sư pha ̣m , 2001);

Nguyễn Viết Chữ: Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương theo loại thể
(Nxb Đại học Sư phạm, 2006).
Phương pháp đọc hiểu nghệ thuật, GS.TS. Trần Đình Sử có bài viết:
“Đọc - hiểu văn bản, một khâu đột phá trong nội dung và phương pháp dạy

3


Văn hiện nay”. Tiến sĩ Nguyễn Trọng Hoàn có công trình “Một số vấn đề đọc
hiểu thơ trữ tình và tác phẩm văn chương nghị luận”(Nxb Giáo dục 2005);
“Đọc hiểu văn bản Ngữ văn 9” (Nxb Giáo dục 2007). Ngoài ra, có công trình
nghiên cứu của GS.TS. Nguyễn Thanh Hùng“Kĩ năng đọc hiểu văn” (Nxb
Đại học Sư phạm, 2011).
Phương pháp đọc sáng tạo có công trình nghiên cứu của Vũ Nho “Nghệ
thuật đọc diễn cảm” (Nxb Thanh niên, Hà Nội, 1999); Trần Đình Sử “Đọc
văn, học văn” (Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2011); Nguyễn Viết Chữ “Phương
pháp dạy học văn chương trong nhà trường” (Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2009).
Phương pháp dạy học nêu vấn đề có bài nghiên cứu của Nguyễn Văn
Cường: Một số vấn đề chung về đổi mới phương pháp dạy học ở trường trung
học; Phan Trọng Luận: Đổi mới giờ học tác phẩm văn chương ở trường trung
học phổ thông (Nxb Giáo dục, 2002); Phương pháp dạy học Văn (Nxb Giáo
dục, 2000).
Phương pháp dạy học ngoại khóa có các giáo trình về lí luận và
phương pháp dạy học văn của GS. Phan Trọng Luận đều có bàn về ngoại
khóa và các hoạt động ngoại khóa văn học như: “Hoạt động văn học ngoài
nhà trường, vị trí của công tác ngoại khóa văn học”; “Công tác ngoại khóa
văn học với nhiệm vụ đào tạo con người toàn diện của nhà trường xã hội
chủ nghĩa”; “Nguyên tắc hoạt động ngoại khóa văn học”; “Tổ chức và
hướng dẫn học sinh đọc ngoại khóa văn học” của TS.Trần Thanh Bình. Gần
đây nhất, một số Hội thảo đáng chú ý đề cập đến vấn đề hoạt động ngoại

khóa như: Hội thảo “Hiệu quả của hoạt động ngoại khóa đối với việc nâng
cao chất lượng dạy-học trong nhà trường phổ thông” của Viện nghiên cứu
giáo dục - Trung tâm Đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục; Hội thảo
“Công tác quản lí hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở trường phổ
thông” của Trường Cán bộ quản lí giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh cũng
đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề xung quanh hoạt động ngoại khóa, hoạt động
ngoại khóa văn học.

4


Phương pháp loại hình là một phương pháp được sử dụng trong nghiên
cứu văn học, cũng là phương pháp áp dụng trong dạy học văn.
2.2. Những nghiên cứu về phương pháp loại hình
Trong nghiên cứu khoa học, phương thức phổ biến nhất và lâu đời nhất
trong việc nghiên cứu về loại hình là việc phân loại các sự vật để xác định vị
trí và ý nghĩa của chúng trong một hệ thống, đồng thời nhận dạng cấu trúc của
hệ thống đó. Một tromg những người đầu tiên dùng phương pháp loại hình để
phân loại các hiện tượng văn học là nhà nghiên cứu văn học dân gian người
Nga Vladimir Propp có“Công trình hình thái học truyện cổ tích,1928”. Trong
bài viết ông cho rằng: “Những truyện cổ tích có những chức năng như nhau
có thể gọi là cùng loại hình”.
Cùng thời và sau Vladimir Propp còn có một loạt các nhà nghiên cứu
trên thế giới đã áp dụng phương pháp loại hình cấu trúc tự sự như:
Veselovski, Paul Ginestier, A.Dundes,V.Ivanov, V.Toporov, Stith Thompson,
Tz. Todorov, M.Pop, L.Dolezel…các nhà nghiên cứu này đã quy những yếu
tố khả biến thành những yếu tố bất biến nhằm rút ra những thông số cho phép
phát hiện đồng hình giữa các tác phẩm tự sự có cấu trúc tưởng như khác biệt
nhau; các thông số này cho phép thiết lập những mối liên hệ thao tác nhất
định giữa các cấp độ tổ chức khác nhau của một tác phẩm tự sự chúng được

coi là những yếu tố quy chiếu. Và ở mỗi nhà nghiên cứu thì loại hình cấu trúc
lại mang một ý nghĩa cụ thể khác nhau. Ví dụ ở Vladimir Propp ta có loại
hình chức năng; Veselovski A.Dundes, L.Dolezel có các loại hình mô tip;
Ginestier có các loại hình tình huống kịch tính; Tz. Todorov có các loại hình
tự sự tạo sinh.
Phương pháp loại hình được phát triển mạnh nhất từ những năm 1960
khi các nhà so sánh luận bắt đầu áp dụng nó để nghiên cứu các hiện tượng
tương đồng giữa các nền văn học trên thế giới. M.B Kharapchenko nghiên
cứu văn học theo phương pháp loại hình trong sách “Cá tính sáng tạo của
nhà văn và sự phát triển văn học” (Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội, 1978). M.B

5


Kharapchenko đã dùng phương pháp loại hình để khảo sát và phân loại nền
văn học Nga thế kỷ XIX, ông đã phân ra hai loại hình: Loại hình Puskin và
loại hình Gogol.
Ở Việt Nam, thuật ngữ loại hình có lẽ mới xuất hiện những năm 1970.
Nhưng trên thực tế thì từ những năm 1960, ở Việt Nam cũng đã có việc thực
hành phương pháp loại hình. Bằng chứng là GS. Đinh Gia Khánh nghiên cứu
“Truyện kiểu Tấm Cám” trong cuốn “Sơ bộ tìm hiểu những vấn đề của truyện
cổ tích qua truyện Tấm Cám”(Nxb Văn học, Hà Nội,1968). Trong cuốn sách
này, mặc dù ông nghiên cứu về loại hình “Truyện Tấm Cám” tức là những
truyện Cổ tích giống truyện Tấm Cám, nhưng ông vẫn chưa gọi là loại hình
mà gọi là “Truyện kiểu Tấm Cám”, về mặt ngữ nghĩa “kiểu” hay “loại hình”
đều là một. Có thể nói việc nghiên cứu loại hình hay phương pháp loại hình,
đã được áp dụng ở nước ta từ những năm 1960. GS. Đinh Gia Khánh có thể
được coi là một trong những người đầu tiên ở nước ta áp dụng phương pháp
này một cách đúng nguyên tắc. Trong cuốn sách nói trên, sau khi khảo sát vấn
đề GS Đinh Gia Khánh đã đưa ra kết luận và trong đó có một ý như sau:

“Trong kho tàng truyện cổ tích của mỗi nước, có rất nhiều truyện có tính chất
quốc tế, bên cạnh tính chất dân tộc. Đó trước hết là những truyện nước ngoài
di chuyển vào. Đó cũng có thể là những truyện vốn sản sinh trong nước,
nhưng lại tiếp thu một số tình tiết hoặc chi tiết nhất định của những truyện
nước ngoài. Lại không thể quên rằng nếu cùng ở một trình độ phát triển xã hội
như nhau, cùng phải lý giải những vấn đề giống nhau thì các dân tộc khác nhau
có thể sáng tác nên những truyện mà nội dung và kết cấu cơ bản giống nhau”.
2.3. Những nghiên cứu về phương pháp dạy học tác phẩm văn xuôi lãng
mạn 1932-1945
Trong mấy chục năm qua, nhất là khoảng mười năm trở lại đây đã có
nhiều nhà phương pháp với nhiều kinh nghiệm, nhiều thầy cô giáo đầy tâm
huyết đã mở ra nhiều hướng nghiên cứu ở nhiều góc độ, khía cạnh cùng với
những tìm tòi phát hiện đầy mới mẻ nhằm tìm ra hướng dạy, phương pháp,

6


biện pháp dạy học những tác phẩm văn xuôi lãng mạn 1932-1945, đặc biệt là
dạy tác phẩm Hai đứa trẻ (Thạch Lam) và Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân) ở
nhà trường phổ thông sao cho đạt hiệu quả tốt nhất, nhằm nâng cao chất
lượng dạy học văn ở trường phổ thông trong giai đoạn hiện nay. Trong đó
phải kể đến Phân tích,bình giảng tác phẩm văn học 11 của Nguyễn Đăng
Mạnh (chủ biên), Nxb Giáo dục Việt Nam, 2003; Tác phẩm văn chương trong
nhà trường phổ thông – Những con đường khám phá của Vũ Dương Quỹ - Lê
Bảo; Thiết kế bài học Ngữ văn 11(Tập 1) - Phan Trọng Luận (chủ biên); Thiết
kế bài giảng Ngữ văn 11(Tập 1) - Nguyễn Văn Đường (chủ biên); Sách giáo
viên Ngữ văn 11, tập 1 do Trần Đình Sử (Chủ biên), Nxb Giáo dục, 2007;
Thạch Lam - về Tác gia tác phẩm do Vũ Tuấn Anh, Lê Dục Tú (tuyển chọn
và giới thiệu) Nxb Giáo dục, 2007; Nguyễn Tuân - Về tác gia và tác phẩm do
Tôn Thảo Miên (tuyển chọn và giới thiệu) Nxb Giáo dục, 2007; Đặc trưng

nghệ thuật truyện ngắn Thạch Lam, Nguyễn Thành Thi, Nxb Trẻ,Thành phố
Hồ Chí Minh,1998.
Hay trong luận văn thạc sĩ của Trần Quốc Khả với đề tài: Tổ chức đối
thoại trong dạy học Chữ người tử tù, tác giả nêu khái quát về nội dung và
bản chất của phương pháp dạy học đối thoại. Từ đó vận dụng phương pháp
này vào đọc - hiểu tác phẩm Chữ người tử tù nhằm phát huy vai trò chủ động
sáng tạo cho người học.
Trong công trình nghiên cứu: “Trường nghĩa miêu tả ánh sáng trong
một số tác phẩm của Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân, Thạch Lam” của tác giả Trần
Hữu Sáng đã đưa ra cách tiếp cận tác phẩm dưới góc độ trường nghĩa ánh
sáng trong sự so sánh với tác phẩm khác. Với công trình này, tác giả chỉ tập
trung khai thác một phần của yếu tố nghệ thuật như là một con đường giải mã
thông tin trong tác phẩm. Vì vậy, độ sâu của tác phẩm chưa được khám phá
cụ thể và đầy đủ. Gần đây nhất là công trình nghiên cứu của tác giả Trần Thị
Hồng Bắc - Đại học Giáo dục đề cập đến việc: “Rèn luyện kĩ năng đọc - hiểu
tác phẩm Chữ người tử tù cho học sinh lớp 11” nhằm giúp học sinh hiểu được

7


cái hay của tác phẩm Chữ người tử tù từ tầng cấu trúc ngôn từ đến tầng cấu
trúc hình tượng nghệ thuật, cũng như tầng cấu trúc vị nhân sinh thông qua các
kĩ năng đọc chính xác, đọc phân tích, đọc sáng tạo và kĩ năng đọc tích lũy.
Từ trước đến nay có nhiều bài nghiên cứu về Thạch Lam và các tác
phẩm của Thạch Lam. Các tác giả đã tìm hiểu về tiểu sử, cuộc đời, con người,
những yếu tố quê hương, trào lưu văn học…đã ảnh hưởng như thế nào đến
sáng tác của Thạch Lam. Những bài viết đi sâu đánh giá trên cả hai phương
diện nội dung và nghệ thuật trong các sáng tác của Thạch Lam.Về Hai đứa
trẻ của Thạch Lam, các tác giả đã đi vào tìm hiểu những sáng tạo nghệ thuật
cũng như những thành công về nội dung tác phẩm, các bài nghiên cứu ở

những chi tiết nghệ thuật cụ thể như đề tài nghiên cứu của Nguyễn Thị Lơ Đại học Giáo dục:“Hướng dẫn học sinh THPT xác định chủ đề tư tưởng
thông qua việc phát hiện phân tích, bình giá biểu tượng bóng tối và ánh sáng
trong dạy học tác phẩm Hai đứa trẻ của Thạch Lam”, trong đề tài tác giả mới
chỉ đi sâu tìm hiểu về biểu tượng “bóng tối” và “ánh sáng” thể hiện trong tác
phẩm. Nhìn chung, bài viết của các tác giả trên đều chưa có cái nhìn toàn diện,
mà chủ yếu chỉ dừng lại ở một vấn đề của tác phẩm.
Có thể khẳng định rằng số lượng bài viết, bài nghiên cứu về những tác
phẩm thuộc văn xuôi lãng mạn rất phong phú và đa dạng, nhiều công trình có
giá trị, song chưa có tác giả nào tiếp cận những tác phẩm văn xuôi lãng mạn
lớp 11 theo phương pháp loại hình văn học.
Trên cơ sở kế thừa và tiếp thu những người đi trước, tôi xin đề xuất vấn
đề: Tổ chức dạy học các tác phẩm văn xuôi lãng mạn (Ngữ văn 11) theo
phương pháp loại hình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài dạy học tác phẩm văn xuôi lãng mạn theo phương
pháp loại hình nhằm mục đích đổi mới phương pháp dạy học, thông qua
phương pháp này giúp học sinh phân loại các hiện tượng văn học, trên cơ sở

8


của việc chứng minh các nhóm hiện tượng giống nhau theo một tiêu chuẩn.
Trang bị cho học sinh những kiến thức lí luận về đặc trưng loại hình văn xuôi
lãng mạn. Từ đó hướng dẫn học sinh khai thác hai tác phẩm Hai đứa trẻ
(Thạch Lam) và Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân) học trong chương trình Ngữ
văn lớp 11 theo phương pháp loại hình. Học sinh phân biệt được loại hình văn
xuôi lãng mạn Việt Nam với các loại hình văn học khác về đề tài, kiểu phản
ánh hiện thực, cốt truyện, nhân vật, tính cách nhân vật...
Ngoài việc tiếp cận nội dung kiến thức một cách có hệ thống hơn, biết so

sánh phân biệt các loại hình tác phẩm khác nhau thì quan trọng hơn là nhờ hiểu
được đặc trưng loại hình, học sinh tự khám phá cái hay, cái đẹp của các tác phẩm
khác cùng loại. Giúp học sinh nắm vững phương pháp học tập bộ môn Ngữ văn môn học có tính logic cao; giáo dục học sinh tính suy luận logic, sáng tạo.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Đề tài thực hiện nhiệm vụ tìm hiểu về tác phẩm văn xuôi lãng mạn,
đặc trưng loại hình văn xuôi lãng mạn 1932-1945.
- Tìm hiểu về thực trạng dạy học tác phẩm Hai đứa trẻ (Thạch Lam) và
Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân) ở một số trường trung học phổ thông trên
địa bàn thành phố Hà Nội.
- Tiến hành nghiên cứu, khảo sát thực tiễn để từ đó xác định hướng dạy
học hợp lý và hiệu quả cho việc dạy học tác phẩm Hai đứa trẻ (Thạch Lam)
và Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân) theo phương pháp loại hình ở trường
Trung học phổ thông Sơn Tây-Hà Nội.
- Khảo sát bằng thực nghiệm, đánh giá kết quả nghiên cứu để có cái
nhìn tổng thể về dạy học tác phẩm Hai đứa trẻ (Thạch Lam) và Chữ người tử
tù (Nguyễn Tuân)
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng được lựa chọn nghiên cứu là dạy học tác phẩm văn xuôi
lãng mạn Việt Nam, sách Ngữ văn lớp 11, cụ thể là các tác phẩm Hai đứa trẻ
(Thạch Lam) và Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân) theo phương pháp loại hình.

9


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trong phạm vi cụ thể là tác phẩm Hai đứa trẻ
(Thạch Lam) và Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân) trong chương trình Ngữ văn
lớp 11 ở trường THPT.
Đối tượng được áp dụng thực nghiệm nghiên cứu là học sinh lớp 11

Trường THPT Sơn Tây - Thành phố Hà Nội.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, xây dựng đề tài chúng tôi vận dụng nhiều
phương pháp nghiên cứu như:
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Tham khảo các tài liệu, giáo trình có
nội dung liên quan.
Phương pháp loại hình
Phương pháp phân tích, tổng hợp
Phương pháp khảo sát thực tế, thống kê, thực nghiệm
Phương pháp nghiên cứu liên ngành.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo, phụ
lục, nội dung chính của luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
Chương 2: Tổ chức dạy học các tác phẩm văn xuôi lãng mạn (Ngữ văn
11) theo phương pháp loại hình
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm

10


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lý luận của đề tài
1.1.1. Khái lược về các phương pháp dạy học văn
Trước tiên chúng ta cần hiểu phương pháp và phương pháp dạy học là
gì?. Trong triết học, phương pháp được coi là đối tượng và nội dung của logic
học, không có phương pháp thì không thể có sự vận động. Tác phẩm nổi tiếng
Bút ký triết học Lenin cũng đã tán thành các ý kiến sau đây của Hê ghen:
“Phương pháp là ý thức về hình thức vận động nội tại của bản thân nội

dung” (Trích theo Lênin, Bút ký triết học.Nxb.Sự thật,H.1977,tr.103). Một
nhà khoa học khác, A.Poawngcare, đã cho rằng về bản chất “phương pháp là
một khoa học lựa chọn” (Khoa học và phương pháp, Xanh Petecbua,1910,
tr13-14). Từ các ý kiến trên có thể hiểu phương pháp là cơ chất tạo nên diện
mạo và sắc thái của một nội dung, nó được coi là linh hồn của nội dung đang
vận động. Phương pháp là khoa học lựa chọn bước đi của nội dung, chọn các
giải pháp để nội dung vận động có hiệu quả nhất. Chức năng của phương
pháp là nghiên cứu các cách thức phân loại, hệ thống hoá, rồi định bước đi
cho hoạt động của một người, một ngành, thậm chí một khoa học. Mục đích
của phương pháp là nhằm dẫn dắt con người tới chân lý bằng con đường ngắn
nhất, mà chỉ phải bỏ ra ít công sức nhất, nhưng lại đạt hiệu quả cao nhất. Còn
về phương pháp dạy học thì theo PGS.TS Phạm Viết Vượng: “Phương pháp
dạy học là tổng hợp các cách thức hoạt động phối hợp tương tác giữa giáo
viên và học sinh, nhằm giúp học sinh chiếm lĩnh hệ thống kiến thức khoa học,
hình thành hệ thống kĩ năng kĩ xảo, thực hành sáng tạo và thái độ chuẩn mực
theo mục tiêu của quá trình dạy học.”
Theo I.D Dvene thì “Dạy học là cách thức hoạt động tương hỗ giữa thầy
và trò nhằm đạt được mục đích dạy học. Hoạt động này được thể hiện trong việc
sử dụng các nguồn nhận thức, các thủ thuật logic, các dạng hoạt động độc lập
của học sinh và cách thức điều khiển qúa trình nhận thức của giáo viên”.

11


Vậy có thể hiểu, phương pháp dạy học là những hình thức và cách thức
hoạt động của giáo viên và học sinh trong những điều kiện dạy học xác định
nhằm đạt mục đích dạy học. Đổi mới phương pháp dạy học tác phẩm văn học
là thay đổi cách dạy trước đây về hình thức và cách thức hoạt động của giáo
viên và học sinh trong một giờ học để chiếm lĩnh tri thức một cách hiệu quả
nhất, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong việc tìm

hiểu một tác phẩm văn học, hình thành cho học sinh năng lực cảm thụ và phân
tích một tác phẩm văn chương. Đổi mới phương pháp dạy và học tác phẩm văn
học là việc làm cần thiết để nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn Ngữ văn ở
trường THPT. Khoa học hiện đại cho rằng: “Đáp số của bài toán là quan trọng
nhưng quan trọng hơn cả đáp số là con đường đi đến đáp số”. Môn Ngữ văn
trong nhà trường là môn khoa học nhân văn mà văn chương vừa là khoa học
vừa là nghệ thuật, là lĩnh vực để con người hóa thân và thăng hoa. Vì thế, nó vô
cùng tinh vi và phức tạp...Tuy vẫn mang tính phức tạp của đối tượng nghiên
cứu xong là một môn học thì nó phải đòi hỏi những chuẩn mực khoa học để
đánh giá các hoạt động giảng dạy, học tập của giáo viên và học sinh. Vì thế
“con đường đi đến đáp số” chính là phương pháp dạy học văn phù hợp.
Trong ngành lý luận dạy học khi vận dụng vào dạy học văn người ta
tìm ra một số phương pháp lớn như:
Phương pháp diễn giảng tích cực (phương pháp thuyết trình): là phương
pháp mà giáo viên dùng lời nói để trình bày, phân tích, chứng minh làm sáng tỏ
một vấn đề. Ưu điểm của phương pháp này là trong một thời gian ngắn HS có
thể tiếp thu một lượng kiến thức lớn, nhanh chóng hiểu được các vấn đề phức
tạp nhưng nếu chỉ sử dụng phương pháp này HS sẽ dễ rơi vào thói quen thụ
động, chờ đợi thầy giảng thích nghe hơn thích đọc ngại tìm tòi, nghiên cứu.
Phương pháp dạy học nêu vấn đề: Là phương pháp dạy học trong đó
giáo viên tạo ra tình huống mâu thuẫn, đưa HS vào trạng thái tâm lý phải tìm
tòi khám phá, từ đó giáo viên hướng dẫn khích lệ HS tìm cách giải quyết để
nắm được kiến thức. Điều quan trọng trong phương pháp này là giáo viên

12


phải tìm được các tình huống xung đột mâu thuẫn thực tế, phù hợp với nhận
thức của HS, làm cho HS cố gắng tìm cách giải quyết.
Phương pháp đọc sáng tạo: Đây là phương pháp đặc biệt được sinh ra

do chính đặc trưng bộ môn. Nó là hệ thống các biện pháp khác nhau hỗ trợ
nhưng lấy hoạt động trung tâm vẫn là hoạt động đọc nhằm “phát triển được sự
cảm thụ sâu sắc và tạo được sự cảm thụ trực tiếp của trò với tác phẩm văn học
nghệ thuật”[4,tr.24].
Phương pháp gợi tìm: Là phương pháp dựa trên phương pháp nêu vấn
đề, chủ yếu người học đi tìm tự chiếm lĩnh tri thức của mình. Phương pháp
này giúp cho HS nỗ lực hơn trong việc tự chiếm lĩnh tác phẩm văn học từ các
kĩ năng phân tích, phê bình làm cho sự cảm thụ văn học của các em được khơi
sâu thêm, những nỗ lực trí tuệ của các em được thúc đẩy.
Phương pháp tái tạo: Là phương pháp nhớ những cái cũ và tiếp thu tri
thức mới một cách sáng tạo, tăng cường hoạt động tư duy để tăng cường hoạt
động tư duy để thuộc nhớ bài một cách tối đa.
Ngoài ra còn có một số phương pháp khác như phương pháp đàm thoại,
phương pháp trực quan, phương pháp loại hình… Phương pháp loại hình là
một phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu văn học, cũng là phương
pháp áp dụng trong dạy học văn.
Tóm lại, có nhiều phương pháp dạy học nói chung và dạy văn nói
riêng. Trong thực tế dạy học văn sẽ không có một phương pháp nào toàn vẹn,
thỏa mãn được tất cả các học sinh, các yêu cầu dạy và học văn. Để có thể dạy
- học văn một cách hiệu quả cần phải phối hợp các phương pháp khác nhau,
tùy vào từng tác phẩm cụ thể mà lựa chọn các phương pháp dạy học cho phù
hợp nhằm định hướng, gợi mở và tạo ra cho các em hứng thú, niềm say mê
với thế giới văn chương phong phú, nhiều màu sắc.
1.1.2. Lý thuyết về loại hình và phương pháp loại hình
Theo từ điển Tiếng Việt (Trung tâm từ điển ngôn ngữ,H, 1992): Loại hình
là “Tập hợp sự vật, hiện tượng cùng có chung những đặc trưng cơ bản nào đó.”

13



Nghiên cứu loại hình đã được tiến hành từ lâu nhưng để trở thành
phương pháp có tính chặt chẽ và có đối tượng áp dụng cụ thể thì phải đến thế
kỷ thứ XX phương pháp loại hình mới thực sự hình thành và được phổ biến
rộng rãi. Một trong những người đầu tiên dùng phương pháp loại hình là nhà
nghiên cứu văn học dân gian người Nga Vladimir Propp với công trình Hình
thái học truyện cổ tích (1928). Ở Việt Nam, nhà nghiên cứu Đinh Gia Khánh
đã nghiên cứu về loại hình truyện Tấm Cám, trong cuốn Sơ bộ tìm hiểu những
vấn đề của truyện cổ tích qua truyện Tấm Cám (Nxb Văn học, Hà Nội 1968).
Sách Phương pháp luận nghiên cứu văn học của PGS.TS Đoàn Đức
Phương viết:
Trong nghiên cứu văn học có hai phương thức áp dụng phương pháp
loại hình:
- Dùng phương pháp loại hình để phân loại các hiện tượng văn học,
trên cơ sở của việc chứng minh các nhóm hiện tượng giống nhau theo một
tiêu chuẩn nào đó.
- Từ những đặc điểm chung của một loạt hiện tượng văn học, có thể
chứng minh cho sự tồn tại của một loại hình văn học nào đó, liên hệ cho
quyền tồn tại và hiệu quả thẩm mỹ của nó.
Cũng có những công trình kết hợp cả hai phương thức trên, tức là trong
khi biện hộ cho một loại hình, nhà nghiên cứu lại chia nhỏ các hình thái của
một loại hình, hay chia nhỏ các loại hình thành tiểu loại hình. Trong công
trình Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học (Nxb Tác phẩm
mới, Hà Nội, 1978), MB.Khrapchenko đã dùng phương pháp loại hình để
khảo sát và phân loại nền văn học Nga thế kỷ XIX. Ông đã để xuất một
nguyên tắc phân định loại hình là nguyên tắc cấu trúc - xã hội mà cơ sở của
nó là “xung đột trong sự biểu hiện của nó”. Sau đó áp dụng cho chủ nghĩa
hiện thực Nga thế kỷ XIX, ông đã phân loại ra hai loại hình: loại hình Puskin
và loại hình Gogol.

14



Hiện nay, phương pháp loại hình là một trong những phương pháp tổng
quát, có thể áp dụng cho nhiều bộ môn khoa học của ngành nghiên cứu văn
học và có thể áp dụng làm phương pháp dạy học. Trong thực tiễn nghiên cứu
khoa học, có những hiện tượng nếu chỉ được nghiên cứu một cách riêng biệt,
thì ta khó có thể xác định được danh tính và giá trị của nó, bởi lẽ ta không có
được các tiêu chuẩn và hệ quy chiếu của nó để dựa vào đó mà đánh giá nó.
Đặc biệt với những hiện tượng mới, nếu ta xác định được loại hình của nó, thì
ta chỉ việc lấy các tiêu chuẩn và ý nghĩa loại hình của nó để gán cho nó là có
thể rất dễ dàng đánh giá được giá trị của nó. Nếu không xác định được loại
hình của nó, ta sẽ suốt đời loay hoay với nó như đứng trước một con vật lạ mà
không biết gọi tên nó là gì, và như thế thì dĩ nhiên ta cũng không thể biết
được nó có ý nghĩa giá trị gì đối với chúng ta. Giống như một người ta gặp
một con chạch chấu mà không biết nó thuộc loài cá (tức là không biết loại
hình của nó), lại tưởng nó thuộc loài rắn, thì sẽ không biết được giá trị con
chạch chấu ấy. “Sự cố” tương tự như thế này trong thực tiễn nghiên cứu văn
học chúng ta đã từng gặp phải.
Ưu điểm cơ bản của phương pháp loại hình là nó giúp chúng ta nắm bắt
các hiện tượng trong mối quan hệ tổng thể, bao quát; xác định được chủng loại
của cái cá thể; hiểu rõ được các quy luật phát triển của các hiện tượng và sự
vật. Tuy nhiên cũng cần lưu ý mọi sự phân loại chỉ là tương đối, không thể vì
phân loại mà mất mối quan hệ tương tác phổ biến giữa các sự vật. Bởi vậy
không nên tuyệt đối hóa phương pháp loại hình, mà phải luôn nắm vững các
nguyên tắc chỉ đạo phương pháp luận, đồng thời kết hợp phương pháp loại hình
với các phương pháp khác để có thể rút ra được kết luận khoa học thỏa đáng .
Nói tóm lại, những tác phẩm văn chương được đưa vào trong chương
trình SGK ở trường phổ thông đều là những tác phẩm đã qua sự chọn lọc của
thời gian và bao thế hệ người đọc cho nên đều có giá trị nhân văn sâu sắc. Đó
hầu hết là những tác phẩm tiêu biểu của những tác giả lớn có nhiều đóng góp

cho nền văn học dân tộc. Dạy học các tác phẩm văn xuôi lãng mạn theo

15


phương pháp loại hình giúp học sinh tích hợp với những kiến thức đã học, mở
rộng so sánh giữa loại hình văn học này với loại hình văn học khác, so sánh
nét độc đáo trong cùng loại hình văn học, rèn cho học sinh năng lực tư duy,
phân tích, đối chiếu…từ đó phát huy được tính tích cực, chủ động và sáng tạo
cho học sinh, giúp học sinh khắc sâu kiến thức.
1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài
1.2.1. Thực trạng dạy học kiểu bài tác phẩm văn xuôi lãng mạn ở THPT
Trong chương trình Ngữ văn 11, học sinh chỉ được học hai tác phẩm
văn xuôi lãng mạn tiêu biểu của hai nhà văn lãng mạn Việt Nam xuất sắc là
Thạch Lam và Nguyễn Tuân qua tác phẩm Hai đứa trẻ và Chữ người tử tù.
Đây là hai tác phẩm quan trọng có trong chương trình kiểm tra học kì và thi
THPT Quốc Gia nhưng phân phối chương trình dạy trong hai tiết một tác
phẩm nên giáo viên dạy thường bị “cháy giáo án”. Thực trạng dạy học kiểu bài
văn xuôi lãng mạn là giáo viên chủ yếu dạy theo đặc trưng thể loại. Cứ văn xuôi
là dạy theo loại tự sự, thơ là xếp vào loại trữ tình nên văn học hiện thực hay
lãng mạn đều có chung cách tìm hiểu. Khi dạy Chữ người tử tù giáo viên
mới chỉ tập trung tìm hiểu những hình tượng nghệ thuật: Như hình tượng
Huấn Cao, hình tượng quản ngục, cảnh tượng cho chữ, từ đó khái quát nên
giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Hay tìm hiểu tác phẩm Hai đứa
trẻ giáo viên và học sinh chỉ đi sâu khai thác theo diễn trình cốt truyện là bức
tranh phố huyện lúc chiều tối, lúc đêm về và tâm trạng đợi tàu của chị em
Liên, từ đó khái quát lên giá trị tư tưởng, nghệ thuật của tác phẩm, tức là tiếp
cận tác phẩm ở những vấn đề riêng lẻ mà chưa đặt trong hệ thống loại hình.
Học sinh không được trang bị những kiến thức lý luận về loại hình văn
xuôi lãng mạn, khi gặp những tác phẩm lãng mạn khác cùng thời, học sinh rất

lúng túng không chủ động tự tìm hiểu được những đặc điểm cơ bản của loại
hình này, không biết so sánh về cốt truyện, kiểu phản ánh hiện thực, loại hình
nhân vật và tính cách nhân vật... với văn học cổ, văn học hiện thực phê phán.

16


Để tìm hiểu thực trạng dạy và học các tác phẩm văn xuôi lãng mạn
chương trình Ngữ Văn 11- tập 1, THPT, chúng tôi đã sử dụng cách thức chủ
yếu là phát phiếu điều tra đến giáo viên và học sinh tại hai trường:
- Trường THPT Sơn Tây - Hà Nội
- Trường THPT Xuân Khanh - Sơn Tây - Hà Nội.
Sau đây là một số khái quát về thực trạng dạy tác phẩm văn xuôi lãng
mạn trong SGK Ngữ văn 11 theo phương pháp loại hình (theo thống kê từ
phiếu điều tra).
1.2.1.1. Kết quả khảo sát từ giáo viên
Bảng 1.1. Tổng hợp từ 15 giáo viên trƣờng THPT Sơn Tây - Hà Nội
và 10 giáo viên trƣờng THPT Xuân Khanh - Sơn Tây - Thành phố Hà Nội.
Câu hỏi

STT

1

Phân loại

Tôi thường cảm Rất thích
thấy rất thích khi Bình thường

32%


35%

55%

55%

13%

10%

GV dạy các tác Thường xuyên

15%

10%

phẩm văn xuôi lãng Thỉnh thoảng

65%

70%

mạn theo phương Chưa bao giờ

20%

20%

15%


20%

30%

30%

55%

50%

Nhận xét của giáo Hiệu quả cao

35%

45%

viên khi sử dụng Bình thường

55%

45%

phương pháp này? Không có hiệu quả

10%

10%

dạy tác phẩm văn

xuôi lãng mạn?

2

Kết quả
Trƣờng THPT Trƣờng THPT
Sơn Tây
Xuân Khanh

Không thích

pháp loại hình

3

Giáo

viên

từng

biết

chưa Chưa từng biết
đến Đã biết

phương pháp này? Biết nhưng ít sử
dụng

4


17


Giáo viên dạy các Thường xuyên

30%

28%

50%

52%

20%

20%

Nguyện vọng muốn Muốn biết

100%

100%

biết sâu sắc về Không biết

0%

0%


GV có thích dạy Thích dạy

30%

45%

học theo phương Bình thường

60%

45%

pháp này không?

10%

10%

tác phẩm văn xuôi
lãng
5

mạn

theo Thỉnh thoảng

phương pháp loại
hình kết hợp với Chưa bao giờ
phương pháp nêu
vấn đề, gợi mở,

diễn giải tích cực?

6

phương pháp này?

7

Không thích

Qua quá trình khảo sát kết hợp với việc giảng dạy trên lớp của giáo
viên, có thể thấy từ khâu chuẩn bị bài đến dạy học, kiểm tra, đánh giá kết quả
học tập của học sinh, các thầy cô đã thực hiện khá nghiêm túc quy trình giảng
dạy nên khám phá được phần nào giá trị nội dung cũng như nghệ thuật của tác
phẩm. Giáo viên thường tổ chức, hướng dẫn học sinh tiếp cận tác phẩm theo
đúng các bước của một giờ lên lớp. Tuy nhiên, việc khai thác tác phẩm Hai
đứa trẻ (Thạch Lam), Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân) theo phương pháp loại
hình mới chỉ được thực hiện ở một số giờ học như là đối tượng HS học sách
nâng cao. Có nhiều giờ học, giáo viên quá coi trọng hoạt động phân tích văn
bản hoặc có giáo viên lại thiên về giảng - bình, truyền thụ kiến thức một chiều
mà chưa chú ý tới đặc trưng loại hình. Các giờ học chủ yếu diễn ra theo
phương pháp thuyết trình và một vài câu hỏi đơn điệu: thầy hỏi - trò trả lời;

18


×