Tải bản đầy đủ (.pdf) (177 trang)

Tác động của phát triển các khu công nghiệp đến nông thôn qua nghiên cứu thực tiễn tại tỉnh Hưng Yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 177 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là con đường phát triển tất yếu của
mọi quốc gia trên thế giới, nhất là các nước đang phát triển, là chủ trương chính
sách lớn của Đảng và nhà nước ta. Để tiến hành CNH, HĐH trong thời gian vừa qua
các địa phương trên phạm vi cả nước đã và đang tiến hành xây dựng nhiều KCN tại
những nơi có lợi thế về đất đai và các điều kiện sản xuất khác.
Sự phát triển các KCN ở các địa phương trong cả nước hơn 20 năm qua đã
và đang có những tác động tích cực đến kinh tế- xã hội nông thôn như: góp phần
tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng ngành công
nghiệp, dịch vụ và giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp; đóng góp tích cực vào ngân
sách nhà nước; phát triển cơ sở hạ tầng tạo lên diện mạo nông thôn mới, mang lại
văn minh đô thị. Ngoài ra, còn tạo thêm việc làm cho hàng triệu lao động trực tiếp
trong các KCN và gián tiếp ở vùng ven các KCN; giúp cho một bộ phận nông dân
chuyển đổi nghề nghiệp từ sản xuất nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp hoặc
dịch vụ; làm tăng thu nhập, cải thiện đời sống của nông dân. Tuy nhiên, sự phát
triển của các KCN trong thời gian qua đã và đang có những tác động tiêu cực đến
nông thôn như: (i) làm giảm diện tích đất nông nghiệp và ảnh hưởng đến an ninh
lương thực của địa phương khi một phần diện tích đất nông nghiệp bị chuyển sang
đất xây dựng các KCN; (ii) ảnh hưởng đến vấn đề việc làm và thu nhập của người
dân nông thôn khi một bộ phận dân cư không còn đất nông nghiệp để sản xuất phải
chuyển đổi nghề nghiệp; (iii) làm ô nhiễm môi trường nông thôn do hoạt động của
các KCN; (iv) thay đổi thiết chế văn hóa nông thôn khi một lượng lớn lao động từ
nơi khác chuyển đến làm việc tại các KCN.
Hưng Yên là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, có vị trí địa
kinh tế khá thuận lợi cho việc phát triển kinh tế- xã hội, giao lưu với các tỉnh và là
cửa ngõ phía Đông của thủ đô Hà Nội. Trong những năm qua, tỉnh Hưng Yên đã có
nhiều chính sách và biện pháp để đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn, đặc biệt là tập trung xây dựng phát triển các KCN, qua đó đã đưa Hưng




2

Yên từ một tỉnh thuần nông trở thành tỉnh có ngành công nghiệp và thương mại khá
phát triển, đời sống của người dân, nhất là nông dân có sự cải thiện đáng kể. Bên
cạnh tác động thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh, quá trình phát triển các
KCN hiện nay đã bộc lộ những tồn tại, tác động tiêu cực đến nông nghiệp, nông dân
và nông thôn của tỉnh. Những tác động này đã, đang và sẽ gây ra những cản trở đến
quá trình CNH, HĐH nông thôn của tỉnh Hưng Yên.
Để tìm ra giải pháp nhằm phát huy được những tác động tích cực và hạn chế
những tác động tiêu cực của phát triển các KCN đến nông thôn, góp phần phát triển
nông thôn bền vững, tác giả chọn đề tài “Tác động của phát triển các khu công
nghiệp đến nông thôn qua nghiên cứu thực tiễn tại tỉnh Hưng Yên” làm đề tài
Luận án Tiến sĩ kinh tế.

2. Tổng quan các công trình nghiên cứu
Các vấn đề về phát triển các KCN và tác động của việc phát triển các KCN
đến nông thôn được nhiều nhà quản lý, nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm
nghiên cứu. Có thể tổng quan một số nghiên cứu có tính tiêu biểu sau:

a) Các nghiên cứu về khu công nghiệp
Có nhiều nghiên cứu trong nước về phân tích và đánh giá thực trạng phát
triển các KCN. Các nghiên cứu đã đưa ra những đánh giá khá sâu sắc và nêu bật
những thành tựu đạt được; tồn tại, hạn chế cơ bản và nguyên nhân hạn chế trong
phát triển KCN, từ đó đề xuất giải pháp nhằm phát triển bền vững KCN: Nghiên
cứu “Phát triển các KCN, khu chế xuất trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa” của Nguyễn Chơn Trung và Trương Giang Long, NXB Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2004[55]; nghiên cứu “Phát triển KCN, khu chế xuất đến năm 2020, triển vọng
và thách thức”của Võ Thanh Thu, Tạp chí Cộng sản số 106, tháng 5/2006[50];

Luận án tiến sĩ kinh tế của Đinh Hữu Quí (2005),“Mô hình khu kinh tế đặc biệt
trong quá trình phát triển kinh tế của các nước với việc hình thành và phát triển các
khu kinh tế đặc biệt ở nước ta”[45]; Luận án tiến sĩ kinh tế của Nguyễn Ngọc Dũng
(2011),“Phát triển các khu công nghiệp đồng bộ trên địa bàn Hà Nội“[29]. Nghiên
cứu “Ảnh hưởng của chính sách phát triển các KCN tới phát triển bền vững ở Việt


3

Nam”của Ngô Thắng Lợi, Bùi Đức Tuân, Vũ Thành Hưởng, Vũ Cương, NXB Lao
động – Xã hội, Hà Nội, 2006[39], đã phân tích tác động của các yếu tố đến sự phát
triển KCN như tác động các cơ chế, chính sách phát triển KCN trong cả nước đến
sự phát triển bền vững của các KCN, từ đó đề xuất các khuyến nghị về thay đổi
chính sách nhằm đảm bảo cho sự phát triển bền vững KCN. Luận án tiến sĩ kinh tế
của Vũ Thành Hưởng (2010)“Phát triển các KCN vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ
theo hướng bền vững”, đã phân tích được thực trạng phát triển bền vững các KCN
vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, chỉ ra những vấn đề không bền vững của KCN và
nguyên nhân dẫn tới sự không bền vững, từ đó đề xuất các giải pháp phát triển các
KCN vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ theo hướng bền vững [38].
Năm 2004, trong nghiên cứu “The application of industrial ecology principle
and planning guidelines for the development of eco-industrial parks: an Australian
case study”[76], B.H.Roberts Elsevier đã đưa ra quan niệm mới trong phát triển bền
vững KCN theo hướng sinh thái (EIPs) với các tiêu chí cụ thể và chứng minh trong
điều kiện của Australia. Nghiên cứu đã thực hiện các cuộc điều tra về việc ứng dụng
mô hình công nghiệp sinh thái tại bang Queensland (Úc) theo hướng bền vững. Từ
đó nghiên cứu đã phát triển một tập hợp những nguyên tắc và hướng dẫn lập kế
hoạch nhằm tạo điều kiện phát triển các KCN sinh thái. Cùng hướng nghiên cứu
này, trong nghiên cứu tính bền vững của các KCN ở Mỹ “Implementing industrial
ecology? Planning for eco-industrial parks in the USA”, D. Gibbs và P.Deutz [77]
đã cho rằng, việc kết hợp mục tiêu phát triển bền vững trong các chính sách đã thực

sự đạt được mục tiêu “win – win – win” (cùng thắng). Mô hình công nghiệp sinh
thái đã làm tăng khả năng cạnh tranh kinh doanh, giảm chất thải ô nhiễm môi
trường, tạo ra công ăn việc làm và cải thiện điều kiện làm việc. Tuy nhiên, thực tế
vẫn đang tồn tại nhiều vấn đề liên quan đến các mặt phát triển kinh tế, môi trường
và xã hội trong giai đoạn phát triển các KCN ở Mỹ. Tuy nhiên, tác giả mới chỉ
nghiên cứu phát triển bền vững các KCN dưới góc độ kinh tế và môi trường mà
chưa xem xét đến các vấn đề xã hội một cách thỏa đáng.


4

Ngoài ra, vấn đề phát triển bền vững các KCN còn được đề cập ở các khía
cạnh cụ thể như vấn đề công nghệ, vấn đề môi trường của KCN. Tiêu biểu cho
hướng nghiên cứu này là nghiên cứu “Chinese Science and Technology Industrial
Parks” của Susan M.Walcott (2003) [78] đã xem xét vai trò của các KCN Trung
Quốc trong việc thu hút các công nghệ hiện đại để sản xuất hàng hóa có chất lượng
đưa ra thị trường trong nước và quốc tế. Hay trong đề tài nghiên cứu cấp Bộ của
Trần Ngọc Hưng “Nghiên cứu đề xuất cơ chế, chính sách và một số giải pháp nhằm
hỗ trợ xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung tại các KCN, khu chế xuất trong
thời gian tới”[37], tác giả đã phân tích và đề xuất nhiều giải pháp nhằm đảm bảo
vấn đề môi trường cho phát triển bền vững các KCN.
Riêng về KCN của tỉnh Hưng Yên cũng có nhiều nghiên cứu, tiêu biểu là:
Nghiên cứu của Bùi Thế Cử (2014) “ Kinh nghiệm phát triển các khu công nghiệp ở
một số địa phương và bài học cho tỉnh Hưng Yên”, Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc
gia: Marketing quan hệ của các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ Việt Nam- NXB Đại
học Kinh tế quốc dân[22]. Đã khái quát tình hình xây dựng và phát triển các KCN ở
nước ta; đưa ra những kinh nghiệm của một số địa phương trong quá trình xây dựng
và phát triển KCN 20 năm qua và nêu một số bài học cho tỉnh Hưng Yên; Nghiên
cứu của Bùi Thế Cử, Hoàng Ngọc Việt“Phát triển các khu công nghiệp trên địa
bàn tỉnh Hưng Yên”- Tạp chí Kinh tế và Phát triển, tháng 6/2014 [23]. Cho thấy

bức tranh tổng quát về tình hình phát triển các KCN ở Hưng Yên những năm qua.
Bên cạnh những thành tựu, bài viết cũng phân tích những hạn chế, những vấn đề
phát sinh từ quá trình phát triển của các KCN đến phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh,
trong đó vấn đề ô nhiễm môi trường, vấn đề đời sống của người bị thu hồi đất hoặc
bị ảnh hưởng từ KCN được coi là những vấn đề trầm trọng nhất; Nghiên cứu của
Hoàng Hà và các cộng sự (2009)“Các giải pháp thu hút lao động tại chỗ, giải quyết
việc làm, chỗ ở đảm bảo đời sống cho người lao động và đảm bảo an ninh góp phần
phát triển các KCN tỉnh Hưng Yên trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa”,
NXB Lao động[33]. Trong nghiên cứu này tác giả đã phân tích về thực trạng thu hút
lao động, giải quyết việc làm, nhà ở, đảm bảo đời sống cho người lao động và đảm


5

bảo an ninh góp phần phát triển các KCN tỉnh Hưng Yên trong quá trình CNH,
HĐH từ đó đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm giải quyết việc làm, thu hút lao
động tại chỗ, đảm bảo đời sống cho người lao động và đảm bảo an ninh góp phần
phát triển các KCN tỉnh Hưng Yên.

b) Các nghiên cứu về tác động của khu công nghiệp đến nông thôn
Có nhiều nghiên cứu đã tiếp cận và đánh giá ảnh hưởng của việc xây dựng
KCN đến nông thôn dưới các khía cạnh khác nhau như tác động đến lao động, việc
làm của nông dân; đến an sinh xã hội, phát triển bền vững của nông thôn...
Năm 2005, Trường Đại học Kinh tế quốc dân thực hiện đề tài: “Nghiên cứu
thực trạng việc làm, thu nhập và đời sống của người dân bị thu hồi đất để xây dựng
các KCN, khu đô thị và cho nhu cầu công cộng, lợi ích quốc gia”[42]. Kết quả
nghiên cứu đã đưa ra một nhận định hết sức quan trọng là: CNH, đô thị hoá đã thu
hồi đất của một bộ phân nông dân, góp phần làm cho nền kinh tế từng bước chuyển
dịch theo hướng CNH, HĐH nhưng lại làm cho một bộ phận dân cư có sự chuyển
dịch nghề nghiệp theo hướng ngược lại. Vì vậy, CNH, HĐH và đô thị hoá đã tác

động sâu sắc đến đời sống dân cư, nhất là nông dân. Để giải quyết các vấn đề đó,
cần phải đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính sách hiện hành. Tuy nhiên trong
nghiên cứu, vấn đề chính sách cũng chỉ được coi là các nhân tố ảnh hưởng đến việc
triển khai các hoạt động, các vấn đề nảy sinh khi thu hồi đất. Các kiến nghị về chính
sách chỉ là một phần trong các giải pháp xử lý các vấn đề đặt ra của thực tiễn.
Việc phát triển các KCN gắn liền với việc thu hồi đất, ảnh hưởng đến việc
làm, thu nhập, lao động và đời sống của nông hộ, vấn đề xã hội ở địa phương cũng
trở nên phức tạp. Tác giả Nguyễn Thị Kim Tuyết đã thực hiện đề tài luận văn thạc sĩ
kinh tế “Nghiên cứu ảnh hưởng của phát triển KCN đến việc làm của lao động
nông thôn ở vùng Đông huyện Chương Mỹ - Thành phố Hà Nội”[58]. Trong nghiên
cứu này, tác giả đã sử dụng phân tích SWOT để phân tích về những điểm mạnh,
điểm yếu, cơ hội và thách thức từ phát triển các KCN tác động đến vấn đề giải
quyết việc làm và sử dụng lao động nông thôn ở vùng có phát triển KCN. Tuy
nhiên, nghiên cứu này mới chỉ đánh giá được ảnh hưởng phát triển KCN đến một


6

khía cạnh của sinh kế của người dân chịu ảnh hưởng, đó là ảnh hưởng đến nguồn
lực sinh kế mà cụ thể là ảnh hưởng đến nguồn nhân lực.
Năm 2009, tác giả Lê Thị Phương đã tiến hành thực hiện đề tài luận văn thạc
sĩ “Ảnh hưởng của các KCN đến đời sống hộ nông dân ở huyện Phổ Yên tỉnh Thái
Nguyên”[43]. Trong đề tài này, tác giả đã phân tích ảnh hưởng của KCN đến đời
sống của hộ nông dân dưới các khía cạnh: đất đai, ngành nghề của hộ, lao động của
hộ, việc làm của lao động, thu nhập của hộ, điều kiện sống của hộ, các vấn đề xã
hội, môi trường từ đó chỉ ra những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của KCN đến đời
sống của hộ nông dân. Cùng hướng nghiên cứu trên, tác giả Nguyễn Phúc Thọ đã
tiến hành nghiên cứu “Tác động tiêu cực của công nghiệp hóa tới nội dung xây
dựng KCN tập trung đến sản xuất và đời sống của các hộ nông dân bị thu hồi đất
sản xuất ở xã Nam Sơn, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh”, 2011, Tạp chí Kinh tế và

Phát triển[49]. Nghiên cứu đã chỉ ra những tác động của việc thu hồi đất đến sản
xuất và đời sống của các hộ nông dân. Tuy nhiên, tác giả chỉ tập trung phân tích tác
động của việc thu hồi đất đến tình hình lao động và phân bố thời gian lao động của
lao động bị thu hồi đất, từ đó ảnh hưởng đến thu nhập của hộ nông dân bị thu hồi
đất sản xuất. Nghiên cứu đã cho thấy, thời gian nhàn rỗi của lao động sau khi bị thu
hồi đất đã tăng lên khoảng 2 lần so với trước khi bị thu hồi đất, tuy nhiên thu nhập
bình quân của hộ vẫn tăng.
Năm 2010, tác giả Nguyễn Văn Nhường đã thực hiện đề tài luận án tiến sĩ
“Chính sách an sinh xã hội với người nông dân sau khi thu hồi đất để phát triển các
KCN” (Nghiên cứu tại Bắc Ninh)[40]. Trong nghiên cứu này, tác giả tập trung đánh
giá tác động của việc thu hồi đất đến việc làm, đời sống và thu nhập của người nông
dân bị thu hồi đất và đánh giá thực trạng của chính sách an sinh xã hội đối với
người nông dân bị thu hồi đất để xây dựng các KCN. Tuy nhiên, tác giả không tiếp
cận theo hướng tác động đến sinh kế và chỉ nghiên cứu trên đối tượng là người dân
bị thu hồi đất mà chưa đề cập đến đối tượng người dân không bị thu hồi đất trong
khi thực tế, những người dân không bị thu hồi đất cũng chịu tác động khá rõ nét từ
việc phát triển các KCN.


7

Năm 2007, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã giao cho nhóm
nghiên cứu của Nguyễn Trọng Đắc (Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội) tiến
hành nghiên cứu đề tài khoa học cấp Bộ “Sinh kế của hộ nông dân sau khi mất đất
sản xuất nông nghiệp do xây dựng KCN ở xã Nghĩa Hiệp, Yên Mỹ, Hưng Yên: Thực
trạng và Giải pháp”[31]. Đề tài đã tập trung nghiên cứu về những biến đổi sinh kế
của những người dân bị mất đất sau khi có KCN. Trong nghiên cứu này tác giả đã
chỉ ra những ảnh hưởng của việc phát triển KCN đến nguồn lực sinh kế và chiến
lược sinh kế của người dân bị mất đất. Tuy nhiên, đề tài chưa nghiên cứu về những
biến đổi về sinh kế của những người dân không bị mất đất vùng ven các KCN.

Năm 2010, nhóm nghiên cứu của Đỗ Đức Quân đã nghiên cứu “Một số giải
pháp nhằm phát triển bền vững nông thôn vùng đồng bằng Bắc Bộ trong quá trình
xây dựng, phát triển các KCN”[44]. Tác giả đã nghiên cứu về thực trạng phát triển
bền vững nông thôn đồng bằng Bắc bộ trong quá trình xây dựng và phát triển KCN;
phân tích được các tác động về mặt kinh tế- kỹ thuật, xã hội, đời sống văn hóa tinh
thần của KCN đến sự phát triển bền vững nông thôn đồng bằng Bắc bộ; chỉ ra việc
phát triển KCN làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng của ngành
công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng của ngành nông nghiệp; thu nhập và đời sống
của các hộ gia đình tăng lên rõ rệt. Tuy nhiên, xét cho từng nhóm hộ thì tác động
của phát triển KCN đến các hộ có chiều hướng khác nhau: nhóm hộ chuyên làm
nông nghiệp và các nghề phụ có thu nhập tăng lên không nhiều, thậm chí nhiều hộ
có thu nhập giảm đi; các hộ có người làm công chức, công nhân, thợ thủ công hoặc
kinh doanh dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp là những hộ có thu nhập tăng lên và ổn
định. Đặc biệt, trong nghiên cứu này, tác giả đã chỉ ra rằng đối với các hộ bị thu hồi
đất thì “thu nhập của gia đình không tăng, thậm chí suy giảm so với trước đây”.
Nguyên nhân của tình trạng này là do: (i) hộ bị mất một phần tư liệu sản xuất khi bị
thu hồi đất; (ii) việc sử dụng tiền đền bù do thu hồi đất chưa hợp lý, chủ yếu sử
dụng để mua sắm đồ dùng đắt tiền, xây dựng nhà cửa và chi dùng hàng ngày.
Năm 2012, Nguyễn Bình Giang và nhóm nghiên cứu của Viện Kinh tế và
chính trị thế giới thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam thực hiện nghiên cứu“Tác


8

động xã hội vùng của các khu công nghiệp Việt Nam”[32]. Đây là một công trình
nghiên cứu đã đưa ra khá đầy đủ về phát hiện, đánh giá và phân tích các tác động xã
hội vùng của các KCN ở Việt Nam tới cộng đồng dân cư ở các địa phương xung
quanh KCN như: việc làm và nghề nghiệp; thu nhập và mức sống; về nhân khẩu
học; cơ hội tiêu dùng các dịch vụ công cộng; đô thị hóa và cơ sở hạ tầng; trật tự, an
toàn xã hội; môi trường và sức khỏe; văn hóa và giá trị truyền thống…


c) Nhận xét chung
Tổng quan những công trình trên cho thấy các nghiên cứu đã tập trung vào
các vấn đề sau:
* Về hướng nghiên cứu chính: (i) Phân tích quá trình hình thành và phát triển
KCN ở Việt Nam; (ii) Phân tích thực trạng phát triển KCN ở Việt Nam: những
thành tựu đạt được; hạn chế, nguyên nhân và đề xuất giải pháp nhằm phát triển bền
vững KCN; (iii) Phân tích thực trạng các khía cạnh khác nhau về KCN như mô hình
phát triển KCN, vấn đề môi trường KCN, vấn đề lao động và việc làm, đời sống của
người lao động trong KCN; (iv) Phân tích về phát triển bền vững KCN dưới các
khía cạnh kinh tế, xã hội và môi trường; (v) Phân tích tác động của KCN đến sinh
kế hộ gia đình nông dân; (vi) Phân tích tác động của việc phát triển KCN đến nông
thôn và các khía cạnh cụ thể của nông thôn như vấn đề lao động, việc làm ở nông
thôn; an sinh xã hội và phát triển bền vững nông thôn; (vii) Đề xuất một số giải
pháp nhằm phát triển bền vững KCN ở nông thôn.
* Về cơ sở lý luận áp dụng: Các nghiên cứu về thực trạng phát triển KCN
thường áp dụng cách tiếp cận theo các yếu tố như đất đai, lao động, việc làm, môi
trường, công nghệ… Đối với các nghiên cứu về tác động của KCN đến các khía
cạnh khác nhau của nông thôn thường áp dụng cách tiếp cận theo các vấn đề cụ thể
của nông thôn như vấn đề lao động, việc làm, sử dụng đất, an sinh xã hội… và theo
khung phát triển bền vững với 3 trụ cột: kinh tế, xã hội và môi trường.
* Về phương pháp nghiên cứu được sử dụng: Các nghiên cứu chủ yếu sử
dụng phương pháp nghiên cứu định tính (thảo luận nhóm và phỏng vấn sâu cá nhân)
và phương pháp phân tích thống kê, mô tả, so sánh.


9

* Về các kết quả nghiên cứu đạt được: Các công trình nghiên cứu đã đưa ra
được một số phát hiện chính sau: (i) Phát triển KCN ở nông thôn là tất yếu khách

quan; (ii) Quá trình phát triển KCN ở Việt Nam từ khi đổi mới đến nay đã đạt được
những thành tựu to lớn góp phần thúc đẩy KT-XH phát triển; song vẫn còn nhiều
hạn chế như vấn đề thu hút lao động tại chỗ và đào tạo tay nghề cho người lao động,
ô nhiễm môi trường KCN, vấn đề về nhà ở cho người lao động…; (iii) Quá trình
phát triển KCN ở nông thôn đã và đang có những tác động (tích cực và tiêu cực)
đến đất sản xuất; lao động và việc làm; xã hội (giáo dục, y tế…); môi trường nông
thôn; sinh kế hộ gia đình nông dân; (iv) Các giải pháp nhằm hạn chế các tác động
tiêu cực và thúc đẩy các tác động tích cực từ quá trình phát triển KCN đến nông
nghiệp, nông dân và nông thôn. Các giải pháp nhằm phát triển bền vững KCN.
* Hạn chế và khoảng trống cho nghiên cứu của luận án:
- Về nội dung nghiên cứu: Chưa có nghiên cứu nào đánh giá tính bền vững
của nông thôn trong bối cảnh phát triển KCN và chưa chỉ rõ được mối quan hệ giữa
phát triển KCN và phát triển nông thôn.
- Về cơ sở lý luận: Phân tích tác động của KCN đến nông thôn mới chỉ phân
tích tác động dưới 3 khía cạnh: kinh tế, xã hội và môi trường. Những tác động về
mặt chính sách chưa được đề cập đến, tức là chưa có nghiên cứu nào tiếp cận phân
tích tính bền vững qua cả 4 tiêu chí: kinh tế, xã hội, môi trường và chính sách.
- Về phương pháp nghiên cứu: Chưa có nghiên cứu nào sử dụng phương
pháp phân tích định lượng đánh giá tác động của phát triển KCN đến nông thôn.
Từ những phân tích trên, Luận án “Tác động của phát triển các khu công
nghiệp đến nông thôn qua nghiên cứu thực tiễn tại tỉnh Hưng Yên” kỳ vọng sẽ
lấp một phần khoảng trống này trong nghiên cứu.

3. Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu
a) Mục tiêu nghiên cứu
Áp dụng khung phân tích phát triển bền vững, mục tiêu tổng quát xem xét tác
động của phát triển các KCN đến nông thôn Việt Nam nói chung, tỉnh Hưng Yên
nói riêng dưới 4 khía cạnh: kinh tế, xã hội, môi trường và chính sách. Từ đó, đề xuất



10

giải pháp nhằm phát huy các tác động tích cực, hạn chế các tác động tiêu cực.
Hướng nghiên cứu của luận án nhằm thực hiện các mục tiêu cụ thể sau: (i) Góp
phần hệ thống hoá và phát triển cơ sở lý luận, thực tiễn về tác động của phát triển
các KCN đến nông thôn; (ii) Phân tích và làm rõ thực trạng phát triển các KCN và
thực trạng phát triển nông thôn tỉnh Hưng Yên; (iii) Đánh giá được những tác động
tích cực, tiêu cực và làm rõ nguyên nhân của tác động tiêu cực từ việc phát triển các
KCN đến nông thôn ở tỉnh Hưng Yên dưới 4 khía cạnh: kinh tế, xã hội, môi trường
và chính sách; (iv) Đề xuất được các giải pháp nhằm phát huy tác động tích cực, hạn
chế tác động tiêu cực của phát triển các KCN đến nông thôn tỉnh Hưng Yên.

b) Câu hỏi nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu cụ thể nêu trên, luận án tập trung trả lời
các câu hỏi nghiên cứu chính sau: (i) Việc phát triển các KCN được dựa trên cơ sở
khoa học nào? (ii) Từ những kinh nghiệm của một số quốc gia trong phát triển KCN
có thể rút ra bài học kinh nghiệm gì cho Việt Nam nhằm phát huy những tác động
tích cực, hạn chế những tác động tiêu cực của quá trình phát triển các KCN tới nông
thôn? (iii) Thực trạng phát triển các KCN ở Việt Nam và tỉnh Hưng Yên hiện nay
như thế nào? (iv) Việc phát triển KCN ở tỉnh Hưng Yên có những tác động tích cực,
tiêu cực gì đến nông thôn, nguyên nhân của các tác động tiêu cực? (v) Làm thế nào
để phát huy các tác động tích cực và hạn chế các tác động tiêu cực của phát triển
KCN đến nông thôn nói chung, tỉnh Hưng Yên nói riêng?

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a) Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những tác động của việc phát triển các
KCN đến nông thôn (bao gồm cả tác động tích cực và tiêu cực), trên các khía cạnh:
kinh tế, xã hội, môi trường và chính sách.


b) Phạm vi nghiên cứu
* Về không gian và thời gian: Tỉnh Hưng Yên được lựa chọn làm địa bàn
nghiên cứu. Các khảo sát được thực hiện ở các huyện: Văn Lâm, Mỹ Hào, Yên Mỹ.
Các hộ gia đình là đối tượng điều tra số liệu sơ cấp được lựa chọn từ các xã có KCN


11

và các xã không có KCN thuộc 3 huyện trên. Thông tin, tư liệu thứ cấp và sơ cấp
phục vụ cho nghiên cứu được thu thập trong giai đoạn 1997 – 2013.
* Về nội dung: Tác động của KCN đến nông thôn được xem xét trên các góc
độ và giới hạn chủ yếu sau: (i) Tác động đến kinh tế nông thôn: tăng trưởng và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế; cơ sở hạ tầng; thu nhập và mức sống của người dân
nông thôn. (ii) Tác động đến xã hội nông thôn: lao động, việc làm và nghề nghiệp;
lĩnh vực văn hóa, giáo dục, đào tạo, y tế và sức khỏe người dân ở nông thôn chỉ đề
cập một cách khái quát để thấy toàn cảnh các tác động của KCN tới nông thôn. (iii)
Tác động đến môi trường nông thôn: môi trường nước; môi trường không khí và
chất thải rắn nông thôn. (iv) Sự thay đổi của các chính sách ưu đãi đầu tư phát triển
các KCN; bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất; đào tạo nghề, giải quyết việc
làm cho người nông dân mất đất; quy định về bảo vệ môi trường đối với KCN.
Các tác động đều được xem xét theo hai chiều: tác động tích cực (là những
tác động làm tăng lợi ích cho những đối tượng bị ảnh hưởng) và tác động tiêu cực
(là những tác động làm giảm lợi ích cho những đối tượng bị ảnh hưởng), đồng thời
phân tích cơ chế, nguyên nhân tạo ra các tác động đó.

5. Phương pháp nghiên cứu
a) Các tiếp cận nghiên cứu
Luận án sử dụng các cách tiếp cận nghiên cứu sau: (i) Tiếp cận chính sách,
thể chế: Đây là yếu tố liên quan trực tiếp đến sự phát triển KCN và nông thôn; qua
nghiên cứu các chính sách sẽ thấy được sự tác động của nó đến phát triển KCN và

nông thôn. (ii) Tiếp cận lịch sử: Với cách tiếp cận này sẽ xem xét sự hình thành,
phát triển các KCN; những tác động của KCN đến nông thôn và sự thay đổi của
nông thôn khi có các KCN; qua đó sẽ giúp ta thấy được sự khác nhau giữa các giai
đoạn của quá trình phát triển. (iii) Tiếp cận hệ thống: Nhằm giúp nghiên cứu một
cách toàn diện những tác động của KCN đến nông thôn về các mặt kinh tế, xã hội,
môi trường, chính sách. (iv) Tiếp cận có sự tham gia: Quá trình nghiên cứu có sự
tham gia, trao đổi, điều tra của các hộ gia đình, doanh nghiệp, cán bộ quản lý...
nhằm thu thập, kiểm định và đánh giá những tác động của KCN đến nông thôn.


12

b) Khung phân tích
Tiếp cận hệ thống
Tiếp cận lịch sử
Tiếp cận chính sách
Tiếp cận có sự tham gia

Chính sách phát
triển khu công
nghiệp

Thực trạng phát triển khu
công nghiệp ở nông thôn

Tác động về
kinh tế

Tác động về
xã hội


Các tác động tích cực

Tác động về
môi trường

Chính sách phát
triển nông thôn

Tác động về
chính sách

Các tác động tiêu cực

Giải pháp nhằm phát huy tác động tích cực, hạn
chế tiêu cực của phát triển các KCN đến nông thôn

c) Nguồn dữ liệu
* Dữ liệu thứ cấp: Luận án tiến hành rà soát các tài liệu, văn bản, báo cáo
của Chính phủ, các bộ, ngành có liên quan được thu thập và đánh giá: các bộ số liệu
thống kê và các kết quả nghiên cứu đã thực hiện tại Việt Nam từ nguồn tài liệu lưu
trữ ở các cơ quan quản lý, nghiên cứu và được phân tích, đánh giá nhằm thu được
những thông tin về các vấn đề quan tâm và nhiệm vụ nghiên cứu.
Ngoài ra, để nghiên cứu thực trạng phát triển KCN và thực trạng nông thôn
Hưng Yên, luận án sử dụng các dữ liệu được thu thập từ các báo cáo tổng kết, sơ kết


13

của UBND tỉnh, huyện, xã thuộc tỉnh Hưng Yên; báo cáo của Ban quản lý các KCN

tỉnh Hưng Yên; niên giám thống kê tỉnh Hưng Yên, số liệu điều tra mức sống dân
cư năm 2012. Các thông tin được thu thập từ nguồn dữ liệu này bao gồm:
- Các thông tin về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Hưng Yên.
- Các thông tin về thực trạng phát triển các KCN của tỉnh Hưng Yên: Quá
trình hình thành và phát triển các KCN; về quy hoạch phát triển các KCN; hiện
trạng cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội; tình hình sử dụng đất và thu hút đầu tư của
các KCN; các chính sách ưu đãi đầu tư vào các KCN của tỉnh.
- Các thông tin về thực trạng nông thôn của tỉnh Hưng Yên: Về kinh tế (cơ
cấu kinh tế, thu nhập và đời sống dân cư nông thôn; cơ sở hạ tầng nông thôn; tăng
trưởng kinh tế nông thôn); Về xã hội (lao động và việc làm; y tế, giáo dục; vấn đề
quan hệ xã hội, văn hóa và an ninh trật tự ở nông thôn); Về môi trường (môi trường
đất, môi trường nước, môi trường không khí).
* Dữ liệu sơ cấp: Đề tài được thực hiện với sự kết hợp giữa hai phương pháp
nghiên cứu định tính (thảo luận nhóm và phỏng vấn sâu) và nghiên cứu định lượng.
Nghiên cứu định tính được tiến hành trước nhằm kiểm tra độ phù hợp và điều chỉnh
mô hình lý thuyết, đồng thời giúp phát triển các thước đo cho các biến trong mô
hình định lượng sau này.
- Trong nghiên cứu định tính tiến hành phỏng vấn sâu 40 người bao gồm: cán
bộ quản lý KCN, cán bộ quản lý doanh nghiệp, cán bộ tỉnh, huyện, xã (20 người) và
chủ hộ gia đình (20 người).
- Trong nghiên cứu định lượng, 180 hộ gia đình thuộc các xã có KCN thuộc
3 KCN Phố Nối A, Phố Nối B, Minh Đức và 180 hộ gia đình thuộc các xã không có
KCN trên địa bàn 3 huyện Văn Lâm, Yên Mỹ, Mỹ Hào để điều tra, khảo sát số liệu
phục vụ cho việc phân tích, đánh giá các tác động của KCN đến nông thôn.

d) Phương pháp thu thập dữ liệu
Đề tài sử dụng phương pháp điều tra chọn mẫu, phỏng vấn trực tiếp các hộ
gia đình và khảo sát thực tiễn nhằm nghiên cứu sự tác động của phát triển các KCN
đến nông thôn tỉnh Hưng Yên.



14

* Lựa chọn địa bàn điều tra: Để đánh giá tác động của KCN, luận án sử
dụng phương pháp so sánh theo thời gian và không gian, cụ thể: So sánh trước và
sau khi có KCN; So sánh vùng có KCN và vùng không có KCN. Địa bàn điều tra
được lựa chọn như sau:
- Cấp huyện: lựa chọn 3 huyện: Văn Lâm, Yên Mỹ, Mỹ Hào là những huyện
đã có KCN và các KCN này đã đi vào hoạt động ổn định.
- Cấp xã: Lựa chọn 6 xã nằm ở vùng có KCN gồm: Dị Sử, Phùng Chí Kiên
(Mỹ Hào); Lạc Hồng, Trưng Trắc (Văn Lâm); Nghĩa Hiệp, Giai Phạm (Yên Mỹ) và
6 xã không có KCN (không bị thu hồi đất để xây dựng KCN, không giáp ranh với
KCN) gồm: Hưng Long, Cẩm Xá (Mỹ Hào); Lương Tài, Việt Hưng (Văn Lâm); Lý
Thường Kiệt, Minh Châu (Yên Mỹ). Điều kiện đặt ra khi lựa chọn là: các xã nằm
trong vùng có KCN và các xã không có KCN đều có điều kiện tự nhiên- kinh tế- xã
hội khá giống nhau khi chưa có KCN và có sự thay đổi căn bản sau khi có KCN.
- Cấp hộ gia đình: Mỗi xã lựa chọn 30 hộ theo phương pháp ngẫu nhiên có
phân tổ gồm những hộ bị thu hồi đất và hộ không bị thu hồi đất để xây dựng KCN.
* Xác định đối tượng điều tra: Để đánh giá tác động của việc phát triển KCN
đến nông thôn, các hộ gia đình thuộc 3 nhóm hộ: hộ khá và giàu, hộ trung bình, hộ
nghèo được lựa chọn để điều tra, khảo sát. Ngoài ra còn điều tra, phỏng vấn cán bộ
địa phương, cán bộ quản lý các KCN để làm rõ quy mô các KCN, quá trình hình
thành và các biện pháp đã triển khai để xây dựng KCN và xử lý các vấn đề nảy sinh
trong quá trình hình thành và hoạt động của các KCN đó.
* Kích thước mẫu điều tra: Dựa trên quy mô số hộ của các xã điều tra và
phương pháp điều tra chọn mẫu để xác định kích thước mẫu phù hợp. Mỗi xã điều
tra 30 hộ, tổng số hộ điều tra ở 12 xã là 360 hộ.
* Phương pháp điều tra: Sử dụng phương pháp điều tra trực tiếp để thu thập
thông tin về các hộ gia đình và sử dụng phương pháp điều tra trực tiếp kết hợp với
thu thập số liệu, báo cáo để điều tra thu thập thông tin về các KCN, các xã điều tra

và địa bàn nghiên cứu.


15

e) Phương pháp xử lý và phân tích dữ liệu
* Phương pháp xử lý dữ liệu: Số liệu sau khi thu thập được tổng hợp và xử lý
thông qua mô hình định lượng, hỗ trợ bởi phần mềm Microsoft Excel và SPSS.
* Phương pháp phân tích dữ liệu: Trên cơ sở những tài liệu, thông tin đã thu
thập và tổng hợp được, luận án sử dụng kết hợp các phương pháp phân tích hiện đại
và truyền thống như: phương pháp thống kê mô tả, phương pháp thống kê so sánh
để so sánh các chỉ tiêu về kinh tế, xã hội, môi trường giữa các xã có KCN và các xã
không có KCN, thời điểm trước và sau khi có KCN; phương pháp mô hình định
lượng để kiểm định sự khác nhau về các chỉ tiêu: thu nhập; tỷ lệ lao động có việc
làm; khả năng tiếp cận với y tế, giáo dục; điều kiện cơ sở hạ tầng; chất lượng môi
trường giữa vùng có KCN và vùng không có KCN từ các số liệu điều tra của 360 hộ
gia đình ở 12 xã, tại 3 huyện. Bên cạnh đó còn kiểm định sự khác nhau của các chỉ
tiêu nêu trên ở hai thời điểm trước và sau khi có KCN. Từ đó đưa ra những kết luận
về tác động của KCN đến nông thôn.
Với sự trợ giúp của phần mềm SPSS sẽ kiểm định các giả thuyết:
- Giả thuyết 1: Thu nhập bình quân đầu người ở các vùng có KCN cao hơn
ở những vùng không có KCN (tác động tích cực).
H0 : µ 1 = µ 2

H1 : µ 1 < µ 2

Trong đó: µ 1 là thu nhập bình quân đầu người ở vùng có KCN, µ 2 là thu nhập
bình quân đầu người ở vùng không có KCN.
- Giả thuyết 2: Thu nhập bình quân đầu người (của vùng có KCN) sau khi
có KCN cao hơn trước khi có KCN (tác động tích cực).

H0 : µ 1 = µ 2

H1 : µ 1 < µ 2

Trong đó: µ 1 là thu nhập bình quân đầu người ở vùng có KCN tại thời điểm
sau khi có KCN, µ 2 là thu nhập bình quân đầu người ở vùng có KCN tại thời điểm
trước khi có KCN.
- Giả thuyết 3: Tỷ lệ người lao động có việc làm ở vùng có KCN cao hơn ở
những vùng không có KCN (tác động tích cực).
H0 : p1 = p2

H 1 : p1 < p2


16

Trong đó: p1 là tỷ lệ lao động có việc làm ở vùng có KCN, p2 là tỷ lệ lao
động có việc làm ở vùng không có KCN.
- Giả thuyết 4: Tỷ lệ người lao động có việc làm (của vùng có KCN) sau
khi có KCN cao hơn trước khi có KCN (tác động tích cực).
H0 : p1 = p2

H 1 : p1 < p2

Trong đó: p1 là tỷ lệ lao động có việc làm ở vùng có KCN tại thời điểm sau
khi có KCN, p2 là tỷ lệ lao động có việc làm ở vùng có KCN tại thời điểm trước khi
có KCN.
- Giả thuyết 5: Điều kiện cơ sở hạ tầng ở những vùng có KCN được cải
thiện tốt hơn ở những vùng không có KCN (tác động tích cực).
H0 : µ 1 = µ 2


H1 : µ 1 < µ 2

Trong đó: µ 1 là giá trị trung bình của điểm đánh giá về cơ sở hạ tầng ở vùng
có KCN, µ 2 là giá trị trung bình của điểm đánh giá về cơ sở hạ tầng ở vùng không
có KCN.
- Giả thuyết 6: Điều kiện cơ sở hạ tầng (của vùng có KCN) sau khi có KCN
được cải thiện tốt hơn trước khi có KCN (tác động tích cực).
H0 : µ 1 = µ 2

H1 : µ 1 < µ 2

Trong đó: µ 1 là giá trị trung bình của điểm đánh giá về cơ sở hạ tầng ở vùng
có KCN tại thời điểm sau khi có KCN, µ 2 là giá trị trung bình của điểm đánh giá về
cơ sở hạ tầng ở vùng có KCN tại thời điểm trước khi có KCN.
- Giả thuyết 7: Khả năng tiếp cận với y tế, giáo dục của người dân vùng có
KCN tốt hơn vùng không có KCN (tác động tích cực).
H0 : µ 1 = µ 2

H1 : µ 1 < µ 2

Trong đó: µ 1 là giá trị trung bình của điểm đánh giá về khả năng tiếp cận với
y tế, giáo dục ở vùng có KCN, µ 2 là giá trị trung bình của điểm đánh giá về khả
năng tiếp cận với y tế, giáo dục ở vùng không có KCN.
- Giả thuyết 8: Khả năng tiếp cận với y tế, giáo dục của người dân (của vùng
có KCN) sau khi có KCN tốt hơn trước khi có KCN.
H0 : µ 1 = µ 2

H1 : µ 1 < µ 2



17

Trong đó: µ 1 là giá trị trung bình của điểm đánh giá về khả năng tiếp cận với
y tế, giáo dục ở vùng có KCN tại thời điểm sau khi có KCN, µ 2 là giá trị trung bình
của điểm đánh giá về khả năng tiếp cận với y tế, giáo dục ở vùng có KCN tại thời
điểm trước khi có KCN.
- Giả thuyết 9: Môi trường ở những vùng có KCN kém hơn vùng không có
KCN (tác động tiêu cực).
H0 : µ 1 =µ 2

H1 : µ 1 > µ 2

Trong đó: µ 1 là giá trị trung bình của điểm đánh giá về chất lượng môi
trường ở vùng có KCN, µ 2 là giá trị trung bình của điểm đánh giá về chất lượng môi
trường ở vùng không có KCN.
- Giả thuyết 10: Môi trường (của vùng có KCN) sau khi có KCN kém hơn
trước khi có KCN.
H0 : µ 1 ≤ µ 2

H1 : µ 1 > µ 2

Trong đó: µ 1 là giá trị trung bình của điểm đánh giá về chất lượng môi
trường ở vùng có KCN tại thời điểm sau khi có KCN, µ 2 là giá trị trung bình của
điểm đánh giá về chất lượng môi trường ở vùng có KCN tại thời điểm trước khi có
KCN.
Và các thang đo được sử dụng:
- Thu nhập bình quân đầu người: triệu đồng/người/tháng.
- Tỷ lệ lao động có việc làm được tính bằng số người có việc làm (của hộ
thuộc vùng có KCN hoặc của hộ thuộc vùng có KCN tại thời điểm sau khi có KCN)

chia cho số lao động có việc làm (của hộ thuộc vùng không có KCN hoặc hộ thuộc
vùng có KCN tại thời điểm trước khi có KCN). Chỉ tiêu này được đo bằng %.
- Điều kiện cơ sở hạ tầng nông thôn được đo như sau:
+ Điều kiện cơ sở hạ tầng rất kém: 1
+ Điều kiện cơ sở hạ tầng kém: 2
+ Điều kiện cơ sở hạ tầng bình thường: 3
+ Điều kiện cơ sở hạ tầng tốt: 4
+ Điều kiện cơ sở hạ tầng rất tốt: 5


18

- Khả năng tiếp cận với y tế, giáo dục, thông tin...
+ Khả năng tiếp cận rất kém: 1
+ Khả năng tiếp cận kém: 2
+ Khả năng tiếp cận trung bình: 3
+ Khả năng tiếp cận tốt: 4
+ Khả năng tiếp cận rất tốt: 5
- Chất lượng môi trường:
+ Chất lượng môi trường rất kém: 1
+ Chất lượng môi trường kém: 2
+ Chất lượng môi trường bình thường: 3
+ Chất lượng môi trường tốt: 4
+ Chất lượng môi trường rất tốt: 5

6. Những đóng góp của luận án
Với việc hoàn thành mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, luận án đã có
những đóng góp cả về lý luận và thực tiễn.
* Về lý luận, Luận án đã bổ sung một vấn đề quan trọng trong khung phân
tích về tác động của KCN đến nông thôn so với khung phân tích mà các nghiên cứu

trước đây thường áp dụng; đó là xem xét sự tác động qua lại của phát triển KCN
đến chính sách phát triển nông thôn nhằm làm rõ sự thay đổi của chính sách do tác
động của phát triển các KCN và ngược lại. Đồng thời, luận án đã nghiên cứu sâu
kinh nghiệm phát triển KCN của một số nước và một số địa phương ở nước ta, từ
đó khái quát bài học bổ ích về phát huy những tác động qua lại tích cực và hạn chế
những tác động qua lại tiêu cực giữa phát triển KCN với phát triển KT-XH nông
thôn và giữa phát triển KCN với chính sách phát triển nông thôn có thể áp dụng
trong thực tiễn phát triển KCN ở nước ta.
* Về thực tiễn, Qua việc phân tích tác động qua lại giữa phát triển KCN với
phát triển nông thôn trên các mặt kinh tế, xã hội, môi trường và giữa phát triển KCN
với chính sách phát triển nông thôn; luận án đã chỉ ra những tác động tích cực, tiêu
cực qua lại giữa phát triển KCN với phát triển nông thôn và với chính sách phát


19

triển nông thôn. Đồng thời, luận án đã làm rõ những vấn đề cần giải quyết để phát
huy những tác động tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực từ phát triển KCN
đến phát triển nông thôn cũng như tới các chính sách phát triển nông thôn trong
những năm tới, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến sự gắn kết giữa phát triển KCN với
phát triển cơ sở hạ tầng; giữa phát triển KCN với phát triển công nghiệp mũi nhọn
và công nghiệp phụ trợ trên địa bàn nghiên cứu; giữa phát triển KCN với các chính
sách liên quan đến bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất để phát triển KCN và
đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho người nông dân mất đất để phát triển KCN.

7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của luận án gồm 4 chương, cụ thể:
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về tác động của phát triển các khu công
nghiệp đến nông thôn
Chương 2. Thực trạng phát triển các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hưng

Yên
Chương 3. Tác động của phát triển các khu công nghiệp đến nông thôn tại
tỉnh Hưng Yên
Chương 4. Giải pháp nhằm phát huy tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu
cực của phát triển các khu công nghiệp đến nông thôn


20

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TÁC ĐỘNG
CỦA PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP ĐẾN NÔNG THÔN
1.1. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA KHU CÔNG NGHIỆP
1.1.1. Khái niệm khu công nghiệp
KCN được hình thành đầu tiên ở các nước công nghiệp phát triển như Anh,
Mỹ... hàng trăm năm trước. Sau đó, được áp dụng ở nhiều quốc gia khác và đem lại
những thành tựu to lớn, góp phần thúc đẩy nền kinh tế của nhiều quốc gia phát triển
như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore,.... Ngày nay, phát triển KCN vẫn đang được
nhiều quốc gia áp dụng nhằm đẩy nhanh CNH đất nước. Mặc dù, KCN được xây
dựng với những hình thức, định hướng khác nhau, có tên gọi khác nhau song đều
mang những đặc trưng chung. Trên thế giới đang tồn tại hai mô hình KCN với hai
khái niệm tương ứng:
Khái niệm thứ nhất: KCN là khu vực lãnh thổ rộng lớn, có ranh giới địa lý
xác định, trong đó chủ yếu là phát triển các hoạt động sản xuất công nghiệp và có
đan xen với nhiều hoạt động dịch vụ đa dạng; có dân cư sinh sống trong khu [29].
Theo khái niệm này thì KCN ngoài những hoạt động sản xuất công nghiệp còn đan
xen với các loại hình dịch vụ và có dân cư sinh sống. Mô hình KCN này được xây
dựng khá phổ biến ở các quốc gia Tây Âu, Đài Loan, Thái Lan dưới dạng các công
viên công nghiệp. Mô hình KCN này cho phép tiến hành nhiều hoạt động dịch vụ,
kể cả dịch vụ sản xuất công nghiệp, dịch vụ sinh hoạt, vui chơi, giải trí, khu thương
mại, văn phòng, nhà ở... nhằm phục vụ cho hoạt động sản xuất công nghiệp. Như

vậy, trong KCN sẽ có một chuỗi hoạt động khép kín và đảm bảo điều kiện tốt nhất
cho các hoạt động sản xuất công nghiệp.
Khái niệm thứ hai: KCN là khu vực lãnh thổ có giới hạn nhất định, ở đó tập
trung các doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ sản xuất công nghiệp, không có dân
cư sinh sống và được tổ chức hoạt động theo cơ chế ưu đãi cao hơn so với các khu
vực lãnh thổ khác [29]. Theo đó, KCN chỉ có các doanh nghiệp thực hiện các hoạt
động sản xuất công nghiệp hoặc hỗ trợ cho các hoạt động sản xuất công nghiệp,
không có dân cư sinh sống. Sự khác biệt so với mô hình thứ nhất là ở chỗ không có


21

dân cư sinh sống phía trong hàng rào KCN. Các KCN này được tổ chức hoạt động
theo cơ chế ưu đãi cao hơn so với các khu vực lãnh thổ khác. Mô hình KCN này
được áp dụng phổ biến ở một số nước như Indonesia, Malaysia.
Đến nay, định nghĩa về KCN và tính ưu việt của từng loại mô hình KCN vẫn
còn là vấn đề tranh luận. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, mỗi mô hình có thể phù hợp
với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của từng quốc gia. Ở Việt Nam, khái niệm
KCN được quy định tại khoản 1 Điều 2 Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày
14/3/2008 của Chính phủ quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế
thì "Khu công nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các
dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo
điều kiện, trình tự, thủ tục quy định tại Nghị định này" [17]. Như vậy, có thể thấy ở
Việt Nam đang xây dựng các KCN theo mô hình 2.
Từ những khái niệm nêu trên về khu công nghiệp có thể hiểu KCN là khu
vực lãnh thổ được sử dụng để tiến hành các hoạt động sản xuất công nghiệp và thực
hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới xác định.

1.1.2. Phân loại khu công nghiệp
Cho đến nay, các mô hình KCN của các nước trên thế giới đã tỏ ra rất linh

hoạt thông qua các loại hình hết sức đa dạng. Ở Việt Nam có các loại KCN sau:
Theo Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 của Chính phủ [17],
ngoài KCN còn có: (i) KCX là KCN chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện dịch
vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác
định, được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục áp dụng đối với KCN quy
định tại Nghị định này. (ii) KKT là khu vực có không gian kinh tế riêng biệt với môi
trường đầu tư và kinh doanh đặc biệt thuận lợi cho các nhà đầu tư, có ranh giới địa
lý xác định, được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục quy định tại Nghị định
này. KKT được tổ chức thành các khu chức năng gồm: khu phi thuế quan, khu bảo
thuế, KCX, KCN, khu giải trí, khu du lịch, khu đô thị, khu dân cư, khu hành chính
và các khu chức năng khác phù hợp với đặc điểm của từng khu kinh tế.


22

Theo Nghị định số 164/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ sửa
đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 của
Chính phủ[18]: (iii) KKT ven biển là KKT hình thành ở khu vực ven biển và địa bàn
lân cận khu vực ven biển, được thành lập theo các điều kiện, trình tự và thủ tục quy
định tại Nghị định số 29/2008/NĐ-CP. (iv) KKT cửa khẩu là KKT hình thành ở khu
vực biên giới đất liền và địa bàn lân cận khu vực biên giới đất liền có cửa khẩu quốc
tế hoặc cửa khẩu chính và được thành lập theo các điều kiện, trình tự và thủ tục quy
định tại Nghị định số 29/2008/NĐ-CP.

1.1.3. Vai trò của khu công nghiệp
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2012), “Báo cáo tổng kết 20 năm xây dựng và
phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam”, Kỷ yếu 20 năm xây dựng và
phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế ở Việt Nam,- 5[11]. Sau hơn
20 năm xây dựng và phát triển KCN, KCX ở Việt Nam, các KCN, KCX có vai trò
quan trọng, đóng góp tích cực vào sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, thể hiện trên các

mặt sau: Thứ nhất, các KCN, KCX đã huy động được lượng vốn đầu tư lớn của các
thành phần kinh tế trong và ngoài nước, nâng cao hiệu quả sử dụng đất, phục vụ sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước. Thứ hai, các KCN, KCX đã tạo ra một hệ thống kết
cấu hạ tầng tương đối đồng bộ, có giá trị lâu dài, góp phần hiện đại hoá hệ thống kết
cấu hạ tầng trên cả nước. Thứ ba, các KCN, KCX có đóng góp không nhỏ vào tăng
trưởng ngành sản xuất công nghiệp, nâng cao giá trị xuất khẩu và sức cạnh tranh
của nền kinh tế qua đó góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các địa phương và
cả nước theo hướng CNH, HĐH. Thứ tư, các KCN, KCX đã góp phần quan trọng
trong việc giải quyết việc làm, đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao thu nhập, đời sống
và trình độ của người lao động. Thứ năm, các KCN, KCX đã góp phần tích cực vào
việc bảo vệ môi trường sinh thái.

1.1.4. Đặc điểm của khu công nghiệp ở nông thôn
Các KCN ở nông thôn Việt Nam có những đặc điểm sau:


23

Thứ nhất là sự đa dạng của các loại hình công nghiệp. Nếu như các KCN ở
thành phố chủ yếu tập trung một hoặc một số loại hình công nghiệp có tính chất
tương đồng như KCN chuyên sản xuất hàng điện tử, chuyên sản xuất hàng dệt
may… thì các KCN ở nông thôn lại có nhiều loại hình công nghiệp khác nhau.
Trong cùng một KCN có thể tồn tại nhiều loại hình doanh nghiệp từ chế biến nông
sản đến sản xuất đồ gia dụng, sản xuất cơ khí, phụ tùng công nghiệp… Điều này là
do sự phát triển các KCN ở nông thôn thường theo hướng tự phát, thiếu quy hoạch
đồng bộ nên chưa có sự phân bố thành các KCN chuyên sâu. Đặc điểm này gây rất
nhiều khó khăn trong công tác quản lý các KCN ở nông thôn đặc biệt là trong quản
lý môi trường KCN. Mỗi một loại hình doanh nghiệp sẽ sản xuất ra các sản phẩm
khác nhau, đồng thời xả thải ra các loại chất thải có tính chất khác nhau, đòi hỏi quy
trình xử lý chất thải khác nhau. Một khu xử lý nước thải tập trung khó có thể cùng

lúc xử lý được nước thải từ nhiều nguồn có tính chất khác nhau, nếu có thì chi phí
xử lý cũng tăng cao do phải phân loại nước thải trước khi xử lý.
Thứ hai, các KCN ở nông thôn sử dụng nhiều lao động nông thôn. Để tiết
kiệm chi phí, các doanh nghiệp trong các KCN ở nông thôn thường có xu hướng sử
dụng lao động nông thôn giá rẻ. Mặt khác, các KCN thường có vị trí khá xa thành
phố, do đó khó thu hút được lao động thành phố về làm việc cho các KCN ở nông
thôn. Đó là hai nguyên nhân để các doanh nghiệp thuộc KCN nông thôn sử dụng
nhiều lao động nông thôn. Tuy nhiên, để người lao động có khả năng đáp ứng được
yêu cầu về trình độ tay nghề trong sản xuất công nghiệp, các doanh nghiệp phải tiến
hành đào tạo từ đó phát triển hệ thống giáo dục, đào tạo ở địa phương.

1.2. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA NÔNG THÔN
1.2.1. Khái niệm nông thôn
Ở mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ đều được chia thành 2 khu vực là thành thị và
nông thôn. Việc phân chia thành thị và nông thôn căn cứ vào nhiều tiêu chí khác
nhau như thành phần xã hội của dân chúng, thu nhập bình quân đầu người, mật độ
dân số, trình độ văn hóa và nghề nghiệp của dân cư, các đặc trưng về văn hóa, cấu
trúc xã hội, hướng di cư, mức độ chặt chẽ trong các quan hệ xã hội…


24

Do các tiêu chí để phân biệt nông thôn và thành thị chỉ mang tính tương đối
nên đến nay, chưa có một định nghĩa chuẩn xác nào về nông thôn. Có nhiều quan
điểm khác nhau được đưa ra để xác định một vùng là nông thôn. Một quan điểm
mang tính phổ biến cho rằng vùng nông thôn là vùng có dân cư làm nông nghiệp là
chủ yếu, tức là nguồn sinh kế chính của cư dân trong vùng là từ sản xuất nông
nghiệp. Quan điểm này chỉ đúng khi đặt trong bối cảnh cụ thể của từng nước, phụ
thuộc vào trình độ phát triển, cơ cấu kinh tế, cơ chế áp dụng cho từng nền kinh tế.
Đối với những nước đang thực hiện CNH, đô thị hóa, chuyển từ sản xuất thuần

nông sang phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ, xây dựng các khu đô thị
nhỏ, thị trấn, thị tứ rải rác ở các vùng nông thôn thì khái niệm về nông thôn có
những thay đổi so với khái niệm trước đây. Có thể hiểu nông thôn hiện nay bao
gồm cả những đô thị nhỏ, thị tứ, thị trấn, những trung tâm công nghiệp nhỏ có quan
hệ gắn bó mật thiết với nông thôn, cùng tồn tại, hỗ trợ và thúc đẩy nhau phát triển.
Một quan điểm khác lại dựa vào trình độ sản xuất và khả năng tiếp cận thị
trường để xác định vùng nông thôn khi cho rằng nông thôn là vùng có trình độ sản
xuất và khả năng tiếp cận thị trường kém hơn so với thành thị. Bên cạnh đó, có quan
điểm lại cho rằng nông thôn là vùng có mật độ dân số thấp hơn thành thị. Như vậy,
dù xem xét qua tiêu chí nào thì sự phân biệt giữa thành thị và nông thôn cũng chỉ
mang tính chất tương đối và phụ thuộc vào thời gian, sự phát triển kinh tế- xã hội
của các quốc gia.
Từ những quan điểm khác nhau về nông thôn có thể rút ra khái niệm về nông
thôn như sau: “Nông thôn là vùng lãnh thổ tập hợp dân cư sinh sống chủ yếu là
nông dân, có mật độ dân cư thấp, có tỷ lệ lao đông nông nghiệp cao ”.
Ở Việt Nam, theo Quyết định số 132-HĐBT ngày 5/5/1990 của Hội đồng Bộ
trưởng (nay là Chính phủ) quy định: “khu vực nông thôn được xác định là các địa
bàn dân cư có số lượng dân tập trung dưới 4.000 người, mật độ dân cư ít hơn 6.000
người/km2 và tỉ lệ lao động phi nông nghiệp dưới 60%, tức là tỉ lệ lao động nông
nghiệp từ 40% trở lên”[35]. Và tại Điều 1 Thông tư số 54/2009/TT- BNNPTNT
ngày 21/8/2009 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy định: “Nông thôn


25

là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị trấn được
quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là Uỷ ban nhân dân xã.”[12].

1.2.2. Đặc trưng của nông thôn
Từ khái niệm cho thấy nông thôn khác với thành thị ở chỗ: có cộng đồng chủ

yếu là nông dân sinh sống và làm việc; mật độ dân cư thấp; kết cấu hạ tầng kém
phát triển hơn; trình độ tiếp cận thị trường và sản xuất hàng hóa thấp hơn. Nông
thôn có những đặc trưng cơ bản sau: Một là, nông thôn là vùng sinh sống và làm
việc của một cộng đồng chủ yếu là nông dân. Hai là, người dân nông thôn thường
có thu nhập và đời sống thấp hơn, trình độ văn hóa, khoa học công nghệ, thấp hơn
so với thành thị. Ba là, nông thôn giàu tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên như đất
đai, nguồn nước, khí hậu,... nhưng rất đa dạng về kinh tế, xã hội, đa dạng về các
hình thức tổ chức quản lý, đa dạng về quy mô và trình độ phát triển.

1.2.3. Vai trò của nông thôn
Là khu vực tạo ra những giá trị sản xuất trực tiếp, nông thôn có vai trò quan
trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Vai trò của nông thôn
được thể hiện qua các khía cạnh sau: Một là, Nông thôn là nơi cung cấp lương thực,
thực phẩm cho nhu cầu thiết yếu của xã hội, là cơ sở cho sự phát triển của phân
công lao động xã hội. Hai là, Nông thôn là nơi cung cấp nguồn nhân lực chủ yếu
cho phát triển kinh tế - xã hội. Ba là, Nông thôn là nơi cung cấp nguồn nguyên liệu
cho các ngành công nghiệp nhẹ và công nghiệp chế biến. Bốn là, Nông thôn là thị
trường rộng lớn, tiêu thụ mạnh mẽ sản phẩm của ngành công nghiệp và các ngành
khác. Năm là, Nông thôn cũng là nơi có vị trí trọng yếu trong củng cố và giữ gìn an
ninh quốc phòng của đất nước. Bên cạnh đó, nông thôn còn là nơi giữ gìn và phát
triển các giá trị văn hóa truyền thống. Sáu là, Vùng nông thôn là vùng sản xuất nông
nghiệp đặc biệt là trồng trọt do đó có vai trò cân bằng môi trường sinh thái.

1.3. TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN CÁC
KHU CÔNG NGHIỆP Ở NÔNG THÔN VIỆT NAM
1.3.1. Sự cần thiết khách quan của phát triển khu công nghiệp ở nông thôn


×