Tải bản đầy đủ (.docx) (90 trang)

Nghiên cứu tác động thuế tiêu thụ đặc biệt của thuốc lá đối với ngân sách nhà nước và vấn đề xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (684.29 KB, 90 trang )

MỤC LỤC

1

1


DANH MỤC BẢNG BIỂU, BIỂU ĐỒ, HÌNH VẼ
BẢNG

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TIẾNG VIỆT

CHỮ VIẾT TẮT

VIẾT ĐẦY ĐỦ

NSNN

Ngân sách Nhà nước

TTĐB

Tiêu thụ đặc biệt

PTBV

Phát triển bền vững

TIẾNG ANH


CHỮ VIẾT TẮT

VIẾT ĐẦY ĐỦ

TIẾNG VIỆT

GDP

Gross Domestic Product

Tổng sản phẩm trong nước

CPI

Consumer Price Index

Chỉ số giá tiêu dùng

Statistical Package for

Phần mềm thống kê dành

the Social Sciences

cho nghiên cứu xã hội học

Principal Component

Phương pháp phân tích nhân


Analysis

tố chính

SPSS
PCA

2

2


LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài.
Hút thuốc lá đã và đang gây ra những hậu quả hết sức nặng nề cho sức khoẻ
và kinh tế. Thuốc lá đang trở thành một trong những nguyên nhân hàng đầu gây
ra tử vong cho con người. Số ca tử vong do các bệnh liên quan đến thuốc lá
ngày càng gia tăng. Theo ước tính của Tổ chức Y tế Thế giới nếu không có các
biện pháp ngăn chặn thì đến năm 2020, 10% dân số Việt Nam sẽ tử vong vì các
bệnh liên quan đến sử dụng các sản phẩm thuốc lá.
Một mặt khác, hút thuốc lá có ảnh hưởng đáng kể đến các hộ gia đình nghèo.
Nguyên nhân do số tiền họ chi tiêu cho thuốc lá khá nhiều, trong khi họ có thể
dùng số tiền đó để trang trải cho các chi tiêu hằng ngày (thực phẩm và phi thực
phẩm). Không những vậy, việc điều trị các bệnh liên quan đến thuốc lá cũng gây
nên các gánh nặng tài chính cho người thân của chính họ, gây ra các tổn thất về
mặt vật chất lẫn tinh thần.
Chính phủ Việt Nam đã thực thi rất nhiều biện pháp để có thể giảm thiểu số
lượng người hút thuốc lá. Trong số đó, việc áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt đối
với thuốc lá là một công cụ hữu hiệu. Trong vòng chỉ 15 năm thì chính phủ đã
có 6 lần thay đổi thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt đối với thuốc lá. Tuy nhiên, lần

thay đổi gần nhất là cách đây 7 năm và điều đó đã không còn phù hợp với thực
tế hiện tại. Giá thuốc lá đang ngày càng rẻ hơn đối với sức mua của người tiêu
dùng. Chính vì vậy, để thực hiện được mục tiêu là giảm được tỷ lệ người hút
thuốc ở nam giới chỉ còn 39% vào năm 2020 theo như chiến lược phòng chống
tác hại thuốc lá đã đề ra, cũng như đảm bảo được nguồn thu ngân sách từ thuốc
lá thì cần có thêm những nghiên cứu, đề xuất về tác động của việc tăng thuế tiêu
thụ đặc biệt đối với nguồn thu ngân sách nhà nước cũng như các vấn đề xã hội.
Với tính cấp thiết của vấn đề này, tập thể tác giả đã mạnh dạn chọn đề tài:
Nghiên cứu tác động thuế tiêu thụ đặc biệt của thuốc lá đối với ngân sách
nhà nước và vấn đề xã hội làm đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về thuế tiêu thụ đặc biệt, tác động của
việc tăng thuế tiêu thụ đặc biệt đối ngân sách nhà nước cũng như xem xét được
các kinh nghiệm quý báu cho vấn đề kiểm soát tình trạng hút thuốc lá từ các
nước đã triển khai thành công trên thế giới nhằm rút ra những bài học quý báu
cho Việt Nam.
1.



3

3








Đánh giá được thực trạng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với thuốc lá trong việc thu
ngân sách nhà nước cũng như tỷ lệ người hút thuốc qua các năm, đặc biệt là
trong những lần thay đổi thuế suất. Từ đó có thể đưa ra các kết quả cũng như
hạn chế và nguyên nhân trong điều chỉnh thuế tiêu thụ đặc biệt của thuốc lá
nhằm hai mục tiêu là tăng thu ngân sách nhà nước và hạn chế tác động tiêu cực
của mặt hàng thuốc lá.
Xây dựng mô hình đo lường kiểm định tác động của việc tăng thuế tiêu thụ đặc
biệt của thuốc lá đối với nguồn thu ngân sách nhà nước và vấn đề xã hội.
Khuyến nghị và giải pháp về chính sách thuế đối với thuốc lá.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
 Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung vào nghiên cứu vào tác động của thuế tiêu thụ đặc biệt của
thuốc lá đối với nguồn thu ngân sách nhà nước và vấn đề xã hội thông qua các
chỉ tiêu về kinh tế vĩ mô, tài chính
 Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Từ chính sách thuế với thuốc lá trong 20 năm trở lại đây
đồng thời vấn đề ngân sách nhà nước đặt ra đối với nguồn thu từ thuốc lá tại
Việt Nam.
Về thời gian: Từ năm 1995 đến năm 2014
3.

4.

Phương pháp nghiên cứu

Để giải quyết những nhiệm vụ đặt ra, trong quá trình thực hiện đề tài, nhóm
tác giả đã sử dụng các phương pháp sau:


Phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và

phương pháp hệ thống: Việc nghiên cứu thuế tiêu thụ đặc biệt và nguồn
thu ngân sách từ thuế ở Việt Nam được thực hiện một cách đồng bộ,
gắn với hoàn cảnh, điều kiện và các giai đoạn cụ thể. Các nội dung về
thuế tiêu thụ đặc biệt của thuốc lá được xem xét trong mối liên hệ chặt
chẽ với nhau cả không gian và thời gian, trong bối cảnh Việt Nam hội



nhập sâu vào nền kinh tế thế giới.
Phương pháp thống kê: Nhóm tác giả đã sử dụng các số liệu thống kê
thích hợp để phục vụ phân tích thực trạng của thuế tiêu thụ đặc biệt, từ
đó sử dụng một số chỉ số thống kê để phân tích định lượng cho tác động
của thuế Tiêu thụ đặc biệt đối với nguồn thu ngân sách nhà nước và vấn
đề xã hội.

4

4




Phương pháp phân tích tổng hợp: Trên cơ sở phân tích nội dung cụ thể,
nhóm tác giả đưa ra những đánh giá chung về thực trạng thuế tiêu thụ



đặc biệt trong điều kiện hiện nay.
Phương pháp so sánh, đối chiếu: Đánh giá thực trạng thuế tiêu thụ đặc
biệt đối với ngân sách nhà nước và vấn đề xã hội được xem xét trên cơ

sở có sự so sánh giữa các giai đoạn, các thời kì đổi mới chính sách thuế



tiêu thụ đặc biệt của thuốc lá.
Phương pháp phân tích định lượng: Nhóm tác giả đã sử dụng mô hình
hồi quy để đánh giá tác động của thực trạng thuế tiêu thụ đặc biệt đến

nguồn thu ngân sách nhà nước và vấn đề xã hội.
5. Điểm mới của đề tài
Đưa ra mô hình đo lường đánh giá tác động của thuế tiêu thụ đặc biệt của
thuốc lá đối với nguồn thu ngân sách nhà nước và vấn đề xã hội.
So sánh kinh nghiệm của Thụy Điển, Braxin, Thái Lan là những nước đã rất
thành công trong việc áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt của thuốc lá để nhằm tăng
thu NSNN và hạn chế các vấn đề xã hội. Từ đó đưa ra những bài học quý báu
cho Việt Nam.
Khuyến nghị về sử dụng các công cụ phi giá cả trong phòng chống thuốc lá
và giải pháp áp dụng biểu thuế tuyệt đối đối với thuốc lá và thuốc lào là sự đột
phá cần thiết hiện nay mà nước ta chưa làm được, trong khi thế giới đã có những
nước áp dụng thành công như Ấn Độ, Braxin.
6. Kết cấu của đề tài
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu về đề tài
Chương 2: Cơ sở lý luận về tác động của thuế tiêu thụ đặc biệt đối với ngân
sách và vấn đề xã hội
Chương 3: Mô hình đo lường thực trạng thuế tiêu thụ đặc biệt của thuốc lá
đối với ngân sách nhà nước và vấn đề xã hội.
Chương 4: Giải pháp tăng thu ngân sách nhà nước và hạn chế tác động của
thuốc lá đối với vấn xã hội.

5


5


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ ĐỀ TÀI
Tổng quan nghiên cứu trong nước
Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ hút thuốc cao nhất trên thế giới .
Sử dụng thuốc lá không chỉ tác động xấu lên sức khỏe mà còn tạo ra gánh nặng
lên xã hội và hệ thống chăm sóc sức khỏe do tiêu thụ các nguồn lực quý giá.
Chính vì những tác động này mà đã có hàng loạt các công trình nghiên cứu về
tác động của thuốc lá đến sức khỏe và chi phí xã hội để khắc phục hậu quả do
thuốc lá gây ra. Một số công trình tiêu biểu như:
1.1

Thứ nhất, điều tra toàn cầu về thuốc lá ở người trưởng thành tại Việt Nam
(GATS), 2010 do Tổ chức Y tế thế giới tại Việt Nam phối hợp với Bộ Y tế,
Trường Đại học Y Hà Nội và Tổng cục thống kê thực hiện. Đây là một điều tra
quan trọng giúp Việt Nam đánh giá được tỷ lệ sử dụng thuốc lá, thuốc lào và các
yếu tố liên quan tới việc sử dụng thuốc lá. Kết quả điều tra GATS năm 2010 cho
thấy mặc dù các hoạt động phòng chống thuốc lá gần đây đã nhận được sự chú ý
nhưng vẫn còn những vấn đề cần cải thiện:





Tỷ lệ hút thuốc lá đã giảm so với năm 2002 (nam: 56,1% xuống 47.4%; nữ:
1,8% xuống 1,4%), nhưng vẫn còn rất cao trong nam giới.
Gía trị trung vị của số tiền bỏ ra mua một bao thuốc lá 20 điếu lá 5.500 đồng

(khoảng 0,29 Đô la Mỹ). Gía trị trung vị của chi phí cho thuốc lá hàng năm của
mỗi người hút thuốc là 1.096.000 đồng (khoảng 57 Đô la Mỹ). Tỷ lệ % giá trung
vị của giá cho 100 bao thuốc lá điếu nhà máy trên tổng thu nhập bình quân đầu
người là 2.7%.
• Có 71.3% người trưởng thành ủng hộ việc tăng thuế thuốc lá
Hầu hết những người trưởng thành (95.7%) tin rằng hút thuốc lá gây ra bệnh tật
và ốm đau nghiêm trọng. Tỷ lệ phần trăm những người tin rằng hút thuốc lá gây
ung thư phổi, đột quỵ và đau tim lần lượt là 95.6%, 70.3% và 62.7%. Có 55.5%
những người trả lời rằng hút thuốc lá có thể gây ra cả ba bệnh ung thư phổi, đột
quỵ và đau tim.
Thứ hai, bài nghiên cứu về thuế thuốc lá ở Việt Nam, năm 2010 do tác giả
Hoàng Văn Kình, đến từ Trường Đại học thương mại cùng cộng sự thực hiện, đã
ước tính rằng, với giả thiết tổng độ co giãn cầu theo giá ở mức trung bình, tức là
-0,50, thì khi tăng thuế tiêu thụ đặc biệt từ mức 65% lên đến 85%, tức là tăng
6

6


mức thuế thuốc lá trong giá bán lẻ từ mức 42.6% lên 48.5%, ước tính sẽ làm
giảm số lượng người hút thuốc đi khoảng 300.000 người, giảm được hơn
100.000 ca chết sớm cộng vào năm 2050, và tăng thu nhập thuế của chính phủ
thêm 119 triệu đô la Mỹ. Tuy nhiên mức tăng mức thuế thuốc lá trong giá bán lẻ
đến mức 48.5% là còn quá thấp so với tỷ lệ 65-80% do Ngân hàng thế giới ghi
nhận ở các nước có chính sách kiểm soát thuốc lá hiệu quả. Cũng theo tác giả,
nếu để gần đạt đến mức khuyến cáo theo Ngân hàng thế giới, khoảng đạt mức
61.5% giá bán lẻ thì phải tăng thuế tiêu thụ đặc biệt lên đến 150%, khi đó sẽ làm
giảm số lượng người hút thuốc đi khoảng 1.500.000 người, giảm được hơn
500.000 ca chết sớm vào năm 2050, và tăng thu nhập thuế cho chính phủ thêm
316 triệu đô la Mỹ. Hơn nữa, tác giả cũng khuyến nghị với mục tiêu tăng trưởng

đáng kể giá của các sản phẩm thuốc lá rẻ nhất và do đó giảm cơ hội người hút
thuốc chuyển sang các sàn phẩm rẻ hơn khi thuế tăng, nên áp dụng một loại thuế
tính theo số lượng, có điều chỉnh hàng năm theo lạm phát hoặc có lộ trình tăng
theo thời gian để theo kịp và vượt mức lạm phát dự kiến.
Thứ ba, bài nghiên cứu về tác động của Phòng chống tác hại thuốc lá đến
GDP và việc làm ở Việt Nam do nhóm tác giả Nguyễn Thị Thu Hiền, Nguyễn
Tiến Minh, Nguyễn Bảo Ngọc, Hoàng Anh Tuấn đã chỉ ra rằng số việc làm
trong ngành thuốc lá chỉ chiếm khoảng 0.6% tổng số việc làm tại Việt Nam.
Nghiên cứu cũng kết luận rằng nếu thuế tăng 50% giá bán lẻ thì tiêu dùng thuốc
lá sẽ giảm khoảng 10%. Nếu số tiền từ việc tiêu dùng thuốc lá được dành cho
các hàng hóa và dịch vụ khác thì Tổng sản phẩm quốc nội sẽ tăng thêm 600 tỷ
đồng, trong khi đó trong dài hạn số việc làm được tạo ra ở các ngành nghề khác
sẽ tăng thêm 500.000 việc làm.
Thứ tư, bài nghiên cứu về chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp do việc hút
thuốc lá tại Việt Nam do tác giả Phan Thị Hoàng Anh đến từ Tổ chức
HealthBridge Canada tại Việt Nam cùng các cộng sự thực hiện. Nhóm tác giả đã
ước lượng chi phí trực tiếp và gián tiếp từ 5 bệnh thường gặp do thuốc lá gây ra,
gồm có: ung thư phổi, bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính, bệnh tim do thiếu máu cục
bộ, bệnh đột quỵ, ung thư vùng miệng. Theo kết quả nghiên cứu thì tổng chi phí
ước lượng năm 2011 do thuốc lá gây ra từ 5 bệnh này đạt 24679 tỷ đồng, trong
đó chi phí trực tiếp cho điều trị nội trú và ngoại trú lần lượt là 9896 và 2567 tỷ
đồng. Trong khi đó, chi phí gián tiếp do giảm năng suất lao động từ người bị
7

7


bệnh và tử vong lần lượt đạt 2652 và 9563 tỷ đồng. Chi phí gián tiếp đạt gần
một nữa tổng chi phí từ việc hút thuốc lá. Việc hút thuốc lá đã gây ra gánh nặng
lớn cho nền kinh tế Việt Nam.

1.2

Tổng quan nghiên cứu nước ngoài

Trên thế giới thì thuốc lá được biết đến là một nguyên nhân chính gây tử
vong có thể ngăn ngừa được trên thế giới hiện nay, cứ mỗi sáu giây lại giết chết
một người. Sử dụng thuốc lá đang gây ra 5 triệu ca tử vong mỗi năm và dự đoán
sẽ gây ra 8 triệu ca tử vong mỗi năm vào năm 2030. Nếu xu thế sử dụng thuốc lá
hiện tại không thay đổi, dự đoán đại đa số ca tử vong sẽ xảy ra ở các nước đang
phát triển. Chính vì thế mà đã có hàng loạt các công trình nghiên cứu về tác hại
của thuốc lá, từ đó đề xuất các chính sách, biện pháp cho chính phủ các nước.
Một số công trình nhóm tác giả nghiên cứu như sau:
Thứ nhất, trong một nghiên cứu về quản lí thuốc lá do Ngân hàng thế giới
tiến hành thì đã chỉ ra rằng, trung bình tăng giá 10% sẽ làm giảm nhu cầu đối
với các sản phẩm từ thuốc lá đi khoảng 4% ở các nước thu nhập cao và khoảng
8% ở các nước thu nhập thấp và trung bình. Từ đó, Ngân hàng thế giới cũng đề
xuất với mức thuế thuốc lá chiếm từ 65-80% giá bán lẻ sẽ đạt được sự kiểm soát
thuốc lá có hiệu quả. Ngân hàng thế giới cũng cho rằng tăng thuế thuốc lá sẽ gần
như luôn dẫn đến tăng thu nhập cho chính phủ.
Thứ hai, bài nghiên cứu về tăng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với thuốc lá, ảnh
hưởng của việc tăng thuế đến sức khỏe và ngân sách quốc gia được thực hiện
bởi Văn phòng Ngân sách Quốc hội của Mỹ (CBO - Congressional Budget
Office) vào tháng 06 năm 2012. Trong nghiên cứu này, CBO áp dụng mô hình
phân tích một chính sách liên quan đến thuốc lá – giả định tăng 50 cent cho mỗi
bao thuốc lá bằng cách tăng thuế tiêu thụ đặc biệt (số liệu mỗi năm được điều
chỉnh để theo kịp lạm phát và mức tăng trưởng thu nhập của người dân) – nhằm
chứng minh được sự liên kết phức tạp giữa chính sách tăng thuế và ảnh hưởng
đến ngân sách liên bang. Phân tích của CBO cho thấy rằng việc giả định tăng
thuế và các tác động dẫn đến hành vi và sức khỏe của người dân sẽ làm tăng
doanh thu liên bang khoảng 41 tỷ USD và giảm chi tiêu ngân sách ít nhất là 1 tỷ

USD đến năm 2021. Ngoài ra, khoảng 38 tỷ USD của các khoản thu bổ sung
được ước tính đến từ việc đưa ra mức thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt cao hơn.
8

8


Và theo ước tính của các nhân viên của Ủy Ban Liên Hợp về Thuế thì doanh thu
liên bang sẽ tăng thêm 1 tỷ USD từ những cải tiến trong y tế, chủ yếu là từ
những khoản bổ sung do sức khỏe tốt hơn cho phép người dân làm việc làm việc
hiệu quả hơn.
Thứ ba, trong một nghiên cứu khác của Ngân hàng thế giới về Phòng chống
tác hại Thuốc lá đã đưa ra những tác hại đáng cảnh báo do mặt hàng thuốc lá
gây ra cho chính sức khỏe của bản thân và những người xung quanh. Theo
nghiên cứu, có khoảng 5500 tỉ điếu thuốc đốt mỗi năm, cứ mỗi 6 giây có 1
người chết vì nó, giết 100 triệu sinh linh trong thế kỷ 20 tức gấp đôi số thương
vong trong Thế chiến thứ II, dự báo thuốc lá sẽ giết 1 tỉ người trong thế kỷ này.
Ngoài ra, nghiên cứu cũng đưa ra những giải pháp đối với mặt hàng độc hại
này để nhằm ngăn chặn số lượng người hút thuốc gia tăng, mà đặc biệt là giải
pháp tăng thuế thuốc lá. Giải pháp này chỉ ra rằng, chi phí của việc tăng thuế
thuốc lá là từ 5 đến 17 USD để có được một năm sống khỏe mạnh (mà lẽ ra sẽ bị
mất do hút thuốc gây ra). Mức chi phí-hiệu quả này là rất tối ưu và có thể so
sánh ngang với mức chi phí-hiệu quả khi áp dụng những can thiệp y tế ban đầu
có chi phí hiệu quả tối ưu, ví dụ như tiêm chủng trẻ em.
1.3 Khoảng trống nghiên cứu
Thứ nhất, tuy đã có nhiều công trình nghiên cứu đa dạng trên thế giới nhưng
khó lòng có thể đáp ứng với thực tiễn tại Việt Nam, bởi sự khác nhau về điều
kiện kinh tế-xã hội, văn hóa, nhận thức người dân cũng như các chính sách quốc
gia nhằm hạn chế tác hại của thuốc lá. Trong khi, Việt Nam lại là một quốc gia
có số lượng người hút thuốc lá lớn trên thế giới và đây là một vấn đề được nhiều

người quan tâm tại Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, tại Việt Nam các đề tài về thuốc lá vẫn còn rất ít, và không mấy nhà
nghiên cứu tiếp cận. Những bài nghiên cứu đã được thực hiện thì lại cách đây
khá lâu, chưa theo kịp với tình hình kinh tế xã hội ngày càng thay đổi.
Thứ ba, chế tài pháp luật đối với sản xuất và tiêu thụ thuốc lá tại Việt Nam
chưa thật sự tốt. Những điểm chưa hoàn thiện trong các văn bản pháp luật, các
quy định ban hành khiến cho tình trạng buôn lậu và tiêu thụ thuốc lá ngày càng
gia tăng.

9

9


Thứ tư, sức ép từ tăng thu ngân sách nhà nước luôn là mục tiêu hướng đến
mỗi khi nhắc đến một giải pháp nhưng ít nhất có hai tác dụng đối với thuốc lá:
tác dụng tăng thu NSNN đồng thời hạn chế vấn đề xã hội gây ra từ thuốc lá.
Chính vì thế, nhóm xin mạnh dạn thực hiện đề tài nghiên cứu tác động thuế
tiêu thụ đặc biệt của thuốc lá đối với ngân sách nhà nước và vấn đề xã hội để có
được cái nhìn tổng quan nhất về những mặt tác động của chính sách thuế tiêu
thụ đặc biệt đối với mặt hàng này.

2

10

10


CHƯƠNG 2

CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA THUẾ TIÊU THỤ ĐẶC
BIỆT ĐỐI VỚI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ VẤN ĐỀ XÃ HỘI
2.1

Khái quát về thuế tiêu thụ đặc biệt
2.1.1 Khái niệm, đặc điểm của thuế tiêu thụ đặc biệt

Thuế tiêu thụ đặc biệt là một loại thuế gián thu, đánh vào một số hàng hóa,
dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế theo quy định của luật thuế tiêu thụ đặc biệt.
Thuế được cấu thành trong giá cả hàng hóa, dịch vụ và do người tiêu dùng chịu
khi mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ.
Thuế tiêu thụ đặc biệt được áp dụng phổ biến ở nhiều nước trên thế giới với
những tên gọi khác nhau. Ở Việt Nam, năm 1990, Bộ Tài Chính đã soạn thảo dự
án luật thuế mới với tên gọi thuế tiêu thụ đặc biệt, và được Quốc hội thông qua
vào ngày 30/06/1990. Từ đó đến nay, nước ta đã sửa đổi, thay thế nhiều điều
luật để hoàn chỉnh hơn và phát huy vai trò của thuế tiêu thụ đặc biệt trong điều
tiết sản xuất và tiêu dùng xã hội.
Vì thuế tiêu thụ đặc biệt là một loại thuế nên nó mang các đặc điểm chung
của thuế bao gồm: tính bắt buộc, tính pháp lí cao, tính không hoàn trả trực tiếp.
Ngoài ra, thuế tiêu thụ đặc biệt còn có các đặc điểm riêng như sau:
(1)

(2)

Là một loại thuế gián thu – Nghĩa là thuế tiêu thụ đặc biệt là loại thuế mà người
nộp thuế và người chịu thuế là hai đối tượng khác nhau. Cụ thể, người chịu thuế
tiêu thụ đặc biệt ở đây là khách hàng còn người nộp thuế lại là người bán hàng.
Việc phân chia các loại thuế ra thành thuế gián thu hay thuế trực thu nhằm mục
đích chỉ ra ai thực sự là người sẽ nộp thuế và ai sẽ là người chịu gáng nặng về
thuế. Từ đó, giúp các nhà làm luật đưa ra cách thức thu thuế phù hợp cho từng

loại thuế nhất định.
Thu một lần vào khâu sản xuất hoặc kinh doanh, dịch vụ – Nghĩa là thuế TTĐB
là loại thuế một giai đoạn nên chỉ thu một lần duy nhất vào khâu “đầu vào”,
không có sự trùng lặp qua các khâu của quá trình luân chuyển hàng hóa. Đặc
điểm này cho thấy điểm khau nhau giữa thuế TTĐB với thuế doanh thu và thuế
giá trị gia tăng, vì các loại thuế này đánh trên toàn bộ doanh thu bán hàng hoặc
giá trị.
11

11


(3)

(4)

Thường có mức động viên cao – Nghĩa là thuế TTĐB có thể được xác định trên
cơ sở giá trị hoặc trên cơ sở đơn vị đo lường khác và thường được thu với thuế
suất cao hơn so với thuế tiêu dùng thông thường. Đặc điểm này thể hiện sự điều
tiết của Nhà nước thông qua thuế TTĐB. Xét ở khía cạnh quản lí, việc tiêu dùng
hoặc sản xuất các loại hàng hóa đặc biệt không chỉ liên quan đến vấn đề kinh tế
mà còn ảnh hưởng đến vấn đề xã hội. Vì vậy để định hướng sản xuất hoặc tiêu
dùng các mặt hàng này, Nhà nước cần thiết phải sử dụng mức thuế cao thông
qua thuế TTĐB để hướng dẫn sản xuất và tiêu dùng hợp lí. Xét ở khía cạnh phân
phối thu nhập, đối tượng tiêu dùng phần lớn các hàng hóa, dịch vụ đặc biệt này
phần lớn là những người có thu nhập cao. Vì vậy, thuế TTĐB có mức động viên
cao nhằm điều tiết thu nhập của những người có thu nhập cao, đảm bảo công
bằng xã hội.
Danh mục hàng hóa, dịch vụ chịu thuế không nhiều và thay đổi theo từng thời kì
tùy vào điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và mức sống dân cư – Nghĩa là số

lượng các hàng hóa, dịch vụ chịu thuế TTĐB không nhiều; đến năm 2010, số
lượng hàng hóa, dịch vụ chịu loại thuế này chỉ bao gồm 6 nhóm hàng hóa và 4
nhóm dịch vụ. Điều này khác với các loại thuế gián thu khác như thuế doanh
thu, thuế giá trị gia tăng là những loại thuế có đối tượng chịu thuế rộng rãi và
bao quát hầu hết các mặt hàng và dịch vụ, trong khi đó thuế TTĐB chỉ tập trung
điều tiết một số mặt hàng nhất định không được Nhà nước khuyến khích tiêu
dùng. Tùy theo quan điểm của các nhà làm luật ở mỗi quốc gia mà danh mục
hàng hóa và dịch vụ phải chịu thuế TTĐB có thể rất khác nhau. Ngoài ra, tùy
vào từng thời kì phát triển kinh tế - xã hội mà danh mục hàng hóa, dịch vụ chịu
thuế sẽ được thay đổi, bổ sung sao cho phù hợp với chủ trương, chính sách của
Nhà nước trong việc hướng dẫn sản xuất, tiêu dùng cũng như điều tiết thu nhập
của các tầng lớp dân cư.
2.1.2 Tác động của thuế tiêu thụ đặc biệt
Tác động của thuế tiêu thụ đặc biệt đến người bán
Giả sử Chính phủ công bố để hạn chế việc sản xuất một loại hàng hóa nào
đó, Chính phủ quyết định đánh thuế t đồng vào mỗi sản phẩm hàng hóa đó được
sản xuất ra tại xưởng. Lúc này, người bán sẽ là người chịu thuế theo quy định.
Khi đó, trong hình 2.1, đường cung S là đường thể hiện mức tối thiểu mà người
sản xuất sẵn sàng bán hàng hóa của mình cho người tiêu dùng. Sau khi đánh
12

12


thuế, đường S sẽ dịch chuyển song song lên trên một khoảng đúng bằng mức
thuế t.

P

S’= S + t

t

Pm
Po
Pb

S

A
G

Điểm cân bằng trước
thuế

B
C
D

Q1

Qo

Q

Hình 2.1 Đồ thị thuế đánh vào người bán
-

Mức giá mà người mua phải trả cao hơn trước (Pm > Po) nhưng giá mà người
bán nhận được lại giảm đi (Pb < Po), và mức chênh lệch đúng bằng t.
Điểm cân bằng thị trường chuyển từ B sang A, với sản lượng cân bằng được sản

xuất ra cũng giảm từ Qo xuống Q1.
Như vậy, điều này đã gây ra tổn thất cho xã hội (do Q1 < Qo), và mức tổn
thất xã hội đúng bằng diện tích tam giác ABC, trong đó diện tích tam giác ABG
là tổn thất của người mua, còn diện tích tam giác GBC là tổn thất của người bán.
Tổng số thuế mà Chính phủ thu được bằng diện tích hình chữ nhật PmPbCA.
Mặc dù, thuế đánh vào người bán nhưng người bán không chịu hết mà
chuyển một phần thuế cho người tiêu dùng, bằng cách tăng giá sản phẩm lên.
Vậy gánh nặng thuế của người tiêu dùng là diện tích PmPoGA, còn gánh nặng
thuế của người bán là diện tích PoPbCG.
Tác động của thuế tiêu thụ đặc biệt đến người mua
Đối với thuế bên cầu (người mua là người chịu thuế theo quy định) thì Chính
phủ để hạn chế tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ sẽ đánh thuế t đồng trên mỗi sản
phẩm, dịch vụ được mua trên thị trường. Tác động của thuế được phân tích
tương tự như đối với thuế bên cung. Kết quả, như hình 2.2, toàn bộ đường cầu D
dịch chuyển song song xuống dưới, và điểm cân bằng thị trường chuyển từ E
xuống F. Giá người mua phải trả cao hơn trước, là Pm = Pb (giá người bán nhận
được) + t. Và thuế tuy đánh vào người mua nhưng gánh nặng thuế được chuyển
13

13


cho cả người mua lẫn người bán. Xã hội cũng chịu một mức tổn thất do Q2 <
Qo.

P
S
Pm
Po
Pb


H
G

E
F

D
t
D’

Q2

Qo

Hình 2.2 Đồ thị thuế đánh vào người mua
Từ những phân tích hình 2.1 và 2.2, ta có những kết luận về ảnh hưởng của
thuế TTĐB đến thị trường như sau:
-

-

Giá người mua phải trả sau khi có thuế cao hơn giá ban đầu, còn giá người bán
nhận được lại giảm đi. Phần chênh lệch chính là số thuế phải nộp vào ngân sách
nhà nước nhằm điều tiết thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội.
Việc đánh thuế gây ra tổn thất cho xã hội. Cả người mua và người bán đều phải
chịu gánh nặng từ thuế gây ra.
Gánh nặng thuế của người mua và người bán không phụ thuộc thuế đánh vào đối
tượng nào (người mua hay người bán), mà chỉ phụ thuộc vào độ co giãn của
đường cung và đường cầu theo nguyên tắc: nếu đường cung ít co giãn hơn so

với đường cầu thì người bán chịu nhiều thuế hơn và ngược lại, đường cầu ít co
giãn hơn thì người tiêu dùng chịu nhiều thuế hơn.
2.1.3 Nội dung của thuế tiêu thụ đặc biệt
2.1.3.1 Xác Định Phạm Vi Áp Dụng
(1) Về đối tượng chịu thuế: Là các loại hàng hóa, dịch vụ xa xỉ, đắt tiền;
hoặc là những mặt hàng độc hại cho sức khỏe con người nhưng người dân vẫn
14

14


tiêu dùng với số lượng lớn. Điểm chung của những đối tượng chịu thuế TTĐB là
đều không được Nhà nước khuyến khích sử dụng, một số mặt hàng có thể bị
cấm tiêu dùng.
Hiện nay, theo luật hiện hành ở Việt Nam thì đối tượng chịu thuế TTĐB gồm
có 10 loại hàng hóa và 6 loại dịch vụ. Một số loại hàng hóa chịu thuế như:
-

Thuốc lá điếu, xì gà và chế phẩm khác từ cây thuốc lá dùng để hút, hít,
nhai, ngửi, ngậm;
Rượu;
Bia
Xe ô tô dưới 24 chỗ,
Xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh có dung tích xi lanh trên 125cm3;
Tàu bay, du thuyền (là loại sử dụng cho mục đích dân dụng)
Xăng các loại, nap-ta (naphtha), chế phẩm tái hợp (reformade component)
và các chế phẩm khác
Điều hoà nhiệt độ công suất từ 90.000 BTU trở xuống
Bài lá;
Vàng mã, hàng mã


Có thể thấy, ngoài những mặt hàng độc hại thường hay chịu thuế TTĐB ở
hầu hết các quốc gia trên thế giới như thuốc lá điếu, xì gà, rượu, bia thì có trong
đó có một số hàng hóa mang tính đặc trưng tại Việt Nam mà theo quy định của
nhiều nước lại không phải là đối tượng chịu thuế TTĐB như: vàng mã, hàng mã,
bài lá. Hoặc một số hàng hóa phổ biến ở nhiều quốc gia nhưng lại là hàng hóa
không được Chính phủ khuyến khích như xe oto, tàu bay, du thuyền.
Một số loại hình dịch vụ bị đánh thuế TTĐB hiện nay như:
-

Kinh doanh vũ trường;
Kinh doanh mát-xa (massage), karaoke
Kinh doanh casino; trò chơi điện tử có thưởng;
Kinh doanh golf bao gồm bán thẻ hội viên, vé chơi golf;
Kinh doanh xổ số.

(2) Về đối tượng không chịu thuế: các hàng hóa xa xỉ, đắt tiền nhưng được
phục vụ cho mục đích kinh doanh, sản xuất, phục vụ cho mục đích nhân đạo,
cứu trợ, các dịch vụ công.
Theo điều 3 Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 2008 thì đối tượng không chịu
thuế gồm có 5 loại hàng hóa như tàu bay, du thuyền được phục vụ cho mục đích
15

15


kinh doanh, du lịch, hay như các loại xe ô tô cứu thương, xe phục vụ tang lễ, xe
chở phạm nhân. (Xem Phụ lục 5)
(3)Về đối tượng nộp thuế: là các tổ chức, cá nhân có sản xuất, nhập khẩu
hàng hóa và kinh doanh dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế TTĐB. Theo Luật

thuế tiêu thụ đặc biệt năm 2008 thì đối tượng nộp thuế bao gồm:
-

-

-

-

Các tổ chức kinh doanh được thành lập và đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh
nghiệp, Luật Doanh nghiệp Nhà nước (nay là Luật Doanh nghiệp) và Luật Hợp
tác xã.
Các tổ chức kinh tế của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã
hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, đơn vị
vũ trang nhân dân, tổ chức sự nghiệp và các tổ chức khác.
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và bên nước ngoài tham gia hợp tác
kinh doanh theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (nay là Luật đầu tư); các
tổ chức, cá nhân nước ngoài hoạt động kinh doanh ở Việt Nam nhưng không
thành lập pháp nhân tại Việt Nam.
Cá nhân, hộ gia đình, nhóm người kinh doanh độc lập và các đối tượng khác có
hoạt động sản xuất, kinh doanh, nhập khẩu.
2.1.3.2 Căn Cứ Tính Thuế
Giá tính thuế
Giá tính thuế TTĐB của hàng hóa, dịch vụ: là giá bán hàng hoá, giá cung
ứng dịch vụ của cơ sở sản xuất, kinh doanh chưa có thuế TTĐB, thuế bảo vệ
môi trường (nếu có) và thuế GTGT.
(1)

Giá tính thuế được tính bằng đồng Việt Nam. Trường hợp người nộp thuế có
doanh thu bằng ngoại tệ thì phải quy đổi ngoại tệ ra đồng Việt Nam theo tỷ giá

giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam công bố tại thời điểm phát sinh doanh thu để xác định giá tính
thuế.

16



Giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hàng sản xuất trong nước:



Giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hàng nhập khẩu:
16


(Hàng hóa nhập khẩu được miễn, giảm thuế nhập khẩu thì giá tính thuế không
bao gồm số thuế nhập khẩu được miễn, giảm)




Giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hàng hóa gia công, hàng đem biếu tặng,
hàng tiêu dùng nội bộ: Giá tính thuế là giá tính thuế của mặt hàng cùng loại hoặc
của mặt hàng tương đương tại cùng thời điểm giao hàng hoặc phát sinh các hoạt
động này
Giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt đối với dịch vụ: Giá tính thuế TTĐB là giá cung
ứng dịch vụ chưa có thuế tiêu thụ đặc biệt
(2) Thuế suất
Thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt áp dụng có tính chất phân biệt giữa các nhóm

hàng hóa, dịch vụ và giữa các hàng hóa, dịch vụ trong cùng một nhóm nhằm
thực hiện chính sách điều tiết sản xuất và hướng dẫn tiêu dùng xã hội của Nhà
nước và được quy định cụ thể tại biểu thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt (Xem Phụ
lục 1).
2.1.3.3 Phương Pháp Tính Thuế
Thuế tiêu thụ đặc biệt được tính theo phương pháp trực tiếp. Theo đó, số thuế
tiêu thụ đặc biệt phải nộp được xác định qua công thức:
Thuế TTĐB phải nộp = (Số lượng hàng hóa tiêu thụ hay nhập khẩu) x (Giá tính
thuế đơn vị hàng hóa) x (Thuế suất thuế TTĐB)
2.1.3.4 Quản Lí Thuế

(1)

Kê khai thuế: Thuế tiêu thụ đặc biệt là loại thuế khai theo tháng và khai theo lần
phát sinh.
 Khai theo tháng: Đối với người nộp thuế sản xuất, gia công hàng hoá và
kinh doanh hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.
 Khai theo từng lần phát sinh: Đối với người nộp thuế mua hàng hoá chịu
thuế tiêu thụ đặc biệt để xuất khẩu nhưng không xuất khẩu mà bán trong
nước.
– Trong thời gian tạm ngừng kinh doanh và không phát sinh nghĩa vụ thuế thì
người nộp thuế không phải nộp hồ sơ khai thuế. Chậm nhất là 5 ngày trước khi
tạm ngừng kinh doanh, người nộp thuế phải có thông báo bằng văn bản gửi cơ
17

17


quan thuế quản lý trực tiếp. Hết thời hạn tạm ngừng kinh doanh, người nộp thuế
phải thực hiện kê khai theo quy định.

(2)

Hoàn thuế là việc Nhà nước trả lại số thuế mà đối tượng nộp thuế đã nộp vào
Ngân sách Nhà nước trong một số trường hợp nhất định.
Một số trường hợp phổ biến hiện nay được hoàn thuế ở hầu hết các quốc gia
trên thế giới như:
- Hàng tạm nhập khẩu, tái xuất khẩu, đã nộp thuế TTĐB.
- Được hoàn lại số thuế tiêu thụ đặc biệt đã nộp tương ứng với số nguyên liệu
nhập khẩu dùng để sản xuất hàng hoá thực tế xuất khẩu.
- Cơ sở sản xuất, kinh doanh quyết toán thuế khi sáp nhập, chia, tách, giải thể,
phá sản ..v.v. có quyền đề nghị cơ quan thuế hoàn lại số thuế tiêu thụ đặc biệt
nộp thừa.
Ngoài ra, một số trường hợp khác cơ quan hoặc tổ chức kinh doanh vẫn có
thể hoàn thuế TTĐB (tùy vào từng quốc gia) như:
-

Theo Quyết định của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật
Theo Điều ước quốc tế mà nước đó là thành viên.
Số tiền thuế tiêu thụ đặc biệt đã nộp lớn hơn số tiền thuế tiêu thụ đặc biệt
phải nộp theo quy định.

2.2 Thuế tiêu thụ đặc biệt đối với ngân sách nhà nước
2.2.1 Vai trò của thuế tiêu thụ đặc biệt đối với ngân sách nhà nước
Là công cụ để Nhà nước huy động các nguồn lực tài chính.
Từ khi ra đời cho đến nay, Nhà nước đã đặt ra các hình thức thu thuế khác
nhau để duy trì hoạt động của Bộ máy quản lí. Có thể thấy, vai trò đầu tiên và cơ
bản nhất của thuế nói chung và thuế tiêu thụ đặc biệt nói riêng đó chính là tạo
nguồn thu chủ yếu và lâu dài cho ngân sách nhà nước.
Thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam được coi là khoản thu quan trọng nhất đối
với ngân sách nhà nước vì khoản thu này mang tính chất ổn định và khi nền kinh

tế càng phát triển thì khoản thu này càng tăng, trong đó mặt hàng thuốc lá cũng
nằm trong danh mục hàng hóa chịu thuế tiêu thụ đặc biệt với thuế suất lên đến
65%.
Đối với Việt Nam, ngành công nghiệp thuốc lá là một nguồn quan trọng của
thu ngân sách nhà nước. Hằng năm, thuế tiêu thụ đặc biệt nói chung và thuế tiêu
18

18


thụ đặc biệt của thuốc lá nói riêng đóng góp tỉ lệ lớn trong tỉ trọng thu ngân
sách. Mặc dù, tỉ lệ sản lượng công nghiệp thuốc lá trong tổng sản lượng công
nghiệp và sản lượng sản xuất hàng năm là không quá vượt trội (ví dụ: trong năm
2000, tỉ lệ này chỉ chiếm 3% tổng sản lượng công nghiệp và 3.5% tổng sản
lượng sản xuất), nhưng ngành công nghiệp thuốc lá đã đóng góp một phần đáng
kể trong tổng thu ngân sách nhà nước. Như đã nêu trong Bảng 2, ngành công
nghiệp thuốc lá đóng góp khoảng 3% tổng thu ngân sách nhà nước trong năm
2000.
2.2.2 Nguyên tắc đánh thuế tiêu thụ đặc biệt đối với thuốc lá
Ngoại ứng tiêu cực là những chi phí áp đặt lên một đối tượng thứ ba (ngoài
người mua và người bán trên thị trường) nhưng chi phí đó lại không được phản
ánh trong giá cả thị trường.
Hút thuốc lá là một hoạt động gây ra ngoại ứng tiêu cực. Cụ thể, khi một
cá nhân hút thuốc lá, khói thuốc lá độc hại được thải ra ngoài môi trường, nó sẽ
gây tổn hại đến sức khỏe của những người xung quanh ở gần đó, khiến họ dễ
mắc các bệnh liên quan đến đường hô hấp. Nhưng người hút thuốc lá lại không
phải đền bù cho những thiệt hại do mình gây ra, vì thế khi tính toán chi phí, họ
không đưa những tổn hại này vào giá thành thuốc lá.

19


19


Sự phi hiệu quả của ngoại ứng tiêu cực do thuốc lá gây ra
MB, MC

MSC = MPC + MEC

C
A

MPC
B

MEC

MB
0

Qo

Q1

Q

Hình 2.3. Sự phi hiệu quả của ngoại ứng tiêu cực
-

-


Đường MB thể hiện lợi ích biên mà người hút thuốc nhận được khi hút thêm
một điếu thuốc.
Đường MPC thể hiện chi phí tư nhân biên, tức mọi khoản chi phí mà người hút
thực sự phải chi ra để hút thêm một điếu thuốc.
Đường MEC thể hiện chi phí ngoại ứng biên, cho biết tổng thiệt hại mà người
xung quanh phải gánh chịu khi người hút hút thêm một điếu thuốc. Mức thiệt hại
được giả định tăng dần khi người hút hút thuốc càng nhiều. Vì thế, đường MEC
có chiều đi lên giống đường MPC
Đường MSC thể hiện chi phí xã hội biên. Vì thế MSC = MPC + MEC
Người hút muốn đạt tối đa hóa lợi ích của mình <=> MB = MC. Nhưng MC
mà người hút quan tâm là MPC nên mức sản lượng mà người hút sẽ tiêu dùng là
tại điểm B, tức là tại MPC = MB. (Q1 là sản lượng cân bằng thị trường)
Trái lại, cũng theo nguyên tắc biên của tính hiệu quả, nhưng vì quan tâm đến
chi phí của cả xã hội nên mức sản lượng tối ưu theo quan điểm xã hội phải đạt
tại A, khi MB = MSC. (Qo là sản lượng hiệu quả của xã hội)
Như vậy, người hút thuốc gây ngoại ứng tiêu cực đã tiêu dùng quá nhiều so
với mức tối ưu xã hội (Q1>Qo). Điều này gây ra tổn thất cho xã hội. Và mức tổn
thất cho xã hội bằng đúng diện tích tam giác ABC.

20

20


Giải pháp khắc phục ngoại ứng tiêu cực
Một trong những giải pháp đạt hiệu quả mà Chính phủ có thể can thiệp, đó
chính là biện pháp đánh thuế tiêu thụ đặc biệt đối với mặt hàng thuốc lá. Thuế sẽ
được đánh vào mỗi đơn vị sản phẩm thuốc lá được tiêu thụ trên thị trường, sao
cho nó đúng bằng chi phí ngoại ứng biên tại mức sản lượng tối ưu xã hội.

MB, MC

MSC = MPC + MEC

MPC + t
MPC

A

t

MEC

E

MB
0

Qo

Q1

Q

Hình 2.4 Chính phủ đánh thuế t đồng/sản phẩm
Cụ thể, Chính phủ đánh thuế t đồng / sản phẩm tiêu thụ. Và mức thuế hiệu
quả chính là đoạn AE. Khi chịu thuế này, đường MPC sẽ dịch chuyển song song
lên trên thành đường MPC + t. Khi đó, để tối đa hóa lợi nhuận của cá nhân thì
MPC + t = MB, tức sản xuất đúng tại điểm Qo như xã hội mong muốn. Khi đó,
Chính phủ sẽ thu được một doanh thu thuế bằng chính diện tích tô đậm trong

hình. Chính phủ sẽ sử dụng khoản thuế này để bồi thường cho những người bị
thiệt hại.
2.2.3 Cơ sở đánh giá đóng góp từ thuế TTĐB cho số thu NSNN
Dựa trên tầm quan trọng của vấn đề đánh giá mức đóng góp từ thuế TTĐB
cho NSNN trong việc quản lí ngân sách quốc gia, nhóm tác giả xin đề xuất đưa
ra hệ thống các chỉ tiêu đánh giá nhằm xác định mức hiệu quả của việc áp dụng
thuế TTĐB và vai trò quan trọng của nguồn thu từ thuế TTĐB đến ngân sách
nhà nước.
• Tỷ trọng tổng thu thuế TTĐB trên tổng thu ngân sách nhà nước
21

21


Nguồn thu từ thuế tiêu thụ đặc biệt đóng vai trò rất quan trọng trong tổng
nguồn thu của ngân sách nhà nước. Đây là một trong những nguồn thu lâu dài và
chủ yếu nhằm gia tăng ngân sách qua các năm. Hàng năm, thu từ thuế TTĐB
chiếm khoảng từ 15% đến 18% trong tổng số thuế gián thu và chiếm từ 7% đến
9% tổng thu ngân sách nhà nước.
Công thức:

Chỉ tiêu này phản ánh mức độ đóng góp của thuế TTĐB trong tổng nguồn
thu. Khi tỷ trọng này càng lớn thì mức đóng góp của thuế TTĐB càng cao, thể
hiện mức độ hiệu quả của việc áp dụng thuế TTĐB hiện hành.
• Tỷ trọng từng mặt hàng chịu thuế TTĐB trên tổng thu thuế TTĐB
Theo Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 2008 thì có tới 11 loại hàng hóa và 6
loại hình dịch vụ khác nhau là phải chịu thuế TTĐB. Mỗi loại hàng hóa có giá
trị và biểu thuế suất khác nhau (từ 10% đến 70%), vì vậy mức độ đóng góp vào
tổng nguồn thu NSNN là cũng khác nhau. Do đó, để đánh giá mức đóng góp của
từng mặt hàng này trong tổng nguồn thu, nhóm tác giả xin đề xuất chỉ tiêu tỷ

trọng từng mặt hàng chịu thuế TTĐB trên tổng thu thuế TTĐB.
Công thức:

Chỉ tiêu này phản ánh mối tương quan giữa nguồn thu của từng mặt hàng với
nguồn thu từ thuế TTĐB. Tỷ trọng của mặt hàng nào càng cao cho thấy mức độ
đóng góp vào nguồn thu từ thuế càng lớn.
• Tốc độ tăng trưởng nguồn thu thuế TTĐB qua các năm
Nguồn thu thuế TTĐB luôn có sự thay đổi qua các năm, do có sự biến động
về giá cả, cũng như việc Quốc hội thường xuyên có sự sửa đổi và bổ sung Luật
thuế TTĐB nhằm không ngừng nâng cao tính hiệu quả của Luật thuế TTĐB.
Công thức:

22

22


Đây là chỉ tiêu này nhằm đánh giá mức độ biến động nguồn thu thuế TTĐB
qua các năm để từ đó có những biện pháp thay đổi kịp thời khi có dấu hiệu giảm
hiệu quả nguồn thu thuế.
2.2.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến nguồn thu từ thuế tiêu thụ đặc biệt cho
ngân sách nhà nước


Nhân tố thuộc chính phủ, Quốc hội

Chính phủ và Quốc hội đóng vai trò quan trọng trong việc xác định nguồn
thu từ thuế của Ngân sách quốc gia. Đây là nhân tố tác động đến nguồn thu thuế
TTĐB của thuốc lá thông qua các văn bản quy phạm pháp luật, các định hướng
về chính sách thể chế chính trị và mô hình nhà nước.

Các văn bản quy phạm pháp luật là những văn bản hướng dẫn thi hành luật
thuế TTĐB, cách thức tính thuế và nộp thuế, xác định mức thuế suất phù hợp
với điều kiện quốc gia. Vì vậy, nếu hệ thống các luật thuế và quản lí thuế rõ
ràng, minh bạch, dễ hiểu sẽ giúp cho người nộp thuế lẫn người thu thuế thực
hiện tốt hơn, làm tăng nguồn thu thuế hằng năm cho Ngân sách.


Nhân tố thuộc cơ quan thuế

Việc nộp thuế được thực hiện ở các cơ quan thuế, nên cách thức hoạt động
của cơ quan thuế, cơ cấu tổ chức trong cơ quan thuế có ảnh hưởng đến nguồn
thu thuế hằng năm.
Về bộ máy ngành thuế: Bộ máy ngành thuế thường được tổ chức thành nhiều
cấp. Ở mỗi cấp, bộ máy cơ quan có thể được tổ chức theo sắc thuế, theo chức
năng hoặc theo đối tượng nộp thuế. Mỗi cấp sẽ thực hiện thu từng mức thuế nhất
định. Vì vậy, nếu bộ máy ngành thuế tinh giảm, gọn nhẹ thì việc thu thuế sẽ trở
nên hiệu quả hơn, tránh gây rối loạn cho người nộp thuế.
Về đội ngũ cán bộ công chức ngành thuế: Nếu đội ngũ công chức ngành thuế
có năng lực, trình độ chuyên môn tốt, có tư duy quản lí thuế mới thì sẽ tác động
tích cực tới nguồn thu thuế hằng năm.
Về cơ chế quản lí thuế: Đây là cơ chế điều hành hoạt động của cơ quan thuế.
Có hai cơ chế quản lí thuế:
23

23


-

-


Cơ chế cơ quan thuế xác định mức thu thuế và ra thông báo thuế đến với đối
tượng nộp thuế. Trong cơ chế này, người nộp thuế phụ thuộc nhiều vào cơ quan
quản lí, mất đi tính chủ động.
Cơ chế đối tượng nộp thuế tự tính, tự kê khai, tự nộp thuế. Với cơ chế này,
người nộp thuế có thể chủ động và tăng tính chịu trách nhiệm khi không hoàn
thành nghĩa vụ thuế.
• Nhân tố thuộc về người nộp thuế
Người nộp thuế là người thực hiện nghĩa vụ nộp thuế tại các cơ quan thuế.
Người nộp thuế có thể là thể nhân hoặc pháp nhân. Mỗi đối tượng nộp thuế có
sự khác nhau nhất định về năng lực, trình độ học vấn, ý thức chấp hành luật, và
số thuế phải nộp.
Vì vậy, nếu người nộp thuế có năng lực, trình độ tốt, có ý thức tuân thủ pháp
luật thì số thu từ thuế sẽ tăng cao.


Nhân tố khác

Một số nhân tố khác cũng tác động đến nguồn thu ngân sách nhà nước từ
thuế tiêu thụ đặc biệt, như:
GDP bình quân đầu người: Là yếu tố phản ánh mức độ phát triển nền kinh tế
và phản ánh khả năng tiết kiệm, tiêu dùng và đầu tư của một nước. Mức độ phát
triển nền kinh tế hàng hóa tiền tệ luôn là nhân tố quan trọng nhất đối với sự phát
triển của mọi khâu tài chính. GDP bình quân đầu người là một yếu tố khách
quan quyết định mức động viên của thu nhập vào NSNN.
Mức độ trang trải các khoản chi phí của Nhà nước: Khi các nguồn tài trợ
khác cho chi phí hoạt động của Nhà nước có khả năng tăng lên, thì việc tăng
mức độ chi của Nhà nước cho các hoạt động thu NSNN sẽ tốt hơn, lượng thu
NSNN sẽ nhiều hơn.


(1)

2.3 Thuế tiêu thụ đặc biệt đối với vấn đề xã hội
2.3.1 Các vấn đề xã hội tồn tại liên quan đến thuế TTĐB của thuốc lá
Hộ nghèo ở Việt Nam: Thu nhập khả dụng tăng lên, cú sốc sức khỏe giảm đi
Hầu hết mọi người vẫn cho rằng thuốc lá chỉ là một vấn đề liên quan tới sức
khỏe mà không nhận ra được ảnh hưởng có hại của nó lên nền kinh tế, đặc biệt
là vai trò của nó trong việc gia tăng đói nghèo. Ngân hàng thế giới định nghĩa
nghèo là không có khả năng duy trì mức sống ở tối thiểu. Vào năm 2002, 29%
24

24


dân số Việt Nam sống ở mức nghèo, với 5-10% dân số khác dễ rơi xuống mức
nghèo. Hút thuốc có thể làm tăng mức độ nghèo đói theo cả cách trực tiếp và
gián tiếp.
Việc giảm tiêu thụ thuốc lá có thể giúp cải thiện các tình trạng sức khỏe liên
quan trực tiếp, chẳng hạn như giảm mắc bệnh tim mạch và hô hấp, đồng thời
cũng góp phần giúp giảm các tình trạng sức khỏe liên quan gián tiếp thông qua
đói nghèo, chẳng hạn như suy dinh dưỡng ở trẻ em. Việc cha mẹ sử dụng thuốc
lá ở nhà làm tăng nguy cơ suy dinh dưỡng nặng, thấp bé nhẹ cân ở trẻ em dưới 5
tuổi. Hơn nữa, ảnh hưởng sức khỏe công cộng của việc trẻ em hít phải khói
thuốc thụ động là rất lớn, gây ra các bệnh về đường hô hấp, viêm tai giữa và suy
giảm chức năng hô hấp.
Chi tiêu hộ gia đình vào thuốc lá đặc biệt trở thành vấn đề ở những nước có
tình trạng kinh tế xã hội còn thấp như Việt Nam, nơi mà các hộ gia đình có
người hút thuốc tiêu tốn khoảng 627.000 VNĐ mỗi năm vào thuốc lá. Chi tiêu
thuốc lá có thể dẫn đến đói nghèo và làm trầm trọng thêm những ảnh hưởng của
đói nghèo. Nếu một phần tiền do các hộ gia đình nghèo ở Việt Nam tiêu vào

thuốc lá được dùng để mua thực phẩm thì sẽ có khoảng 11,2% trong số các hộ
gia đình nghèo đói sẽ vượt lên được ngưỡng đói nghèo. Các nhu cầu thiết yếu
khác sẽ được đảm bảo hơn, hiệu quả tạo ra được sẽ rất lớn.
Những cú sốc sức khỏe, chẳng hạn như những cú sốc gây ra bởi các bệnh liên
quan đến hút thuốc, sẽ làm giảm tổng thu nhập gia đình cũng như gia tăng chi
phí chăm sóc y tế ở những người không có bảo hiểm. Việc bệnh nhân phải tự chi
trả những chi phí chữa bệnh vẫn rất còn phổ biến ở Việt Nam và tạo ra một gánh
nặng lớn lên tài chính của các hộ nghèo. Những người càng nghèo, càng ít được
học hành và có ít kĩ năng thì càng có khả năng kiếm kê sinh nhai bằng lao động
chân tay. Khi có một người lao động trụ cột ở trong một hộ gia đình nghèo bị
ốm không làm việc được, nguồn cung cấp thực phẩm và thu nhập của gia đình
thường bị chấm dứt.
(2)

Tăng thuế và việc làm

Vì mức giá thuốc lá cao do thuế cao có thể dẫn đến giảm sử dụng thuốc lá,
với các yếu tố khác không đổi thì mọi người thường lí luận rằng thuế thuốc lá
cao thường dẫn đến mất việc làm. Tuy nhiên, lý luận này đã bỏ yếu tố là tiền
25

25


×