Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Đặc điểm của Quan họ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (69.17 KB, 7 trang )

Đặc điểm quan họ :

1.Hát quan họ là hình thức hát đôi đồng giọng: người hát dẫn, người hát luồn,
hát đối đáp dẫn giọng, luồn giọng một cách điêu luyện. Giọng của hai người hát cặp với
nhau phải tương hợp đến mức hai giọng trở thành một để tạo ra một âm thanh thống
nhất. Có 4 kỹ thuật hát quan họ là: nền, rền, vang, nảy. Hát quan họ không chỉ đòi hỏi
hát tròn vành, rõ chữ, mượt mà, duyên dáng, bằng nhiều kỹ thuật như: rung, ngân,
luyến, láy mà còn phải hát nảy hạt. Kỹ thuật nảy hạt của các nghệ nhân quan họ tuy có
nét chung với lối hát chèo và ca trù nhưng lại rất riêng, khó lẫn. Tùy theo theo cảm
hứng và thị hiếu của người hát, những hạt nảy có thể lớn nhỏ về cường độ.
2.Dân ca quan họ có 213 giọng khác nhau, với hơn 400 bài ca. Lời một bài ca
có hai phần: lời chính và lời phụ. Lời chính là phần cốt lõi, phản ánh nội dung của bài
ca, lời phụ gồm tất cả những tiếng nằm ngoài lời ca chính, là tiếng đệm, tiếng đưa hơi
như i hi,ư hư, a ha v.v…
Dân ca quan họ chủ yếu là nghệ thuật phổ lời ca dao và thơ. Nghệ thuật này đòi
hỏi phải sử dụng những tiếng phụ, lời phụ bên cạnh những tiếng chính, lời chính nhằm
làm cho tiếng hát trôi chảy, bổ sung ý nghĩa cho lời ca chính, làm cho lời ca them phong
phú, linh hoạt, tăng cường tính nhạc của bài ca, phát triển giai điệu, làm cho âm nhạc
của bài ca trở nên sinh động, bố cục trở nên hợp lí. Không dung tiếng phụ, lời phụ, lời
ca dễ đơn điệu, mất cân đối.
Chuyển điệu thức là hiện tượng đặc biệt của Dân ca quan họ với 2 hình thức:
cách biệt và nối liền. Nghệ nhân ghép hai, ba âm giai ngũ cung trong một bài hát, đã
khéo vận dụng nhiều dạng điệu thức khác nhau. Duy trì ở một mức độ nhất định lối cấu
trúc mở, họ đã kết hợp một số mô hình cấu trúc tương phản và những thủ pháp đan
điệu, chuyển điệu trong cùng một hệ thống ngũ cung hoặc chuyển hệ để phá vỡ sự đơn
điệu trong một bài.Bút pháp chuyển điệu điêu luyện đưa quan họ Bắc Ninh lên đỉnh cao
của nghệ thuật trong dân ca Việt Nam.
Khi hát họ sử dụng những thể thơ và ca dao nhất định của người Việt, phần lớn
là thể lục bát, lục bát biến thể, bốn từ hoặc bốn từ hỗn hợp. Lời các bài ca quan họ đều
là những câu thơ, ca dao được trau chuốt, từ ngữ trong sang, mẫu mực. Những bài ca
quan họ được sang tạo ngẫu hứng trong các kỳ hội làng, hoặc ứng tác ngay trong một


canh tác, một cuộc thi trang giải của lang. Nội dung các bài ca thể hiện các trạng thái


tình cảm của con người: nhớ nhung, buồn bã khi chia xa, sự vui mừng khi gặp lại của
những người yêu nhau, mà không được cưới nhau theo quy định của những tập quán
xã hội bằng một ngôn ngữ giàu tính ẩn dụ.
Muốn đi hát quan họ phải có bọn: bọn nam hoặc bọn nữ.Trong một làng quan
họ thường có nhiều bọn quan họ nam, nữ. Họ tữ nguyện rủ nhau thành bọn. Mỗi bọn
quan họ thường có 4, 5, 6 người và được đặt tên theo thứ tự chị Hai, Ba, Tư, Năm
hoặc anh Hai, Ba, Tư, Năm. Cũng có bọn quan họ có tới anh Sáu, chị Sáu. Nếu số
người đông tới 7,8 người thì có thể đặt tên anh Ba, Tư (bé), chị Ba, Tư (bé) v.v…mà
không đặt anh Bảy, Tám, chị Bảy, Tám. Trong các sinh hoạt quan họ, các thành viên
của bọn quan họ không gọi nhau bằng tên thật mà gọi theo tên đặt trong bọn. Tuy xưng
hô theo thứ tự nhưng bọn quan họ luôn sống bình đẳng, thương yêu nhau.
Dân ca quan họ Bắc Ninh tồn tại trong một môi trường văn hóa với những tập
quán xã hội riêng. Đầu tiên là tập quán kết chạ giữa các làng quan họ. Trong 44 làng
quan họ cổ của tỉnh Bắc Ninh đã có 33 cặp kết chạ, chiếm gần 80% trong tổng số các
làng quan họ. Tục kết chạ ở các làng quan họ khác biệt với tục kết chạ ở các địa
phương khác trong vùng châu thổ Bắc Bộ. Đó là sự kết chạ bằng một hình thức sinh
hoạt văn nghệ dân gian. Từ tục kết chạ, trong các bọn quan họ xuất hiện một tập quán
xã hội đặc biệt là tục kết bạn quan họ. Mỗi bọn quan họ của một làng đều kết bạn với
một bọn quan họ ở làng khác theo nguyên tắc quan họ nam kết bạn với quan họ nữ và
ngược lại. Với các làng đã kết chạ, trai gái trong các bọn quan họ đã kết bạn không
được cưới nhau. Không chỉ ca hát, họ còn quan tâm giúp đỡ lẫn nhau, khi gia đình mỗi
người trong bọn có việc hiếu, việc hỉ. Với họ, Quan họ là một thành tố không thể thiếu
trong cuộc sống của họ.
Khác biệt của Dân ca quan họ Bắc Ninh so với các loại hình dân ca ở Việt
Nam trong việc truyền dạy là tục ngủ bọn. Sau một ngày lao động, đêm đến, bọn quan
họ, nhất là thiếu niên nam, nữ từ 9 đến 16, 17 tuổi thường rủ nhau ngủ bọn nhà ông/bà
Trùm để học câu, luyện giọng: phải học đủ lối, đủ câu, luyện giọng sao cho vang, rền,

nền, nảy, tập nói năng, ứng xử, giao tiếp và phải biết đặt câu, bẻ giọng, ứng đối kịp
thời. Yêu cầu đặt với tục ngủ bọn là liền anh/liền chị phải ghép và luyện sao cho từng
đôi một thật hợp giọng nhau để đi hát.
Năm 1969, Đoàn Dân ca quan họ Bắc Ninh ra đời nhằm phổ biến quan họ một
cách rộng rãi. Nghệ sĩ của Đoàn áp dụng những phẩm chất về lời ca và giai điệu của


quan họ nhưng lời ca được đơn giản hóa, nhịp nhanh hơn và có nhạc đệm để diễn ở
sân khấu. Mặt khác, ở các làng, cộng đồng vẫn lưu truyền, bảo tồn Dân ca Quan họ cổ.
Nói đến quan họ Bắc Ninh là nói đến ẩm thực quan họ. Miếng trầu của người quan họ
có hai loại: giầu têm cánh phượng và giầu têm cánh quế. Cơm quan họ dung mâm đan,
bát đàn, các món ăn trong bữa cơm phụ thuộc vào tập quán của từng làng, nhưng phải
có một đĩa thịt gà, hai đĩa giò lụa, thịt lợn nạc, đặc biệt không dung thức ăn nhiều mỡ
để tránh hỏng giọng.
3. Tìm hiểu lối chơi quan họ
Xa xưa ít người nói “Đi hát Quan họ” mà thường dùng: “Đi chơi Quan họ”, cũng
có nơi kiêng chữ hát thì nói: Chúng em đi “ca Quan họ”. Ca Quan họ mới chỉ là công
việc bày tỏ nỗi lòng bằng ca hát chứ còn chơi Quan họ thì bao gồm tất cả những việc
như: Giao tiếp, ứng xử, ăn, mặc, phong tục, lễ nghĩa, ca hát, lối sống…mà ngày nay nói
gộp lại bằng cụm từ “Văn hóa Quan họ”. Làm việc khoa học, có bài bản, Quan họ gọi là
lề lối. Lề lối chơi Quan họ là một hình thái sinh hoạt văn hóa của những người có văn
hóa và yêu văn hóa. Nói đến lối chơi Quan họ là nói đến một quá trình hình thành, phát
triển lâu dài của một loại hình văn hóa nghệ thuật với những lề lối, qui định bền chặt đã
trở thành một phong cách chung- phong chách Quan họ. Mặc dù không có văn bản
nhưng lại chặt chẽ và được tuân thủ một cách nghiêm chỉnh từ tổ chức đến các hình
thức diễn xướng. Sinh hoạt văn hóa Quan họ ở bất kỳ làng nào cũng gắn liền với nghi
lễ tập tục của chính địa phương ấy. Đó chình là phong cách riêng trong lối chơi Quan
họ của mỗi làng. Vì vậy tìm hiểu lối chơi Quan họ sẽ giúp chúng ta trong việc bảo tồn
và phát triển một nền văn hóa Quan họ, niềm tự hào của người Bắc Ninh – Kinh Bắc.
4. Những đặc trưng ngôn ngữ lời ca Quan họ

- Đặc trưng - nét khác biệt các dân ca Mỗi loại hình dân ca đều có những đặc
trưng riêng. Đặc trưng ấy không những phản ánh bản chất của loại hình, mà còn là nét
khác biệt với những loại hình khác. Việc tìm hiểu đặc trưng của từng loại dân ca, nhất
là về ngôn ngữ lời ca, đương nhiên không giản đơn. Bởi vi, các dân ca thường có sự
giao lưu, tiếp thu lẫn nhau, hoặc cùng tiếp thu từ ca dao,… Tuy có những điểm phức
tạp như vậy, nhưng cơ bản lời ca mỗi loại hình đều có đặc trưng riêng. Những đặc
trưng của ngôn ngữ lời ca cùng với những đặc trưng về lối hát, về âm nhạc, về diễn
xướng, tạo nét riêng biệt của mỗi loại dân ca. Đó chính là nét khác biệt giữa loại dân ca
này với loại dân ca khác.
- Đặc trưng sử dụng ngôn ngữ đời sống Là loại hình hát đối giọng, thường
xuyên ra đời các làn điệu mới, cho nên có thể nói rằng nghệ thuật sáng tạo Quan họ là
nghệ thuật sáng tác ca khúc. Đặc trưng ngôn ngữ đời sống còn thể hiện qua phương
thức hư từ và phương thức trật tự từ. Phương thức hư từ được phát huy một cách rộng
rãi trong lời ca, khiến cho sự miêu tả tâm trạng thêm phong phú, sinh động, mang hơi
thở của cuộc sống thực. Lời ca quan họ không bị gò ép về số tiếng và niêm luật, cho


nên phương thức hư từ trở thành thủ pháp quan trọng nhất trong sáng tạo lời ca Quan
họ. Đặc điểm nổi bật nhất của tư duy Quan họ là biểu lộ tình cảm, thể hiện tâm trạng
qua dòng tự sự chứ không qua dòng cảm xúc như nhiều dân ca khác, đặc điểm này chi
phối kết cấu của các câu Quan họ. Lời ca Quan họ thường có kết cấu hoàn chỉnh đầy
đủ các thành phần câu. Đó là đặc điểm của ngôn ngữ tự sự, chẳng hạn như câu: “
Đừng thấy em lắm bạn mà ngờ Tuy rằng lắm bạn, nhưng em vẫn chờ Quan họ đây ”.
Nói đặc trưng ngôn ngữ lời ca Quan họ là ngôn ngữ đời sống cũng tức là khẳng định
đặc điểm đối giọng, nhiều làn điệu cũng như nhu cầu thường xuyên sáng tạo bài bản
mới của Quan họ. Yêu cầu của lối chơi cùng với nhu cầu của đời sống tình cảm khiến
cho các bài bản mới cả nhạc lẫn lời thường xuyên ra đời. Tài năng của người quan họ
chính là ở sự liên tục sáng tạo cái mới này. Và đó cũng là nguyên nhân cơ bản nhất để
Quan họ ngày càng phát triển phong phú trở thành vốn quý đặc sắc của tỉnh Bắc Ninh.
5. Những đặc điểm âm nhạc của giọng giã bạn Quan họ:

Tuy không có những tính chất, đặc điểm khác hẳn với các giọng trong Quan họ
nhưng so sánh ở từng tính chất, đặc điểm, mức độ ít nhiều vẫn có sự khác nhau. Ví
như tính chất, đặc điểm giọng giã bạn và giọng lề lối, cùng giống nhau ở điểm: giai điệu
chậm giãi, ít có những giai điệu tiết tấu sôi nổi… Nhưng khác nhau ở chỗ : giai điệu
giọng lề lối đơn điệu, tiết tấu từ đầu đến cuối bài ít thay đổi. Còn giọng giã bạn, giai điệu
thường có khuynh hướng chuyển giọng, chuyển điệu, tiết tấu trong bài ca luôn thay đổi.
Chính từ những mức độ khác nhau đó đã tạo ra đắc điểm âm nhạc giọng giã bạn: - Thể
loại: chủ yếu ở dạng hát, hoặc kết hợp với hát với ngâm.
- Bố cục: Kết cấu chủ yếu cảu một bộ phận ở dạng hát. Từng bài ca chia làm
nhiều trổ tương đối tương xứng nhau về âm nhạc. - Tính chất giai điệu mềm mại,
phảng phất nét buồn.
- Khuôn nhịp thường áp dụng nhịp 2/4, 4/4. Tiết tấu bình ổn. - Âm đệm ít hơn so
với các giọng cổ Quan họ. Thường sử dụng từ đệm, câu đệm có nghĩa. - Âm nhạc chỉ
phản ánh một chủ đề lưu luyến chia tay của Quan họ. - Lời ca được hình thành từ thơ
lục bát hoặc lúc bát biến thể, giàu hình ảnh gợi cảm, giàu nhạc tính góp phần cụ thể
hóa cho chủ đề âm nhạc.
6. Mùa xuân đi trẩy hội Lim và những làn điệu Quan họ khác nhau:
Cứ mỗi độ xuân về, xứ Bắc-Bắc Ninh lại tưng bừng rộn rã những lễ hội dân gian,
nhưng đắc sắc và cuốn hút hơn cả là hội xuân Quan họ tại núi Lim. Hội Lim được tổ
chức vào ngày 13 tháng giêng âm lịch hàng năm tại núi Lim thuộc thì trấn Lim, huyện
Tiên Du. Lễ hội này đã thể hiện tập trung và rực rỡ nhất tinh hoa sinh hoạt văn hóa
vùng quê Kinh Bắc. Lễ hội diễn ra trong không khí trang nghiêm, sùng kính với những
buổi tế lễ tưởng niệm các danh thần quê hương, những buổi rước thần và hát xướng ở
đình làng cùng những trò chơi dân gian độc đáo hấp dẫn. Náo nức nhất, hấp dẫn và
cuốn hút nhất là sinh hoạt văn hóa Quan họ trong ngày hội. Các liền anh với áo the,
khăn xếp, ô lục soạn ; các liền chị với áo mớ ba, mớ bảy, nón thúng quai thao, gặp gỡ
nhau theo lời hẹn ước hội xuân năm trước “Đến hẹn lại lên”. Cuộc hát diễn ra ở trong


nhà, trước cửa chùa, ven sườn đồi, trên những thuyền thúng giữa ao, hồ. Hàng trăm

làn điệu Quan họ được các liền anh, liền chị Quan họ ca lên, nhằm giãi bày tình yêu
của người Quan họ với đủ các trạng thái, cung bậc của tình cảm: yêu nhau, thương quý
nhau, lo lắng, nhớ nhung, hẹn ước…
Đi trẩy hội Lim là một dịp về với một vùng nước non kỳ thú, về với sinh hoạt lễ
hội dân gian đặc sắc nhất của xứ Kinh Bắc-Bắc Ninh, là một lần được tham dự sinh
hoạt dân ca Quan họ, loại hình dân ca đạt tới đỉnh cao của thi ca và âm nhạc. Có thể
nói hội Lim là dịp phô diễn tập trung nhất tinh hoa dân ca văn hóa dân tộc trên vùng quê
hướng Kinh Bắc. Trong những năm vừa qua có rất nhiều số liệu không giống nhau về
các làn điệu quan họ khác nhau được công bố dưới rất nhiều hình thức song có ba làn
điệu chính mà mọi người hay nói tới là: - Giọng lề lối. - Giọng vặt. - Giọng giã bạn.

7. Trang phục cổ truyền của người Quan họ:
Không biết từ bao giờ , Quan họ trở thành niềm say mê, nét văn hóa của người
Kinh Bắc xưa-Bắc Ninh ngày nay. Nói đến Quan họ là nói đến văn hóa Bắc Ninh và
ngược lại nói đến văn hóa Bắc Ninh, không mấy ai lại quên được Quan họ. Trang phục
Quan họ chính là trang phục của các nam thanh nữ tú đi trẩy hội mùa xuân ngày xưa.
Liền chị Quan họ chít khăn mỏ quạ vừa ấm, vừa giòn, tạo dáng khuôn mặt như búp sen
tươi tắn. “Cái khăn đội đầu như thể hoa sen”. Không phải cái khăn như hoa sen mà
mép viền của khăn mỏ quạ với những đường lượn tự nhiên khuôn viên gương mặt nên
hình búp sen, hoa sen. Và dưới chùm khăn mỏ quạ ấy, ta thấy le lói một màu hồng điều
của khăn vấn làm ngơ ngác các “liền anh”. Có thể nói chiếc khăn mỏ quạ là một nét đặc
biệt của trang phục Quan họ. Nét đặc biệt thứ hai của trang phục Quan họ là chiếc áo
mớ ba mớ bảy của liền chị Quan họ. Áo mớ ba là bộ áo dài ba chiếc. Ngoài cùng là áo
the thâm màu hay màu nâu hoặc màu tam giang , hai chiếc trong màu mỡ gà, màu
cánh sen hay màu vàng chanh. Áo chỉ cài cúc cạnh sườn còn đoạn từ nách lên đến cổ
thì lật chéo để lộ ba màu áo ra ngoài. Bên trong là chiếc áo cánh trắng không cài cúc cổ
tôn màu yếm hoa hiên hay đỏ thắm. Nhìn chung, ta thấy áo Quan hị thẫm màu, gam
ấm, giản dị nhưng rất độc đáo nên thơ bởi lớp áo ngoài mỏng như mây như khói làm
nhẹ bớt sức nặng của màu nền như mận chín vàng chanh, cánh sen… và trong sự nền
nã nói chung, chiếc áo quan họ nổi bật bởi một vạt lật khéo khoe sắc vượt khỏi lớp áo

choàng the, đồng thời khoe lớp ló yếm đào xẻ cánh nhạn.
Dù cho nắng nhạt hay mưa bay, các liền chị Quan họ đều mang theo chiếc nón
quai thao tròn vành vạnh như trăng 16. Nắng nhẹ thì khoác vai, lâm thâm mưa thì đội
đầu, lúc hát che thân, lúc cười che miệng, khi e thẹn thì che mặt… chiếc nón khi ấp ủ
gần kề, khi vời vợi như cách núi cách sông với liền anh Quan họ. Đã nón thúng quai
thao, yếm thắm hoa đào thì lại càng không thể thiếu được khuyên vàng xà tích, chiếc
cơi đựng trầu với váy lưỡi trai bảy bức trùng xuống gót chân. Chân đi dép mũi cong
cong xinh xắn. Trông liền chị Quan họ vừa nền nã duyên dáng vừa như ủ đầy những
khát vọng của tình yêu. Cái dây lưng vừa thắt vừa tỏa ra như điểm hút cuối cùng cho
bộ trang phục thêm hoàn hảo.


Trang phục của liền chị Quan họ thì như vậy, Trang phục liền anh Quan họ cũng
thật độc đáo thể hiện chức năng thẩm mỹ cao của người Kinh Bắc. Trang phục của liền
anh Quan họ bao giờ cũng đơn giản hơn. Song chúng ta thấy ở đây một sự đối lập tế
nhị để tạo nên sự hài hòa đồng điệu. Liền chị Quan họ với chiếc khăn mỏ quạ với
những đường nét tự nhiên còn liền anh là chiếc khăn quấn vuông vắn với các nếp gấp
song song rành mạch làm cho gương mặt trở nên chữ điền trang nhã. Liền anh Quan
họ cũng mặc áo the ngoài, hai cái, quần nghiêm ống sớ chúc bâu, chân đi giày Gia
Định. Đi hội, liền anh mang ô lục xoan, khi xếp đeo tay, khi giương rợp bóng. Chiếc ô,
chiếc nón sóng sít hài hòa bên nhau. Trông Quan họ thật lịch thiệp, nhã nhặn và trang
nghiêm




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×